← Quay lại trang sách

Chương 6 Kỳ nghỉ của nhà văn

Một nhà văn không bao giờ có kỳ nghỉ. Đối với một nhà văn, cuộc sống chính là viết, hoặc nghĩ đến chuyện viết. Eugène IONESCO

Thứ Tư ngày 10 tháng Mười 2018

1.

Ngày vẫn chưa rạng. Fawles thận trọng bước xuống từng bậc cầu thang, chú chó theo bén gót. Trong phòng ăn, chiếc bàn gỗ mộc vẫn ngổn ngang đồ thừa từ bữa ăn hôm trước. Mí mắt nặng trĩu và tâm trí mù mờ, nhà văn dọn dẹp căn phòng bằng những động tác máy móc, đi tới đi lui giữa phòng khách và bếp.

Dọn xong, ông cho Bronco ăn uống rồi pha một bình lớn cà phê. Sau cái đêm vừa trải qua, ông những muốn có thể tự tiêm cho mình một liều cafein vào tĩnh mạch để đi xuyên qua màn sương mù nơi ông đang lạc lối.

Cầm chiếc cốc nóng bỏng trên tay, Fawles ra sân hiên đứng mà thốt rùng mình. Những vệt hồng cẩm chướng di động đang tan loãng vào màu xanh thẫm của tấm voan trời. Gió mistral(11) đã thổi suốt đêm và đang tiếp tục quét qua bờ biển. Không khí khô và lạnh, như thể trong vài giờ, thời tiết đã chuyển từ hè sang đông mà không có sự chuyển tiếp. Nhà văn kéo khóa chiếc áo pull cho kín cổ rồi ngồi xuống bên chiếc bàn kê trong một góc kín của sân hiên. Một tổ kén nhỏ, khuất gió và quét vôi trắng, dùng làm sân trong.

Vẻ trầm ngâm, Nathan tua lại bộ phim dựa trên câu chuyện của Mathilde rồi cố gắng ghép nối các mẩu theo một trật tự cố kết chặt chẽ. Vậy là nữ phóng viên đã nhận được mail liên hệ từ một gã nhà quê vùng Alabama, trước đó người này đã tậu một chiếc máy ảnh cũ trong một siêu thị chuyên bán lại những món đồ bị bỏ quên trên máy bay. Chiếc máy ảnh có lẽ đã bị hai du khách người Pháp đánh rơi xuống Thái Bình Dương từ năm 2000 và mười lăm năm sau, nó được tìm thấy trên một bãi biển tại Đài Loan. Nó chứa nhiều bức ảnh mà theo Mathilde ám chỉ, rất có thể che giấu một thảm kịch.

- Vậy có gì trên những tấm ảnh ấy? Fawles đã hỏi như thế khi người phụ nữ trẻ dừng kể.

Cô nhìn ông chòng chọc bằng ánh mắt sáng long lanh.

- Tối nay chỉ có vậy thôi, Nathan. Ngày mai ông sẽ được nghe phần tiếp theo của câu chuyện, chúng ta hẹn nhau buổi chiều tại vũng bờ đá Rặng Thông nhé?

Thoạt tiên ông còn nghĩ cô đùa, nhưng cô nàng đã uống cạn ly Saint-Julien rồi đứng dậy rời khỏi ghế bành.

- Cô giỡn mặt tôi đấy hả?

Cô đã mặc lại chiếc áo da dáng ngắn, vơ chùm chìa khóa ô tô để trên khay ở lối vào rồi gãi nhẹ đầu Bronco.

- Cảm ơn vì món ragu và rượu vang. Ông chưa từng nghĩ tới chuyện mở nhà hàng sao? Tôi chắc chắn ông sẽ thành công vang dội đấy.

Rồi cô rời ngôi nhà với vẻ kiêu căng phách lối mà không chịu nói gì thêm.

Ngày mai ông sẽ được nghe phần tiếp theo của câu chuyện…

Câu nói ấy khiến ông giận điên. Cô ta tự cho mình là ai chứ, cái ả Seherazade giả hiệu này? Cô ta muốn tạo ra phút chờ đợi hồi hộp nho nhỏ, thách thức tiểu thuyết gia trên chính lãnh địa riêng của ông, chứng minh cho ông thấy cô ta cũng có khả năng khiến những kẻ lắng nghe câu chuyện cô ta kể phải thao thức trắng đêm.

Đồ khốn tinh tướng… Fawles nuốt ực ngụm cà phê cuối cùng rồi cố gắng trấn tĩnh lại. Bản trường ca Odyssée về chiếc máy ảnh kỹ thuật số kia còn hơn cả thú vị. Nó có tiềm năng tiểu thuyết nhất định, mặc dù ngay lúc này ông không rõ lắm là nó có thể dẫn dắt tới đâu. Nhất là, ông không hiểu tại sao Mathilde lại khẳng định câu chuyện này có liên quan tới ông, chính ông? Ông chưa từng đặt chân tới cả Hawaii lẫn Đài Loan, lại càng chưa tới Alabama. Nếu câu chuyện có liên quan tới ông, vậy thì chỉ có thể là liên quan thông qua nội dung các bức ảnh, nhưng trong số những cái tên cô ta đã nêu - Apolline Chapuis và Karim Amrani - chẳng cái tên nào gợi nhắc ông điều gì.

