← Quay lại trang sách

Chương 40 CON NGƯỜI COLOMBO:- NHÂN VẬT CHÍNH TRONG SỰ KIỆN VĨ ĐẠI.

Không có những bức chân dung thực về Colombo. Tuy nhiên có hơn tám mươi bức tượng, hoặc bức vẽ, bức này hoàn toàn khác với bức kia, vì các nghệ sĩ được khích thích bằng trí tưởng tượng riêng của mình về hình dáng, thể chất của Colombo do những người biết ông kể lại cho chúng ta. Có bốn miêu tả về Colombo:

Miêu tả thứ nhất để lại cho chúng ta là của Don Fernando, con trai ông, sinh khi Colombo ba mươi bảy hay ba mươi tám tuổi. Trong Historie della e dei fatti di Cristoforo Colombo, Don Fernando viết như sau:

"Viên Đô đốc có hình dáng cân đối, cao hơn trung bình, có mặt dài và gò má cao, ông không béo và cũng không gầy. Ông có mũi khoằm, mắt sáng, nước da sáng và sắc thái khỏe mạnh. Thời trai trẻ ông có tóc hoe, nhưng khi đến ba mươi tuổi tóc đổi sang màu trắng”.

Miêu tả thứ hai là của Las Casas. Las Casas đích thân gặp Colombo tại Santo Domingo năm 1500, khi Colombo khoảng năm mươi tuổi. Las Casas viết như sau trong cuốn Historia de las Indias chương 2:

‘‘Về con người và về bề ngoài, ông cao trên trung bình, mặt dài và cương quyết, mũi khoằm, mắt xanh, diện mạo sáng sủa, có xu hướng hồng hào. Râu và tóc ông màu hoe khi ông còn trẻ và chuyển sang màu trắng hầu như trong một sớm một chiều, do sự vất vả nặng nhọc của ông".

Miêu tả thứ ba của Oviedo. Oviedo gặp Colombo khi Colombo khoảng bốn mươi tuổi. Đoạn sau đây trích từ Historia general y natural de las Indias:

"Một con người có tầm vóc cân đối và vẻ bề ngoài đẹp, cao hơn trung bình và khỏe. Mắt ông sáng còn những nét khác thì rất cân đối. Tóc ông rất đỏ, mặt hơi đỏ và có tàn nhang".

.

Miêu tả cuối cùng là miêu tả của người Venezia Angelo Trevisan, nhân viên cao cấp và thư ký riêng của đại sứ Venezia tại Tây Ban Nha. Có lẽ Trevisan gặp nhà đi biến Genova khi ông năm mươi tuổi:

"Cristopher Colombo. một người thành Genova cao, có dáng vóc cao quý (1), da hơi đỏ, rất

thông minh, khuôn mặt dài". Ở đây chữ được dịch là "cao quý" trong tiếng Ý thế kỷ thứ XV có nghĩa là "cao", những chữ đó cũng có thể dùng theo nghĩa La-tinh là "quý phái".

Mặt dài, má khá cao và không béo (Don Fernando); mặt dài (Las Casas); mặt dài (Trevisan). Do có trán cao, rộng nên ông được coi là có vẻ quyền quý và theo Lạs Casas là cố vé đầy quyền lực. Mũi ông khoằm như Don Fernando và Las Casas chứng thực. Mắt ông sáng (Don Fernando), xanh (Las Casas), hay linh hoạt (Oviedo), biểu thị trí thông minh lớn (Oviedo và Trevisan), tài hùng biện và tự hào (Las Casas và De Barros)

Còn lại vấn đề màu sắc của ông. Chúng ta có thể chắc chắn về một số yếu tố. Tóc ông bạc trắng sau khi ông ba mươi tuổi. Don Fernando, Las Casas, Oviedo và Trevisan - bốn người đích thân trông thấy Colombo - biết Colombo khi tóc ông đã đổi thành trắng. Điều này giải thích tại sao họ nói khác nhau về màu sắc tóc của Colombo khi ông còn thanh niên. Theo Don Fernando và Las Casas tóc Colombo màu hoe theo nghĩa của tiếng Castiglia; người ta ngạc nhiên không biết tại sao một số nguời nói tiếng Anh đã dịch từ đó là "đỏ". Có lẽ họ bị ảnh hưởng của Oviedo, ông này nói

