← Quay lại trang sách

Chương 3 Huân Tước Buxton Glenor

Trước khi xảy ra chuyện này, nhiều năm đã kịp trôi qua mà huân tước Buxton vẫn không đi đâu hết. Cánh cửa của lâu đài Glenor, nơi ông đang sống, ở trung tâm nước Anh, gần thành phố nhỏ Uttoxeter, không hề mở cửa để đón khách, còn mấy cái cửa sổ ở phòng riêng của ông thì đóng im ỉm. Buxton tự giam hãm mình vì một chuyện bi thảm làm hoen ố danh dự gia đình ông và phá nát cuộc đời ông.

Sáu mươi năm trước, trước lúc xảy ra những sự kiện vừa được kể trên, huân tước Buxton từ ghế nhà trường quân sự bước ngay vào đời, sau khi đã được thừa hưởng của cải, tước vị và vinh quang của cha anh.

Hai mươi hai tuổi, Edward Alan Buxton cưới một cô gái xuất thân từ một gia đình danh giá nhất nước Anh làm vợ. Một năm sau ngày cưới, một cô con gái đã chào đời. Việc này làm cho Edward Buxton thất vọng và ông bắt đầu sốt ruột mong đợi đứa con thứ hai.

Mãi hai mươi năm sau, bà Buxton mới tặng được cho ông một đứa con trai như ước muốn, đặt tên là George. Hầu như đúng vào thời gian ấy, cô con gái đầu lòng của ông, sau khi lấy nhà quý tộc người Pháp de Saint-Bérain, đã sinh ra cậu Agénor.

Năm năm nữa trôi qua và huân tước Glenor có thêm cậu con trai thứ hai – Lewis Robert, mà ba mươi lăm năm sau số phận đã dành cho cậu cái vai đau đớn đến thế trong tấn thảm kịch ở Ngân hàng Trung ương. Việc sinh ra cậu đã phải trả giá bằng chính cuộc sống của người mẹ và huân tước Buxton vĩnh viễn mất đi người phụ nữ đã làm bạn với ông trong suốt một phần tư thế kỷ.

Huân tước Buxton đau khổ, tuyệt vọng, từ bỏ mọi ý đồ danh vọng và mặc dù còn khá trẻ, ông rời bỏ hạm đội, nơi ông đã phục vụ từ ngày tốt nghiệp trường quân sự.

Nhiều năm ông sống biệt lập, rồi thời gian làm vơi đi nỗi đau buồn. Sau những năm tháng sống cô đơn, huân tước Buxton quyết định khôi phục lại tổ ấm gia đình đã bị phá vỡ: ông lấy bà góa Marguerite Ferney, trước có chồng là bạn của ông trong quân ngũ. Thay của hồi môn, bà đem về cho ông cậu con trai mười sáu tuổi William.

Nhưng số phận đã quyết để cho huân tước Glenor một mình đi nốt quãng đời còn lại: Mấy năm sau, đứa con gái thứ tư, tên là Jane ra đời và ông lại góa vợ.

Bấy giờ huân tước Glenor đã sáu mươi tuổi. Vào tuổi ấy, ông không còn nghĩ đến việc xây dựng gia đình nữa mà chỉ lo làm tròn bổn phận của người cha. Nếu không tính cô con gái đầu, bà de Saint-Bérain, – vì từ lâu ông đã không phải lo, thì ông còn bốn đứa con. Đứa lớn nhất vừa tròn hai mươi tuổi. Đó là William Ferney. Ông không phân biệt nó với ba đứa con ruột của mình.

Song kiếp đời đầy rẫy những chuyện nhẫn tâm và ông đã linh cảm biết được nỗi đau mà so với nó, nỗi khổ trước đây dường như quá nhẹ nhàng.

William Ferney, con trai riêng của người vợ kế quá cố được ông yêu quý như con đẻ, đã gây ra cho ông những điều phiền muộn đầu tiên. Kín mồm, kín miệng, hay ngang ngạnh, giả dối, con người trẻ tuổi này không hề đáp lại sự trìu mến của mọi người dành cho hắn và hắn cứ thui thủi một mình trong cái gia đình đã rộng lòng, rộng cửa đón hắn như thế. Hắn thờ ơ với tất cả những cử chỉ âu yếm của mọi người đối với hắn, mọi người càng gần gũi với hắn bao nhiêu, hắn lại càng thù ghét bấy nhiêu.

