Chương 10 Các nhà văn chống lại phần còn lại của thế giới
Sự giải thoát duy nhất của những kẻ bại trận là không hy vọng bất kỳ tự giải thoát nào. Virgile
1.
Đó là nhà văn Nathan Fawles.
Đó là những lời cuối cùng của Apolline trước khi chết. Cuộn băng ghi hình còn tiếp tục vài giây nữa, cho thấy cô chìm vào hôn mê, rồi gục xuống dưới cú vụt que cời sau cùng.
Bên cạnh tiết lộ theo nghĩa đen này - thứ dìm tôi vào tâm trạng bối rối khủng khiếp -, là một câu hỏi cáp bách hơn khiến tôi bứt rứt: những đoạn video này làm cái quái gì trong máy tính của Audibert?
Càng lúc càng bồn chồn nên bất chấp sự ghê rợn của cảnh tượng, tôi vẫn xem lại lần nữa video cuộc hành hình Apolline. Lần này, tôi bỏ tai nghe ra để tập trung vào bối cảnh. Những bức tường bằng đá này… Tôi đã từng nhìn thấy những bức tường tương tự khi dùng thang máy chở hàng chuyển những thùng sách xuống tầng hầm của La Rose Ecarlate. Hoặc có lẽ là tôi tự tưởng tượng ra…
Trên chùm chìa khóa của hiệu sách có cả chìa khóa tầng hầm. Tôi từng đặt chân xuống đó đôi ba lần, nhưng không nhận thấy điều gì đặc biệt đáng ngờ.
Bất chấp nỗi sợ, tôi quyết định quay xuống đó lần nữa. Những không có chuyện dùng thang chở hàng, nó kêu ầm ĩ. Tôi bước ra khoảng sân trong nhỏ nơi cánh cửa trập dẫn xuống hầm mở ra một cầu thang bằng gỗ thẳng đứng như một chiếc thang. Ngay từ những bậc cầu thang đầu tiên, tôi đã ngửi thấy mùi ẩm ướt khó chịu.
Xuống đến bên dưới, tôi bật bóng đèn tuýp phát ra thứ ánh sáng chập chờn, làm ẩn hiện lờ mờ những kệ sách phủ mạng nhện và những thùng các tông chứa đầy sách chẳng bao lâu nữa sẽ mốc thếch. Bóng đèn huỳnh quang kêu lách tách vài giây trước khi tắt ngóm trong một âm thanh khô khốc.
Khỉ thật…
Tôi lấy điện thoại ra làm đèn pin, nhưng chân lại vấp phải một máy điều hòa hoen gỉ đặt dưới nền nhà. Tôi ngã xuống nền bê tông rồi lăn trong đám bụi.
Chơi hay lắm, Rafa…
Tôi nhặt điện thoại lên rồi đứng dậy trước khi đi sâu vào vùng tranh tối tranh sáng. Theo chiều dài, căn hầm rộng hơn tôi hình dung rất nhiều. Phía cuối hầm, tôi nhận ra âm thanh của quạt gió, giống loại chuyên dùng cho máy sưởi hay cửa thải. Tiếng vù vù dội đến từ một đám ống cuộn biến mất đằng sau ba tấm chắn dạng chấn song được dựng lên sát tường, chồng chất lên nhau.
Tôi thắc mắc mấy cái vòi ống này dẫn đi đâu. Sau hơn một phút lay lắc những tấm lưới mắt cáo, tôi đã có thể dịch chuyển chúng và phát hiện một lối vào khác. Một tấm biển kim loại di động trông giống cửa ngách của một cái lò khổng lồ. Cánh cửa bị khóa trái, nhưng chìa khóa cũng nằm trong chùm chìa to đùng của ông chủ hiệu sách.
Bụng quặn lên vì sợ, tôi chui qua đó để tới một căn phòng kỳ lạ có kê một bàn thợ và một tủ đông. Trên mặt bàn, tôi nhận ra cái que cời lò đã trông thấy trong video, một chiếc búa hoen gỉ với các cạnh sắc bén, mộc cái vồ bằng gỗ sẫm màu, mấy cây dùi đục đá…
Lồng ngực tôi như có ai dùng kìm kẹp chặt. Tứ chi tôi run lẩy bẩy. Khi mở tủ đông ra, tôi không thể kìm một tiếng thét. Bên trong nhuộm đỏ màu máu.
Tôi đang ở trong nhà một lũ điên.
Tôi lùi lại rồi ba chân bốn cẳng leo ngược lên sân trong.
