Chương 10 Ý Định Của Phóng Viên Florence
ÍT AI CHỢP MẮT ĐƯỢC vào những giờ còn lại đêm ấy. Tình hình được thảo luận toàn diện, nhưng không ai tìm ra lối thoát. Chính Marcel Camaret cũng không thể nghĩ ra điều gì khác, ngoài việc phải chế tạo một chiếc tàu lượn mới, nhưng sẽ tự dối mình nếu đặt hy vọng vào chiếc máy mà việc chế tạo ra nó phải tốn mất hai tháng ròng rã, trong khi lương thực chỉ đủ cho mười lăm ngày.
Thêm vào đó, sau khi kiểm tra cẩn thận thì hóa ra họ còn lương thực không đủ cho mười lăm ngày, mà chỉ đủ cho chín – mười ngày thôi. Ngay cuối tháng Tư họ sẽ bị đói. Để kéo dài ngày tận số không thể tránh khỏi, họ quyết định chuyển sang chế độ ăn uống theo khẩu phần.
Sau bữa ăn sáng, mà lần này hết sức ít ỏi, Marcel Camaret cùng với mấy vị khách đã đột ngột xộc vào chỗ ông, làm ông mừng đến thế, đi đến chỗ tên bị thương.
— Ông tên gì? – Marcel Camaret hỏi.
— Fergus David.
— Đó là tên lóng, ông hãy nói tên thật của ông đi.
— Daniel Frasne.
— Dân tộc?
— Anh.
— Địa vị của ông ở Blackland?
— Quân sư. Người ta gọi những người điều hành cùng với Harry Killer như thế.
— Ông ở đây đã lâu chưa?
— Ngay từ đầu.
— Trước đây ông đã biết Harry Killer?
— Vâng. Tôi quen biết ông ấy lúc ở trong đội quân của đại úy Buxton.
Jane run lên khi nghe thấy những lời nói này: số phận đã đưa đến cho nàng một nhân chứng mới.
— Trong đội quân của Buxton? – Camaret nhắc lại, – Thế tại sao tôi không nhận ra ông?
— Có lẽ, tôi đã thay đổi quá nhiều, – tên bị thương nhận xét với vẻ thờ ơ triết lý. – Dù sao đi nữa tôi cũng đã ở cùng với ông, ông Camaret ạ.
Jane Buxton không thể kìm mình được nữa và đã chen vào:
— Ông đã ở trong quân đội của Buxton khi Killer đến đó?
— Vâng.
— Tại sao đại úy Buxton thu nhận hắn dễ dàng như thế?
— Tôi không biết.
— Có đúng là, – Jane tiếp tục, – từ ngày Harry Killer xuất hiện trong đội thì hắn trở thành người chỉ huy thật sự hay không?
— Đúng, – Frasne trả lời, hắn bối rối vì người ta hỏi hắn về những sự kiện đã xảy ra lâu rồi như thế.
— Theo lệnh của Harry Killer đội quân của đại úy Buxton đã làm những điều tàn ác mà sau này đã đưa nó đến chỗ bị tiêu diệt phải không?
— Phải.
— Đại úy Buxton không tham gia vào những việc đó chứ?
— Không.
— Các vị nghe thấy chưa? – Jane nói khi quay về phía những người bạn đồng hành của mình. – Vậy tại sao đại úy Buxton lại nhường quyền hành cho Harry Killer?
— Làm sao mà tôi biết được? – Frasne vội vàng phản đối.
Hắn có vẻ thành thật. Jane không ép buộc hắn nói nữa.
— Tối thiểu, ông cũng biết đại úy Buxton đã chết như thế nào chứ?
— Ông ấy đã hy sinh trong khi đánh nhau, – Frasne trả lời với vẻ hoàn toàn tin tưởng. – Nhiều người đã ngã xuống cùng với ông ấy.
Jane Buxton thở dài.
— Tôi hỏi xong rồi, – nàng nói.
