← Quay lại trang sách

Chương 7 Trưa tím

Hic Sunt Dragones. (Ở đây là những con rồng(14))

1.

Mũi Tây Nam của đảo.

Mathilde Monney đóng sập cửa xe bán tải, nổ máy rồi lái xe vòng lại trên con đường lổn nhổn sỏi. Nhìn từ bên ngoài, căn nhà nơi nữ phóng viên thuê trọ giống với một ngôi nhà nông thôn kiểu Anh. Một căn nhà nhỏ kiểu gỗ trét lợp mái rạ, mặt tiền ốp đá cẩm thạch khuất sau đám hồng leo giăng kín. Đằng sau là một khu vườn hoang trải rộng tới tận một cây cầu hai nhịp cũ nối với bán đảo Sainte-Sophie.

Tôi mới tới bờ biển phía Nam hai lần. Lần đầu tiên để ngắm nhìn tu viện ngay gần đó nơi các nữ tu dòng Benedict sinh sống, và lần thứ hai cùng với Ange Agostini, hôm người ta tìm thấy xác của Apolline gần Bãi Tristana. Khi tôi chân ướt chân ráo tới đảo, Audibert đã giải thích với tôi rằng trên phương diện lịch sử, phần này của Beaumont vốn là địa điểm được cộng đồng nói tiếng Anh đặc biệt ưa thích. Vừa hay, Mathilde thuê trọ tại nhà một bà cụ người Ailen. Từ nhiều năm nay, căn nhà thuộc về Colleen Dunbar, một nữ kiến trúc sư về hưu kiếm thêm bằng việc cho thuê căn phòng ở tầng hai theo mô hình bed & breakfast.

Để tới được đây, tôi bỏ qua xe đạp - vì trước đó đã mệt lử khi từ nhà Fawles quay về - để thuê một chiếc xe máy điện trước Ed’s Corner rồi giấu nó vào một bụi rậm. Tôi đã phải đàm phán nhanh và quyết liệt với Audibert để được rảnh rang trọn buổi sáng. Ông chủ hiệu sách càng lúc càng sợ bóng sợ gió, như thể đang gánh trên vai mọi thống khổ trần gian.

Trong lúc chờ rộng đường hành động, tôi chọn chỗ các vách đá thoai thoải không quá sắc nhọn để leo xuống. Từ vị trí quan sát của mình, tôi có thể tận hưởng vẻ đẹp đáng kinh ngạc của chốn hoang vu này mà không bị khuất tầm nhìn về phía ngôi nhà thôn quê. Hai mươi phút trước, tôi đã thấy bà Dunbar rời nhà. Cô con gái lái ô tô qua đón bà đi mua sắm. Mathilde cũng chuẩn bị rời nhà. Chiếc xe bán tải đi xa dần khỏi khu đất rồi rẽ sang phía Tây, nơi đường sá bằng phẳng và thẳng tắp. Tôi chờ cho cô khuất khỏi tầm nhìn rồi mới rời chỗ nấp, leo qua các mỏm đá rồi tiến về phía ngôi nhà.

Một cú đảo mắt nhanh ra xung quanh khiến tôi an tâm. Không có hàng xóm gần gũi. Tu viện hẳn phải ở cách đây hơn trăm mét. Tôi gắng lắm mới nhìn ra ba bốn nữ tu sĩ đang cặm cụi trong vườn rau, nhưng ngay khi tôi vòng ra đằng sau nhà, họ sẽ không thể nhìn thấy tôi được nữa.

Thành thực mà nói, tôi không thoải mái cho lắm với ý nghĩ mình đang làm điều gì đó bị cấm. Cả đời tôi tình nguyện mắc hội chứng học sinh ngoan. Tôi là con trai một, xuất thân từ tầng lớp trung lưu với cuộc sống lúc nào cũng chỉ tạm đủ. Nhưng bố mẹ tôi lúc nào cũng đầu tư nhiều - thời gian, năng lượng, chút đỉnh tiền mà họ kiếm được - để tôi học hành thành tài và trở thành “người tử tế”. Từ nhỏ, tôi đã nỗ lực để không làm bố mẹ thất vọng và tránh những điều dại dột. Và phương diện hướng đạo sinh này đã trở thành bản chất thứ hai. Tuổi niên thiếu của tôi là một dòng sông dài phẳng lặng. Có lẽ tôi đã châm dăm ba điếu thuốc trong sân chơi năm mười bốn tuổi và phóng xe gắn máy vượt dăm ba cái đèn đỏ, ghi lại vài bộ phim khiêu dâm trên kênh Canal+ và đấm vỡ mũi một gã đã phạm lỗi thô bạo với tôi trong lúc chơi bóng đá, nhưng tất cả gần như chỉ có vậy.