Chính Audibert đã tra tấn Apolline Chapuis đến chết và không còn nghi ngờ gì nữa, ông ta cũng sẽ giết tôi nếu tôi không chuồn khỏi đây. Quay trở lại hiệu sách, tôi nghe thấy sàn ván rít lên trên gác. Ông chủ hiệu sách vừa dậy. Thoạt tiên là tiếng bước chân, rồi tiếng mở của cầu thang bộ kêu kẽo kẹt. Mẹ kiếp… tôi vội vàng nhét máy tính của Audibert vào ba lô trước khi đóng sập cửa và ngồi lên chiếc xe gắn máy.
2.Bầu trời vằn lên những dải mây dài bị ánh bình minh xuyên thủng lỗ chỗ. Con đường chạy dọc bờ biển vắng tanh. Mùi i ốt dâng lên từ biển và trộn lẫn với mùi khuynh diệp. Tôi đã tăng ga - nghĩa là chiếc xe tốc độ sao băng của tôi, được gió đẩy đi, khó nhọc đạt đến tốc độ bốn mươi lăm ki lô mét trên giờ. Cứ hai phút tôi lại lo lắng liếc nhìn về phía sau. Đời tôi chưa bao giờ sợ đến thế. Tôi cảm giác Audibert có thể bất thần xuất hiện bất cứ lúc nào, ông ta sẽ xông lên Đường Chính, cầm theo cái que cời lò để thủ tiêu tôi.
Làm gì đây? Phản xạ đầu tiên của tôi là tới nhà Nathan Fawles tìm chỗ nương náu. Nhưng tôi không thể vờ như không biết những gì tôi đã xem trên video, những lời tố cáo của Apolline Chapuis nhằm vào ông.
Tôi là một đối tượng dễ thao túng. Tôi luôn biết rằng Fawles không nói hết với tôi những gì ông biết về vụ này - và bản thân ông cũng không bao giờ tìm cách làm tôi tin vào điều ngược lại. Tìm đến ông có lẽ cũng chính là nhảy vào miệng sói. Tôi nhớ đến khẩu súng săn kiểu bơm với phần nòng có rãnh mà ông luôn giữ trong tầm tay. Rất có thể đó chính là thứ vũ khí đã được dùng để giết hại gia đình Verneuil. Trong năm phút dài dằng dặc, tôi có cảm giác chống chếnh không còn nơi nương tựa, rồi tôi trấn tĩnh lại. Dù mẹ tôi thường dặn rằng chớ nên tin tưởng ai, tôi vẫn luôn làm ngược lại. Sự ngây thơ của tôi đã chơi khăm tôi nhiều vố trong đời và khiến tôi phải hối hận, nhưng tôi vẫn có niềm tin sâu kín rằng đánh mất sự ngây thơ ấy cũng có nghĩa là đánh mất chính mình.
Vậy nên tôi quyết định vẫn trung thành với trực giác ban đầu: người đàn ông từng viết Loreleï Strange và Những kẻ bị sét đánh không thể là một gã khốn được.
Khi tôi tới Nam Thập Tự, trông Fawles như đã thức dậy từ lâu. Ông mặc áo cổ lọ sẫm màu và vest da đanh thuộc. Hết sức bình tĩnh, ông lập tức hiểu rằng tôi đã gặp phải chuyện gì đó nghiêm trọng.
- Ông phải xem cái này! tôi nói, thậm chí không để ông có thời gian an ủi tôi.
Tôi lấy ra từ ba lô chiếc máy tính của Audibert rồi cho phát hai video. Fawles xem chúng mà không để lộ chút cảm xúc nào, thậm chí cả khi Apolline nêu tên ông.
- Cậu biết hai người đàn ông tra tấn Chapuis và Amrani là ai không?
- Người đầu tiên thì tôi không rõ. Người thứ hai là Grégoire Audibert. Tôi đã tìm thấy trong hầm nhà ông ta cái tủ đông dùng để giấu xác Apolline.
Fawles vẫn thản nhiên, nhưng tôi cảm thấy ông đã có chút bàng hoàng.
- Ông biết Mathilde là cháu gái của Audibert và con gái của Alexandre Verneuil chứ?
- Tôi biết chuyện đó được một giờ rồi.
- Nathan, tại sao Apolline lại kết tội ông?
- Cô ta không kết tội tôi, cô ta chỉ nói đã nhìn thấy tôi trong một chiếc ô tô cùng một người đàn ông khác thôi.
- Đó là ai vậy? Chỉ cần ông nói mình vô tội và tôi sẽ tin ông.
- Người sát hại gia đình Verneuil không phải tôi, tôi thề với cậu.
- Nhưng ông có mặt trong căn hộ của họ vào buổi tối hôm ấy?
- Đúng thế, tôi có mặt ở đó; nhưng tôi không giết họ.
- Hãy giải thích cho tôi!