Viên kỹ sư tiếp tục hỏi cung:
— Ban đầu các ông làm sao kiếm ra những người da đen đã xây dựng thành phố?
Frasne mở to đôi mắt. Câu hỏi đến là ngố!
— Quỷ thật! Tất nhiên là ở các làng.
— Bằng cách nào?
Frasne rụt cái vai còn lành lại.
— Đây là sự nhạo báng!...Như thể ông không biết đấy! Người ta đã tóm cổ bọn chúng, thế thôi.
— À! – Camaret nói và cúi đầu xuống, vẻ mặt ủ rũ, – Thế còn máy móc cần thiết cho buổi ban đầu...Chúng ở đâu ra?
— Cố nhiên, từ mặt trăng, – Frasne châm chọc.
— Từ châu Âu à?
— Tất nhiên.
— Họ mang chúng đến đây bằng cách nào?
— Tất nhiên là không theo đường hàng không. Ông Camaret ạ, đó là những câu hỏi quá lố bịch! Người ta chở máy móc đến đây bằng tàu thủy.
— Thế chúng được bốc dỡ ở đâu? – Camaret bình thản tiếp tục.
— Ở Cotonou.
— Nhưng từ Cotonou đến Blackland xa lắm cơ mà. Làm sao họ chuyển được chúng tới đây?
— Bằng lạc đà, ngựa, bò, bọn da đen, – Frasne trả lời vắn tắt, hắn không còn kiên nhẫn được nữa.
— Tôi nghĩ trong thời gian đi đường có nhiều người da đen đã chết?
— Nhưng tôi không thích bọn ấy. – Frasne làu bàu.
Camaret chuyển sang vấn đề khác:
— Các ông đã phải trả tiền mua máy đấy chứ?
— Khỉ thật! – Frasne nói, hắn thấy các câu hỏi càng thêm vô nghĩa.
— Nghĩa là Blackland có tiền?
— Tiền thì có đủ.
— Ở đâu ra?
Frasne không chịu đựng được nữa:
— Ông hỏi về những điều ông phải biết rõ hơn tôi để làm gì? Chính những chiếc tàu lượn được chế tạo ra không phải để chơi cơ mà! Ông biết rằng thỉnh thoảng chúng vẫn chở Harry Killer và những người khác tới quần đảo Bissagos, từ đó họ đi tàu thủy, dạo chơi tí chút khắp châu Âu, mà thường xuyên hơn cả là ở Anh. Ông cũng biết đấy thôi, ở châu Âu có nhiều nhà băng, nhiều mụ già giàu có và vô khối những kẻ mà việc đến thăm bọn chúng...không cần lời mời sẽ lời to.
— Những chuyến đi như thế có thường xuyên hay không? – Camaret hỏi, mặt của ông đỏ lên vì xấu hổ.
— Ba – bốn lần trong một năm. Chuyến đi cuối cùng cách đây là bốn tháng.
— Lần này họ đến thăm ai?
— Tôi không biết. Tôi không đi với họ. Hình như là một nhà băng. Song tôi biết, chưa bao giờ họ vớ bở đến như vậy cả.
Camaret lặng im. Dường như ông già ngay đi mười tuổi.
— Frasne, điều cuối cùng, – ông nói. – Có bao nhiêu người da đen làm việc ngoài đồng?
— Bốn nghìn. Có thể hơn. Và hơn một nghìn rưỡi phụ nữ.
— Người ta cũng bắt dẫn họ về đây như trước?
— Không, – Frasne trả lời bằng cái giọng tự nhiên nhất. – Bây giờ, khi đã có tàu lượn, người ta chở bọn chúng.
— À! – Camaret nói. – Này, thế ông vào đây bằng đường nào?
