← Quay lại trang sách

Chương 39 CHUYẾN TRỞ VỀ CUỐI CÙNG- VÀ CÁI CHẾT

Tháng 2- 1504, không thấy có một giải pháp nào cho những đau khổ độc ác mà Colombo và những người trung thành với ông phải chịu. Mọi người đều tuyệt vọng. Rồi bỏ nơi đồn trú để đi kiếm đồ tiếp tế có nghĩa là phơi mình trước nguy cơ liên tục, những cuộc phục kích và những trận đánh với những tên phản loạn của Porras hay với người Anh- diêng, hiện đang quyết tâm đối địch. Còn trốn tránh trong tàu thì có nghĩa là chết, không phải vì khát – vì nước mưa lâu lâu lại có – mà vì đói.

Một lần nữa bản năng của nhà lãnh đạo lại biểu lộ. Trong số ít sách vở trên tàu, có một bản sao cuốn Ephemerides của Regiomonta no, in tại Nurembreg trước khi sang thế kỷ mới, cuốn sách tiên đoán nguyệt thực và nhật thực trong ba mươi năm tới, trong đó có một nguyệt thực toàn phần vào đêm 29 tháng 2 năm 1504. Trước ngày đó ba ngày, Colombo đã triệu tập một số tù trưởng và nhiều quý tộc đến, như Don Fernando kể lại.

‘‘Giải thích cho họ hiểu qua một người thông dịch rằng: Thượng đế sống ở trên trời, và họ là bề tôi của Thượng đế. Thượng đế bảo vệ cho người tốt và trừng phạt những kẻ ác. Thấy những người Thiên chúa giáo nổi loạn, Thượng đế đã không cho phép họ đến Hispaniola, trong khi đó Méndez và Fieschi đã được phép. Còn những người Anh diêng, thấy họ ít quan tâm mang thức ăn đến cho những người Tây ban Nha, Thượng đế tức giận nên đã quyết định đưa nạn đói và nạn dịch đến cho những người đó. Thượng đế ban một dấu hiệu rõ ràng từ trên trời để người Anh -diêng biết chắc chắn rằng Thượng đế sẽ trừng phạt. Do đó ba đêm nữa người Anh – diêng nên chú ý một cách cẩn thận khi mặt trăng đang mọc ; họ sẽ thấy mặt trăng tức giận và nổi nóng, báo hiệu sự rủi ro Thượng đế sẽ mang đến cho họ’’

Nguyệt thực đã xảy ra như tiên đoán.

Người Anh -diêng sợ hãi và khủng khiếp. Họ kêu gào than vãn, chạy từ mọi phía tới những tàu biển, mọi cách can thiệp với Thượng đế cứu họ. Colombo nói rằng ông muốn nói chuyện một thời gian ngắn với Thượng đế và lui về căn lều của ông trong khi nguyệt thực tăng lên. Khi Colombo trông thấy mặt trăng bắt đầu sáng dần lên, ông đi ra, nói rằng ông đã van xin Thượng đế từ nay trở đi, người Anh – diêng nên đối xử tốt với những người Công giáo, mang thức ăn cùng nhu yếu phẩm khác đến cho họ.

Colombo đã đo thời gian nguyệt thực bằng đồng hồ cát và như vậy ông có thể tính độ kinh của Giamaica. Những tính toán của ông ghi lại trong cuốn Sách Tiên tri.

‘‘Ngày thứ năm, 29 tháng 2 – 1504, khi tôi ở vùng đảo Indie trên đảo Giamaica trong cảng Santa Gloria, có một nguyệt thực. Vì nguyệt thực bắt đầu trước lúc mặt trời lặn tôi chỉ có thể quan sát lúc nguyệt thực kết thúc, khi mặt trăng vừa lấy lại được ánh sáng toàn bộ, và điều đó xảy ra hai giờ rưỡi sau khi màn đêm buông xuống’’.