- Một ngày nào đó, tôi sẽ kể chi tiết mọi chuyện cho cậu nhưng không phải bây giờ.
Fawles đột nhiên trở nên kích động, ông nắn bóp một cái hộp nhỏ đựng điều khiển từ xa - cỡ một cái điều khiển cửa cuốn ga ra - mà ông vừa lấy ra từ túi áo.
- Tại sao không phải bây giờ?
- Bởi vì cậu đang gặp nguy hiểm cực lớn, Raphaël ạ! Chúng ta không phải đang trong một cuốn tiểu thuyết đâu, con trai. Những lời này không hề vô căn cứ. Apolline và Karim đã chết và hai tên sát thủ ra tay với chúng vẫn đang được tự do. Vì một lý do mà tôi còn chưa biết, vụ Verneuil đang quay trở lại sân khấu chính. Và không thể rút ra cái gì tốt đẹp từ một thảm kịch như vậy.
- Ông muốn tôi làm gì?
- Cậu sẽ rời khỏi đảo. Ngay tức khắc! ông quyết định dứt khoát đoạn nhìn đồng hồ đeo tay. Phà sẽ khởi hành trở lại vào lúc 8 giờ. Tôi sẽ lái xe đưa cậu ra đó.
- Ông nghiêm túc chứ?
Fawles trỏ tay vào chiếc máy tính.
- Cậu đã xem những video đó giống như tôi. Những kẻ đó có khả năng làm mọi chuyện.
- Nhưng…
- Cậu mau đi đi! ông ra lệnh đoạn chụp tay tôi.
Được Bronco hộ tống, tôi theo nhà văn ra tận xe. Chiếc Mini Moke - hẳn đã ở yên đó nhiều tuần không lăn bánh - thoạt đầu còn không chịu khởi động. Đúng lúc tôi ngỡ Fawles đã dìm chết động cơ trong xăng thì ông cố một lần cuối cùng và phép mầu xảy ra. Bronco nhảy lên khoang sau và chiếc xe mui trần không cửa - mà tôi thấy là tuyệt đối thiếu tiện nghi - xóc nẩy trên con đường đất xuyên qua khu rừng trước khi ra đến đường chính.
Hành trình đến bến phà thật gian nan. Những mảnh trời quang nắng hé của ngày mới rạng đã chịu đầu hàng trước cảnh sắc âm u. Bầu trời lúc này ngồn ngộn mây xám chì, như thể vừa bị sơn lại bằng một thứ màu than xấu tệ. Gió cũng đã nổi lên, thốc những cơn cuồng phong vào lớp kính chắn gió thảm hại của chúng tôi. Đây không phải thứ gió Đông ẩm ướt và nhẹ nhàng, cũng không phải gió mistral quen thuộc thường quét sạch những đám mây để nhường chỗ cho bầu trời xanh lơ. Đây là thứ gió lạnh băng như quất vào người, đến từ địa cực và cuốn theo cả loạt tia chớp và tiếng sấm ầm ì: gió mistral đen.
Khi tới cảng, tôi có cảm giác đang tiến vào một thành phố ma. Những làn sương mù bảng lảng trên các viên gạch lát. Những dải mờ ảo sắc xà cừ xoắn xuýt lấy nhau trong các công trình đô thị và dìm ngập những khung vỏ tàu. Một lớp bột nhào thực thụ. Fawles đỗ chiếc Mini Moke trước chòi gác của văn phòng trưởng cảng và đích thân đi mua vé cho tôi. Rồi ông dẫn tôi ra tận phà.
- Tại sao ông không đi cùng tôi hả Nathan? tôi hỏi khi tiến lên cầu tàu. Ông cũng đang gặp nguy hiểm mà, không phải sao?
Đứng lại trên bến cùng chú chó của mình, ông né tránh đề xuất của tôi bằng cách lắc đầu.
- Cẩn trọng nhé, Raphaël.
- Hãy đi cùng tôi! tôi khẩn khoản.
- Không thể được. Kẻ nào đốt lửa thì phải tự tay dập lửa. Tôi cần phải chấm dứt một thứ.
- Thứ gì vậy?
- Những tác hại của cỗ máy kinh khủng mà tôi đã khởi động cách đây hai mươi năm.
Ông vẫy tay chào tôi và tôi hiểu rằng mình sẽ không biết được thêm gì nữa. Trong khi lặng nhìn ông đi xa dần cùng chú chó, cảm giác bất đồ sởn da gà và buồn man mác xâm chiếm tôi, bởi điều gì đó mách bảo tôi rằng đây là lần cuối cùng tôi trông thấy Nathan Fawles. Thế nhưng, ông đột nhiên quay trở lại. Ông nhìn thẳng vào mắt tôi đầy vẻ ân cần và trước sự bất ngờ vô hạn của tôi, chìa ra bản thảo tiểu thuyết tôi viết mà ông đã sửa kỹ lưỡng và cuộn lại để nhét trong túi áo đi mưa.