Quãng đời sinh viên của tôi cũng êm ả tương tự. Tôi đã hai lần say bí tỉ, “trấn” chiếc bút lông bằng gỗ cây lan chuông của một sinh viên cùng trường Thương mại và thó một cuốn Georges Simenon thuộc tủ sách Tao Đàn trong hiệu sách L’Oeil Écoute trên đại lộ Montparnasse. Từ đó, hiệu sách đóng cửa và mỗi lần đi ngang qua trước cửa hàng quần áo đã thế chỗ nó, tôi thường tự hỏi liệu mình có liên quan gì đến vụ phá sản này không.

Nghiêm túc hơn, tôi chưa từng hút cần cũng chưa từng động đến bất kỳ thứ ma túy nào - nói đúng ra, tôi thậm chí còn không biết làm cách nào để kiếm mấy thứ đó. Tôi không phải một tay ăn chơi, tôi cần ngủ tám tiếng mỗi đêm và từ hai năm nay ngày nào tôi cũng làm việc, cả cuối tuần và các kỳ nghỉ, hoặc để viết sách, hoặc để làm những công việc mưu sinh trang trải tiền thuê nhà. Trong một cuốn tiểu thuyết, tôi có thế nhập vai cực đạt nhân vật gã thanh niên khờ khạo và đa cảm sắp được cuộc điều tra và những biến cố của nó tôi luyện cho dày dạn.

Vậy nên tôi cố gắng tỏ vẻ ung dung khi tiến về phía lối vào nhà. Tất cả mọi người đều thề với tôi rằng ở Beaumont, chẳng ai khóa cửa bao giờ. Tôi xoay tay nắm nhưng cánh cửa vẫn đóng chặt một cách tuyệt vọng. Thêm một truyền thuyết nữa mà dân đảo hẳn đã kể với du khách hoặc những gã cả tin như tôi. Cũng có thể việc phát hiện xác Apolline cách đây chỉ vài cây số đã khiến nữ phóng viên cảnh giác hơn.

Tôi sẽ phải đột nhập ngôi nhà. Tôi nhìn cánh cửa kính dẫn vào bếp, nhưng chất liệu kính đó có vẻ quá dày để tôi có thể đập vỡ mà không bị thương. Tôi vòng ra sau nhà. Đằng xa, dường như các nữ tu đã rời khỏi vườn rau. Tôi cố gắng động viên bản thân, chỉ cần tìm ra ô kính lỏng lẻo nhất rồi thúc khuỷu tay một cú là đủ để nó vỡ tan. Trên một sân hiên được hoàn thiện vội, bà cụ người Alien đã kê một chiếc bàn thảm hại bằng gỗ tích màu xam xám và ba chiếc ghế tựa mà nắng mưa và muối biển đã bào mòn. Chính ở đó, đằng sau phòng khách mùa hè này, tôi đã có được bất ngờ thú vị khi nhìn thấy một trong những cánh chớp của khung cửa sổ sát đất vẫn đang mở. Quá thuận lợi để có thể là thật chăng?

2.

Tôi lẻn vào phòng khách. Nơi này yên tĩnh và nóng nực. Phảng phất mùi âm ẩm và ngòn ngọt của bánh mứt táo vị quế. Bài trí nội thất khá duyên dáng: một căn phòng xinh xắn xu hướng british với vô số nến, chăn choàng vải Ê cốt, rèm họa tiết hoa, thảm phong cách lãng mạn và đĩa trang trí treo trên tường.

Đang chuẩn bị lên gác thì tôi nghe thấy một tiếng động. Tôi ngoái nhìn để rồi nhận ra một con chó giống dogue Đức đang lao về phía tôi. Nó dừng lại cách tôi chưa đầy một mét, tư thế sẵn sàng tấn công. Đó là một khối cơ bắp khổng lồ với bộ lông sẫm và bóng láng, cao ngang bụng tôi. Hai tai dỏng lên, con chó vừa chằm chằm nhìn tôi bằng ánh mắt hăm dọa vừa gầm gừ nghe rất đáng sợ. Cổ nó đeo một mề đay chạm khắc to đùng trên đó có thể đọc thấy Little Max. Một cái tên hẳn là dễ thương khi con chó được đôi ba tháng, nhưng lúc này dường như không thích hợp lắm nữa. Tôi muốn thoái lui, nhưng làm vậy không ngăn được con chó kia nhảy xổ vào tôi. Tôi chỉ kịp né người rồi chạy bổ lên cầu thang, leo ba bậc một, cảm thấy con chó ngao đang sẵn sàng cắm phập những chiếc răng nanh sắc nhọn vào chân mình, tôi gắng sức lao lên đầu cầu thang, vào căn phòng đầu tiên tôi gặp rồi đóng cửa phòng lại sau lưng, sập cửa trước mũi con chó theo đúng nghĩa đen.