Tuy nhiên, ông cảm nhận rõ rằng toàn bộ chuyện này không hề vô thưởng vô phạt. Đằng sau màn diễn ấy đang ngầm ẩn điều gì đó nghiêm trọng hơn một trò quyến rũ văn chương đơn giản. Cô gái này tìm kiếm gì nhỉ, mẹ kiếp? Dẫu sao thì trước mắt, cô ta cũng đã thành công, bởi đêm qua ông không sao chợp mắt nổi. Ông cảm thấy mình mắc bẫy như một gã lính mới. Tệ hơn nữa: ông đang phản ứng chính xác như cô ta trông đợi.

Khốn kiếp… Ông không thể bằng lòng với việc cam chịu hoàn cảnh nữa rồi. Ông phải hành động, tìm hiểu thêm về cô gái này trước khi cái bẫy cô ta giăng chụp xuống ông. Nét mặt căng thẳng, Nathan xoa hai bàn tay lạnh buốt vào nhau. Muốn điều tra thật sự, nhưng ông không có chút ý tưởng nào về cách thức tiến hành. Không có Internet nên ông chẳng thế tìm kiếm nếu cứ ru rú trong nhà, và mắt cá chân cứng đờ, sưng phồng, đau nhức của ông đã trở thành một bất lợi thực thụ. Thêm một lần nữa, phản xạ đầu tiên của ông là gọi điện cho Jasper Van Wyck. Nhưng Jasper đang ở xa. Cậu ta có thể tiến hành vài tìm kiếm trên mạng cho ông, nhưng không phải cánh tay đắc lực trong cuộc phản công Mathilde. Fawles có nghĩ tới nghĩ lui cũng vô ích, ông buộc phải thừa nhận mình không thể giải quyết vấn đề chỉ bằng cách nhờ cậy. Ông cần ai đó tháo vát, sẵn sàng đương đầu với hiểm nguy. Ai đó ủng hộ sự nghiệp của ông và không đặt ra ngàn lẻ một câu hỏi.

Một cái tên hiện ra trong tâm trí ông. Ông rời khỏi ghế, quay vào trong phòng khách để gọi điện.

2.

Tôi nằm co ro trên giường, tứ chi run lập cập. Hẳn là nhiệt độ đã sụt mười độ so với ngày hôm qua. Lúc đi nằm, tôi đã nghĩ đến việc bật lò sưởi gang trong phòng mình, nhưng nó vẫn lạnh ngắt một cách tuyệt vọng.

Cuộn tròn trong chăn, tôi nhác thấy ngày đang lên qua cửa sổ nhưng khó khăn lắm tôi mới ra được khỏi giường, lần đầu tiên kể từ khi ở đây. Việc phát hiện ra xác của Apolline Chapuis và lệnh phong tỏa do tỉnh ban hành đã khiến Beaumont biến đổi. Chỉ trong chưa đầy hai ngày, thiên đường Địa Trung Hải bé nhỏ bỗng nhiên biến thành một hiện trường vụ án khổng lồ.

Chấm hết sự thân thiện, những ly rượu khai vị vui vẻ, nét hiền lành ngây thơ quen thuộc của dân đảo. Ngay đến thời tiết ấm áp cũng vội vã ra đi. Kể từ đây, bầu không khí ngờ vực bao trùm khắp nơi. Và hôm nay, áp lực lại tăng thêm một bậc khi một tuần san quốc gia giật tít “Những bí ẩn đen tối của đảo Beaumont” trên trang bìa. Như thường thấy trong dạng hồ sơ được dàn dựng vội vàng này, chẳng có gì là thật. Những bài báo là một mớ thông tin không được kiểm chứng và những cắt cúp đánh lừa chỉ cung cấp những nhan đề và tiêu đề mang tính chèo kéo. Beaumont xuất hiện khi thì như hòn đảo của các triệu phú - nếu không muốn nói là các tỷ phú -, lúc lại như sào huyệt của những kẻ chủ trương độc lập ngoan cố mà nếu đặt cạnh nhau thì các thành viên của Mặt trận Giải phóng Quốc gia FLNC-Canal lịch sử chẳng khác nào lũ gấu bông Bisounour.

Gia đình Gallinari, những chủ sở hữu người Ý hết sức kín tiếng, cũng là chủ đề nuôi ảo tưởng. Mọi chuyện xảy ra như thể cần phải có thảm kịch kia để toàn thể nước Pháp phát hiện ra sự tồn tại của vùng đất này. Về phần các phóng viên nước ngoài, họ chẳng có gì để ganh tị và cả họ nữa, họ cũng thích thú tiếp sức cho những tin đồn kỳ cục nhất. Sau đó, các cơ quan báo đài sao chép lại của nhau, đồng thời bóp méo thêm đôi chút những thông tin ban đầu, rồi trút toàn bô những thứ đó vào chiếc máy xay vĩ đại của các mạng xã hội để cho ra một thứ hồ đồ vừa dối trá vừa vô nghĩa, chỉ còn chức năng tạo ra những cú nhấp chuột và tweet lại. Chiến thắng vĩ đại của sự tầm thường.