Frasne thoáng dao động. Câu hỏi nghiêm túc nên hắn phải trả lời:
— Qua bể chứa nước. Hôm thứ ba người ta đã đóng các tấm chắn để các ông không thể bơm nước và người ta tháo hết nước trong bể chứa bên cung điện ra. Bể chứa nước của nhà máy cũng khô cạn, mà nó thì lại ăn thông với bể của chúng tôi bằng một đường ống chạy ngầm dưới bãi đáp. Tôi và Tchoumouki đã qua bằng con đường ấy đấy.
Vài giờ trước đây, viên kỹ sư biết được máy bơm đã hoạt động lại. Ông hiểu rằng Harry Killer bị cái chết của Tchoumouki ám ảnh nên đã mở các tấm chắn và nước đã chảy bình thường.
— Tốt. Cảm ơn ông, - Camaret nói, sau khi đã làm sáng tỏ những điều ông cần biết.
Ngày 13 và 14 tháng Tư trôi qua bình yên. Cuộc phong tỏa vẫn rất gắt gao. Xung quanh, trên bờ sông, trên bãi đáp có các trạm gác của các Chàng trai Vui tính luôn theo dõi nhà máy, không một ai có thể ra khỏi đó. Chẳng có gì báo hiệu là tình hình này sẽ thay đổi trước khi cái đói buộc những người bị bao vây phải đầu hàng.
Sau tai nạn tàu lượn, Amédée Florence luôn luôn tìm cách thoát ra khỏi cảnh khốn cùng. Ý nghĩ đến với anh vào tối ngày 14 tháng Tư. Sáng ngày 15 anh trao đổi rất lâu với Tongané, rồi sau đó mời tất cả các bạn cùng đi với mình tới chỗ viên kỹ sư.
Camaret giam mình trong phòng, đau đớn khôn nguôi trước sự thật rành rành ra đó. Ông hiểu ra rằng Blackland đã được tạo dựng và duy trì bằng bạo lực, trộm cắp và giết chóc. Giờ đây ông đã biết được cái nguồn gốc nhục nhã của số vàng bạc mà nhờ nó công việc của ông đã được tiến hành.
Và ông là kẻ tòng phạm của vô số những tội ác! Chẳng phải ông đã cung cấp những phương tiện để thực hiện chúng đó sao, cho dù ông trong sạch? Khi nghĩ về quãng đời mười năm nay của mình, ông cảm thấy khủng khiếp quá và ý chí đã lung lay của ông suy giảm. Ông bắt đầu căm ghét Blackland được ông dựng lên cho vinh quang của mình.
Amédée Florence và các bạn của anh thấy Camaret đang chìm trong những ý tưởng u sầu. Ông ngồi lọt thỏm trong chiếc ghế bành, bất động, với ánh mắt đờ đẫn, ông như đã mất đi những nguồn sinh lực cuối cùng. Hơn nữa, hai ngày rồi ông không hề ăn gì.
Một người tiếp chuyện như thế không thích hợp với Florence, anh muốn nhìn thấy trước mặt mình người kỹ sư thông thái trước đây. Theo lệnh của anh, Tongané mang thức ăn đến cho Camaret. Ông ngoan ngoãn ăn hết và máu đã trở lại đôi má nhợt nhạt của ông.
— Tôi có ý định thoát khỏi tình trạng tuyệt vọng của chúng ta, – Florence mở đầu. – Chúng ta có thể nhận được sự giúp đỡ của rất nhiều đồng minh trong tầm tay của chúng ta.
— Đồng minh nào? – Barsac và Châtonnay cùng cất tiếng hỏi.
— Những người da đen ở khu nô lệ. Họ có tới bốn nghìn người, chưa kể phụ nữ. Không nên bỏ qua lực lượng này.
— Đúng rồi, – Barsac nói, – nhưng những người da đen ấy không có vũ khí và thậm chí họ cũng không biết về sự hiện diện của chúng ta.
— Vì vậy, – Florence đáp lại, – cần phải thương lượng với họ và vũ trang cho họ.