Trong khi con chó lao bổ vào cánh cửa với những tiếng sủa dữ dội, tôi cố thở đều và trấn tĩnh trở lại. May mắn - rốt cuộc cũng là cách nói thôi, bởi dẫu sao tôi cũng suýt mất một chân -, là rõ ràng tôi đang ở trong căn phòng mà Mathilde thuê.

Đó là dạng căn hộ một phòng với hệ thống rầm xà bằng gỗ sáng mầu chạy nổi, bị bóng ma của Laura Ashley(15) ám quẻ. Những bó hoa khô bày trên đồ gỗ gỉ đồng được sơn lại theo các tông màu phấn, các họa tiết đồng nội và điền viên trang trí rèm và khăn phủ giường. Nhưng Mathilde đã biến căn phòng bed & breakfast thành một phòng làm việc kỳ lạ. Một war room dành riêng cho nỗi ám ảnh duy nhất: Nathan Fawles.

Chiếc ghế bành thấp bọc vải nhung màu hồng oằn xuống dưới hàng chồng sách và hồ sơ. Bàn nước bị biến thành bàn làm việc, bàn trang điểm xinh xắn kèm gương bị biến thành kệ để máy in. Trong khi Little Max tiếp tục kích động đằng sau cánh cửa, tôi bắt đầu tra cứu các hồ sơ.

Rõ ràng là Mathilde Monney đang tiến hành một cuộc điều tra đúng nghĩa về Fawles. Trên bàn làm việc của cô không có máy tính, thay vào đó là hàng chục bài báo in được tô bằng bút nhớ dòng. Tôi biết những bài báo này. Đó là những bài báo luôn hiện ra khi ta tiến hành tìm kiếm trên Internet: vẫn những bài phỏng vấn cũ vào thập niên 1990, được thực hiện trước khi Fawles ngừng viết, rồi hai bài viết tham khảo, bài “Người vô hình” trên tờ New York Times năm 2010 và bài “Fawles or False? (và ngược lại)” trên tờ Vanity Fair của Mỹ phát hành cách đây ba năm.

Mathilde cũng đã ghi chú ba cuốn sách của Nathan rồi in ra nhiều bức ảnh chụp nhà văn. Đặc biệt là những bức ảnh chụp màn hình lần gần nhất ông tham gia chương trình của Bernard Pivot, Nước lèo văn hóa. Vì lý do nào đó tôi không rõ, nữ phóng viên đã phóng to những đôi giày mà Fawles mang trong chương trình này. Tôi xem đống giấy tờ của cô chăm chú hơn. Sau khi tham gia những diễn đàn chuyên sâu, Mathilde đã tìm ra mẫu chính xác: bốt Weston mã “Cambre 705” da bê màu hạt dẻ với phần cổ chân co giãn.

Tôi gãi đầu. Toàn bộ chuyện này ăn nhập với cái gì đây? Không phải nữ phóng viên đang viết một bài báo nhảm thứ n về người ở ẩn trên đảo Beaumont. Cuộc điều tra mà cô tiến hành về Fawles giống một cuộc điều của của cảnh sát. Nhưng động cơ của cô là gì nhỉ?

Khi mở những hồ sơ đóng bìa cứng nằm chồng chất trên ghế bành thấp, tôi đã có một khám phá khác: những bức ảnh chụp bằng ống kính tầm xa một người đàn ông đang vận động ở nhiều nơi khác nhau. Một người Maghreb chừng bốn mươi tuổi, mặc áo phông và vest bò. Tôi lập tức nhận ra phong cảnh: tỉnh Essonne, chính xác hơn là thành phố Evry. Không thể nhầm được. Có khá nhiều ảnh để nhận ra. Nhà thờ lớn với kiến trúc gây tranh cãi, trung tâm thương mại Evry 2, công viên Conquibus, bãi trước nhà ga Évry-Courcouronnes. Năm cuối trường Thương mại, tôi từng có cô bạn gái sống tại đó. Joanna Pawlowski. Á khôi hai cuộc thi Hoa khôi Ile-de-France 2014. Khuôn mặt khả ái nhất mà ta có thể hình dung. Đôi mắt to màu lục, màu tóc vàng đặc trưng kiểu Ba Lan, vẻ dịu dàng và duyên dáng trong từng cử chỉ. Tôi thường đưa nàng về nhà sau giờ học. Trong một hành trình dài vô tận - tàu RER D từ ga Bắc về tận Évry -, tôi đã cố gắng cải đạo cho nàng sang tôn giáo đọc của mình, tôi tặng nàng những cuốn tôi yêu thích - Cuốn tiểu thuyết dang dở, Kỵ binh trên mái nhà, Người tình của Lãnh chúa - nhưng chẳng ích gì. Joanna có dáng vóc của nhân vật nữ chính trong tiểu thuyết lãng mạn, nhưng nàng là tất cả ngoại trừ lãng mạn. Tôi mơ mộng, nàng lại thực tế. Tuyệt đối bám chặt lấy thực tế mọi việc, trong khi lãnh thổ của tôi là tình cảm. Nàng đã rời xa tôi đồng thời thôi học để đi làm cho cửa hàng trang sức tại một trung tâm thương mại. Sáu tháng sau, nàng mời tôi tới một quán cà phê để thông báo nàng sắp cưới Jean-Pascal Péchard - tức JPP, - một trong các quản lý gian hàng của đại siêu thị ở cùng trung tâm thương mại. Những bài thơ mà tôi tiếp tục viết cho nàng chẳng mấy trọng lượng khi đặt Cạnh tòa dinh thự ở Savigny-sur-Orge mà JPP mua trả góp trong vòng hai mươi lăm năm. Để vỗ về lòng kiêu hãnh bị tổn thương, tôi từng tự nhủ rằng một ngày kia, nàng sẽ hối tiếc điều này, khi nghe tôi nói về cuốn tiểu thuyết đầu tay của tôi tại Hiệu sách Lớn. Trong lúc chờ đợi, chuyện đó khiến tôi mất tinh thần một thời gian dài. Mỗi lần nghĩ tới Joanna, nhìn ảnh nàng trên điện thoại, phải mất hồi lâu tôi mới chấp nhận được rằng vẻ tinh tế trong các đường nét của nàng chẳng có gì liên quan đến sự tinh tế trong tâm hồn nàng. Vả chăng, tại sao hai cái đó lại kết hợp với nhau được nhỉ? Đó là một lẽ hiển nhiên giả trá mà tôi phải cho bén rễ vào trí não mình để tránh những thất vọng khác.