Tôi nghĩ chính điều đó khiến người dân đảo Beaumont phát điên, hơn cả nỗi sợ một tên sát nhân tiềm tàng đang ẩn náu trên đảo. Nhìn hòn đảo của họ, đất đai của họ, cuộc sống của họ bị trưng ra như vậy dưới ánh mặt trời nhớp nhúa của thông tấn thế kỷ XXI. Chấn thương tâm lý của họ khá nặng, được duy trì bởi câu nói mà tất cả những người tôi gặp đều nhắc đi nhắc lại: sẽ chẳng gì còn được như trước nữa.

Ngoài ra, ở đây, mọi người ai cũng sở hữu một con thuyền, từ thuyền chài của ngư dân đến những chiếc tàu bề thế hơn, nên lệnh cấm sử dụng tàu thuyền cũng giống như lệnh quản thúc tại gia. Cảnh sát tới từ đất liền tuần tra trên cảng bị xem như quân xâm lược. Sự xâm nhập này càng khó chịu hơn vì đến giờ dường như các nhà điều tra không làm được gì nhiều, ngoại trừ việc lăng nhục người dân đảo Beaumont. Họ đã tiến hành khám xét các nhà hàng và quán bar hiếm hoi trên đảo, cũng như một vài cửa hàng có khả năng được trang bị phòng lạnh hoặc tủ đông cỡ lớn, nhưng chẳng điều gi chứng minh rằng công tác điều tra này có hiệu quả.

Âm thanh thông báo của điện thoại khiến tôi ló ra khỏi chăn. Tôi dụi mắt trước khi xem thứ đang hiển thị trên màn hình. Laurent Lafaury vừa đăng liên tiếp hai bài viết. Tôi truy cập vào blog của hắn. Bài đăng đầu tiên được minh họa bằng bức ảnh chụp khuôn mặt hắn sưng húp. Hắn thuật lại cuộc tấn công đêm trước mà hắn khẳng định mình chính là nạn nhân, trong lúc đang uống một ly ở quầy bar quán Fleurs du Malt. Có vẻ như một nhóm khách hàng ở đó đó tội cho Lafaury, trách cứ hắn đã dùng những dòng tweet cá nhân để nuôi dưỡng chứng loạn tâm thần đang chớm hình thành trên đảo. Lafaury đã rút điện thoại ra để ghi hình, sau đó, theo lời hắn, Ange Agostini, cảnh sát viên thành phố, đã tịch thu điện thoại của hắn rồi làm ngơ để mặc ông chủ quán bar giã cho hắn một trận, trước sự cổ vũ của một số khách hàng. Gã phóng viên thông báo ý định khởi kiện rồi kết thúc bài viết bằng thuyết “kẻ bung xung” do René Girard truyền bá: mỗi xã hội hay cộng đồng đang lâm vào khủng hoảng sẽ phát sinh nhu cầu xác định và lên án những kẻ bung xung để bắt chúng nhận trách nhiệm về những tổn hại mà cộng đồng đó đang gánh chịu.

Ở ghi nhận sau cùng này, Lafaury sáng suốt và không hề nhầm. Gã phóng viên đang chất chứa thù hận. Gã cùng lúc nếm trải vinh quang và khổ hình đúng nghĩa. Gã thì nghĩ mình đang làm nghề một cách hợp pháp trong khi một bộ phận dân đảo lại thấy gã đổ thêm dầu vào lửa. Hòn đảo chao đảo trong phi lý và không khó để hình dung gã có thể trở thành nạn nhân của những cơn tức nước vỡ bờ khác. Để xoa dịu dân chúng và tránh để tình huống xấu thêm, hẳn là cần dỡ lệnh phong tỏa, nhưng có vẻ tỉnh trưởng chưa sẵn sàng làm vậy. Nhất là cần tìm ra thủ phạm gây nên tội ác dã man này càng sớm càng tốt.

Bài đăng thứ hai của tay phóng viên liên quan đến cuộc điều tra của cảnh sát và liên quan trực tiếp hơn đến tính cách và chuyện đời của nạn nhân.

Sinh năm 1980 với tên khai sinh là Apolline Mérignac, Apolline Chapuis lớn lên tại quận VII Paris. Cô học trường Sainte-Clotilde rồi vào trung học Fénelon-Sainte-Marie. Học hành xuất sắc nhưng bản tính nhút nhát, cô đăng ký lớp dự bị văn chương, nhưng năm 1998, khi còn đang theo học lớp dự bị đại học Sư phạm khoa Ngữ văn, cuộc đời cô đã đột ngột chệch hướng.

Trong một buổi dạ hội sinh viên, cô gặp rồi yêu say đắm Karim Amrani, một tay bán lẻ ma túy chuyên hoạt động ở đại lộ Chapelle. Amrani đã bỏ ngang trường Luật tại Nanterre. Đó là một gã bẻm mép đẹp trai có phần nghèo khổ, ủng hộ phe cực tả, nay mơ thành Fidel Castro mai lại ước thành Tony Montana(12).