"Tóc rất đỏ" và chịu ảnh hưởng của màu mặt của Colombo mà tất cả đều nói là hồng hào. Dario Guglielmo Martini đúng khi ông nói rằng Colombo có gò má đỏ. Trong thực tế Don Fernando, trong cuốn Historie, nói "da trắng, nổi lên một màu rực rỡ"; Las Casas, "diện mạo sáng sủa, có xu hướng hồng hào"; Oviedo, "mặt hơi đỏ và có tàn nhang"; Trevisan, "đỏ". Tôi thiên về ý cho rằng tóc của Colombo lúc trẻ, đỏ nhiều hơn hoe, như Don Fernando và Las Casas nói, có lẽ bị lôi cuốn nhiều hơn với màu hoe.

Dù sao khả năng giác quan của Colombo quan trọng hơn ngoại hình của ông. Ông có khứu giác đặc biệt; đó là một thực tế không thể chối cãi được về đặc tính thể chất của ông. Tất cả những bài viết của Colombo chỉ rõ điều đó. Nhiều người biết Colombo đã ca ngợi khả năng khứu giác khác thường của ông và để lại những bản tường trình về sự nhạy bén sắc sảo của ông đối với những mùi. Một số người coi đó là giả vờ nhưng đó chỉ đơn thuần là một giác quan phát triển cao, một thành phần cơ bản và quyết định của giác quan thứ sáu của ông, giác quan của ông về biển.

Thị giác và thính giác của ông cũng khác thường không kém. Ông đã phá hủy thị giác của minh trong suốt cuộc vượt biển thứ ba (1498) khi ông đứng suốt hai mươi bảy buổi chiều tháng 7 trên boong tàu, trố mắt nhìn vào mặt trời để tìm hướng đi từ Đông sang Tây. Ông mắc bệnh viêm mắt, nhưng ông vẫn giữ được những khả năng đi biển xuất sắc và không thể tưởng tượng được mà ông đã có trong thời thành niên tại hải phận Liguria và Địa Trung Hải và đã hoàn thiện ở Đại Tây Dương.

Ngoại hình thể chất và những khả năng của ông đã được nói đến rất nhiều. Cuộc thảo luận sẽ phải dài hơn và phức tạp hơn nhiều, khi xem xét tinh chất, tâm lý và những đặc tính tinh thần của ông. Về những vấn đề này, hàng trăm và có lẽ hàng nghìn luận văn và bài báo đã viết trong năm thế kỷ qua. Đã có nhiều tiểu thuyết, kịch và thậm chí cả nhạc kịch trữ tình. Những tác phẩm văn học, không bị ràng buộc bởi sự thực lịch sử mà chỉ tùy theo cảm hứng, thi ca. Hai tác phẩm đã nổi bật: Le Livre de Christophe Colombo của Paul Claudel và El parpa y la Sombra của Alejo Carpentier. Hai tác giả này hoàn toàn xuyên tạc thực tế, lúc thì thay đổi lịch sử, có khi lại tôn trọng lịch sử một cách thận trọng tỉ mỉ. Cả hai cuốn sách đều là những tác phẩm nghệ thuật có một không hai, đủ để bảo đảm địa vị của chúng trong văn học thế giới. Tác giả đã thực hiện một sự tương phản hoàn toàn: Colombo của Claudel được thấy tiếng nói thần bí như thánh Giovanna d’Arco, trong khi Colombo của Carpentier lại là một tên lừa đảo, một kẻ nói dối, một tên kẻ cắp và một tên chơi gái. Hai giải thích nghệ thuật, chúng ta phải đọc chúng mà không quan tâm đến Colombo thực sự, không quan tâm tới bất cứ huyền thoại nào về sự vinh quang, hoặc những cố gắng làm mất thanh danh của Colombo. Ở mức độ tính chân xác tỉ mỉ và chặt chẽ của lịch sử, Colombo không phải là một vị thánh mà cũng không phải là một nhà chính trị sành sỏi. Những rủi ro của ông không thể giải thích đơn thuần bằng sự không may, cho nên sự hiềm khích của kẻ thù và lòng ghen ghét của những kẻ không chịu nổi một người nước ngoài có nguồn gốc khiêm nhường lại được cấp những đặc quyền và danh vọng cao như thế. Colombo không phải là vớ vẩn, hay không có khả năng, nhưng ông thiếu hai đức tính cốt yếu nhất của một nhà chính trị: Khả năng có những quyết định vững chắc về lâu dài và một kiến thức sắc bén về bản chất con người, không thể thiếu để đặt những người dưới quyền vào đúng vị trí của họ.