Tiếng sủa của con chó giống Dogue đằng sau cánh cửa bứt tôi ra khỏi dòng suy tưởng và nhắc tôi nhớ đến tính chất cấp bách của tình huống. Tôi lại miệt mài xem ảnh. Chúng được gắn nhãn thời gian ngày 12 tháng Tám năm 2018. Ai đã chụp chúng nhỉ? Một cảnh sát, một thám tử tư, hay chính Mathilde? Và trên hết, người đàn ông này là ai? Bỗng nhiên, trên một pô ảnh khi có thể thấy rõ ánh mắt gã đàn ông, tôi liến nhận ra hắn: đó là Karim Amrani. Thêm hai mươi năm và ngần ấy kí lô.

Hẳn là sau khi ra tù, gã du côn quèn của đại lộ Chapelle đã chuyển tới sống tại tỉnh Essonne. Trên những tấm ảnh khác, người ta nhìn thấy hắn chuyện trò với các thợ máy, ra vào một ga ra mà hắn có vẻ là chủ hoặc người quản lý. Cả hắn cũng đã tự thu xếp theo gương Apolline chăng? Và đến lượt mạng sống của hắn cũng bị đe dọa? Tôi không có cả thời gian lẫn bằng chứng để trả lời cho những câu hỏi đó. Tôi phân vân không biết có nên mang các hồ sơ này theo không. Để tránh lưu lại dấu vết chuyến ghé thăm của mình, cuối cùng tôi quyết định dùng điện thoại chụp lại những gì quan trọng nhất.

Những câu hỏi tiếp tục chen lấn trong đầu tôi. Tại sao Mathilde lại quan tâm đến Amrani? Dĩ nhiên vì câu chuyện về chiếc máy ảnh kia, nhưng có liên quan gì tới Fawles? Hy vọng khám phá ra điều đó, tôi tiến hành lục soát kỹ càng hơn trong phòng ngủ và phòng tắm. Không có gì dưới nệm, các ngăn kéo hay tủ hốc tường. Tôi nhấc nắp bình xả nước để kiểm tra bên trong rồi gõ chân thăm dò sàn ván: không phải chỗ nào cũng cố định nhưng tôi không tìm thấy tấm gỗ nào có thể tháo ra làm chỗ cất giấu.

Trái lại, sau bồn cầu, một trong các ván ốp chân tường bung ra ngay khi tôi động đến. Không mấy tin tưởng, tôi ngồi xổm rồi thò cánh tay vào khe hở và phát hiện trong độ một gói dày cộp những thư từ được buộc lại bằng dây chun. Đúng lúc định xem xét chúng thì tôi nghe thấy tiếng động cơ. Little Max ngừng sủa ở cửa phòng để lao xuống chân cầu thang. Tôi liếc qua rèm. Colleen Dunbar cùng con gái đã quay về. Gấp quá, tối gập tệp thư lại rồi nhét vào túi trong áo khoác ngắn, tôi chờ cho hai người phụ nữ đó khuất khỏi tầm nhìn rồi mở cửa sổ cánh trập trông ra mái của một nhà kho. Từ đó, tôi nhảy xuống bãi cỏ rồi chân run run chạy băng qua đường để lấy lại chiếc xe gắn máy.