Lấy thời gian chính xác của nguyệt thực ở Cadice trong cuốn niên lịch Colombo đã tính rằng ‘‘Sự chênh lệch giữa trung tâm đảo Giamaica trên đảo Indie và Cadice ở Tây Ban Nha là bảy giờ mười lăm phút; tức là, tại Cadice mặt trời lặn bảy giờ mười lăm phút trước khi lặn tại Giamaica.’’

Đây là một mưu kế thông thường. Colombo phải chỉ rõ rằng những vùng đất mới nằm ở bên kia đường thỏa thuận theo Hiệp Nghị Tordesillas, do đó thuộc về châu Á và như vậy thuộc về Tây Ban Nha, vì vậy ông đã viết bảy giờ một phần tư thay vì bốn giờ ba phần tư như trong thực tế. Hiển nhiên đó là một mưu mô, nếu xem xét việc ông tính đường kinh tuyến. Khác với tình hình trong chuyến đi thứ nhất, ông không bận tâm bởi những cuộc tranh cãi về kinh tuyến với nhười Bồ Đào Nha vì đường ranh giới giữa lãnh thổ của hai quốc gia trên bán đảo Iberia hiện là Bắc nam thay vì Đông tây. Tính toán của ông về kinh tuyến gần như hoàn hảo: ‘‘Tại cảng Santa Gloria, Giamaica, độ cao của ngôi sao Bắc đẩu là 18°. Kinh độ chính xác của vịnh Santa Gloria là 18°, 26°, 45°, như vậy Colombo sai dưới nửa độ. Quả thực Colombo được lợi ở chỗ có một cái bục ổn định và có cả năm để làm lại những quan sát và đạy được con số trung bình. Tuy nhiên, đây là môt tính toán chính xác nhất về kinh độ mà chúng ta biết từ đầu thế kỷ XVI.

Sự kiện nguyệt thực đáng xem xét. Trong điều kiện khổ cực, Colombo không những một lần nữa là một nhà lãnh đạo mà còn là một nhà địa lý giỏi, một người khảo sát sắc bén những hiện tượng tự nhiên, và một nhà vũ trụ học tài năng. Chứng cớ về điều đó là ông tính toán kinh độ gần chính xác, chứng cớ đó cũng chứng tỏ rằng khi ông cho vĩ độ của Cu Ba là 42°, ông không mắc sai lầm mà, như tôi đã nói, nói dối một cách có mục đích, để không cho người Bồ Đào Nha có cơ hội, hoặc giúp đỡ bằng cách nào đó cho các đối thủ có thể đi theo. Ở đây trên bờ biển Santa Gloria ông không cần nói dối về đường kinh tuyến nữa, và những con số của ông là chính xác.

Mặc dù Colombo làm chủ tình hình nhưng hoàn toàn cảnh vẫn còn bi đát. Sự khổ cực, nỗi lo sợ và những thì thầm bàn tán tang lên với thời gian, và sự phiền nhiễu bắt đầu. Bernal, chuyên viên, một nhà bào chế và thầy thuốc của đoàn tàu, bị tình nghi đầu độc một số người ốm để trả thù. Bernal quyết tâm ám sát Colombo để Colombo không đưa ra những lời buộc tội ông ta tại tòa án Tây Ban Nha. Bernal đã lôi kéo bốn thủy thủ tham gia kế hoạch và đã âm mưu cướp những ca nô mới mua của người Anh – diêng để vượt biển tới Hispaniola. Đúng đêm Bernal chọn để thi hành kế hoạch thì một chiếc buồm xuất hiện. Niềm vui của thủy thủ cũng tràn ngập đến cả những kẻ đồng lõa; họ chạy đến xem một chiếc tàu có hai buồm nhỏ thả neo gần bờ biển. Một chiếc thuyền đến tàu Bermuda; những người chèo thuyền yêu cầu một dây thừng. Họ gửi lên một thùng rượu, một phần tư lợn muối và một bức điện. Rồi người thuyền trưởng lớn tiếng yêu cầu nói chuyện với Colombo.