Để chiều lòng hắn, Apolline bỏ học rồi cùng hắn dọn tới một khu ổ chuột trên phố Châteaudun. Dần dần, Karim sa vào nghiện ngập. Lúc nào hắn cũng cần nhiều tiền hơn để hút chích. Bất chấp mọi nỗ lực của gia đình nhằm kéo cô ra khỏi đó, Apolline vẫn lún sâu vào cuộc sống giang hồ. Cô bắt đầu bằng việc bán thân, nhưng chẳng mấy chốc những chuyến đi khách cũng không còn đủ. Thế là cô trở thành tòng phạm của Karim và cùng hắn chìm sâu vào tội lỗi. Tiếp theo là hàng loạt vụ trộm cắp, đôi khi rất bạo lực, đỉnh điểm là vụ cướp một quán bar PMU gần quảng trường Stalingrad hồi tháng Chín năm 2000. Cuộc tấn công diễn ra không suôn sẻ. Chủ quán bar chống cự. Để dọa ông ta, Karim nhả đạn bằng một khẩu súng hoa cải (người đàn ông kia trúng đạn và bị mù một mắt). Hắn vét sạch két rồi ra gặp Apolline đang chờ hắn bên ngoài trên một chiếc mô tô. Rốt cuộc một chiếc xe cảnh sát cũng phát hiện ra chúng và cuộc truy đuổi bắt đầu rồi kết thúc tại đại lộ Poissonnière, ngay đối diện khách sạn Grand Rex, may mắn không gây thương vong. Ra tòa, Karim bị kết án tám năm tù giam. Apolline thoát đẹp khi chỉ lãnh bốn năm tù.

Dĩ nhiên rồi… Lúc này tôi vẫn nhớ là khi đọc lướt website của Apolline, một vài ngày tháng đã khiến tôi ngạc nhiên như thể có một lỗ hổng dài trong lý lịch trích ngang của cô ta.

Thời gian thấm thoát trôi. Năm 2003, Apolline rời nhà tù Pleury-Mégoris rồi cải tà quy chính làm lại cuộc đời. Cô tiếp tục việc học tại Bordeaux rồi Montpellier, kết hôn với Rémi Chapuis, con trai một luật sư trong vùng rồi vài năm sau, hai người ly hôn, không con cái. Năm 2012: cô trở lại Bordeaux, gây dựng công ty rượu nho rồi coming out(13) hết sức muộn màng - ngoài ra, người trình báo việc cô mất tích tại sở cảnh sát Bordeaux là một trong những cô nhân tình cũ của cô.

Đến cuối blog, Lafaury scan một bài viết cũ trên tờ Le Parisien thuật lại vụ xét xử “Bonnie và Clyde phố Stalingrad”. Một bức ảnh đen trắng cho thấy Apolline thời ấy là một thiếu nữ cao ráo mảnh khảnh, khuôn mặt dài, gò má cao, mắt cụp. Karim thấp hơn, béo tốt, lực lưỡng, vẻ quyết đoán. Hắn vốn khét tiếng vì độ hung hãn và tàn bạo mỗi khi phê ma túy; nhưng hành vi của hắn trong phiên tòa lại khá rõ. Hắn đã phản bác ý kiến của luật sư bào chữa riêng để cố gắng gỡ tội cho Apolline hết mức có thể. Một chiến thuật đã mang lại kết quả khá đáng kể.

Đọc xong bài viết, tôi tự nhủ bản chất việc đào xới quá khứ phạm tội của Apolline Chapuis có thể là nhằm xoa dịu công chúng. Có lẽ vụ ám sát cô không có mối liên hệ nào với Beaumont cũng như dân đảo. Có lẽ cái chết của cô có thể xảy ra ở bất cứ đâu. Tôi cũng thắc mắc Karim Amrani đã ra sao khi ra tù. Hắn có ngựa quen đường cũ quay lại với những hoạt động phạm tội trước kia không? Hắn có tìm cách nối lại liên lạc với nữ đồng phạm ngày nào không? Thời đó, có thực là hắn thao túng Apolline không, hay mọi việc phức tạp hơn thế? Nhất là, tôi tự hỏi, liệu có thể nào sau hai chục năm ròng, quá khứ bất hảo của Apolline đã quay trở lại tìm cô như một chiếc boomerang.

Tôi vớ lấy chiếc máy tính ở chân giường để ghi chép vài dòng cho cuốn tiểu thuyết. Từ hôm qua, tôi đã viết hăng say, các trang giấy cứ tự kín đặc chữ. Tôi không biết liệu những gì mình viết có đáng giá hay không, chỉ biết số phận đã đưa tôi vào diễn tiến của một câu chuyện mà ai đó nên kể lại. Một câu chuyện thực mạnh hơn hư cấu và tôi có linh cảm rằng nó mới chỉ bắt đầu. Tại sao tôi lại chắc chắn rằng vụ sát hại Apolline chỉ là phần nổi nhỏ xíu của một tảng băng chìm khổng lồ? Có lẽ là vì với tôi, sự bồn chồn của mọi người thật đang ngời như thể hòn đảo mang một bí mật mà nó chưa sẵn sàng tiết lộ. Dẫu sao, tôi cũng đã thực sự trở thành một nhân vật tiểu thuyết, giống như trong những cuốn sách tôi đọc hồi bé, ở đó; độc giả chính là nhân vật chính.