Đang nổ máy xe thì tôi bỗng nghe đằng sau có tiếng sủa. Con chó giống Dogue Đức vừa lao tới đuổi theo tôi. Chiếc xe máy điện lết đi vài mét đầu, khó nhọc tăng lên tốc độ bốn mươi ki lô mét giờ, nhưng vừa đúng lúc một sườn dốc đã giúp nó tăng tốc và cho phép tôi giơ ngón tay thối với con chó khi tôi nhìn thấy nó bỏ cuộc, cúp đuôi chạy về nhà.

Fuck you, Little Max…

3.

Mặt trời nóng như hun đã lên cao trên bầu trời, như thể mùa hè ghé qua lần nữa. Gió đã ấm lên và suy yếu dần. Mặc quần soóc vải toan và áo phông Blondie, Mathilde thoăn thoắt nhảy trên các mỏm đá.

Vũng bờ đá Rặng Thông là một trong những địa điểm ngoạn mục nhất đảo. Một thung lũng nhỏ, hẹp và sâu lọt thỏm giữa một khối nham thạch trắng lóa.

Muốn tiến vào đó đòi hỏi vài nỗ lực nhưng hoàn toàn xứng đáng. Mathilde đỗ ô tô trên bãi bồi ven bờ Những Ngọn Sóng, rồi men theo con đường mòn được đào sâu trong đá hoa cương như một mê cung. Cô cuốc bộ mất hơn một giờ mới quay về tới vũng. Thoạt tiên có vẻ bằng phẳng, con đường dần gập ghềnh hơn dọc theo một bãi biển dốc đứng cheo leo và vô cùng nổi bật, tạo nên quang cảnh vừa hoang vu vừa tuyệt diệu.

Rồi đến đoạn dốc xuống biển - một chốn nguy hiểm thực sự. Những mét cuối cùng là khó khăn nhất bởi chúng dốc đứng, nhưng thực sự bõ công sức bỏ ra. Khi đến bãi biển, ta có cảm giác mình đang ở cuối thế giới, cũng chính là thiên đường đã mất: làn nước ngọc lam, các hoàng thổ, bóng thông và hương khuynh diệp ngất ngây. Thậm chí cách đó không xa còn có cả những hang động, nhưng cấm tiết lộ chuyện này với du khách.

Bãi biển hình bán nguyệt, kín gió nhờ những vách đá hoa cương che chắn và không quá rộng. Vào tháng Bảy và tháng Tám, đôi khi có thể cảm thấy ở đó chật chội vì mọi người đổ dồn đến, nhưng vào một buổi sáng tháng Mười như hôm nay thì nơi này vắng tanh.

Đối diện vũng, cách chừng năm mươi mét, nhô lên một hòn đảo nhỏ xíu, một mỏm núi chĩa thẳng lên trời mang tên Mũi Mỏm Đá. Vào đúng mùa, các thiếu niên bạo gan thường chơi đùa bằng cách chân trần leo lên đó trước khi lao xuống biển. Một trong những nghi lễ nhập môn của đảo.

Mathilde đang nhìn chằm chằm chân trời qua cặp kính râm. Fawles đã buông neo chiếc tàu của ông ngay cạnh mỏm núi đá kia. Những bộ phận bằng thép crôm và phần vỏ bằng gỗ gụ bóng loáng của con tàu Riva chói sáng dưới ánh nắng ban chiều, chẳng cần gì nhiều ta đã ngỡ mình đang ở Ý thời cuộc sống tươi đẹp, hay trong một rạp xiếc tại một vịnh nhỏ của Saint-Tropez vào thập niên sáu mươi.

Cô ra hiệu cho ông từ xa, nhưng trông ông có vẻ không sẵn sàng ghé sát lại để đón cô lên tàu.

Nếu anh không tới Lagardère…

Nói cho cùng, cô đang mặc đồ tắm trên người kia mà. Cô cởi quần soóc và áo phông, cất vào túi xách đang chèn dưới chân mấy phiến đá để chỉ mang theo chiếc túi nhỏ chống nước bên trong có chiếc điện thoại di động.

Nước lạnh, nhưng trong vắt. Cô tiến ra biển đôi ba mét rồi lặn xuống mà không thắc mắc gì nhiều. Một con sóng lạnh băng lan khắp người cô, giảm dần theo từng động tác bơi sải. Tàu Riva đã ở trong tầm nhìn của người phụ nữ trẻ. Mặc áo polo màu xanh biển và quần âu sáng màu, Fawles khoanh tay đứng bên bánh lái nhìn cô tiến lại gần. Khuất sau cặp kính râm, nét mặt ông thật khó giải mã. Khi Mathilde chỉ còn cách tàu vài dòng chảy, ông chìa tay cho cô, nhưng dường như lưỡng lự một thoáng trước khi giúp cô leo lên tàu.

- Có lúc tôi cứ ngỡ ông sắp tìm cách dìm tôi chết đuối kia đấy.

- Có lẽ tôi nên làm vậy, ông nói đoạn đưa cô một chiếc khăn tắm.

