Chương 9 Cái chết của người thân chúng ta
Những vết thương của cuộc sống không thể chữa lành, ta không ngừng mô tả chúng với hy vọng có thể xây dựng nên một câu chuyện thực sự thâu tóm được chúng. Elena FERRANTE
Thứ Năm ngày 11 tháng Mười năm 2018
1.Bây giờ là 6 giờ sáng. Ngày còn chưa rạng, nhưng tôi vẫn mở rộng cửa hiệu sách để không khí trong lành tràn vào bên trong. Tôi xem thử chiếc hộp bằng sắt cũ thường đựng cà phê xay gần bàn viết. Nó rỗng không. Phải nói rằng tôi đã uống chừng chục tách suốt buổi đêm làm việc chăm chỉ. Chiếc máy in cũ kỹ của Audibert cũng sắp ngừng hoạt động đến nơi. Tôi đã sử dụng ống mực cuối cùng trong kho dự trữ để lưu dấu bằng văn bản những khám phá quan trọng nhất của bản thân. Rồi tôi ghim các tài liệu và ảnh chụp lên tấm bảng gỗ bần khổ lớn của cửa hiệu.
Cả đêm, tôi lang thang từ trang web này sang trang web khác để tìm kiếm thông tin về vụ sát hại gia đình Verneuil. Tôi đã tra cứu tài liệu lưu trữ trực tuyến của các tờ báo lớn tải vài cuốn sách kỹ thuật số và nghe những trích đoạn của khoảng chục file âm thanh. Ta nhanh chóng nhiễm vi rút của vụ Verneuil bởi câu chuyện vừa bi thảm vừa lý thú. Thoạt tiên, tôi cứ ngỡ có thể nhanh chóng tạo cho mình niềm tin riêng, nhưng sau một đêm ngâm cứu, tôi vẫn hoang mang như trước. Nhiều thứ khiến sự việc trở nên rối loạn. Một trong số đó là người ta chưa bao giờ xác định được một hay các hung thủ sát hại gia đình Verneuil. Tuy nhiên, vụ án không phải một lãnh án tỉnh lẻ khó hiểu hồi thập niên 1970, mà là một vụ tàn sát đúng nghĩa diễn ra ngay tại nội thành Paris, đúng thời điểm bước sang thế kỷ XXI. Một cuộc thảm sát liên quan đến gia đình một nhân vật của công chúng và cuộc điều tra được tiến hành bởi lực lượng tinh nhuệ của cảnh sát Pháp, chúng ta gần với Tarantino(18) hơn là Claude Chabrol(19).
Tôi đã làm phép tính: thời điểm diễn ra sự việc, tôi mới lên sáu, vậy nên chẳng có chút ký ức nào về việc theo dõi vụ án trên các kênh tin tức. Nhưng sau đó, chắc chắn tôi đã mơ hồ nghe nhắc tới, có lẽ là trong thời đi học hoặc chắc chắn hơn là trong một số của Hãy khiến bị cáo xuất đầu lộ diện hoặc Giờ tội ác.
Sinh năm 1954 tại Arcueil rồi trở thành bác sĩ chuyên ngành phẫu thuật ổ bụng, Alexandre Verneuil bắt đầu phát triển ý thức chính trị tại trường trung học, quãng thời gian tiếp sau chuỗi sự kiện tháng Năm năm 68, trước khi kết thân với những thanh niên ủng hộ Rocard(20) rồi gia nhập đảng Xã hội. Tốt nghiệp đại học, ông làm việc tại Salpêtrière rồi bệnh viện Cochin. Cuộc dấn thân chính trị đã biến thành cuộc dấn thân nhân đạo. Hành trình của ông giống với hành trình của nhiều nhân vật thời bấy giờ, những người đã tiến đến điểm gặp gỡ giữa xã hội dân sự, sự nghiệp nhân đạo và giới chính trị. Đồng hành cùng Bác sĩ thế giới hay Chữ thập Đỏ Pháp, có thể gặp Alexandre Verneuil ở phần lớn những nơi xảy ra chiến tranh vào thập niên 1980 và 1990: Etiopia, Afghanistan, Somali, Ruanda, Bosnia… Sau chiến thắng của phe Xã hội trong các cuộc bầu cử lập pháp năm 1997, ông được bổ nhiệm làm cố vấn y tế tại văn phòng Quốc vụ khanh chuyên trách Hợp tác, nhưng chỉ giữ chức này vài tháng, vì thích quay trở lại thực địa hơn, đặc biệt là Kosovo. Về Pháp vào cuối năm 1999, ông trở thành hiệu trưởng trường phẫu thuật của Cơ sở Y tế Hỗ trợ Cộng đồng tại Paris AP-HP. Song song với các hoạt động y khoa, ông còn viết nhiều cuốn sách có tiếng nghiêm túc về các đề tài như đạo đức sinh học, quyền can thiệp và loại trừ xã hội. Là nhân vật được kính nể trong lĩnh vực nhân đạo, Verneuil cũng là một trong những khách mời hết sức hữu hảo của các phương tiện truyền thông vốn mê mẩn tài hùng biện và tính cách không ngại xông pha của ông.