Ngay từ ngày đầu cùng mẹ bước vào lâu đài Glenor, hắn đã nuôi dưỡng trong lòng mối ghen ghét độc địa đối với George và Lewis – những người thừa kế của huân tước Buxton, những người có lúc sẽ trở nên giàu có.

Mối hận thù đó càng tăng lên khi Jane, cô em gái trong bụng mẹ hắn ra đời bởi vì cô ấy cũng sẽ được chia phần cái gia tài mà hắn bị gạt ra một bên hoặc do lòng hảo tâm của gia đình hắn chỉ được một phần ít ỏi. Khi mẹ hắn, người duy nhất có thể tìm đường đến với cõi lòng chật hẹp đó, qua đời, thì không gì có thể chế ngự được mối hận thù. Hắn càng xa lánh gia đình và sống biệt lập. Chỉ có những vụ tai tiếng thường xuyên mới cho phép đoán biết bí mật của cuộc sống đó. Hóa ra William đã giao du với đám thanh niên hư hỏng nhất mà chỉ mình hắn mới có thể kiếm ra.

Chẳng bao lâu xuất hiện các món nợ. Đầu tiên huân tước còn trả cho, nhưng sau thì thôi.

Tuy buộc phải sống bằng số tiền ít ỏi, William Ferney vẫn không thay đổi lối sống. Một thời gian dài, không ai biết hắn kiếm đâu ra tiền, nhưng có một lần lâu đài Glenor nhận được một kỳ phiếu với số tiền lớn, ký giả chữ ký của huân tước Buxton. Huân tước trả nợ mà không nói lời nào, song ông đã đuổi kẻ tội phạm ra khỏi lâu đài, sau khi vẫn cấp cho hắn một khoản tiền kha khá.

William Ferney rời lâu đài Glenor và trốn biệt. Những gì đã xảy ra với hắn, huân tước Buxton không rõ.

May thay, trong khi con trai của người khác gây cho ông khổ tâm bao nhiêu thì mấy đứa con đẻ làm cho ông vui lòng bấy nhiêu. George, con trai lớn, tiếp tục truyền thống của gia đình, đã đỗ thủ khoa trường Ascott và không sợ hiểm nguy, gia nhập quân đội thuộc địa để được đi chu du. Huân tước Buxton rất lấy làm tiếc là người con trai thứ hai, Lewis, tỏ ra ít có khiếu quân sự, song trong các lĩnh vực còn lại khác nó xứng đáng với lòng yêu thương của ông. Đó là một cậu bé ngoan, có khuôn phép và đứng đắn.

Cuộc sống của bọn trẻ cứ trôi qua đều đều. Thiên bẩm về nghề giao dịch hình thành rõ rệt ở Lewis. Anh vào làm việc ở Ngân hàng Trung ương. Ở đấy người ta đánh giá anh rất cao và đoán rằng sẽ có lúc anh trở thành người đứng đầu cái nhiệm sở to lớn ấy. Trong khi đó George đã đi từ thuộc địa này sang thuộc địa khác gần giống như một vị anh hùng và thăng quan tiến chức bằng đường gươm, mũi kiếm.

Đúng vào lúc huân tước nghĩ rằng ông đã đoạn tuyệt với số kiếp cay nghiệt thì một nỗi bất hạnh còn khủng khiếp hơn những gì ông đã phải chịu đựng trước đó, đổ sập xuống đầu ông. Lần này, danh dự trong sạch của dòng họ Glenor mãi mãi bị bôi nhọ.

George Buxton, con trai lớn của huân tước Glenor, tạm thời được tách ra khỏi biên chế của đơn vị, đi phục vụ cho một đoàn nghiên cứu lớn. Trong hai năm cầm đầu đội quân bán chính qui do đoàn tuyển dụng, anh đã dọc ngang xứ sở của người Achantis. Rồi bỗng nhiên có tin con trai của huân tước là kẻ cầm đầu một băng cướp. Tin truyền như sấm. Báo chí đã kể tỉ mỉ về tội trạng của đại úy Buxton và bọn người phiêu lưu của y, về những vụ cướp bóc, tống tiền, về những hành động tàn bạo của bọn chúng và về sự trừng phạt sau đó. Đội quân được phái đi tiễu trừ băng cướp đã truy lùng bọn chúng ráo riết. Đại úy Buxton bị bật ra khỏi toán cướp, dạt đến vùng thuộc Pháp và cuối cùng bị đuổi kịp ở gần làng Koubo, dưới chân núi Hombori, hắn bị bắn chết ngay từ loạt đạn đầu.