— Ai sẽ đi gặp những người da đen ấy? – Barsac hỏi.
— Một người da đen như họ, – Tongané.
— Nhưng nhà máy đang bị bao vây! Nếu anh ta xuất hiện thì bọn chúng sẽ vãi đạn vào người anh ta.
— Anh ấy không nhất thiết phải đi qua cửa. Anh ấy sẽ vượt ra ngoài đồng vào ban đêm, trà trộn cùng với đám người da đen rồi trở vào thành phố cùng với họ. Ông Camaret này, có thể đào một con đường hầm dưới tường của nhà máy và thành phố, chạy ngầm qua đường tuần tra và ra tận cánh đồng đấy chứ?
— Nhất định rồi, – Camaret ngẩng đầu trả lời.
— Bình thường, việc này sẽ kéo dài trong thời gian khá lâu, – Camaret suy nghĩ rồi nói. – Nhưng có thể tiết kiệm thời gian bằng chiếc máy mà tôi nghĩ ra bây giờ và nó sẽ đem lại kết quả tốt đẹp trong điều kiện đất cát như thế này. Để làm xong chiếc máy và con đường hầm chỉ cần mười lăm ngày là đủ.
Nhiệm vụ kỹ thuật vừa mới đặt ra đối với Camaret thì ông đã cảm thấy phấn chấn trong môi trường quen thuộc của mình. Bộ não của ông bắt đầu hoạt động, ánh mắt sáng ngời.
— Còn một vấn đề nữa, – Florence nói. – Việc đào hầm không chiếm hết người của ông đấy chứ?
— Vẫn còn khá nhiều.
— Những người rảnh rỗi có thể chế tạo vũ khí với số lượng chừng ba – bốn nghìn cái như: dao, rìu, đoản, côn, mọi thứ đâm chém và đập được trong thời hạn đó hay không?
— Có thể lắm chứ, – Camaret trả lời.
— Thế ông có thể chuyển số vũ khí đó sang khu nô lệ vào ngày ấn định, sao cho người của Harry Killer không biết hay không?
— Việc này khó hơn, – Camaret bình thản trả lời, – nhưng có thể làm được trong đêm tối.
Amédée Florence thở phào nhẹ nhõm.
— Vậy là chúng ta đã thoát! – anh kêu lên.
— Ông Camaret hiểu không? Tongané sẽ ra khỏi đây bằng đường hầm và trà trộn với những người nô lệ da đen. Đến đó anh ấy sẽ chuẩn bị khởi nghĩa. Những người bất hạnh đó chỉ chờ có dịp để vứt bỏ ách thống trị. Nhận được vũ khí, họ sẽ không chần chừ đâu. Phải bắt tay ngay vào công việc.
— Tôi đã bắt đầu rồi, – viên kỹ sư điềm tĩnh nói lại sau khi đã ngồi vào bàn vẽ.
Người ta bỏ dở việc chế tạo tàu lượn và tất cả công nhân người thì lo sản xuất vũ khí, người thì lo chế tạo máy làm đường hầm mới, một số khoan lỗ một súc gỗ to để làm gì đó và sau cùng, một nhóm khác nữa thì đào một cái giếng rộng ở chân tường.
Ngày 21 tháng Tư, giếng sâu đến mười mét, Camaret cho rằng như vậy là đủ và họ bắt đầu đào ngang. Viên kỹ sư chế ra một vật hình nón bằng thép, dài gần năm mét và đường kính một mét ba, mặt ngoài của nó có những gờ nhô cao và những lỗ thủng xen kẽ nhau đều đặn theo đường xoắn. Động cơ điện làm cho dụng cụ này quay, khi xuyên vào lớp đất tơi mịn, nó giống như là được vặn chặt vào đó. Cát rơi vào bên trong vật thể qua các lỗ thủng và được tống ra qua giếng.