Hẳn là trong phút kế tiếp, cảm giác này vẫn còn tăng thêm vài phần. Điện thoại của tôi đổ chuông và màn hình hiển thị một số lạ - nhưng đầu số giống như một thuê bao trên đảo.

Khi nhấc máy, tôi lập tức nhận ra giọng Nathan Fawles.

Ông yêu cầu tôi tới nhà riêng gặp ông.

Ngay tức khắc.

3.

Lần này, Fawles không chào đón tôi bằng những phát súng, mà bằng một tách cà phê hảo hạng. Bên trong ngôi nhà đúng như tôi đã hình dung: rộng rãi mà ấn tượng, tối giản mà ấm cúng. Ngôi nhà hoàn hảo cho văn sĩ. Tôi dễ dàng hình dung ra những nhân vật như Hemingway, Neruda hay Simenon sáng tác tại đây. Hoặc thậm chí là Nathan Fawles…

Mặc quần jean, sơ mi trắng và áo len cổ kéo khóa, ông đang cho chú chó giống golden retriever có bộ lông vàng nhạt uống nước. Rốt cuộc tôi đã có thể thấy ông trông như thế nào khi không đội chiếc mũ panama và đeo cặp kính râm. Thật lòng mà nói, ông không già đi nhiều so với những bức ảnh chụp hồi cuối thập niên 1990. Fawles hơi vạm vỡ, nhưng toát ra một cá tính thực sự rõ nét. Khuôn mặt rám nắng, đôi mắt sáng giống như làn nước trong vắt mà ta trông thấy đằng xa. Bộ râu quai nón và mái tóc mới chớm muối tiêu. Từ ông tỏa ra thứ gì đó bí hiểm và khó nắm bắt. Một uy lực vừa thâm trầm vừa chói lọi tựa vầng thái dương. Một sự tỏa rạng hắc ám mà ta không biết liệu có nên dè chừng hay không.

- Chúng ta ra bên ngoài ngồi đi, ông đề nghị đoạn vớ lấy chiếc cặp táp nhỏ bằng da đã sờn để trên chiếc ghế tựa Eames hẳn phải gấp đôi tuổi tôi.

Tôi theo ông ra sân hiên. Trời vẫn còn mát, nhưng mặt trời đã lên cao. Tận cùng bên trái, nơi Fawles đứng canh chừng khi tôi gặp ông lần đầu tiên, những phiến đá lát nhường chỗ cho một khoảng đất nện trước khi những mỏm núi đá chiếm ưu thế trở lại. Một chiếc bàn chân kim loại cùng hai băng ghế đá được gắn cố định trên nền đất dưới ba cây thông lọng cổ thụ.

Fawles mời tôi ngồi rồi chọn chỗ đối diện tôi.

- Tôi sẽ đi thẳng vào mục đích, ông nói đoạn nhìn chòng chọc vào mắt tôi. Tôi mời cậu đến đây là vì tôi cần cậu.

- Cần tôi ư?

- Tôi cần cậu giúp.

- Cần tôi giúp ư?

- Đừng có nhắc lại những gì tôi nói nữa đi, nghe ngấy lắm. Tôi cần cậu làm việc này cho tôi, cậu hiểu chứ?

- Việc gì thế?

- Một việc quan trọng và nguy hiểm.

- Nhưng… nếu việc đó nguy hiểm, đổi lại tôi sẽ được gì?

Fawles đặt cặp táp lên mặt bàn ốp gạch gốm vuông.

- Cậu được thứ bên trong cặp táp này.

- Tôi cóc cần thứ bên trong cặp táp của ông.

Ông ngước mắt nhìn trời vẻ ngán ngẩm.

- Sao cậu có thể nói mình cóc cần đến nó trong khi thậm chí cậu còn chưa biết đó là gì nhỉ?

- Điều tôi muốn, đó là ông đọc bản thảo tôi viết.

Fawles lặng lẽ mở cặp táp rồi lấy từ trong đó ra cuốn tiểu thuyết tôi đã quẳng cho ông trong lần gặp đầu tiên.

- Tôi đã đọc bản văn của cậu rồi, nhóc ạ! ông nói, môi nở nụ cười.

Ông đưa cho tôi bản thảo Sự rụt rè của những đỉnh cao, vui ra mặt vì đã gài bẫy được tôi.

Tôi bồn chồn lật các trang. Trang nào cũng có ghi chú dài ngoằng. Fawles không chỉ đọc cuốn tiểu thuyết của tôi mà còn sửa chữa hết sức nghiêm túc, dành thời gian đáng kể cho việc đó. Tôi bỗng thấy lo. Tôi có thể chịu đựng lời từ chối của các nhà xuất bản và những lời gièm pha trịch thượng của một tên ngốc như Bernard Dufy, nhưng liệu có thể hồi phục sau khi bị chính thần tượng của mình mỉa mai châm chọc không?