Người ta còn nhớ nỗi lo ngại làm chấn động nước Anh khi nó được biết về cuộc phiêu lưu đáng kinh ngạc đó. Rồi sau, mối lo âu lắng dịu và chiếc khăn liệm lãng quên đã phủ lên thân xác của những người đã chết.

Nhưng có một ngôi nhà mà ở đó ký ức về một tên trong bọn chúng còn lưu mãi. Đó là ngôi nhà của huân tước Buxton.

Người thủy thủ già khi ấy đã gần bảy mươi lăm tuổi, vừa bị tổn thương trong tình cảm đối với con vừa bị tổn thương danh dự – là thứ đối với ông còn quý giá hơn nữa, ông vẫn không hề quỵ xuống trước ngón đòn, chỉ có nét mặt nhợt nhạt là nói lên được nỗi khổ của ông. Không hỏi lấy một câu về sự kiện quá sức chịu đựng ấy, ông giam mình trong cô đơn và im lặng kiêu hãnh.

Từ đó ông không đi dạo chơi hằng ngày như trước nữa. Đóng cửa ở nhà, không tiếp bất cứ ai, kể cả bạn bè thân thiết nhất, ông sống biệt lập, hầu như bất động, câm lặng, cô đơn.

Cô đơn ư? Không hẳn như vậy. Bên ông còn có ba người nữa. Nhờ tấm lòng tôn kính ông mà họ đã có được sức chịu đựng cuộc sinh tồn khủng khiếp với pho tượng sống, với dấu hiệu còn giữ được nghị lực của một mạng sống nhưng đã tự giam mình trong cảnh im lặng vĩnh hằng.

Trước tiên, đó là người con trai thứ hai, Lewis Robert Buxton, hằng tuần vào ngày không phải làm việc ở Ngân hàng Trung ương, anh về nghỉ tại lâu đài.

Kế đó là cháu ông, Agénor de Saint-Bérain, anh định làm cho ngôi nhà ảm đạm như tu viện vui lên bằng tiếng cười hiền hậu của mình. Agénor de Saint-Bérain là con người tuyệt diệu, hay giúp đỡ, làm ơn, có trái tim nhạy cảm và lòng thủy chung sắt đá. Anh có ba điểm khác người: đãng trí kỳ lạ, say mê câu cá và cuối cùng là không ưa phụ nữ.

Là chủ một cơ ngơi to lớn do cha mẹ chết đi để lại, anh đã từ giã nước Pháp ngay sau khi có tin đầu tiên về tấn thảm kịch làm ông ngoại của anh đau buồn và anh về sống trong dinh thự cạnh lâu đài, có con sông nhỏ chảy qua. Agénor thường buông câu xuống đó, say mê đến mức không thể hiểu nổi.

Quả thật, tiêu tốn ngần ấy đam mê cho cách tiêu khiển đó để làm gì cơ chứ một khi anh luôn nghĩ về những điều khác và dù tất cả cá trên thế gian này có thể kéo tới cắn mồi thì anh vẫn chẳng buồn để ý đến cái phao? Hơn nữa nếu có chú cá chép hay cá bống nào ngang ngạnh hơn chàng câu cá đãng trí mà tự móc mình vào lưỡi câu thì Agénor đa cảm không chần chừ tháo ra và quẳng ngay chú cá nọ xuống nước.