2.Thảm kịch xảy đến vào tối 11 tháng Sáu năm 2000, ngày diễn ra trận đấu đầu tiên của đội tuyển bóng đá Pháp trong khuôn khổ giải vô địch châu Âu. Tối hôm đó, Verneuil cùng vợ mình là Sofia - một bác sĩ phẫu thuật kiêm nha sĩ có phòng khám nằm trên phố Rocher, một trong những phòng khám ăn nên làm ra nhất Paris - đang ăn mừng sinh nhật mười một tuổi của Théo, con trai họ. Cả gia đình sống trong một căn hộ xinh xắn thuộc quận XVI, đại lộ Beauséjour, trên tầng ba một tòa nhà xây từ thập niên 1930 có tầm nhìn đẹp trông ra tháp Eiffel và vườn Ranelagh. Những bức ảnh chụp cậu nhóc mà tôi nhìn thấy trên Internet lập tức khiến tối bấn loạn, bởi nó nhắc tôi nhớ tới mình ở tầm tuổi cậu: vẻ mặt hân hoan, răng cửa thưa, mái tóc vàng nhạt bù xù và cặp kính mắt tròn có gọng sặc sỡ.
Mười tám năm sau, chuỗi sự kiện vẫn còn là đề tài gây tranh cãi. Người ta đã chắc chắn được những gì? Người ta chắc chắn được rằng khoảng 12h 15 phút đêm, cảnh sát thuộc đội phòng chống tội phạm (BAC 75 N) đã tới nhà Verneuil sau khi nhận được cuộc gọi của một người hàng xóm ở tòa nhà nằm giữa. Cửa căn hộ mở toang. Ngay gần lối vào là xác Alexandre Verneuil sõng soài trên sàn nhà, khuôn mặt gần như bị thổi bay bởi một phát đạn ở cự ly gần. Vợ ông, Sofia, bị bắn hạ hơi xa hơn một chút, tại ngưỡng cửa bếp, bằng một phát đạn trúng tim. Về phần nhóc Théo, cậu bị giết chết bằng một phát đạn trúng lưng và ngã gục trong hành lang. Một cảnh tượng ghê rợn thuần chất.
Cuộc tàn sát diễn ra vào lúc mấy giờ? Hẳn là vào khoảng 23h45. Lúc 23h30, Alexandre đã gọi điện thoại cho bố mình để tổng kết trận túc cầu (đội tuyển Pháp thế hệ Zidane tháng 3-0 trước Đan Mạch). Ông gác máy lúc 23h38. Cuộc gọi báo tin của người hàng xóm diễn ra hai mươi phút sau. Người này thú thật đã báo cho cảnh sát hơi chậm trễ bởi bối cảnh hội hè ăn mừng trận đấu có lẽ đã khiến ông nhầm mấy tiếng súng với tiếng pháo.
Cuộc điều tra được tiến hành hết sức cẩn thận. Alexandre là con trai của Patrice Verneuil, một “cảnh sát kỳ cựu” xưa kia từng nắm quyền đồng lãnh đạo Cảnh sát Tư pháp Paris và thời đó vẫn còn là viên chức cấp cao ở Bộ Nội vụ. Cuộc điều tra không đưa đến kết quả nào đáng kể. Nó chứng minh rằng một vụ trộm đã diễn ra cùng đêm đó tại tầng bốn, cũng là tầng trên cùng tòa nhà, nhà mấy người hưu trí đang ở miền Nam nước Pháp vào thời điểm xảy ra vụ việc. Nó cũng ghi nhận sự biến mất của những món nữ trang thuộc về Sofia Verneuil và bộ sưu tập đồng hồ đeo tay của chồng bà (thành viên tích cực của nhóm “Rolex cánh tả”, vị bác sĩ sở hữu những chiếc đồng hồ giá trị lớn, trong đó có một mẫu Panda “Paul Newman” giá trị ước tính hơn 500.000 franc).
Lối vào tòa nhà được trang bị một camera giám sát, nhưng việc khai thác nó là không thể, bởi ống kính máy quay đã bị di chuyển, chỉ còn ghi hình bức tường đại sảnh, nhưng người ta không biết chắc liệu việc này là cố tình hay ngẫu nhiên - cũng không biết liệu chuyện này mới diễn ra trước đó vài giờ hay đã nhiều ngày. Khoa đường đạn đã xác định vũ khí được sử dụng trong vụ tàn sát: một khẩu súng săn nòng rãnh bắn đạn cỡ 12 (loại thông dụng nhất), nhưng không tìm ra vũ khí. Phân tích vỏ đạn cũng không cho phép gắn chúng với bất kỳ vũ khí nào từng được lưu hồ sơ trong một vụ án khác.