- Ông thấy nó thế nào? tôi hỏi, toàn thân như tê liệt.

- Thẳng thắn nhé?

- Thẳng thắn đi ạ. Chẳng ra gì đúng không?

Thích thú trước nỗi đau của người khác, Fawles nhấp một ngụm cà phê rồi dền dứ trước khi buông một câu:

- Trước tiên, tôi rất thích nhan đề này, âm hưởng của nó, tính biểu tượng của nó…

Tôi không dám thở nữa.

- Sau đó, tôi phải thừa nhận bản thảo được viết đúng ra là khá chỉn chu…

Tôi buột một tiếng thở phào nhẹ nhõm, ngay cả khi biết rằng, đối với Fawles, “được viết khá chỉn chu” không nhất thiết là một lời khen, vả chăng ông cũng vội vàng nhấn mạnh:

- Thậm chí tôi sẽ nói rằng nó được viết hơi quá chỉn chu. Đến lượt ông cầm bản thảo lên rồi lật trang:

- Tôi có ghi chú lại là cậu đã thó của tôi đôi ba mánh viết. Cả của Stephen King, Cormac McCarthy và Margaret Atwood nữa…

Tôi không biết liệu mình có nên trả lời gì đó không. Tiếng sóng xô dưới vách đá dội lên tận chỗ chúng tôi mạnh tới nỗi khiến ta có cảm giác như đang đứng trên boong tàu.

- Nhưng chuyện đó không nghiêm trọng, ông nói tiếp, có những hình mẫu để noi theo khi ta vào nghề là chuyện bình thường, và chí ít, điều đó cũng chứng tỏ cậu đã đọc những cuốn sách hay.

Ông tiếp tục lật trang để xem lại những ghi chú của mình.

- Có những chi tiết bất ngờ, các đoạn hội thoại thường được viết gọn ghẽ, đôi khi tức cười, và ta không thể nói là chán được…

- Nhưng?

- Nhưng nó thiếu điều cốt yếu.

À vâng, dẫu sao…

- Và điều cốt yếu là gì thế? tôi hỏi, khá phật lòng.

- Theo cậu thì sao?

- Toi không biết. Tính độc đáo? Những ý tưởng mới?

- Không, chúng ta mặc kệ các ý tưởng đi, ở đâu chẳng có ý tưởng.

- Cơ chế của câu chuyện? Hay sự tương hợp giữa một câu chuyện hay và các nhân vật thú vị?

- Cơ chế là một mánh kiểu chủ ga ra. Còn các phương trình là một mánh kiểu nhà toán học. Mấy thứ đó sẽ không biến cậu thành một tiểu thuyết gia giỏi.

- Từ chính xác chăng?

- Từ chính xác hữu dụng trong các cuộc trò chuyên, ông giễu cợt. Nhưng bất kỳ ai cũng có thể làm việc với một cuốn tự điển. Nghĩ mà xem, điều gì thực sự quan trọng nhỉ?

- Điều quan trọng là cuốn sách khiến độc giả hài lòng.

- Đúng thế, độc giả quan trọng. Cậu viết cho độc giả, nhất trí là vậy, nhưng tìm cách làm hài lòng độc giả là cách tốt nhất để họ không đọc cậu.

- Thôi được rồi, vậy thì tôi không biết. Điều cốt yếu là gì vậy?

- Điều cốt yếu là thứ nhựa sống tưới tắm cho câu chuyện của cậu. Thứ nhựa sống phải chiếm hữu cậu và lan khắp cơ thể cậu như một luồng điện. Thứ nhựa sống phải thiêu đốt những huyết quản trong cậu để cậu không thể làm gì khác ngoài đi đến tận cùng cuốn tiểu thuyết như thể cuộc sống của cậu phụ thuộc cả vào đó. Viết chính là vậy. Chính thứ đó sẽ khiến độc giả của cậu cảm thấy bị giam cầm, chìm đắm, và họ sẽ đánh mất những dấu mốc của bản thân để mặc mình bị nhấn chìm như chính cậu từng bị vậy.

Tôi nghiền ngẫm những gì ông vừa nói, rồi đánh liều hỏi một câu:

- Cụ thể thì vấn đề trong cách viết của tôi là gì vậy?

- Nó khô khan quá. Tôi không cảm thấy sự khẩn cấp trong đó, và đặc biệt, nghiêm trọng nhất, đó là tôi không cảm thấy những xúc cảm.

- Thế mà có đấy!

Fawles lắc đầu.

- Những xúc cảm giả dối. Những xúc cảm giả tạo, những xúc cảm tệ hại nhất…

Ông bẻ ngón tay răng rắc rồi làm rõ ý kiến của mình:

- Tiểu thuyết, đó là cảm xúc, không phải trí tuệ. Nhưng để cảm xúc nảy sinh, trước tiên phải trải nghiệm chúng đã. Cậu phải cảm nhận về mặt thể xác những cảm xúc của các nhân vật do mình sáng tạo. Của tất cả những nhân vật do mình sáng tạo: cả những người hùng lẫn những tên khốn.