Một số người đã gọi Colombo là một con người thời Trung cổ, một số khác lại nói ông là con người thời Phục hưng, tâm hồn ông cao hơn thế kỷ ông sống. Trong thực tế, ông ở giữa hai thời đại: sự tiếp cận lý thuyết của ông đối với triết học, thần học và thậm chí khoa học thì có tinh chất Trung cổ, trong khi nhiệt tình của ông đối với điều tra khoa học, mối quan tâm sắc bén về thiên nhiên và khả năng chấp nhận những hiện tượng từ trước chưa được quan sát và giải thích, lại tiêu biểu cho thời Phục hưng. Như tôi đã giải thích một cách đầy đủ, lý thuyết kinh tế của ông cũng thuộc thời Phục hưng, điển hình là tính chất trọng thương và tư bản chủ nghĩa, ít nhất cho đến khi xảy ra lộn xộn trong cuộc đi biển lần thứ ba tại Santo Domingo.

Về tâm lý ông là một con người Hiện đại. Ông cụ thể và thực dụng tới mức quá tỉ mỉ, ông chỉ đề ra những dự án của mình sau khi có kinh nghiệm trực tiếp, và từ đó nảy ra khái niệm về kế hoạch lớn của ông. Nói tóm lại, Colombo có tâm lý hiện đại nhưng nguồn gốc Trung cổ.

Người ta cũng có thể nói như vậy về tinh thần của ông. Colombo là một tín đồ Công giáo ở ý nghĩa hiện đại, nhưng bị ảnh hưởng bởi những giáo huấn Trung cổ. Lòng tin của ông mạnh mẽ, thành thật, và không thể cạn kiệt, luôn luôn trong sáng và không bị ảnh hưởng bởi mê tín và đạo đức giả, ngay trong những hoàn cảnh khẩn thiết nhất. Nhiều lúc ông là một người cuồng tín, hay như chúng ta nói ngày nay, một tín đồ thực sự. Nhưng sự cuồng tín của ông không bao giờ vi phạm những nguyên tắc vĩnh cửu của thế giới quan Công giáo và Gia tô. Colombo không bao giờ đặc biệt thích các giáo chức. Để bảo vệ Công giáo chân chính, Colombo đã tranh luận với cha cố, với những thầy tu khổ hạnh và những giám mục, nhưng cũng với tinh thần như thế, một số ít thầy tu khổ hạnh và giám mục đã dành cho ông tình thân hữu suốt đời, trong số những người này có Cha Antonio Marchena thuộc dòng Francesco.

Cha Marchena cũng là một nhân vật hàng đầu trong cuộc phiêu lưu vĩ đại nhất trong lịch sử phát kiến

Gặp phải sự thần bí không thể nào tin được về một lục địa thứ tư, Colombo đã không đặt cái vượt ra ngoài vũ trụ (Tĩnh ngục) ở trong cái vốn chỉ tồn tại trong vũ trụ (Nam bán cầu), như Dante đã làm. Thay váo đó Colombo đã đi đến một ý nghĩ về Thiên đường trên trái đất mà ngay cả một người hoài nghi như Amerigo Vespucci cũng phải chấp nhận. "Nếu có bao giờ nó tồn tại thì nó chỉ có thể tồn tại ở những nơi này".