Tương tự với các mẫu ADN, chúng thuộc về gia đình hoặc không tương ứng với bất kỳ hồ sơ nào được lưu trong cơ sở dữ liệu. Và tất cả chỉ có thế. Hay gần như thế.
Trong lúc tra cứu những tài liệu này, tôi ý thức rằng mình là một trong số những người đầu tiên có thể quay trở lại vụ việc bằng cách nối kết vai trò tiềm tàng của Apolline Chapuis và Karim Amrani. Từ đó, một kịch bản không tránh khỏi được viết nên bằng mực đen: trước tiên hai kẻ du đãng khoắng sạch căn hộ vắng chủ của những người hưu trí trên tầng bốn rồi ghé thăm căn hộ tầng dưới. Có lẽ chúng nghĩ cả gia đình đi vắng. Nhưng Verneuil đã bắt quả tang chúng. Hoảng sợ, Karim hoặc Apolline đã nổ súng - một cái xác, hai cái xác, ba cái xác - trước khi vơ vét đồng hồ đeo tay, nữ trang và máy ảnh.
Giả thiết khá vững. Tất cả các bài báo mà tôi từng đọc về cặp đôi “Bonnie and Clyde phố Stalingrad” đều chỉ ra rằng Karim vốn hung bạo. Hắn đã không ngần ngại nã súng vào viên quản lý quán bar PMU, bằng một khẩu súng báo hiệu, dĩ nhiên, nhưng dẫu sao người đàn ông tội nghiệp ấy cũng bị hỏng một bên mắt.
Tôi vươn người trên ghế rồi ngáp dài. Trước khi đi tắm, tôi còn một file âm thanh nữa phải nghe: Những vụ án nhạy cảm, một chương trình được phát sóng trên kênh France Inter, đã dành hẳn một số cho vụ Verneuil. Tôi thử cho phát chương trình trên máy tính, nhưng đầu đọc ngừng hoạt động.
Mẹ kiếp, Internet lại giở trò rồi…
Đó là một vấn đề thường gặp trong ngôi nhà này. Thông thường phải lên gác rồi khởi động lại modem. Vấn đế là bây giờ mới 6 giờ sáng và tôi không muốn đánh thức Audibert. Tuy nhiên tôi vẫn quyết định liều một phen nên rón rén leo cầu thang. Ông chủ hiệu sách đang ngủ, cửa phòng hé mở. Bên phòng khách, tôi bật đèn pin điện thoại rồi cố hết sức lách người mà không gây chút tiếng nào, đến tận chỗ tủ buýp phê nơi đặt modem mạng. Tôi tắt thiết bị đi rồi bật lại, rồi thoái lui, cố không để sàn gỗ kêu cọt kẹt.
Một cơn rùng mình lướt qua. Tôi từng vào đây nhiều lần rồi nhưng lạ lùng thay, trong cảnh tranh tối trang sáng này, căn phòng lại hiện ra trước mắt tôi đầy mới mẻ. Tôi chĩa đèn pin lên các tầng giá sách. Bên cạnh những tập Tao Đàn và những cuốn sách đóng gáy kiểu Bonet-Prassinos còn có nhiều khung ảnh bằng gỗ. Trực giác? Bản năng? Hay hiếu kỳ? Tôi lại gần ngắm những bức ảnh gia đình, ở hàng đầu tiên là những bức ảnh chụp Audibert cùng vợ là Anita, ngay từ cuộc trò chuyên đầu tiên giữa hai chúng tôi ông đã kể rằng bà qua đời cách đây hai năm vì ung thư. Có thể nhìn thấy cặp vợ chồng này qua từng độ tuổi khác nhau. Đám cưới giữa thập niên 1960, rồi hết sức nhanh chóng, một em bé được bế trên tay biến thành cô bé thiếu niên hờn dỗi trong một bức ảnh khác. Đầu thập niên 1980; cặp vợ chồng tươi cười tạo dáng bên chiếc Citroen BX; một chuyến du lịch tới Hy Lạp mười năm sau, một tấm khác chụp tại New York trước khi tòa tháp đôi sụp đổ. Những tháng ngày hạnh phúc mà ta chỉ thấu hiểu giá trị một khi chúng biến mất. Nhưng hai khung ảnh cuối cùng khiến máu tôi như đông đặc lại. Hai bức ảnh gia đình trên đó tôi nhận ra những gương mặt khác.
Gương mặt của Alexandre, Sofia và Théo Verneuil. Và gương mặt của Mathilde Monney.