- Nghề tiểu thuyết gia đích thực là vậy sao? Tạo ra những cảm xúc?

Fawles nhún vai.

- Dẫu sao, đó cũng là điều tôi, chính tôi, mong đợi khi đọc một tiểu thuyết.

- Khi tôi tới xin ông lời khuyên, tại sao ông lại đáp: “Hãy làm nghề gì đó khác chứ đừng muốn trở thành nhà văn”?

Fawles thở dài:

- Bởi vì đó không phải một nghề dành cho những người có đầu óc tỉnh táo. Đó là công việc dành cho những kẻ tâm thần phân lập. Một hoạt động đòi hỏi sự phân ly tâm thần mang tính hủy hoại: để viết, cậu phải cùng lúc ở trong thế giới và ở ngoài thế giới. Cậu hiểu ý tôi không?

- Tôi nghĩ là có.

- Sagan đã tìm ra công thức hoàn hảo: “Nhà văn là một động vật đáng thương, bị nhốt trong chuồng với chính mình.” Khi viết, cậu không sống cùng vợ con hay bạn bè cậu. Hay nói đúng hơn, cậu chỉ vờ như đang sống cùng họ. Cuộc sống đích thực của cậu là sống cùng các nhân vật của mình trong một năm, hai năm, năm năm…

Lúc này, ông đã vào guồng:

- Tiểu thuyết gia không phải công việc bán thời gian. Đã là tiểu thuyết gia, cậu sẽ là tiểu thuyết gia hai tư trên hai tư giờ. Cậu sẽ không bao giờ có kỳ nghỉ. Cậu sẽ luôn cảnh giác, luôn rình chờ một ý tưởng ngang qua, một cụm từ, một nét tính cách có thể góp phần nuôi dưỡng nhân vật nào đó.

Tôi nghe như nuốt lấy từng lời ông nói. Thật tuyệt khi nhìn ông hăng say nói về việc viết lách. Chính là Nathan Fawles mà tôi từng hy vọng được diện kiến khi tới đảo Beaumont.

- Nhưng chuyện đó bõ công mà Nathan, không phải sao?

- Đúng, bõ công, ông đáp theo đà. Và cậu biết tại sao chứ?

Lần này, đúng thế, tôi có cảm giác là mình biết:

- Bởi vì, trong một khoảnh khắc, ta là Chúa Trời.

- Chính xác. Thật ngốc khi nói vậy, nhưng trong một khoảnh khắc, trước màn hình của cậu, cậu trở thành một đấng tạo hóa có thể tạo ra và hủy bỏ những số phận. Và một khi cậu đã biết đến niềm hưng phấn này thì chẳng có gì gợi hứng hơn.

Cá đã cắn câu:

- Vậy thì tại sao lại dừng lại? Tại sao ông lại ngừng viết hả Nathan?

Fawles ngừng nói và khuôn mặt ông đanh lại. Đôi mắt ông không còn ánh lấp lánh. Màu lam ngọc đã trở thành gần như lam thẫm, như thể một họa sĩ vừa pha vào đó vài giọt mực đen.

- Mẹ kiếp…

Ông thấp giọng lẩm bẩm, như thể buột miệng nói ra từ này. Thứ gì đó đã tan tành.

- Tôi ngừng viết bởi vì tôi không còn sức để viết nữa, vậy đó.

- Nhưng trông ông có vẻ vẫn khỏe mạnh mà. Vì thời đó ông mới có ba mươi lăm.

- Tôi đang nói với cậu về sức mạnh tâm lý. Tôi không còn tâm trí hay sự linh hoạt tinh thần cần thiết cho việc viết.

- Vì sao?

- Cái đó là vấn đề của tôi, ông đáp đoạn cất lại bản thảo của tôi vào chiếc cặp táp, khóa cặp kêu lách tách.

Và tôi hiểu rằng lớp thạc sĩ văn chương đã kết thúc, chúng tôi sắp chuyển sang việc khác.

4.

- Được rồi, cậu nhận lời giúp tôi, có hay không nào, mẹ kiếp?

Vẻ nghiêm nghị, Fawles nhìn thẳng vào mắt tôi không rời.

- Ông muốn tôi làm gì?

- Trước tiên, tôi muốn cậu tìm hiểu thông tin về một phụ nữ.

- Ai?

- Một nữ phóng viên người Thụy Sĩ hiện đang có mặt trên đảo. Một cô Mathilde Monney nào đó.

- Tôi thừa biết đó là ai ấy chứ! tôi thốt lên. Nhưng tôi không biết cô ấy là phóng viên. Cuối tuần vừa rồi cô ấy đã tới hiệu sách. Thậm chí cô ấy còn mua mọi cuốn sách ông viết!

Fawles hoàn toàn dửng dưng trước thông tin đó.

- Đúng ra thì ông muốn biết điều gì về cô ấy?

- Tất cả những gì cậu có thể thu thập được: tại sao cô ta ở đây, hằng ngày cô ta làm gì, gặp gỡ ai, cô ta hỏi han mọi người những gì.