Cô ra ngồi trên băng ghế yên ngựa bọc da màu xanh lam ngọc - màu của loại đá Aquamarine trứ danh có trong hệ thống khớp màu Pantone, được lấy đặt tên cho con tàu.

- Tiếp đón hay ra trò! cô thốt lên trong lúc lau khô tóc, cổ và hai cánh tay.

Fawles đến chỗ cô.

- Cuộc gặp này thực chẳng có gì khôn ngoan cho lắm. Tôi đã buộc phải dong tàu của mình ra bất chấp lệnh phong tỏa.

Mathilde khoát tay.

- Ông tới đây là vì tò mò với câu chuyện của tôi! Sự thật nào chẳng có giá của nó!

Mặt Fawles ủ rũ như đưa đám.

- Toàn bộ chuyện này khiến cô thấy vui sao? ông hỏi.

- Tốt thôi, ông muốn nghe phần tiếp theo hay không nào?

- Cô nghĩ tôi sắp van xin cô chắc! Cô muốn được kể câu chuyện đó cho tôi nghe hơn là tôi muốn nghe đấy.

- Được lắm. Ông muốn sao cũng được.

Cô làm ra vẻ sắp nhào xuống nước, nhưng ông cầm tay cô giữ lại.

- Thôi mấy trò trẻ con của cô đi! Nói cho tôi biết trên mớ ảnh trong chiếc máy ảnh kia có gì.

Mathilde chộp lấy dây đeo chiếc túi chống nước mà cô vừa đặt trên ghế. Cô bật điện thoại, mở ứng dụng Ảnh rồi đẩy độ sáng lên tối đa trước khi cho Fawles xem những bức ảnh mà cô đã chọn lọc.

- Đây, đây là những bức ảnh được chụp sau cùng, vào tháng Bảy năm 2000.

Fawles vuốt màn hình để xem. Đó chính xác là những gì ông dự kiến. Những bức ảnh chụp kỳ nghỉ tại Hawaiii của hai kẻ đồng phạm đã đánh mất chiếc máy ảnh: Apolline và Karim tới bãi biển, Apolline và Karim ân ái mặn nồng, Apolline và Karim say khướt, Apolline và Karim lặn biển.

Mathilde cho ông xem tiếp những bức ảnh cũ hơn: chúng được chụp từ một tháng trước đó. Fawles xem lướt qua và như nhận một cú đấm móc vào bụng. Trên ảnh là một gia đình ba người đang ăn mừng sinh nhật. Một người đàn ông, một người phụ nữ và đứa con trai chừng mười tuổi. Bấy giờ là mùa xuân, họ dùng bữa tối trên sân hiên. Màn đêm chẳng mấy chốc sẽ buông, nhưng bầu trời vẫn còn ráng hồng. Phía sau là rặng cây to, rồi người ta nhận ra những nóc nhà Paris và thậm chí cả bóng dáng tháp Eiffel.

- Ông nhìn kỹ cậu bé con nhé, Mathilde yêu cầu bằng giọng căng thẳng đoạn chọn một bức ảnh chụp cận cảnh.

Che màn hình khỏi ánh mặt trời, Fawles dừng mắt ở cậu bé. Gương mặt tinh nghịch, đôi mắt sáng đằng sau cặp kính gọng đỏ, mái tóc vàng bù xù, hai bên má tô hình cờ tam tài rực rỡ. Cậu mặc áo thun màu xanh của đội tuyển bóng đá Pháp và ngón tay giơ lên tạo thành chữ V chiến thắng. Cậu có vẻ ngoan, dễ mến và thích pha trò.

- Ông có biết tên cậu bé không? cô hỏi.

Fawles lắc đầu.

- Cậu bé tên Théo, cô nói. Théo Verneuil. Tôi hôm đó câu bé mừng sinh nhật thứ mười một. Hôm đó là Chủ nhật ngày 11 tháng Sáu năm 2000, buổi tối diễn ra trận đấu đầu tiên của đội tuyển Pháp tại giải vô địch bóng đá châu Âu.

- Tại sao cô lại đưa tôi xem bức ảnh này?

- Ông có biết cậu bé đã gặp phải chuyện gì không? Ngay tối hôm đó, khoảng ba giờ sau khi bức ảnh này được chụp, Théo đã bị sát hại bởi một viên đạn bắn vào lưng.

4.

Fawles vẫn thản nhiên. Ông vuốt màn hình để xem chăm chú hơn những bức ảnh chụp bố mẹ cậu bé. Bố cậu, chừng bốn mươi tuổi, mắt sáng, da rám nắng, hàm bạnh, thể hiện một vẻ tự tin nhất định, một nỗi khát khao muốn đi trước, hành động trước. Người mẹ, một phụ nữ xinh đẹp với mái tóc búi cầu kỳ, có vẻ kín đáo hơn.