3.Tiếng chuông điện thoại kéo Nathan Fawles ra khỏi giấc ngủ trằn trọc và ngắt quãng. Ông đã ngủ thiếp đi trên ghế bành, Bronco nằm cạnh chân. Nhà văn ngáp dài, khó nhọc đứng lên rồi lê bước tới chỗ điện thoại.
- Vâng?
Giọng ông lào khào như thể các dây thanh quản đã han gỉ trong đêm. Cổ ông tê bại, cứng đờ, khiến ông có cảm giác cử động nhỏ nhất sẽ khiến khung xương rít lên kèn kẹt.
Là Sabina Benoit, cựu quản lý thư viện số của Nhà thiếu niên.
- Nathan này, tôi biết vẫn còn sớm, nhưng vì ông đã yêu cầu tôi gọi điện ngay khi có thông tin…
- Bà làm tốt lắm, Fawles đáp.
- Tôi đã có được danh sách học sinh tham dự buổi nói chuyên của ông. Trên thực tế, ông đã đến trình bày tham luận hai lần, một vào ngày 20 tháng Ba năm 1998 và một lần nữa vào ngày 24 tháng Sáu cùng năm.
- Rồi sao?
- Trong số những người tham dự không có ai mang tên Mathilde Monney.
Fawles thở dài đoạn day day mí mắt. Tại sao nữ phóng viên lại nói dối ông về điểm này nhỉ?
- Người duy nhất tên Mathilde có mặt ở đó lại mang họ Verneuil.
Máu Fawles như đông lại.
- Chính là con gái của bác sĩ Vemeuil tội nghiệp, bà thủ thư nói tiếp. Tôi còn nhớ rất rõ cô ấy: xinh xắn, dè dặt, nhạy cảm, thông minh… Người có lẽ thời điểm đó đã dự đoán được tấn thảm kịch sắp giáng xuống đầu mình…
4.Mathilde là con gái của Alexandre Verneuil, cháu gái của Grégoire Audibert! Sững sờ trước phát hiện này, tôi đứng đờ ra hơn một phút, bất động trong bóng tối. choáng váng. Vụn vỡ. Nổi da gà.
Tôi không thể dừng lại ở đó. Ở những tầng trên cùng của kệ sách, tôi tìm thấy mấy album ảnh. Bốn cuốn dày, bìa vải, được sắp xếp theo những thập niên quan trọng. Tôi ngồi xếp bằng trên sàn nhà và bắt đầu lật giở chúng dưới ánh đèn pin, xem ảnh, lướt qua những ghi chú. Những gì tôi biết được qua đó chủ yếu là một vài ngày tháng. Grégoire và Anita Audibert sinh được một mụn con gái duy nhất, Sofia, chào đời năm 1962, người đã kết hôn với Alexandre Verneuil năm 1982. Cuộc hôn nhân giữa họ đã cho ra đời Mathilde và Théo, thuở nhỏ hai chị em thường xuyên về đảo Beaumont nghỉ dưỡng.
Sao tôi và Fawles lại có thể bỏ lỡ chuyện này nhỉ? Tôi thấy hình như các bài báo mà tôi từng đọc không nhắc đến sư tồn tại của Mathilde. Vì đang sẵn cầm điện thoại trên tay, tôi tiến hành xác minh bằng cách gõ những từ khóa lên Google. Một bài viết cho phép tự do truy cập trên tờ L’Express số tháng Bảy năm 2000 đã nêu “cô con gái cả mười sáu tuổi của gia đình không ở Paris vào tối xảy ra thảm kịch vì đang ôn luyện bằng trung học Pháp tại nhà một người bạn gái ở Normandie”.
Một loạt giả thiết chen chúc trong đầu tôi. Tôi cảm thấy mình vừa có một bước quyết định trong cuộc điều tra, nhưng vẫn chưa nắm được kết quả tổng thể của những gì mình phát hiện. Tôi ngập ngừng muốn thoái lui. Từ chỗ đang ngồi, tôi nghe thấy tiếng ngáy đều đều của Audibert đang ngủ ở phòng bên. Có lẽ tôi đã đẩy vận may của mình tới mức tối đa. Nhưng cũng có lẽ vẫn còn những bí mật để tôi khai quật. Tôi đánh liều ngó sang phòng ngủ của ông chủ hiệu sách. Một thứ nội thất khổ hạnh, gần như tịnh xá. Trên chiếc bàn làm việc nhỏ kê sát tường và ngay gần giường, một chiếc máy tính xách tay là sự nhượng bộ duy nhất trước thời hiện dại. Nỗi phấn khích khiến tôi quên khuấy sự thận trọng và cả gan đùa với lửa. tôi phải biết thêm. Tôi lại gần bàn viết và cảm thấy bàn tay mình cầm lấy chiếc máy tính, gần như miễn cưỡng.