- Ông nghĩ cô ấy dạng tìm cách viết một bài báo về ông sao?

Fawles phớt lờ câu hỏi của tôi thêm lần nữa.

- Sau đó, tôi muốn cậu tới nơi ở của cô ta rồi đột nhập vào phòng riêng…

- Để làm gì cô ấy chứ?

- Không làm gì hết, đồ ngớ ngẩn! Cậu vào phòng Mathilde Monney khi cô ta không có mặt ở đó.

- Toàn bộ chuyện này không hợp pháp đâu…

- Nếu chỉ muốn làm những gì được phép, cậu sẽ không bao giờ trở thành một tiểu thuyết gia giỏi. Và sẽ không đời nào trở thành nghệ sĩ. Câu chuyên về nghệ thuật chính là câu chuyện về sự bất tuân thủ.

- Chỗ này ông đang chơi chữ đấy, Nathan.

- Đó là đặc điểm của nhà văn mà.

- Tôi cứ nghĩ ông không còn là nhà văn nữa.

- Một ngày là nhà văn thì mãi mãi là nhà văn.

- Đối với một người được nhận giải Pulitzer thì trích dẫn như vậy là hơi kém, không phải sao?

- Cậu im đi.

- Được thôi, tôi phải tìm thấy thứ gì trong căn phòng đó?

- Tôi không biết chính xác. Ảnh chụp, bài viết, trang thiết bị tin học…

Ông tự rót cho mình một tách cà phê nữa đoạn nuốt một ngụm rồi nhăn mặt.

- Sau đó, tôi muốn cậu lục lạo trên Internet để thu thập tất cả những gì có thể về Mathilde, rồi…

Tôi rút ngay điện thoại di động ra để bắt đầu tìm kiếm, những Fawles ngăn tôi lại:

- Cứ nghe tôi dặn đã! Và đừng mất thời gian: ở đây không có cả wifi lẫn sóng di động.

Tôi lại đặt điện thoại xuống như một học sinh bị bắt quả tang phạm lỗi.

- Tôi cũng muốn cậu tìm hiểu về hai cái tên: Apolline Chapuis và…

Tôi trố mắt ngắt lời ông:

- Người phụ nữ bị sát hại ư?

Fawles nhíu mày.

- Cậu đang huyên thuyên gì vậy?

Nhìn vẻ mặt nhà văn, tôi chợt hiểu ra ông sống đơn độc đến mức sự tồn tại và những tình tiết của tấn thảm kịch đang khuấy động Beaumont từ nhiều ngày qua vẫn chưa hề tới tai ông. Tôi kể lại cho ông nghe tất cả những gì mình biết: vụ sát hại Apolline, cái xác đông lạnh và quá khứ nhúng chàm của cô bên Karim Amrani, lệnh phong tỏa đảo.

Càng tiết lộ thông tin, tôi càng thấy rõ vẻ sững sờ hiển hiện trong mắt và trên khuôn mặt Fawles. Nỗi lo lắng ban đầu mà tôi nhận ra khi đến nhà ông đã nhường chỗ cho sự hốt hoảng tột cùng và niềm kinh sợ rành rành trú ngụ trong con người ông.

Khi tôi nói xong, Fawles loạng choạng. Mất một lúc ông mới hồi phục được, rồi rốt cuộc cũng bình tĩnh trở lại. Sau một hồi do dự, đến lượt ông thổ lộ với tôi các thông tin, câu chuyện mà Mathilde Monney kể cho ông hôm trước: hành trình kỳ lạ của chiếc máy ảnh mà Apolline và Karim đánh mất. Ngay lúc đó, tôi không hiểu gì lắm. Sự dồn tích nhiều sự kiện ngăn cản tôi kết nối chúng lại với nhau. Tôi có nhiều câu hỏi muốn đặt ra cho Fawles nhưng ông không để tôi kịp có thời gian. Vừa kể xong chuyện, ông đã nắm lấy cánh tay tôi rồi tiễn tôi ra cửa phòng.

- Cậu lục soát phòng của Mathilde đi, ngay nhé!

- Ngay thì tôi không thể. Tôi mất việc ở hiệu sách đấy.

- Cậu xoay xở đi! ông hét. Mang thông tin về cho tôi!

Ông đóng sập cửa lại trước mặt tôi. Tôi hiểu tình hình đã trở nên nghiêm trọng và tốt nhất là nên làm theo những gì Fawles yêu cầu.

Chú Thích

(11) Gió bấc thổi từ hướng Tây.

(12) Nhân vật chính trong phim Mặt sẹo của đạo diễn Brian de Palma kể về hành trình của một tên du côn đầu đường xó chợ xuất thân từ một thanh niên Cuba di cư tị nạn nhưng tham vọng đến mức có thể làm mọi việc để kiếm tiền và vươn lên thành ông trùm xã hội đen của Mỹ vào thập niên 1980.

(13) Tiếng Anh trong nguyên bản: công khai thiên hướng tình dục. (thành ngữ đầy đủ là Coming out of the closet).