Một người tốt, như chúng tôi đã nói; nhưng thái độ thiếu thiệu cảm của anh đối với phụ nữ hẳn là định kiến rồi. Anh gán cho họ mọi thói hư tất xấu. “Lừa lọc, phản bội, dối trá và xa xỉ” – anh thường tuyên bố về họ như vậy. Mối ác cảm đối với phụ nữ của anh chỉ có một ngoại lệ duy nhất. Người được hưởng đặc ân đó là Jane Buxton, con gái út của huân tước Glenor, nên cũng là dì của Agénor nhưng là dì út, kém anh gần hai mươi tuổi và anh biết dì từ lúc “bà” còn nhỏ xíu. Anh đã tập cho dì biết đi và trở thành người đỡ đầu của dì khi vị huân tước bất hạnh xa lánh mọi người. Anh yêu thương bà dì như một người cha và bà dì cũng đáp lại như thế. Nói chung, đó là một ông thầy, nhưng là người thầy đã làm mọi điều mà cô học trò mong muốn. Họ gắn bó với nhau. Cùng dạo bộ trong rừng hay cưỡi ngựa, bơi thuyền, săn bắn và chơi bất cứ món thể thao nào. Điều đó khiến cho cậu cháu lớn tuổi đã nói về bà dì nhỏ tuổi được giáo dục theo kiểu con trai như thế này: “Rồi cô ấy sẽ thành đàn ông cho mà coi!”.

Jane Buxton là người thứ ba săn sóc vị huân tước già và chở che cho tuổi già buồn khổ của ông bằng tấm lòng hiền mẫu. Nàng sẵn sàng chết đi để được nhìn thấy nụ cười của ông. Phải đem lại, dù chút ít hạnh phúc cho tâm hồn khô héo của cha – ý nghĩ ấy cứ bám riết lấy nàng. Đó là mục đích duy nhất chi phối mọi ý nghĩ, hành động của nàng.

Lúc anh trai bị giết, nàng thấy cha khóc nhiều cho thanh danh của mình hơn là cho kết cục bi thảm của đứa con bị trừng trị đích đáng. Trái lại, nàng không khóc.

Nàng không thờ ơ trước cái chết của người anh thương yêu trìu mến và trước vết nhơ mà hành động tội lỗi của anh trai đã bôi lên danh dự của gia đình. Nhưng khi ấy, cùng với khổ đau, lòng nàng đã phẫn nộ. Sao Lewis và cha dễ dàng tin vào điều ô nhục của George như thế? Sao họ lại có thể coi tất cả những lời buộc tội từ nước ngoài gửi về là đã được minh chứng? Những lời đồn đại và những bản báo cáo chưa được kiểm tra thì có nghĩa gì đâu? Khác với họ, nàng tin mãnh liệt vào sự vô tội của anh trai. Vào lúc không còn tin tức gì về người anh đã chết thì nàng vẫn tưởng nhớ đến anh và niềm tin vào anh của nàng không bao giờ tắt.

Thời gian chỉ khắc họa thêm những cảm nghĩ ban đầu của Jane Buxton. Theo ngày tháng, niềm tin vào sự vô tội của anh trai càng trở nên mãnh liệt ở nàng dù nàng không thể lấy gì để chứng minh. Cuối cùng thì cái phút giây ấy – mấy năm sau khi xảy ra tấn thảm kịch – đã đến. Lần đầu tiên, nàng dám phá tan bầu không khí im lặng như tờ mà tất cả những người cư ngụ trong lâu đài đã âm thầm dùng nó chôn chặt chuyện đau thương xảy ra ở Koubo.

— Chú đấy à? – hôm ấy nàng đã hỏi Agénor de SaintBérain.

Agénor thường gọi Jane bằng cháu khi nàng phong cho anh chức chú. Việc này vẫn hay xảy ra.

Nhưng không... Nếu như ông chú nọ tìm cách quở trách cô cháu gái dễ thương của mình, hoặc định chống lại ý muốn của cô thì cô sẽ lấy lại thứ bậc mà dòng họ đã cho cô và tuyên bố với cháu mình rằng: anh cần phải kính trọng người bề trên. Mỗi lần thấy chuyện không xuôi, ông cháu im ngay rồi vội vàng dỗ dành bà dì tôn kính của mình.

— Chú đấy ư? – Jane đã hỏi hôm đó.

— Đúng thế, cháu yêu, – Angieno trả lời. Anh đang cặm cụi đọc cuốn sách dày viết về nghệ thuật câu cá bằng cần câu.

— Cháu muốn nói chuyện với chú về George.