Khi chiếc đinh vít khổng lồ này đã lọt sâu vào lớp đất mà chính nó phải chống đỡ thì người ta nối vào nó các đoạn ống có cùng đường kính, bằng những máy ấn rất mạnh. Như vậy, đường hầm ngang khi đào xong sẽ là một đường ống kim loại dài gần tám mươi mét và lúc ấy chỉ còn phải dùng đinh vít có kích thước nhỏ hơn để xuyên lên mặt đất.
Trong lúc các công việc đang được thực hiện thì không thấy Camaret đâu cả. Ông xuất hiện với vẻ rầu rĩ và lơ đãng chỉ để giải quyết một vấn đề kỹ thuật phức tạp nào đó rồi lại lẻn về phòng của mình.
Đường hầm hoàn thành vào thời hạn đã định. Rạng sáng ngày 30 tháng Tư tám mươi mét đường ống đã được đặt xong và chỉ còn phải khoan giếng ngoi lên mặt đất, cần phải kết thúc việc này trước khi mặt trời mọc.
Và đã có lúc như thế này: ngay từ ngày 17 tháng Tư, lương thực đã gần hết nên các khẩu phần vốn dĩ đã ít ỏi lại bị cắt giảm thêm.
Tâm trạng của công nhân viên nhà máy dần dần thay đổi. Họ làm việc cần mẫn để cứu lấy cuộc sống, nhưng mặt mày ủ dột và thường nói với nhau những lời đầy cay đắng. Các công nhân đã bắt đầu mất niềm tin vào thủ trưởng, người mà mới đây thôi họ còn cho là có sức mạnh siêu phàm. Vâng, con người giỏi giang ấy mặc dù rất tài vẫn không thể giúp họ thoát khỏi chết đói. Sức hấp dẫn của ông yếu dần.
Mặt khác, khắp nhà máy bắt đầu lan truyền huyền thoại, bắt nguồn từ những lời về Jane Buxton mà Camaret đã nói trong lần phát biểu đầu tiên trước khi cắt đứt quan hệ với cung điện. Lúc đó người ta không coi việc Harry Killer si mê nữ tù nhân của hắn có ý nghĩa gì lớn. Nhưng do tình hình xấu đi và sự kiệt sức làm suy yếu lý trí của những người bị bao vây, họ đã đưa điều mơ tưởng ấy của Harry Killer lên hàng đầu.
Nhiều người bị bao vây cho rằng việc họ bị đau khổ, bị bao vây và đói khát chỉ vì đôi mắt tuyệt vời của cô Buxton là điều không thể chối cãi được. Giá như cô ta chịu nhân nhượng thì hòa ước đã được ký kết ngay rồi. Những hy sinh mà một trăm năm mươi người phải gánh chịu để cứu lấy một người phụ nữ dường như quá đáng.
Jane Buxton có biết về sự thay đổi tâm trạng đó, qua những lời nghe được, qua những cái nhìn u uất, nàng đã đoán ra lòng thù oán của họ và hiểu rằng họ coi nàng là người phải gánh chịu trách nhiệm về những mối nguy hiểm mà họ gặp phải.
Tuy nàng không hề nghĩ mình có giá trị to lớn như thế, song sự đồng lòng của họ đã tác động đến nàng và dần dần chính nàng bắt đầu thiên về ý nghĩ cho rằng nếu nàng hàng phục Harry Killer thì, có thể, sự hy sinh này sẽ giải thoát được cho những người bị bao vây khác.
Tất nhiên, cuộc sống của nàng bên cạnh con người bị nàng nghĩ là đã giết anh trai sẽ rất kinh khủng. Nhưng lời khép tội chưa được chứng minh và ngoài ra, nếu đủ sức thì nàng có thể lẩn tránh bằng cái chết. Cuối cùng, đó là nghĩa vụ của nàng, cho dù nó có tàn nhẫn với nàng đến mức nào đi nữa.