Người thuyền trưởng là Escobar, một đồng lõa với Rolda1n, bị kết án tử hình vì tham gia vào cuộc nỗi loạn, nhưng sau được thưởng vì đã phản bội long tin của Roldán. Mặc dù bị xuac1 phạm bởi sự lựa chọn người sứ giả, Colombo đi ra khỏi buồng của ông. Escobar nói to lên rằng trong thời gian trước mắt, Tổng trấn của ông ta không có đủ tàu biển để đến đây đưa Colombo và những người của ông về, nhưng sẽ đến chở họ ngay khi có thể thực hiện được. Nếu Colombo muốn viết thư cho Ovando ông nên làm như vậy ngay tức khắc, vì chiếc tàu hai buồm phải trở về không chậm trễ.

Nhận được bức thư gửi cho Ovando, Escobar trở về tàu của ông ta, trong thư Colombo kể lại chi tiết cuộc nổi loạn của Porras và nhiệt liệt khen ngợi Méndez và Fieschi. Nhổ neo và giương buồm chiếc tàu hai buồm biến vào trong đêm.

Cuộc khảo sát thứ nhất do Tổng trấn Ovando cử đi có vẻ hơi lạ. Ông ta gửi một thùng rượu và một phần tư con lợn muối đến cho rất nhiều người đói và ốm. Ông đã cử Diego de Escobar, một đại úy trước đây trong số những người nỗi loạn dưới quyền Roldán làm chỉ huy tàu và do đó Ovando đã chọn một cách có chủ định, vì viên Tổng trấn biết rõ rằng Diego de Escobar là một kẻ thù của Colombo ‘‘vì những việc đã qua’’. Như Las Casas nhận xét, Escobar được lệnh không lên những tàu đã được đưa vào bờ biển, không lên bờ và không nói chuyện với bất cứ người nào của Colombo.

Sự thất vọng trong số những người bị hỏng tàu là lớn, nhưng một lần nữa Colombo tỏ ra làm chủ được mình. Ông nói rằng vì chiếc tàu hai buồm quá nhỏ để chở mọi người, ông đã quyết định ở lại cho đến khi Méndez có thể gửi một tàu đủ lớn. Rồi ông cố giảng hòa với những người nổi loạn của Porras. Hai người được cử đến trại của những người nổi loạn mang theo một phần lớn thịt lợn muối do Ovando gửi đến để làm bằng chứng là tàu đã đến và đưa ra sự tha thứ chung. Porras đã đưa ra nhiều điều kiện và yêu cầu - nhiều thức ăn và quần áo và nhiều chỗ trên tàu - đến nỗi những sứ giả bị xúc phạm và ngừng một cách bất ngờ những cuộc thương lượng. Rồi những người nổi loạn tiến về Santa Gloria, tin rằng họ có thể dễ dàng chiếm những chiếc tàu biển đã đưa lên bờ. Colombo giao nhiệm vụ phòng thủ cho Bartolomeo. Bartolomeo tập hợp năm mươi người mặc áo giáp và dẫn họ lên đồi đàng sau bãi biển để nghênh chiến với những người nổi loạn ngay lập tức.