Agénor ngạc nhiên, đặt cuốn sách xuống.

— Về George? – anh nhắc lại, hơi bối rối. – Về George nào?

— Về anh George của cháu. – Jane điềm tĩnh giải thích thêm.

Agénor tái mặt.

— Nhưng cháu đã biết. – anh không tán thành, giọng run run, – là không được phép nói đến vấn đề đó và cái tên ấy không được nói ra ở đây.

Jane gật đầu đồng ý.

— Không sao, – nàng thản nhiên nói. – chú hãy nói chuyện với cháu về George đi nào.

— Cháu bảo phải nói về cái gì cơ chứ?

— Về mọi điều. Về toàn bộ chuyện ấy.

— Không đời nào!

Jane nhíu cặp lông mày.

— Này, cháu! – Nàng cất giọng đe dọa.

Như vậy cũng đủ rồi.

— Thế! Thế! – Agénor lầu bầu, bắt đầu kể câu chuyện thương tâm.

Jane im lặng lắng nghe và khi anh kể xong, nàng không hỏi câu nào. Agénor tưởng mọi việc đã kết thúc nên thở phào nhẹ nhõm.

Anh đã nhầm. Mấy hôm sau, Jane tiếp tục thực hiện ý định.

— Chú đấy à? – Nàng lại hỏi như trước.

— Đúng thế, cháu yêu, – Agénor trả lời như cách đây vài bữa.

— Nhưng nếu George vô tội thì sao?

Agénor tỏ vẻ không hiểu.

— Vô tội – anh nhắc lại. – Than ôi, làm gì có chút nghi ngờ nào trong chuyện này hả cô bé đáng thương của chú. Hành động phản bội và cái chết của cậu George là những sự kiện lịch sử có quá nhiều chứng cứ.

— Chứng cứ nào? – Jane hỏi.

Agénor kể lại câu chuyện. Anh dẫn ra những bài báo, những bản báo cáo chính thức mà không một ai bác bỏ. Cuối cùng, anh viện dẫn vào sự vắng mặt của George – bằng chứng hùng hồn nhất về cái chết của anh ta.

— Chết, thì cứ cho là như thế đi. – Jane đáp lại. – Nhưng còn phản bội?

— Cái kia là hậu quả của cái này, – Agénor nói, anh lúng túng vì nàng ngang bướng đến thế.

Nàng còn bướng bỉnh hơn anh tưởng. Bắt đầu từ ngày đó, nàng thường trở lại với cái đề tài nặng nề, giày vò anh bằng những câu hỏi mà từ đó dễ dàng rút ra kết luận: Nàng vẫn giữ trọn niềm tin sắt đá vào sự vô tội của anh mình.

Sau nhiều lần tranh cãi, dì cháu thừa nhận với nhau là George vô tội và Agénor de Saint-Bérain không dám bài bác bà dì của anh nữa. Thêm vào đó, ý kiến của Jane đã tác động mạnh đến tư tưởng của anh. Nếu như anh chưa hoàn toàn tin vào sự vô tội của viên đại úy phản loạn thì ít nhất cũng đã bị dao động khi nghĩ rằng George có lỗi...

Mấy năm sau, niềm tin mãnh liệt của Jane càng được củng cố, nhưng chỉ trên cảm tính hơn là trên lý trí. Tranh thủ được sự ủng hộ của người cháu, nàng có đạt được vài điều song như vậy hẳn còn ít. Tuyên bố George vô tội để làm gì nếu không chứng minh được điều đó?

Sau một thời gian dài suy xét kỹ càng, nàng cảm thấy là mình đã tìm ra phương sách.

— Tất nhiên, – nàng đã nói với Agénor vào một ngày rất đẹp trời, – việc chú cháu ta tin George vô tội là chưa đủ. Cần phải có chứng cứ, chú hiểu không, chú thân yêu. Không có bằng chứng thì không ai tin chúng ta cả, cho dù chúng ta có thể kêu rêu đến bao nhiêu đi nữa rằng George vô tội.

— Điều ấy thì rõ quá rồi, cô bé đáng thương của tôi ạ.