5.Quay xuống tầng trệt, tôi vội vã khám phá nội dung trong máy tính. Dĩ nhiên Audibert không thạo những công nghệ hiện đại nhất, nhưng cũng không đến nỗi gà mờ như ông muốn thể hiện trước mọi người. Máy tính của ông là một chiếc notebook Vaio cũ kỹ đời cuối những năm 2000. Tôi gần như chắc chắn: mật khẩu để mở nó hẳn là giống với mật khẩu của chiếc máy tính để bàn của hiệu sách. Tôi gõ thử để rồi nhận thấy rằng… đúng là như vậy.
Ổ cứng gần như trống không. Tôi không hề biết mình đang tìm gì, nhưng lúc này tôi tin chắc rằng có những thông tin khác cần tìm ra. Trong những tệp tin hiếm hoi xuất hiện trên màn hình máy tính có một phiên bản phần mềm kế toán không được cập nhật của hiệu sách, vài hóa đơn, một bàn đồ địa hình Beaumont và những tập tin PDF là những bài báo liên quan đến quá khứ tội lỗi của Apolline Chapuis và Karim Amrani. Không có gì mới, tôi đã đọc chúng rồi. Điều này chỉ chứng tỏ Audibert đã tiến hành những tìm kiếm giống như tôi. Tôi phân vân chuyện lục tìm trong thư điện tử hoặc tin nhắn của ông chủ hiệu sách. Audibert không có trang Facebook cá nhân, nhưng ông đã tạo ra một trang cho hiệu sách, trang này không được cập nhật từ hơn một năm nay. Về phần thư viện ảnh của máy tính, nó không được phong phú cho lắm nhưng lại chứa ba album mà nội dung có vẻ sẽ rất kinh khủng.
Trước tiên, có nhiều ảnh chụp màn hình trang web của Apolline Chapuis, rồi trong một hồ sơ khác, những bức ảnh sử dụng ống kính tầm xa chụp Karim Amrani đang tản bộ ở Évry. Vẫn là những bức ảnh mà tôi tìm thấy trước đó trong phòng trọ của Mathilde. Nhưng tôi vẫn chưa đi đến tận cùng kinh ngạc, bởi tệp tin cuối cùng chứa đựng những bức ảnh khác. Thoạt tiên, tôi ngỡ đó là những bức ảnh mà Mathilde đã cho Fawles xem: chuyến du lịch đến Hawaii của hai kẻ tội phạm và buổi tối sinh nhật Théo Verneuil. Nhưng rõ ràng Mathilde chỉ cho nhà văn xem một phần những bức ảnh chụp buổi tối hôm đó. Những bức ảnh khác quả nhiên là bằng chứng cho thấy thật ra cô gái vẫn góp mặt trong tiệc sinh nhật của em trai, buổi tối khủng khiếp khi gia đình cô bị sát hại.
Mắt cay sè, đầu ong ong, tôi cảm thấy máu chảy rần rật nơi thái dương. Làm sao mà thông tin này có thể bị các điều tra viên bỏ sót nhỉ? Tôi bị xâm chiếm bởi một nỗi lo lắng kỳ lạ, không thể rời mắt khỏi màn hình đang thiêu đốt mí mắt tôi. Ở tuổi mười sáu, Mathilde xuất hiện trên các bức ảnh như một thiếu nữ có phần mong manh yếu đuối, tâm trí vơ vẩn đâu đâu, nụ cười gượng gạo cùng ánh mắt ưu sầu và né tránh.
Những giả thiết điên rồ nhất vụt qua tâm trí tôi. Giả thiết bi thảm nhất, có lẽ Mathilde đã sát hại cả gia đình mình. Bức ảnh cuối cùng trong album kỹ thuật số tiết lộ cho tôi một bất ngờ khác. Nó được đề ngày 3 tháng Năm năm 2000 - chắc hẳn là trong đợt nghỉ bắc cầu từ Quốc tế Lao động mùng 1 tháng Năm. Trong ảnh là Mathilde và Théo tạo dáng cùng ông bà ngoại trước tiệm La Rose Ecarlate.
Đã toan gập máy tính lại, nhưng rồi tôi quyết định ngó qua thùng rác của máy tính để khỏi phải tự trách mình điều gì. Nó chứa hai tệp tin video mà trước tiên tôi trả vé màn hình máy tính, rồi lưu về ổ USB. Tôi đeo tai nghe vào trước khi cho tệp tin chạy.
Và điều phát hiện trong đó khiến máu tôi đông lại.
6.Ngồi trong bếp, khuỷu tay chống trên mặt bàn, hai tay ôm đầu, Fawles suy nghĩ về hậu quả của những gì mà Sabina Benoit vừa tiết lộ với ông. Monney hẳn là một bút danh. Mathilde Monney không phải người Thụy Sĩ và trên thực tế tên là Mathilde Verneuil. Và nếu cô gái đó đúng là con gái của Alexandre Verneuil thì toàn bộ chuyện xảy ra trên đảo những ngày gần đây lại xoay chuyển sang một hướng mới.