Porras, dựa vào những người khỏe mạnh nhất trong số những người theo ông ta, ông ta cười khi thấy những binh lính đi ra từ khoang dành cho người ốm trên tàu để chiến đấu, và ông ta tin vào thắng lợi. Nhưng Porras sợ Bartolomeo đến nổi ông ra lệnh cho sáu người giỏi nhất tấn công Bartolomeo và giết ông ta. Nhiều người Anh-diêng ở cạnh cuộc xung đột được ngắm nhìn trận đánh giữa những bộ mặt xanh bùng. Đó là ngày chủ nhật, 19 tháng 5-1504. Khi hai bên giáp nhau, Francisco de Porras dẫn đầu cuộc tấn công, kêu lên "Giết! Giết!". Người khỏe nhất tiến đến Bartolomeo và vây lấy ông, nhưng chỉ một cú ông đã giết hoa tiêu Juan Sánchez và bằng sự nhanh nhẹn không thể tưởng tượng được, ông đã đánh ngã năm người khác đã thề giết ông. Rồi Porras đến và chém Bartolomeo một cú mạnh bằng thanh kiếm của ông ta, đập vỡ khiên của Bartolomeo và làm ông bị thương ở tay. Lưỡi kiếm của Porras đâm ngập khiên và không rút ra được nữa. Bartolomeo đã có thể giết Porras, nhưng Bartolomeo để cho ông ta sống. Porras vùng tháo chạy nhưng bị Bartolomeo quật ngã, tước vũ khí và giao cho những người của ông như một tù nhân. Rồi Bartolomeo dẫn đầu cuộc phản công và giết Juan Barba, người đầu tiên rút kiếm chống lại Colombo. Những người phản loạn còn lại bỏ chạy. Về phía Colombo chỉ có một người chết, một người bồi của Colornbo bị một vết thương nhẹ ở bên sườn và mọi người cho rằng có thể qua khỏi được. Ngược lại, Pedro de Ledesma, một trong những người phản loạn, sống sót mặc dù bị thương nặng khác thường; câu chuyện của ông này đáng kể lại. Ông ta bị một vết thương nặng ở đầu có thể trông thấy cả óc ông ta; một cánh tay bị chém, lủng lẳng vô dụng ở vai, như một con gà gô đang rơi; một cẳng chân cũng bị chém ở một bên đùi, cũng lủng lẳng như một chiếc giày không buộc; gan bàn chân của ông bị cắt như đế một chiếc dép đi trong nhà bị gẫy. Những sự so sánh này là từ Don Fernando và Las Casas. Las Casas tiếp tục:

"Khi Pedro de Ledesma nằm trên mặt đất, những người Anh-diêng đến xem và sờ những vết thương lớn mà kiếm Tây Ban Nha có thể gây ra. Nhưng khi họ quấy rầy ông, Pedro kêu lên, "Coi chừng! Tao có thể trở dậy!". Những người Anh-diêng chạy trốn vì cơ thể bị thương của ông ta vẫn còn rất khỏe và giọng nói của ông ta còn rất mạnh. Pedro de Ledesma nằm trên mặt đất ngày diễn ra cuộc chiến và cả ngày hôm sau, khi những bạn đồng đội tìm thấy ông. Một bác sĩ chữa những vết thương của ông bằng dầu thay vì bằng nhựa thông trong tám ngày, và mỗi ngày ông ta lại thấy những vết thương mới. Cuối cùng Pedro hồi phục. Tôi đã trông thấy ông ta, khỏe như không có điều gì xẩy ra, nhưng một ít ngày sau tôi được, biết Pedro đã bị giết trong một cuộc ấu đả".

Những người bại trận tìm cách xin lỗi, Colombo nhận lời xin lỗi với hai điều kiện: Francisco de Porras vẫn bị xiềng, còn những người khác không được ở lại trên tàu, vì không có đủ thức ăn. Họ phải sống ở một nơi khác cho đến khi chiếc tàu từng mong đợi đến.