— Trong lúc chính cha cháu tin vào những lời đồn đại mà không rõ căn nguyên, trong lúc cụ chết dần chết mòn vì đau khổ và xấu hổ trước mắt chúng ta mà không kiểm tra lại những chuyện đơm đặt ghê tởm đó, trong lúc cụ nghe thấy những lời buộc tội con trai mình mà không hét to lên: “Các người nói láo! George không có khả năng gây ra tội ác như thế!”, thì chúng ta làm sao có thể thuyết phục được những người khác, một khi không cho họ thấy những bằng chứng không thể chối cãi về sự vô tội của anh cháu.

— Điều ấy rõ như ban ngày, – Agénor vuốt vuốt cái cằm, tán thành.

— Nhưng những chứng cứ ấy... tìm ở đâu?

— Cố nhiên là không phải ở đây.

Jane ngừng lại rồi nói khẽ:

— Ở chỗ khác, có thể...

— Ở chỗ khác? Chỗ nào vậy, cháu yêu?

— Ở chỗ đã xảy ra chuyện thương tâm đó. Ở Koubo.

— Ở Koubo?

— Vâng, ở Koubo. Mộ của George nằm ở đó vì anh ấy chết ở đó cơ mà; và nếu thế thì sẽ biết được anh ấy đã bị chết như thế nào. Phải tìm cho ra những người trong cuộc. George đã chỉ huy một đội quân đông người. Không thể có chuyện là tất cả bọn họ đã biến mất hết. Phải thẩm vấn các nhân chứng và qua họ lần ra sự thật.

Jane càng nói thì mặt nàng càng ngời sáng, giọng nàng run run.

— Cháu nói phải! – Agénor thốt lên, vô tình sa vào bẫy.

Jane trở nên hoạt bát:

— Một khi cháu đã đúng, – nàng nói, – thì chúng ta hãy đi thôi!

— Đi đâu? – Agénor ngớ người hỏi.

— Đi Koubo, chú ạ!

— Đi Koubo? Cháu định đi Koubo với ma quỷ nào thế?

Jane vòng hai tay ôm lấy cổ Agénor.

— Với chú, ông chú hiền lành của cháu ạ, – nàng âu yếm thỏ thẻ.

— Với tôi?!

Agénor gỡ tay nàng ra. Lần này anh giận thực sự.

— Cô điên mất rồi! – Anh tuyên bố rồi định bỏ đi.

— Không hẳn thế đâu, – Jane nói lại và cản đường không cho anh đi. – Chú sẽ không đi Koubo thật sao? Chẳng lẽ chú không thích những chuyến đi du lịch?

— Tôi ghét cay, ghét đắng các chuyến đi ấy. Phải có mặt trên tàu vào giờ qui định – điều đó quá sức chịu đựng của tôi.

— Thế câu cá, chú cũng ghét phải không nào?

— Câu cá à? Tôi không thấy...

— Chú biết gì về món cá rán câu được ở sông Niger? Món này đặc sắc lắm nhé. Cá bống ở sông Niger to như cá mập, cá chép thì y như cá ngừ. Điều đó không quyến rũ chú sao?

— Tôi không bảo không... tuy nhiên...

— Khi câu cá, chú sẽ tiến hành điều tra, dò hỏi thổ dân...

— Bằng thứ ngôn ngữ nào? – Agénor giễu cợt cắt ngang. – Tôi không nghĩ là họ nói được tiếng Anh.

— Ấy đấy, – Jane thản nhiên nói, – tốt hơn hết là hãy nói với họ bằng tiếng Bambara.

— Bằng tiếng Bambara? Chẳng lẽ tôi biết tiếng Bambara?

— Vậy chú phải học.

— Vào độ tuổi của tôi?

— Cháu đã học xong tiếng Bambara, mà cháu là dì của chú đấy nhé!

— Cô! Cô nói được tiếng Bambara?

— Đúng thế. Chú nghe đây: “Dji lokho a bé na”.

— Cô nói bậy bạ gì thế?

— Câu ấy có nghĩa: “Tôi bị khát”. Đây nữa: “I dou, nono I mita”.

— Thú thật... no no... mita...

Nghĩa là: “Hãy vào đi, bạn sẽ được uống sữa”. Lại còn: “Koukho bé na, Kounou ouarara uté a man doumouni”. Chú không đoán ra được đâu! Dịch là: “Tôi đói lắm, tôi không được ăn gì từ chiều qua”.