Vì ác cảm với các phương tiện truyền thông, Fawles hoàn toàn không biết gì về những chuyện đã xảy ra. Việc Mathilde là phóng viên đã khiến ông bối rối và nhầm lẫn ngay từ đầu. Thực ra, Mathilde có mặt trên đảo này chỉ vì một lý do đơn giản: trả thù vụ ám sát gia đình mình.
Giả thiết chính cô đã giết Karim và Apolline - những người mà cô xác định là đã sát hại cha mẹ cô - trở nên vô cùng đáng tin cậy.
Hàng chục hình ảnh, ký ức, âm thanh khàn khàn xuyên qua trí óc Fawles. Giữa luồng trôi dạt ấy, lắng đọng lại một hình ảnh. Một trong những bức ảnh chụp buổi tối sinh nhật mà Mathilde cho ông xem trên tàu: Verneuil, vợ ông ta và cậu nhóc Théo tạo dáng trên sân thượng nhà họ, với hậu cảnh là tháp Eiffel. Một lẽ hiển nhiên khiến ông choáng váng: nếu bức ảnh chụp lấy đến ngang đùi này tồn tại, thì đó là vì một người nào đấy đã chụp nó. Và có nhiều cơ may để người nào đấy này chính là Mathilde. Cô, người chắc chắn cũng có mặt trong căn hộ của gia đình vào buổi tối diễn ra vụ thảm sát.
Bỗng nhiên, một màn đêm địa cực chụp xuống Fawles. Bây giờ, ông hiểu ra mọi chuyện và tự cảm thấy mình đang lâm vào tình thế vô cùng nguy hiểm.
Rất nhanh chóng, ông đứng dậy để sang phòng khách. Ở cuối phòng, cạnh những kệ kim loại dùng làm giá chất củi, có chiếc rương được đẽo gọt bằng gỗ ô liu nơi ông cất khẩu súng. Ông mở tủ hốc tường và nhận thấy món vũ khí đã không cánh mà bay. Ai đó đã lấy mất khẩu súng được trang trí hình Kuçedra. Món vũ khí đáng nguyền rủa, món vũ khí của mọi điều vi phạm, món vũ khí vốn là nguồn cơn mọi bất hạnh của ông. Bấy giờ ông nhớ lại quy tắc lâu đời này trong nghề viết: nếu một tiểu thuyết gia đề cập tới sự tồn tại của một món vũ khí ở đầu tác phẩm thì một phát súng sẽ buộc phải bắn ra và một trong các nhân vật chính sẽ chết ở cuối truyện.
Vì tin vào các quy tắc của hư cấu, Fawles chắc mẩm mình sắp chết.
Ngay hôm nay.
7.Tôi cho phát video đầu tiên. Có độ dài năm phút, hẳn là nó được quay bằng điện thoại di động, trong một nơi giống như một ngôi nhà hay một căn chòi.
- Làm ơn! Tôi không biết gì hết… không gì khác ngoài những điều tôi vừa nói!
Hai bàn tay bị còng, hai cánh tay bị treo phía trên đầu, Karim nằm trên một dạng bàn thấp nghiêng về phía sàn nhà.
Nhìn khuôn mặt sưng húp và cái miệng tứa máu của hắn, có thể đoán hắn vừa lãnh một cơn mưa đòn. Người đàn ông đang tra hỏi là một gã cao lớn mà tôi chưa rừng nhìn thấy trong đời. Tóc bạc trắng và vóc dáng đồ sộ, gã mặc sơ mi ca rô, áo khoác chần bông và đội mũ lưỡi trai bằng vải toan Scotland.
Tôi lại gần màn hình để nhìn kỹ hơn. Gã bao nhiêu tuổi nhỉ? It nhất là bảy mươi lăm nếu tôi tin vào những nếp nhăn trên khuôn mặt và dáng vẻ tổng thể của gã. Với cái bụng bự chảng, gã gặp khó khăn khi di chuyển, nhưng sức vóc bò mộng đủ cuốn phăng mọi thứ trên đường gã đi.
- Tôi không biết gì hơn! Karim thét lên.
Lão già có vẻ như không buồn nghe nữa. Lão rời màn hình vài giây rồi xuất hiện trở lại với một chiếc khăn tắm và phủ nó lên mặt gã cựu buôn ma túy. Rồi, với sự cần mẫn của một kẻ tra tấn dày dạn kinh nghiêm, lão bắt đầu đổ nước lên chiếc khăn.
Kỹ thuật tra tấn kiểu ván nước ghê rợn.