Khi phải đối phó với nguy hiểm chết người trong những trận bão, ông đã quay sang Đức Mẹ Đồng Trinh và các Thánh như những người theo đạo Gia-tô vẫn làm suốt trong thời Trung cổ, thời Phục hưng và thời Hiện đại. Khi ông bị thương tổn vì sự ghen ghét, sự hèn hạ, lòng tham và sự độc ác của con người, nhất là khi ông bị hiểu lầm, hoặc phải chịu những điều ông coi là bất công từ phía Vua và Hoàng hậu Tây Ban Nha, Colombo luôn luôn phản ứng với sự khiêm nhường Công giáo và sự nhẫn nhục của một tín đồ nhìn quá dưới hạn của cuộc sống trần tục.

Colombo đặc biệt dốc lòng thờ Đức Mẹ Đồng Trinh và Thánh Francesco. Ông thuộc đến mức hoàn hảo Kinh Tân ước và nhiều đoạn của Kinh Cựu ước. Khi gặp phải cơn hiểm nguy kinh khủng nhất mà ông chưa từng thấy trong kinh nghiệm hàng ngày về tình yêu và chiến tranh với biển, và khi nhận thấy không còn hy vọng ở trật tự tự nhiên, Colombo trực tiếp kêu gọi đấng Tạo hóa, đọc lại những vần thơ đầu tiên trong Kinh Phúc Âm của thánh Giovanni. Đồng Trinh và Thánh Francesco không phải là kết quả của sự mê tín mà là bộ phận của bản chất tôn giáo có hệ thống và chặt chẽ.

Cuối cùng, cần phải nhắc lại rằng việc Colombo liên tục bận tâm tìm vàng và của cải luôn luôn nhàm một mục tiêu rất xác định: một cuộc Thập tự chính để chinh phục lại Mộ Thánh. Tinh thần Thập tự chinh này không có tính chất Trung cổ. Mục tiêu đó mới, được làm sống lại bởi sự xúc động tâm lý về sự sụp đổ của Constantinople, thủ đô của Công giáo - cùng với Roma. Tinh thần Thập tự chinh mới không những muốn chinh phục lại Đất Thánh mà còn muốn nhiều hơn nữa, muốn nối lại Đất Thánh đã bị phân chia, mang thế giới trở về sự thống nhất đã có dưới thời con chim ưng La Mã và được tiếp tục bằng việc truyền đạo Công giáo. Tất cả những người man rợ - những người Đức, những người Slavơ, những tên cướp biển người bán đảo Scandinave thế kỷ thứ VIII và IX và những người Tartar ở Trung Á - đã tìm thấy một chỗ cho Công giáo, nhưng Hồi giáo đã làm tan vỡ thế giới, đã phân chia Công giáo. Việc đưa những kế hoạch của ông vào lý tưởng tôn giáo của một cuộc Thập tự chinh mới cũng có những nguồn gốc ở Genova, tại đây đã nhen nhóm lòng mong muốn một cuộc Thập tự chinh vào đầu nửa sau của thế kỷ XV; lòng mong muốn đó được tăng cường khi ông đến bán đảo Iberia, tại đây ông đã gặp những người Công giáo trốn khỏi sự áp bức của đạo Hồi.