- Ông có biết ai đây không? Mathilde hỏi.

- Có, đây là gia đình Verneuil. Thời đó người ta nói khá nhiều đến vụ này nên tôi vẫn nhớ.

- Và chính xác thì ông vẫn nhớ về cái gì vậy?

Mắt nheo lại, Fawles dùng mu bàn tay gãi khẽ bộ râu chớm mọc.

- Alexandre Verneuil là một nhân vật có tiếng trong lĩnh vực y học nhân đạo thân tả. Ông ta thuộc làn sóng thứ hai của french doctors. Verneuil từng viết vài cuốn sách và thi thoảng xuất hiện trên các phương tiện truyền thông để bàn về đạo đức sinh học và can thiệp nhân đạo. Trong ký ức của tôi, đúng vào thời điểm công chúng bắt đầu thực sự biết đến Verneuil thì ông ta bị sát hại tại nhà riêng cùng vợ và con trai.

- Vợ ông ta tên là Sofia, Mathilde nói rõ.

- Cái đó thì tôi không nhớ, ông nói đoạn rời xa khỏi băng ghế. Nhưng tôi còn nhớ rất rõ rằng mọi người đặc biệt thấy sốc với những tình tiết của loạt án mạng này. Tên sát nhân - hoặc có lẽ là những tên sát nhân - đã đột nhập vào căn hộ của gia đình Verneuil rồi giết hại cả nhà họ, và cuộc điều tra diễn ra sau đó không bao giờ xác định được cả động cơ lẫn danh tính kẻ thủ ác.

- Về động cơ, người ta vẫn luôn nghĩ rằng đây là một vụ trộm cướp, Mathilde chữa lại trong lúc tiến về phía mũi tàu. Những chiếc đồng hồ có giá trị và trang sức đã biến mất, cùng với đó là… một chiếc máy ảnh.

Fawles bắt đầu hiểu ra.

- Vậy ra đây là giả thiết của cô: cô nghĩ đã tìm ra những kẻ giết hại gia đình Verneuil nhờ những bức ảnh này ư? Cô nghĩ Chapuis và Amrani đã giết cả gia đình Verneuil chỉ để cướp của sao? Rằng chúng đã giết một cậu nhóc chỉ vì mấy món đồ rẻ tiền?

- Hợp lý đấy chứ, không phải sao? Tối cùng ngày, ở ngay tầng trên của tòa nhà đó đã xảy ra một vụ trộm khác. Vụ thứ hai có thể đã chuyển biến xấu.

Fawles phát cáu.

- Hôm nay cô và tôi sẽ không tiến hành điều tra lại đâu nhé!

- Tại sao lại không nhỉ? Thời điểm ấy, Apolline và Karim đã có cả loạt tiền án về tội trộm cắp. Hắn ta thì nghiện lòi.

Lúc nào bọn chúng chẳng cần tiền mặt.

- Nhìn các bức ảnh ở Hawaii, tôi không có cảm giác hắn mắc nghiện.

- Làm cách nào chúng có thể lấy được chiếc máy ảnh nếu không ra tay ăn trộm?

- Nghe này, tôi không quan tâm vụ đó và chẳng thấy nó liên quan đến tôi ở điểm nào.

- Apolline vừa bị đóng đinh trên một thân cây cách đây chỉ vài sải cáp! Ông không thấy vụ Verneuil đang trỗi dậy ngay tại đây, trên hòn đảo này sao?

- Và cô trông đợi gì ở tôi?

- Trông đợi ông viết đoạn cuối cho câu chuyện này.

Fawles không kìm nổi cơn phẫn nộ:

- Giải thích cho tôi đi! Cô hào hứng xới lại vụ án cũ này để làm gì? Tất cả chỉ vì một gã nhà quê ở Alabama gửi qua mail cho cô những bức ảnh cũ, và cô bỗng cảm thấy mình được giao một sứ mệnh chăng?

- Nhất định rồi! Bởi vì tôi yêu mọi người mà.

Ông dài giọng nhại lại cô:

- “Tôi yêu mọi người.” Vớ va vớ vẩn! Cô có nghe thấy mình nói gì không đấy?

Mathilde phản công:

- Ý tôi là tôi không dửng dưng với số phận đồng loại.

Fawles bắt đầu đi đi lại lại trên tàu.

- Nhưng trong trường hợp này, thà cô viết những bài báo để cảnh báo “đồng loại” của cô về biến đổi khí hậu, đại dương cạn kiệt, động vật hoang dã tuyệt chủng hay đa dạng sinh học suy thoái còn hơn. Hãy giúp họ đề cao cảnh giác chống lại vấn nạn thao túng thông tin. Hãy trình bầy lại bối cảnh, khoảng cách, hãy đưa thêm viễn cảnh vào. Hãy thực hiện những chủ đề về trường học và bệnh viện công đang đứng trước nguy cơ giải thể, về chủ nghĩa đế quốc trong những tập đoàn đa quốc gia lớn, về hiện trạng các nhà tù và…

- Được rồi, Fawles, tôi nắm bắt được ý tưởng rồi. Cảm ơn vì bài học về nghề làm báo.