Don Fernando và Las Casas nhất trí rằng những người nổi loạn đã đầu hàng ngày 20 tháng 5 năm 1504. Cuối cùng cũng trong tháng 5, Méndez đã trang bị được một chuyến tàu cứu trợ. Ovando không cho phép ông sử dụng một chiếc tàu ở Santo Domingo, và ông đã phải đợi những tàu từ Tây Ban Nha đến. Sau một thời gian chờ đợi lâu dài, cuối cùng ba tàu đã đến. Trong số đó, có một tàu nhỏ do Méndez thuê, được cung cấp thức ăn và gửi đến Giamaica dưới quyền chỉ huy của Diego de Salcedo. Theo lệnh của Colombo, Méndez trở về Tâỵ Ban Nha trên một trong những chiếc tàu khác, mang theo những bức thư gửi cho Vua và Hoàng hậu và Cha Gorricio. Chiếc tàu nhỏ tới Santa Gloria cuối tháng 6 năm 1504. Don Fernando viết: "Trên chiếc tàu đó chúng tôi bắt đầu cuộc hành trình, những người bạn và những kẻ thù". Họ đi ngày 28 tháng 6 và đã ở Santa Gloria một năm bốn ngày. Với một cột buồm chính tồi tệ và xảm không tốt, chiếc tàu nhỏ chỉ nổi thôi. Mất một tháng rưởi tàu mới đến Santo Domingo.

Ngày 13 tháng 8 năm 1504, Ovando đã tiếp Colombo khá lịch thiệp, nhưng ông chỉ đơn thuần theo nghi lễ. Một trong những hành động đầu tiên của ông là trả tự do cho anh em Porras, viện lý rõ ràng rằng Colombo không có quyền trên vùng đảo Indie, nên không thể trừng phạt được. Mặc dù đấu tranh đòi những quyền lợi và quyền lực đến cùng, Colombo vẫn chịu khuất phục. Như vậy một thái độ nhẫn nhục đáng buồn, kết thúc cuộc phiêu lưu phát kiến vĩ đại.

Những ghi chú ngắn gọn sau đây, bỏ qua những cuộc phát kiến thêm, do những nhà hàng hải Tây Ban Nha táo bạo khác thực hiện, tiếp theo bốn chuyến đi vĩ đại của Colombo. Những lời ghi này chỉ liên quan đến hai năm cuối cùng của cuộc đời Colombo, những năm ông gặp khó khăn vì ốm yếu và vì thất bại trong những cố gắng kiên cường đau đớn đòi khôi phục lại những quyền lợi và đặc quyền mà ông vẫn tin là của ông.

12 tháng 9 năm 1504; Colombo lên tàu biển tại Santo Domingo để về Tây Ban Nha. Cùng đi với ông là con trai ông, Don Fernando, anh ông, Bartolomeo, và hai mươi hai người khác. Một số người sống sót từ Santa Gloria lên chiếc tàu nhỏ đã cứu họ từ Giamaica, còn thì hầu hết ở lại Santo Domingo. Một sổ sẽ là những người định cư đầu tiên ở Puerto Rico.

7 tháng 11 năm 1504: Hoàng hậu Isabella chết tại Medina del Campo. Bà ta đã lắng nghe một người thủy thủ chưa rõ tên kể chuyên, cảm nhận tài năng của ông, bảo vệ sự nghiệp của ông, tôn trọng kỳ tích của ông.

Tháng 5 năm 1505: Colombo và Bartolomeo đến triều đình, ở Segovia, và được vua Ferdinando tiếp kiến tôn nghiêm nhưng lạnh lùng. Theo đòi hỏi của Colombo, nhà vua cho phép ông chỉ định một người làm trung gian cho những lợi ích của ông. Colombo chọn Cha Deza, Tổng giám mục Siviglia, người Dominic đã ủng hộ Colombo từ thời gian họ gặp nhau tại Salamanca cho đến khi kết thúc những cuộc thương lượng mệt nhọc với nhà vua về chuyến đi phát kiến đầu tiên.

Suốt một năm, Colombo sống với những hy vọng, những ảo tưởng, những nỗi thất vọng và đau buồn. Ông đã theo triều đình tới Valladolid, tại đây ông cố gắng yêu cầu được tiếp kiến những vị vua mới của Castiglia: Infanta Juana và chồng bà là Philip người nước Áo. Ông không nghèo, như truyền thuyết thường nói; ông có tiền và được gia đình, bè bạn, có đầy tớ xum vầy và giúp đỡ. Nhưng ông bị triều đình bỏ rơi và công chúng lãng quên.