Việc xem phim trở nên kinh khủng. Lão già tiếp tục cho đến khi Karim ngạt thở. Cơ thể hẳn căng ra, biến dạng, co giật quằn quại. Khi rốt cuộc lão cũng bỏ chiếc khăn ra, tôi ngỡ Karim sẽ không sống nổi. Một hỗn hợp bong bóng nước, bọt mép và mật trào ra từ miệng hắn, như một mạch nước phun. Hắn ván đờ ra một lúc, rồi rốt cuộc cũng nôn mửa trước khi thì thào:
- Tôi… đã nói hết với ông rồi mà, mẹ kiếp…
Lão già nghiêng cái bàn thấp rồi nói thầm vào tai Karitn:
- Thế thì, mày sẽ bắt đầu lại từ đầu.
Gã đàn ông đã kiệt sức. Vẻ kinh sợ hiển hiện trên gương mặt hắn.
- Tôi không biết gì khác…
- Vậy thì để tao bắt đầu lại!
Vì lão già lại chộp lấy cái khăn tắm.
- Không! Karim hét lên.
Hắn lấy lại nhịp thở được chăng hay chớ, rồi cố tập hợp các ý nghĩ.
- Đêm hôm đó, ngày 11 tháng Sáu năm 2000, tôi và Apolline, chúng tôi tới quận XVI, số 39 đại lệ Beauséjour, để ăn trộm nhà mấy khọm già quý phái ở tầng bốn. chúng tôi có nguồn tin riêng chắc chắn báo trước rằng họ sẽ không có trong căn hộ.
- Ai đã tuồn cho mày cái tin riêng ấy?
- Tôi không nhớ nữa, băng của tôi thời ấy. Mấy khọm già đó được cho là giàu nứt đố đổ vách, nhưng phần lớn nhất là tiền mặt và trang sức hình như lại cất trong một két sắt đúc liền vào khối bê tông. Chúng tôi không thể nhấc theo được.
Hắn nói nhanh, giọng đều đều như thể đã kể câu chuyện này vô số lần. Giọng hắn méo mó vì mũi hắn đã gãy, máu chảy giàn giụa trên hai mi mắt sưng húp vì những vết tụ máu.
- Chúng tôi đã khoắng vài món ít giá trị, những món dễ đẩy đi. Rồi đúng lúc chuẩn bị nhổ neo thì chúng tôi nghe thấy những tiếng súng từ phía dưới vọng lên.
- Mấy tiếng?
- Ba. Vì sợ nên chúng tôi đã nấp vào một phòng ngủ. Chúng tôi chờ một lúc lâu, vừa sợ đám cảnh sát chẳng bao lâu nữa sẽ tới vừa sợ cái kẻ đang ra tay tàn sát dưới tầng ba.
- Mày không trông thấy đó là ai hả?
- Không! Lúc ấy bọn tôi sợ đến vãi tè, tôi nói với ông rồi mà. Chúng tôi đợi nhiều phút trôi qua mà không dám xuống. Chúng tôi đã thử chuồn qua đường mái nhà, nhưng lối vào bị khóa. Vậy nên chúng tôi không thể làm gì khác ngoài cách dùng cầu thang bộ.
- Rồi sau đó?
- Khi đến tầng ba, Apolline vẫn sợ muốn chết, tôi thì đã khá hơn nhiều, tôi đã kịp hít một liều trong phòng ngủ của mấy khọm già. Tôi phê lòi, lâng lâng phấn khích. Khi tới trước của, tôi thò đầu vào. Một lò mổ đúng nghĩa. Máu văng khắp nơi và ba cái xác gục trên sàn nhà. Apolline đã rú lên một tiếng rồi xuống thẳng bãi đỗ xe tầng hầm chờ tôi.
- Mày cứ liệu hồn, chúng ta sẽ đi hỏi nó, con bồ mày ấy.
- Đấy không phải bồ tôi. Đã mười tám năm nay bọn tôi không nói chuyện với nhau rồi.
- Mày đã làm gì trong căn hộ nhà Verneuil?
- Tôi nói với ông rồi đấy, khi ấy họ đã chết cả. Tôi đi vào phòng khách rồi các phòng ngủ. Và tôi đã thó tất cả những gì có thể: những chiếc đồng hồ đeo tay sang trọng, nhiều tiền mặt, trang sức, một chiếc máy ảnh… Rồi tôi xuống chỗ Apolline. Vai tuần sau bọn tôi chuồn tới Hawaii và chính tại đó bọn tôi đã đánh mất chiếc máy ảnh khốn kiếp kia.
- Đúng thế, thật ngu xuẩn, lão già có vẻ tán thưởng.
Lão buột ra một tiếng thở dài rồi bỗng thúc một cú khuỷu tay khủng khiếp vào mạng sườn Karim.