Khái niệm Công giáo và Gia-tô giáo về thế giới đã hình thành cột trụ chủ yếu và cơ bản của nhân cách Colombo. Không có mâu thuẫn giữa sự khẳng định này với sự khẳng định cũng tuyệt đối cho rằng Colombo không phải là Thánh. Đối với địa vị đó, lòng tin của ông chưa đủ, mặc dù không thể lay chuyển được; sự khiêm nhường của ông, sự nhịn nhục của ông và lòng hào phóng một đôi khi của ông, cũng chưa đủ vì ông cũng biểu hiện sự kiêu hãnh, lòng tham lam, sự nghi ngờ, sự ích kỷ, sự thiên vị với bạn bè và người thân, sự thờ ơ và tham gia trực tiếp vào việc thành lập chế độ nô lệ đáng kinh tởm. Trước hết ông là con người tự hào; trong những năm cuối của cuộc đời mình, khái niệm thần bí về bản thân mình và sứ mệnh của mình đã đưa ông đến niềm tin cho rằng ông là con người sẽ mở cửa vào thời đại thứ ba, thời đại của Thánh thần mà Gioacchino da Fiore đã tiên đoán. Lòng tin của ông mạnh mẽ bao nhiêu thì lòng từ thiện của ông yếu và không liên tục bấy nhiều; ông không phải là vị thánh lớn, thậm chí một vị thánh nhỏ cũng không phải; Colombo là người bảo vệ giáo lý kiên quyết, có đức tin sâu sắc và thường xuyên - và đó không phải là một thành tựu nhỏ.

Coi CoỊombo chỉ thuần túy là một "nhà mạo hiểm" là sai. Chắc chắn trong đời ông có phiêu lưu. Ông không bao giờ từ chối phiêu lưu mà liên tiếp tìm kiếm phiêu lưu ông coi thường sự hiểm nguy, táo bạo và dũng cảm, tin vào những sức mạnh riêng của mình và sự giúp đỡ chắc chắn của Chúa. Cuộc vượt biển Đại Tây Dương lần đầu tiên hiển nhiên là một cuộc phiêu lưu thần kỳ, nhưng ở một ý nghĩa nhất định, những cuộc đi đầu tiên của ông đến Chio, Băng đảo và Ghi-nê cũng thần kỳ. Cuộc đi thứ ba cũng là một cuộc phiêu lưu, tự nguyện theo đuổi trong sự dày vò, khổ sở của vùng nhiệt đới. Nhưng hành động dũng cảm nhất của ông - hay một loạt những hành động dũng cảm - là cuộc đi biển thứ tư, thực hiện khi ông gặp rủi ro, với ý định đi vòng quả đất. Ông kết thúc cuộc đi với hai chiếc tàu bị hà ăn thủng phải đưa lên bờ cả một năm trời tại Santa Gloria, Giamaica trên một bờ biển mở như ta có thể thấy ở bất cứ nơi nào trên thế giới.

Tất cả những cuộc phiêu lưu của Colombo cũng không phải chỉ trên biển cả. Việc ông rời Bồ Đào Nha sang Tây Ban Nha và kiên trì trong bảy năm - không bao giờ nhận thất bại - trong cố gắng giành sự ủng hộ cho kế hoạch lớn của ông không phải là một cuộc phiêu lưu hay sao? Cuộc khảo sát của ông tại Vega Real và việc thành lập San Tomaso ở trung tâm của một vùng đất chưa hề biết như Đại dương là một hành động dũng cảm mạnh dạn khác nữa. Cả cuộc đời ông là một cuộc phiêu lưu kỳ diệu, mặc dù đó là một sự pha trộn vui mừng, khổ đau và quằn quại. Những người gọi ông là một "kẻ mạo hiểm" chỉ nhàm giảm công lao của ông, cố tình giải thích thành công của ông chỉ thuần túy do may mắn và thời cơ. Ở ý nghĩa này, Colombo dứt khoát không phải là một người mạo hiểm. Quả thật công lao của ông gắn liền với thành công của ông, nhưng những công lao đó là nguyên nhân, không phải là kết quả.