— Phải học hết mấy thứ đó sao?

— Vâng, và không được bỏ phí thì giờ vì sắp tới ngày lên đường rồi đó.

— Ngày lên đường nào? Nhưng tôi có đi đâu! Lại thế nữa cơ đấy! Không, tôi sẽ không tán dóc với các thổ dân của cô đâu.

Rõ ràng, Jane đã từ bỏ ý định thuyết phục anh.

— Vậy thì tôi đi một mình. – Nàng nói, giọng rầu rầu.

— Một mình, – Angieno kinh ngạc nói – cô muốn đi một mình.

— Buộc phải thế vì chú không muốn đi với tôi. – Jane nói tỉnh khô.

— Nhưng đó là hành động điên rồ, quẫn trí, rối loạn tinh thần! – Agénor hét to lên rồi bỏ chạy và đóng sầm cửa lại.

Nhưng sáng hôm sau, khi anh muốn gặp lại Jane thì người ta nói với anh rằng nàng không tiếp và mấy ngày sau cũng vậy. Agénor không chịu nổi trò chơi ấy. Bốn ngày sau anh đầu hàng.

Jane có tấm lòng khoan dung, không trách móc anh.

— Trước tiên, chú hãy học tiếng, – nàng nói rồi hôn vào hai má của anh.

Từ đó Agénor chỉ lo miệt mài học tiếng Bambara.

Trước ngày lên đường, Jane phải xin phép cha. Nàng được ông cụ cho đi dễ hơn nàng tưởng. Nàng chỉ vừa nói rằng nàng muốn đi du lịch một chuyến thì ông cụ đã ra hiệu đồng ý rồi lại đắm mình vào nỗi buồn của ông.

Xong việc này, Jane và Agénor bắt đầu chuẩn bị cho chuyến đi. Họ quyết định đến Liverpool, từ đó đáp con tàu The Ceres tới châu Phi. Ý định ban đầu của họ là đến xứ Gambie thuộc Anh. Nhưng trong thời gian lưu lại ở Saint-Louis, sau khi được biết Conakry đang chờ đón đoàn thị sát của Pháp và hành trình của đoàn này giống với hành trình của mình, họ quyết định nhập đoàn.

Cuối tháng Tám họ đã gởi hành lý đi Liverpool và ngày 2 tháng Mười, hai người ăn sáng lần cuối trong phòng ăn lớn của lâu đài Glenor (huân tước Buxton không bao giờ bước ra khỏi phòng riêng của ông). Bữa ăn cuối cùng đó buồn tẻ và lặng thinh. Jane Buxton nghĩ rằng có thể nàng sẽ không bao giờ còn được nhìn thấy tòa lâu đài, chiếc nôi của tuổi thơ và thời niên thiếu của nàng, còn nếu nàng trở về được thì chắc chắn người cha già nua sẽ không thể giang tay ôm nàng vào lòng được nữa.

Tuy nhiên, vì cha, nàng vẫn thực hiện chuyến đi đầy khó khăn và nguy hiểm này. Nàng muốn khôi phục danh dự của gia đình, đem lại dù chỉ là một chút vui tươi cho tâm hồn trống trải của ông.

Sắp đến giờ phải ra đi, Jane xin cha cho phép tạm biệt người. Nàng và Agénor được đưa vào phòng ông cụ. Ông ngồi bên chiếc cửa sổ cao trông ra phía cánh đồng mắt nhìn đăm đăm về nơi xa xăm như thể ông đang đợi bóng ai. Ai? George, đứa con trai phản bội của ông ư?

Nghe tiếng chân con gái bước vào, ông khẽ quay đầu lại và cái nhìn đờ đẫn của ông sáng lên, nhưng khuôn mặt vẫn giữ nguyên vẻ bất động thường ngày.

— Thưa cha con đi! – Jane lắp bắp, cố giữ cho nước mắt khỏi trào ra.

Huân tước không trả lời. Ông đứng lên, chìa tay về phía con gái rồi âu yếm kéo con vào lòng và hôn lên trán con.