- Hãy làm việc về những việc hữu ích, chứ sao nữa!

- Trả lại công bằng cho những người đã khuất cũng là hữu ích.

Ông dừng khựng lại rồi trỏ ngón tay vào cô vẻ hăm dọa.

- Người chết đã chết rồi. Và từ nơi họ đang ở, họ cóc cần những bài viết tầm thường của cô, tin tôi đi. Về phần mình, tôi sẽ KHÔNG BAO GIỜ viết một dòng nào về vụ này. Và cũng không viết về bất kỳ vụ nào khác.

Fawles bực tức bỏ ra ngồi trước bánh lái. Ông mải miết ngắm đường chân trời qua tấm kính chắn gió CinémaScope, như thể chính ông cũng tha thiết mong được ở cách nơi mình đang đứng vài nghìn ki lô mét.

Mathilde vẫn kiên trì theo đuổi mục đích bằng cách đưa điện thoại ra trước mắt ông, với bức ảnh chụp Théo Verneuil trên màn hình.

- Tìm ra các thủ phạm giết hại ba người trong đó có một trẻ em, điều này khiến ông dửng dưng sao?

- Đúng thế, bởi vì tôi đâu phải cảnh sát! Cô muốn mở lại một cuộc điều tra cách đây gần hai chục năm ư? Nhưng nhân danh cái gì nào? Theo tôi được biết, cô cũng đâu phải thẩm phán?

Ông vơ đũa lòng bàn tay vỗ vỗ lên trán.

- À có chứ, tôi quên mất, cô là phóng viên. Thế thì còn tệ hơn!

Mathilde bỏ qua đòn tấn công.

- Tôi muốn ông giúp tôi tháo gỡ câu chuyện này.

- Tôi ghét các phương pháp thảm hại của cô và tất cả những gì cô thể hiện. Trong khi tôi đang lâm vào hoàn cảnh dễ tổn thương, cô đã bắt cóc chó của tôi để tiếp cận tôi. Cô sẽ phải trả giá về chuyện đó, tôi hận những người như cô.

- Cái đó thì có vẻ tôi hiểu rồi. Vả lại hãy ngừng một chút với con chó của ông đi! Tôi đang nói với ông về một đứa trẻ. Nếu đứa trẻ này là con ông, ông sẽ muốn biết ai đã giết nó đấy.

- Lập luận ngu ngốc. Tôi làm gì có con.

- Đúng vậy, dĩ nhiên rồi, ông có yêu ai đâu! À có chứ, ông yêu các nhân vật của ông, những tạo vật giấy tầm thường tòi thẳng ra từ tâm trí ông. Như vậy thoải mái hơn nhiều.

Cô vỗ trán.

- À mà không! Thậm chí là không nhé! Bởi vì Quý Ngài nhà văn vĩ đại đã quyết định không viết nữa. Thậm chí một danh sách đồ cần mua cũng không, đúng không nhỉ?

- Xéo đi, con nhỏ ngu ngốc. Cút!

Mathilde không nhúc nhích một phân.

- Chúng ta không làm cùng nghề, Fawles ạ. Nghề của tôi, đó là làm sự thật bùng nổ. Ông không biết tôi đâu. Tôi sẽ làm được. Tôi sẽ đi đến cùng.

- Cứ việc làm những gì cô muốn, tôi kệ xác, nhưng đừng bao giờ quay lại lân la quanh nhà tôi nữa.

Đến lượt cô trỏ ngón tay vào ông vẻ hăm dọa;

- Ồ có đấy, tôi sẽ trở lại, tôi hứa với ông. Tôi sẽ trở lại và lần tới, ông sẽ buộc phải giúp tôi đặt dấu chấm hết cho câu chuyện này. Buộc phải đối diện với… ông đã nói thế nào ấy nhỉ? À phải rồi, sự thật khó nói của ông.

Lần này, cơn giận trong Fawles bùng lên, ông nhảy xổ tới chỗ Mathilde. Con tàu tròng trành và cô gái thốt kêu một tiếng. Vận toàn bộ sức lực, Fawles nhấc bổng Mathilde Monney lên rồi quẳng cô cùng chiếc điện thoại di động của cô xuống biển.

Ông giận dữ nổ máy tàu Riva rồi nhằm thẳng hướng Nam Thập Tự.

Chú Thích

(14) Thành ngữ Latin được sử dụng trong môn bản đồ học thời Trung đại để chỉ những vùng đất xa lạ hoặc hiểm nguy. (Chú thích của tác giả.)

(15) Công ty thiết kể thời trang và nội thất nồi tiếng thể giới, thành lập năm 19 tại Anh.