Lịch sử sẽ bị bóp méo nếu chúng ta làm ngơ trước một mặt đặc biệt về tính chất của Colombo: Một nhà hàng hải có tài năng đặc biệt. Nhiều lần tôi đã đề cập lâu dài đến những thực tế, những sự kiện và xét đoán, điều đó đủ chứng minh lời khẳng định của tôi. Colombo không những đã phát kiến châu Mỹ, ông còn phát kiến ra những đường đi giữa châu Âu và Vịnh Mê-hi-cô. Trong thời còn dùng buồm, những tàu biển rời nước Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Pháp, hoặc Ý đi Mêhicô, cửa sông Mississippi, bất cứ đảo nào ở biển Caribê, hay Colombia, Venezuela đều theo con đường Colombo đã đi trong chuyến đi biển đầu tiên. Khi trở về, những tàu đó đi lên phía Bắc biển Sargasso trên vĩ tuyến thuộc quần đảo Azzorre. Thậm chí ngày nay, bất cứ ai muốn vượt Đại Tây Dương bằng tàu buồm đều chọn con đường trong chuyến đi thứ hai của Colombo, từ quần đảo Canarie đến đảo Guadeloupe.

Việc phát kiến ra những tuyến đường gắn liền với việc tìm ra gió xích đạo. Tôi đã nói dài về gió xích đạo, cũng như tôi đã chỉ rõ ràng Colombo là người đầu tiên phải đương đầu với biển Sargasso mà không sợ hãi, ông đã có khái niệm ban đầu về dòng Gulf Stream và phát hiện ra việc lệch kim la bàn sang phía Tây. Nhưng trước hết trong kỷ nguyên cận đại, Colombo là người bắt đầu đi biển ở ngoài khơi: Người đầu tiên và quyết tâm, ông dám đi ra khỏi tầm mắt của đất liền trong những thời gian dài.

Tôi đã nói rằng Colombo có những tài năng thể chất tới mức độ đặc biệt của người đi biển. Michele da Cuneo viết như sau: "Chỉ trông thấy một đám mây, hay một ngôi sao ban đêm, ông ta có thể nói điều gì sẽ xẩy ra và thời tiết có xấu hay không. Ông chỉ huy và đứng ở khoang bánh lái và khi bão tan, ông tự mình giương buồm lên trong khi những người khác đang còn ngủ.

Có một chứng cớ đặc biệt lôi cuốn sự chú ý về những khả năng đi biển khác thường, gần như ảo thuật này của Colombo. Trong chuyến đi biển thứ tu, ông đang ở ngoài khơi Santo Domingo. Ông được biết ba mươi tàu Tây Ban Nha sắp đi châu Âu chở đầy vàng. Ông lập tức gửi lời đến nói rằng họ nên đợi vì một trận bão sắp xẩy ra. Tuy nhiên, hình như không có dấu hiệu rõ ràng nào hỗ trợ cho sự tiên đoán của ông. Biển cả và bầu trời không tỏ ra đe dọa, và gió thổi thuận lợi để đi về phương Đông. Những người Tây Ban Nha cười việc lo lắng của ông, và hùng hậu ra đi. Nhưng trước khi đoàn tàu đến đầu phía Đông đảo Hispaniola bầu trời trở nên mờ, biển cả phẳng lặng và xám và không khí ngột ngạt. Như vậy cơn bảo đã tự báo, nhưng sự phẳng lặng không trở lại. Trận cuồng phong đã làm lay động những cột buồm, thân tàu và phá vỡ mọi thứ trên tàu. Một phần lớn đội tàu bị mất với tất cả thủy thủ và một số lượng vàng khổng lồ. Chỉ có bốn chiếc lao đao về với Santo Domingo. Những chiếc tàu khác bị đập tơi tả, trú trong những vịnh và vũng tàu thuộc bờ biển Đông-nam.

Một chiếc tàu duy nhất, chiếc tàu nhỏ nhất và tồi tệ nhất trong số những tàu biển đó, chiếc Guecha, không bị hư hỏng. Chiếc tàu đó tiếp tục đi về Tây Ban Nha, không đoái hoài đến số phận của những tàu khác. Trên tàu này là người thay mặt cho Colombo, Alonso Sánchez de Carvajal; ông này mang khoảng bốn nghìn đồng pơ-xô do Bobadilla giao nộp cho Colombo theo lệnh của Vua và Hoàng hậu. Đó là số vàng duy nhất trong số lượng lớn chuyên chở bằng tàu biển trong dịp đó từ Santo Domingo về tới Tây Ban Nha và tại đây số vàng đó được trao cho Don Diego, con trai của Colombo. Ngoài thực tế đáng ngạc nhiên là chỉ có vàng của Colombo được cứu khỏi trận bão, có một thực tế khác nữa, cũng đáng ngạc nhiên không kém. Tất cả bốn chiếc tàu của nhà phát kiến, ngay cả chiếc Santiago de Polos mà ông đã muốn bán đi, đều đã thoát nạn.