Sợ mình sẽ òa khóc, Jane vùng chạy ra ngoài. Ông lão nắm lấy tay de Saint-Bérain, siết chặt và như có ý yêu cầu che chở, ông chỉ tay về phía cửa Jane mới vừa ra.

— Ông hãy tin ở cháu, – Agénor lúng búng trong miệng. Lập tức huân tước Buxton ngồi vào chỗ cũ và lại đưa mắt nhìn xa xăm về phía cánh đồng.

Chiếc xe ngựa đang đợi những người đi du lịch trong sân lâu đài để đưa họ ra ga đi Utocxeto.

— Đi đâu? – Agénor theo thói quen, anh bối rối vì cảnh tượng vừa rồi nên quên mất lý do họ phải từ giã lâu đài Glenor.

Jane chỉ nhún vai. Họ khởi hành. Nhưng vừa đi được khoảng năm trăm mét thì de Saint-Bérain bỗng kích động lạ thường. Anh không thể nói nên lời, anh thở hổn hển.

— Cần câu, mấy cái cần câu của tôi! – Anh kêu lên thống thiết.

Đành phải trở lại lâu đài để tìm mấy chiếc cần câu trứ danh mà nhà đi câu đãng trí đã bỏ quên. Mất khoảng một phần tư giờ vì việc này. Khi họ đến ga, đoàn tàu đã đứng trên sân. Các nhà đi du lịch vừa kịp bước lên tàu và Agénor tự hào nói:

— Đây là lần thứ hai trong đời, chú không bị trễ tàu đấy.

Jane bất giác mỉm cười và hai dòng nước mắt chảy trên gò má. Chuyến đi đưa hai nhà nghiên cứu đến với những điều bất ngờ kỳ lạ đã bắt đầu như thế đấy. Liệu Jane có chấp nhận nó không, nếu nàng biết trước được rằng chuyện gì sẽ xảy ra trong lúc vắng nàng? Nàng có từ bỏ người cha bất hạnh mà ra đi nếu nàng đoán biết được đòn gì lại giáng xuống đầu ông, trong khi nàng liều mình đi cứu ông ra khỏi nỗi tuyệt vọng?

Nhưng không có gì báo trước cho Jane biết về bi kịch sẽ xảy ra ở chi nhánh Ngân hàng Trung ương và về lời buộc tội nhục nhã đổ lên đầu anh Lewis của nàng. Nàng định giúp cha, nhưng lại từ biệt ông đúng vào lúc sự chăm sóc của nàng đối với ông là cần thiết hơn bao giờ hết.

Tin Lewis Robert Buxton mất tích, do một người đầy tớ quá sốt sắng mang về, đến tai huân tước Glenor vào buổi sáng, sau ngày xảy ra vụ cướp ở chi nhánh DK, tức là ngày 1 tháng Mười hai. Ông bị sốc như bị nện bằng dùi cui. Con người mực thước, hậu sinh của bao vị anh hùng hết lòng tôn thờ danh dự đó hiểu rằng hai người con trai của ông một đứa là phản bội, một đứa là ăn cắp.

Ông lão bất hạnh bật rên khe khẽ, đưa hai tay bụm lấy cổ họng rồi ngã xuống chiếc sàn lát ván như một khối vô sinh.

Mọi người chạy đến đỡ ông dậy. Người ta hết sức săn sóc ông khi ông chưa mở được mắt. Từ nay ánh mắt ông là dấu hiệu duy nhất chứng tỏ cuộc sống chưa nỡ từ bỏ trái tim đã chịu nhiều đau khổ. Thân ông bị liệt và mãi mãi bất động. Nhưng điều đó vẫn chưa đủ để xóa hết nỗi cay nghiệt của cuộc đời. Trong cái cơ thể vĩnh viễn bất động ấy còn có một khối óc minh mẫn. Huân tước Buxton vô giác, câm lặng và liệt giường, liệt chiếu vẫn cứ suy nghĩ!

Và nếu chú ý đến sai phân kinh độ, đúng vào lúc người cha của Jane Buxton ngã xuống bất tỉnh thì nàng đặt chân lên bàn đạp, cưỡi ngựa vượt qua chiếc cầu nối liền Conakry với lục địa, bắt đầu cuộc hành trình, thực hiện những bước đi đầu tiên trong rừng rậm châu Phi huyền bí.