Ý tưởng đó chi phối nàng đến nỗi nàng không thể nín lặng được nữa và đã bộc bạch nó ra cho bạn bè biết. Nàng kết tội mình hèn nhát và nói rằng sẽ ưng thuận Harry Killer với điều kiện hắn đảm bảo an toàn cho những người còn lại, Saint-Bérain đáng thương vừa nghe nàng nói vừa khóc.
— Cô muốn làm nhục chúng tôi, tiểu thư ạ! – Amédée Florence giận dữ kêu lên. – Và làm nhục một cách vô tích sự! Harry Killer tin chắc là sẽ bắt được hết tất cả chúng ta và hắn sẽ không chịu bán rẻ niềm khoái trá ấy đâu. Cho dù hắn có hứa thì cũng sẽ không giữ lời của mình!
Barsac, bác sĩ Châtonnay và cả Poncin nữa cùng lên tiếng phản đối nên Jane phải từ bỏ dự định cao thượng nhưng vô nghĩa của mình.
Vả lại, bây giờ đường hầm đã hoàn tất. Mấy giờ nữa Tongané sẽ lẻn đi và ngày mai anh sẽ phát lệnh khởi nghĩa giải phóng tù nhân. Buổi chiều, người ta bắt đầu đào giếng đứng, đến nửa đêm thì đoạn ống đã nhô lên mặt đất và Tongané trung thành biến mất trong bóng tối.
Đoạn ống đặt thẳng đứng được rút mang đi và cát đã lấp đầy cái giếng hẹp.
Ngay trước mắt nhà máy là một góc của bức tường này, hễ thấy cơ hội thuận lợi thì Tongané phải phát tín hiệu để chuyển vũ khí. Từ tối ngày 1 tháng Năm những người bị bao vây đã nhìn về nơi đó, họ tụ tập trên cái chòi được dựng lên theo lệnh của Camaret trên nóc nhà của công nhân cạnh sông Đỏ.
Nhưng như đã dự đoán, hôm ấy mong đợi chỉ tổ uổng công. Cho dù Tongané đã lọt được vào khu nô lệ đi nữa thì anh cũng chưa có thời gian để chuẩn bị khởi nghĩa. Tuy nhiên, sang ngày hôm sau vẫn không có tín hiệu. Ở nhà máy, người ta bắt đầu lo ngại. Họ chỉ tự an ủi bằng một điều là đêm đó trăng rằm sáng quá nên đằng nào cũng không thể chuyển số vũ khí đã xếp lên chòi được.
Nỗi lo của những người bị bao vây tăng lên. Đêm ngày 3 tháng Năm tối đen. Việc bất động của Tongané càng trở nên nguy hiểm vì trong ngày hôm ấy những mẩu thức ăn cuối cùng đã hết sạch. Sau hai ngày, nhiều lắm là ba ngày phải giành được thắng lợi, nếu không họ sẽ bị chết đói.
Ngày 4 tháng Năm tưởng chừng như vô tận và những người bị vây hãm sốt ruột đợi trời tối. Nhưng đêm ấy cũng không có tín hiệu trên thành tường của khu người da đen.
Ngày 5 tháng Năm trôi qua với bao nhiêu là điềm dữ. Mọi người đã nhịn ăn sang ngày thứ ba rồi và dạ dày của họ co thắt lại vì đói. Các xưởng vắng tanh. Công nhân và vợ con của họ cau có đi lại trong sân nhà máy, trao đổi với nhau những lời cay nghiệt và họ không ngần ngại lên án Tongané là đã bỏ rơi những người mà anh hứa sẽ cứu giúp. Khỉ thật! Anh ta không ngu đến nỗi phải để tâm tới họ.
Khi đi ngang qua một nhóm người, Jane Buxton nghe thấy tên mình.
— Cứ mặc cho mọi người nói gì tùy thích! – một người đàn ông kêu lên, không thèm để ý là người ta có lắng nghe hay không. – Phải chịu đựng những điều như thế vì cô ả lẳng lơ này thì bậy thật! Giá việc ấy chỉ phụ thuộc vào mình tôi thôi nhỉ!