- Điều tệ hại nhất, đó là ngày hôm ấy, mày không chỉ đánh mất chiếc máy ảnh, mà cả mạng sống của mày nữa.
Rồi lão tấn công hắn, cuồng bạo, những nắm đấm khổng lổ giáng xuống với một sức mạnh khó tin.
Khiếp hãi, tôi có cảm tưởng những tia máu sắp phọt lên mặt mình. Tôi rời mắt khỏi màn hình, ngoảnh nhìn ra chỗ khác. Tôi run lập cập như lên cơn sốt. Tứ chi tôi run rẩy. Người đàn ông có khả năng giết người bằng tay không này là ai? Đâu là cội nguồn cơn điên loạn đã xâm chiếm ông ta?
Không khí buốt lạnh. Tôi đứng dậy để đóng cửa hiệu sách. Lần đầu tiên trong đời, tôi cảm thấy mình đang rơi vào tình thế nguy hiểm chết người thực sự. Tôi phân vân một lúc, chẳng biết có nên ôm theo chiếc máy tính chạy trốn hay không, nhưng tính hiếu kỳ đã thôi thúc tôi quay trở lại ngồi sau bàn để bật video thứ hai.
Tôi đã hy vọng nó đỡ kinh khủng hơn, nhưng không phải vậy. Trong đó vẫn là cảnh tượng tra tấn chí tử tương tự, dẫn tới kết cục là cái chết. Lần này, Apolline vào vai nạn nhân, và đao phủ là một gã đàn ông mà người xem chỉ nhìn thấy tấm lưng. Thân hình bó chặt trong chiếc áo khoác đi mưa sẫm màu, gã có vẻ trẻ hơn và không đồ sộ bằng kẻ ra tay trừ khử Karim. Cuốn phim có chất lượng kém hơn, hẳn là do quay ở một nơi kín bưng, chỉ được soi chiếu bằng thứ ánh sáng yếu ớt. Một góc nhà bẩn thỉu và tăm tối giữa hai mặt tường đá tảng màu xám.
Bị trói vào ghế tựa, Apolline mang khuôn mặt bê bết máu, răng gãy vài chiếc và một bên mắt bầm giập. Chắc chắn kẻ tấn công Apolline đã tra tấn cô hồi lâu bằng chiếc que cời lò hắn cầm trong tay. Cuốn phim có thời lượng ngắn và câu chuyện mà cô gái Bordeaux kể tạo cảm giác liên kết với câu chuyện của Karim.
- Tôi nói với ông rồi, tôi sợ muốn chết! Tôi không vào căn hộ nhà Verneuil. Tôi chuồn thẳng xuống bãi đỗ xe tầng hầm để đợi Karim.
Cô hít mạnh rồi lắc đầu để hất gọn một lọn tóc bết máu đang rủ xuống mắt.
- Tôi tin chắc là cảnh sát sắp ập tới. Thậm chí có khi họ đã có mặt ở đó rồi. Bãi đỗ xe chìm trong bóng tối. Tôi thu lu giữa một cột bê tông và một chiếc xe tải nhỏ. Nhưng bỗng nhiên, đèn đuốc bật sáng và một chiếc xe từ tầng dưới đi lên.
Apolline nấc lên trong khi người đàn ông cầm que cời thúc giục cô kể tiếp.
- Đó là một chiếc Porsche màu xám với những đường sọc màu đỏ và xanh lơ. Nó đỗ lại phía trước tôi chừng hơn ba mươi giây vì cánh cổng tự động bị hỏng và kẹt ở lưng chừng.
- Ai ngồi trong chiếc Porsche?
- Có hai người đàn ông.
- Hai à? Mày chắc chứ?
- Chắc chắn. Tôi không nhìn thấy mặt người ngồi ghế phụ lái, nhưng người đàn ông cầm lái đã xuống xe để gỡ cánh cổng bị kẹt.
- Mày biết người đó chứ?
- Không đích thân quen, nhưng tôi từng xem một trong những buổi phỏng vấn ông ta trên truyền hình. Tôi cũng từng đọc một trong những cuốn sách của ông ta.
- Một trong những cuốn sách của ông ta sao?
- Đúng thế, đó là nhà văn Nathan Fawles.
SỰ THẬT KHÓ NÓI
Chú Thích(18) Quentin Tarantino (sinh ngày 27 tháng Ba năm 1963): nhà làm phim người Mỹ nổi tiếng với những bộ phim đậm chất bạo lực.
(19) (1930-2010): nhà làm phim người Pháp nổi tiếng, một trong những người sáng lập trào lưu Làn Sóng Mới, phim của ông thường gay cấn, hồi hộp và chỉ trích gay gắt giới nhà giàu.
(20) [3] Michel Rocard (1930-2016): quan chức cao cấp kiêm chính khách Pháp, gia nhập đảng Xã hội từ năm 1949.