20 tháng 5 năm 1506: Nhà thủy thủ vĩ đại nhất của tất cả các thời đại, nhân vật chính sáng ngời của cuộc phiêu lưu vĩ đại nhất trong lịch sử, chết tại Valladolid, đêm trước của ngày lễ Lên trời. Lời cuối cùng của ông khi được làm lễ xức dầu lớn nhất là "Ôi Chúa, con giao linh hồn con vào cánh tay Người".

Biên niên sử chép tay ở địa phương đã ghi câu này: "Đô đốc Colombo, người đã phát kiến ra vùng đảo Indie và nhiều vùng đất khác, chết ở thành phố này ngày thứ tư, đêm trước lễ Lên trời, 20 tháng 5 năm 1506”. Nước Tây Ban Nha, châu Âu và phần còn lại của thế giới không nhận được tin tức về cái chết của ông.

Nơi Colombo sống những tuần lễ cuối cùng chắc chắn là trung tâm Valladolid. Một viên đá trên những bức tường còn lại của một ngôi nhà cũ ghi "Colombo chết ở đây”. Nghi lễ an táng được cử hành tại nhà thờ Santa Maria de la Antigua. Thi hài ông được chôn tạm trong tu viện San Francesco (nhà thờ nhỏ Luis de la Cerda) cho đến ngày 11 tháng 4 năm 1509, rồi được chuyển đến tu viện Las Cuevas di Siviglia, một trong những tu viện lớn nhất trong thành phố. Cha Gorricio, người gần gũi, bạn tâm tình của Colombo ở đó. Thi hài Colombo ở đó trong mấy thập kỷ, cho đến khi có quyết định rằng nơi an nghỉ cuối cùng của Colombo nên ở những vùng đất Colombo đã phát kiến, nhất là ở Hispaniola, nơi trụ cột của việc Hispaniola hóa châu Mỹ trong thế kỷ thứ XVI. Chuyển thi hài năm nào thì không biết chắc; có thể là trong khoảng từ năm 1537 đến năm 1559. Rồi trong một thời gian, tại thành phố Santo Domingo - thành phố duy nhất trong những thành phố do Colombo, hoặc anh em ông thành lập, tên của ông gợi nhớ tới địa vị cao nhất của Nhà phát kiến - là nơi chôn cất hài cốt của Colombo và của Diego, con trai ông; Bartolomeo, anh của ông; Don Luis, viên Đô đốc thứ ba; Don Cristóbal, con trai của viên Đô đốc thứ ba. Năm 1795, với hiệp nghị Basel, Tây Ban Nha nhường cho Pháp phần của mình về đảo Hispaniola, và Quận công xứ Veragua quyết định mang thi hài của Colombo tới Havana. Hài cốt được đặt một cách trang trọng trong chiếc tàu hai buồm Descubridor và chuyển đến Cuba. Tại Havana, những hài cốt được đặt gần bàn thờ sách Phúc âm trong nhà thờ lớn, dưới một phiến đá khắc dòng chữ như sau:

Hài cốt và chân dung của Colombo vĩ đại,

Trong một nghìn thế kỷ ông sẽ tiếp tục tồn tại trong bình đựng di cốt

Và trong trí nhớ của dân tộc chúng tôi.

Nhưng ngay cả tại Havana di cốt của Colombo, hay hài cốt mà người ta cho là của Colombo, cũng không được yên. Mỹ chiếm Cuba năm 1898, chính phủ Tây Ban Nha mang hài cốt của Colombo về châu Âu, tại đây, sau khi vượt Đại Tây Dương, cuối cùng hài cốt được đặt vào mộ đài, do nhà điêu khắc Arturo Mélida xây tại Nhà thờ lớn Siviglia, đúng vào dịp kỷ niệm lần thứ bốn trăm ngày phát kiến ra châu Mỹ.