— Ông không biết xấu hổ khi nói như vậy à? – một người đàn bà hỏi ông ta.
— Xấu hổ ư? Mẹ ơi, bà tếu thật đấy! Tôi có con nhỏ và nó đang đòi ăn!
— Thế ông nghĩ là tôi không có con?
— Nếu bà muốn cho con bà chết đói thì đó là việc của bà. Nhưng nếu ngay ngày mai mà chúng ta vẫn còn ở đây, tôi sẽ đến chỗ ông chủ và bàn chuyện với ông ta. Chứ không thể ở mãi trong tình trạng như thế này trong khi cô nương kia hể hả, mong sao quỷ tha ma bắt cô ả đi cho rồi!
— Ông chỉ là một thằng hèn! – Người đàn bà quát lên.
Jane Buxton bắt đầu lung lay, tâm hồn bị thương tổn. Người ta đang nói về nàng như thế đó! Theo ý của những người bất hạnh này thì nàng là nguyên nhân duy nhất gây ra những nỗi đau khổ của họ! Ý nghĩ ấy làm nàng không thể chịu được. Nhưng biết nói như thế nào đây để họ tin rằng họ bị nhầm?
Giờ tiếp giờ, phút tiếp phút, ngày 5 tháng Năm cuối cùng rồi cũng qua đi. Mặt trời lặn. Đêm đến. Lần thứ ba, sau ngày Tongané đi khỏi, mây đen lại che lấp mặt trăng. Anh có lợi dụng hoàn cảnh thuận tiện này để phát tín hiệu mong mỏi hay không?
Không ai còn hy vọng, nhưng những cặp mắt, như mỗi đêm, vẫn hướng về phía bức tường, nơi tín hiệu sẽ phải xuất hiện.
Bảy giờ... Tám giờ... Đồng hồ nhà máy đã điểm tám giờ ba mươi. Họ đã phí công mong đợi.
Quá tám giờ rưỡi ít phút, đám người bị vây hãm đang lo lắng run lên. Không, Tongané không bỏ rơi họ! Bên trên bức tường của khu nô lệ đã xuất hiện tín hiệu.
Không nên bỏ phí giây phút nào. Theo lệnh của Camaret, người ta mang lên chòi một công trình kỳ lạ. Đó là khẩu đại bác bằng gỗ. Đạn được nạp vào nòng và khí nén tống nó ra ngoài không gian.
Viên đạn lao vút qua bờ sông, qua sông qua khu các Chàng trai Vui tính và rơi xuống khu nô lệ, và kéo theo sau sợi dây thép có cái móc sẽ phải móc vào thành tường.
Camaret bắt đầu thận trọng quay cái trống cuốn dây. Chẳng mấy chốc ông đã cảm thấy bị vướng. Việc thử đã thành công. Tuyến đường không đã nối liền những người bị bao vây đến những người nô lệ.
Chiến dịch vận chuyển vũ khí được tiến hành ngay theo con đường này. Người ta lần lượt chuyển đi đầu tiên là một gói thuốc nổ, sau đó là bốn nghìn chiếc dao, rìu, giáo, mác. Gần mười một giờ chiến dịch kết thúc. Mọi người rời chòi và sau khi vớ được cái gì thì vũ trang cái ấy, họ tập hợp lại bên cạnh cửa chính. Họ quây thành một đám đông nghịt, ở giữa là phụ nữ, chờ thời cơ thuận tiện để xuất phát.
Nhưng trong đám đông ấy thiếu một người phụ nữ – Jane Buxton. Saint-Bérain, Amédée Florence, bác sĩ Châtonnay đã hoài công gọi nàng, đã hoài công kiếm nàng ở khắp các xó xỉnh của nhà máy. Họ đành bất lực với thực tại.
Jane Buxton đã biến mất.