Thế là Người nước ngoài kiêu căng này cũng là một nhà tiên tri, một phù thủy có thể làm xuất hiện một cơn bão và làm cho cơn bão đó đánh chìm những tàu biển của kẻ địch, trong khi không đụng đến tàu của ông. Tất nhiên Colombo không phải là một phù thủy, và cũng chỉ do ngẫu nhiên chiếc tàu duy nhất được thoát nạn và về tới Tây Ban Nha là chiếc tàu chở vàng của ông. Nhưng có đúng không việc này chưa thực rõ ràng Colombo đã cảm thấy một trận bão đang tới gần; một hiện tượng hoàn toàn không được biết tới trong thế giới cũ. Colombo chỉ có kinh nghiệm về hiện tượng này bảy năm trước đó. Như vậy ông đã biểu thị sự nghiên cứu vô địch của ông về biển cả.

Trong số những học giả vĩ đại nhất về Colombo, Thacher, Harrisse, Caddeo, De Lollis, Revelli, Morison, Ballesteros Beretta, Madariaga và Nunn hoàn toàn khẳng định lời nhận xét của Las Casas: "Christopher Colombo vượt tất cả những người đương thời về nghệ thuật đi biển". Chỉ có một số ít người bất đồng với sự đánh giá đó. Người phê phán mạnh mẽ nhất kỹ năng đi biển của Colombo là Vignaud; kinh nghiệm về đi biến của ông hình như bị hạn chế ở những cuộc đi ra ngoài trời trên những tàu chờ khách du lịch trên sông Seine. Nhà khảo sát người Pháp vĩ đại Charcot gọi Colombo là "một thủy thủ có giác quan về biển", khả năng huyền bí và bẩm sinh đó cho phép ta chọn con đường đứng giữa đại dương Người ta đã bình luận nhiều và còn tiếp tục bình luận, nhưng những chiếc tàu đã đi vào lịch sử. Thành tựu của Christopher Colombo vĩ đại đến nỗi nó làm người ta phải say mê". Đó là lời nhận xét của một thủy thủ vĩ đại về một thủy thủ khác, về một người mà trừ Cook, không một ai có thể sánh kịp, trong số thủy thủ thuộc tất cả các thời đại.

Colombo cũng là một nhà địa lý, hầu hết là tự học. Việc Colombo sinh tại Genova không làm cho ta ngạc nhiên và là một việc quan trọng - không như một số người nói hoàn toàn không suy nghĩ. Trong thời thơ ấu của Colombo ở Genova, ông đã học những yếu tố đầu tiên về đi biển, và ở Genova và Sanova, ông đã làm quen với những vấn đề của biển cả và đi biển, vốn là bản chất thứ hai trong những truyền thống của nước Cộng hòa. Genova là một xứ sở đi đầu về hàng hải, không những tại Địa Trung Hải mà trong toàn thế giới Công giáo. Rồi với những chuyến đi đầu tiên của ông và nhất là những kinh nghiệm kéo dài ở Đại Tây Dương, Colombo đã phát triển một giác quan sắc bén về địa lý và vén bức màn bí mật trước nhiều vấn đề địa lý. Trong những bài viết của ông, Colombo đã biểu thị mình có xu hướng như thế nào đối với địa lý và ông thường giải quyết những vấn đề liên quan đến địa lý một cách khéo léo như thế nào.

Chú thích:

(1). Nguyên văn tiếng Ý là:

Homo di alta et procera statura