Tôi nói ‘‘hài cốt của Colombo, hay hài cốt mà người ta cho là của Colombo" vì năm 1877 toàn bộ vấn đề nhận dạng hài cốt của nhà Phát kiến vĩ đại đã bị lật ngược bởi một giải thích giật gân nhưng chi tiết của Đức ông F.Rocco Cocchia, Giám mục ở Oropa và đại diện Tòa thánh tại Santo Domingo (1); Giám mục Rocco Cocchia nói rằng ông đã thấy mộ của Don Luis Colón tại chính điện nhà thờ lớn và mộ của Colombo ở gần đó (lời khẳng định của ông được sự hỗ trợ của những người Genova khác sống tại Santo Domingo). Nhớ lại tác phẩm nổi tiếng Thư gửi Cesare Cantù về việc phát hiện hài cốt của Critoforo Colombo, xuất bản năm 1877 trong Tạp chí khảo cổ lịch sử và mỹ thuật(2), Cocchia cho rằng hài cốt của Colombo không bao giờ rời khỏi nhà thờ lớn Santo Domingo. Những hài cốt chuyển đến Havana là hài cốt của Don Diego, hoặc do nhầm lẫn, hoặc do mưu đồ những người Đô-mi-nic quản lý nhà thờ lớn năm 1795 muốn giữ những hài cốt quý giá nhất này. Một số chuyên gia ngày nay cũng đồng ý như vậy. Một số người vẫn cho rằng tro hài cốt của Colombo vẫn ở Santo Domingo. Năm 1878, do sáng kiến của viên công sứ Vương quốc Ý Luigi Cambiaso, một người thành phố Genova, đã lấy một phần nhỏ tro hài cốt đó (cũng như Venezuela và Trường Đại học Pavia đã lấy (3).

Tuy nhiên tại Tây Ban Nha, nhiều người tin rằng di cốt của Colombo quả thật đã đưa đến Havana năm 1795 và "những phát hiện" của Cocchia không đáng xem xét. Một số người tin rằng Colombo vẫn được chôn tại đất bao quanh tu viện Las Cuevas, trong khi một số khác tưởng tượng rằng di cốt của Colombo để tại Valladolid, Puerto Rico, hoặc ở một nơi nào khác. Cũng như sự sinh trưởng của ông, sự chết của Colombo là chủ đề của huyền thoại; những người không đi sâu vào khoa học đã làm tăng thêm những lý thuyết tưởng tượng và tạo ra những chuyện hoang đường viễn vông. Tôi cho rằng những gì còn lại về nhà hàng hải vĩ đại là ở ngôi mộ cổ tại Santo Domingo, mặc dù chúng ta không thể chắc chắn về điều này như chúng ta chắc chắn về nguồn gốc Genova của ông, bây giờ được chứng minh bằng cả tài liệu lẫn chứng cớ về văn hóa.

Chú thích:

(1) Nói một cách chính xác là: Đức ông D.Fr.Roque Cocchia, thuộc dòng tu Hành khất, Giám mục Oropa, Đại diện Tòa thánh tại nước Cộng hòa Santo Domingo, Haïti và Venezuela và Khâm mạng Tòa thánh địa hạt Santo Domingo (T.G).

2. Nguyên văn tiếng ý:

Leltera a Cesare Cantù sulla scoperta delle ossa di Cristoforo Colombo; Giornale lingnistico de archeologia, storia e belle arti.

(3) Venezuela lấy một số tro vì trên bờ biển của nước này Colombo đã phát hiện ra đại lục Nam Mỹ năm 1498; trường Đại học Pavia lấy một ít tro vì năm 1878 người ta vẫn còn tin vào câu chuyện tưởng tượng của Don Fernando: Trong cuốn Historia, để tôn vinh trí nhớ của cha và phủ nhận nguồn gốc khiêm nhường của mình, ông đã nói rằng cha ông đã nghiên cứu tại trường Đại học đó. Ngày nay, người ta không còn hổ thẹn về nguồn gốc khiêm nhường như thời xưa (T.G).