- Cậu biết đấy, Sự rụt rè của những đỉnh cao là một cuốn tiểu thuyết hay, Raphaël ạ. Kể cả không có những sửa chữa của tôi thì nó vẫn xứng đáng được xuất bản.
- Các nhà xuất bản từng đọc qua nó lại không nghĩ vậy đâu.
Ông lắc đầu rồi buột ra một tiếng thở dài đầy khinh bỉ:
- Các nhà xuất bản… Các nhà xuất bản là những người muốn cậu biết ơn khi họ nói vỏn vẹn hai câu những gì họ nghĩ về cuốn sách cậu viết, trong khi cậu đã đổ mồ hôi sôi nước mắt hai năm trời mới tạo ra được nó. Những người ăn trưa tới tận ba giờ chiều trong các nhà hàng khu Midtown hay Saint-Germain-des-Prés trong khi cậu rát mắt trước màn hình, nhưng ngày nào cũng gọi điện giục giã nếu cậu chậm trễ ký hợp đồng với họ. Những người thích được là Max Perkins(21) hay Gordon Lish(22) nhưng sẽ vĩnh viễn chỉ là bản thân họ: những người quản lý văn chương đọc những bản văn cậu viết thông qua lăng kính của một bảng Excel. Những người mà đối với họ cậu không bao giờ làm việc đủ nhanh, họ coi cậu như trẻ con, luôn biết rõ hơn cậu những thứ mọi người muốn đọc, biết cái gì là một nhan đề hay hoặc một bìa sách tốt. Những người mà một khi cậu đã nếm mùi thành công - thường là bất chấp họ -, sẽ rêu rao khắp nơi rằng họ đã “tạo ra” cậu. Cũng vẫn những người ấy thường nói với Simenon rằng Maigret “tầm thường đến phát lộn mửa” hay từng từ chối Carrie, Harry Potter và Loreleï Strange…
Tôi cắt ngang lời đả kích của Fawles.
- Loreleï Strange từng bị từ chối ư?
- Tôi không khoe khoang đâu, nhưng đúng thế. Loreleï từng bị mười bốn nhà xuất bản và cơ quan đại diện từ chối. Bao gồm cả nhà xuất bản rốt cuộc sau đó đã xuất bản nó, nhờ sự tác động của Jasper Van Wyck. Chính vì vậy, không cần quá coi trọng những con người đó.
- Nathan này, một khi chuyện này kết thúc, ông sẽ giúp tôi xuất bản Sự rụt rè của những đỉnh cao chứ? Ông sẽ giúp tôi trở thành nhà văn chứ?
Lần đầu tiên (và cuối cùng), tôi nhìn thấy Fawles mỉm cười không úp mở, và những gì ông nói đã xác nhận ấn tượng đầu tiên tôi có về ông.
- Cậu không cần tôi giúp đâu, Raphaël. Cậu đã là một nhà văn rồi.
Ông thân tình ra hiệu bằng cách giơ ngón cái về phía tôi trước khi quay gót ra chỗ đậu xe.
3.Sương mù càng lúc càng dày đặc. Táo bạo kín tới ba phần tư chỗ, nhưng tôi đã tìm ra một chỗ ở bên trong. Qua cửa kính, tôi nhìn thấy những hành khách cuối cùng ló ra khỏi làn sương mù để chen chúc nhau lên phà.
Vẫn choáng váng bởi những gì Fawles vừa nói, nhưng tôi cũng cảm thấy vị gì đó nhờ nhợ trong miệng. Vị của sự thất bại. Cảm giác đào ngũ khỏi chiến trường giữa lúc chiến trận cam go. Tôi đã tới Beaumont tràn đầy tráng khí, dưới vầng dương chiến thắng, và tôi rời hòn đảo dưới mưa, tiu nghỉu, khiếp sợ trước nguy nan, đúng lúc hồi kịch cuối sắp được viết nên.
Tôi nghĩ đến cuốn tiểu thuyết thứ hai của tôi, đã được khởi thảo. Cuộc sống bí mật của các nhà văn. Tôi đang sống trong cuốn tiểu thuyết này, tôi là một nhân vật của cuốn tiểu thuyết này. Người kể chuyện không thể bỏ lại sân khấu tác chiến như một tên hèn đúng lúc diễn biến đang hồi gay cấn. Một cơ hội tương tự sẽ không bao giờ xuất hiện trở lại. Tuy nhiên tôi cũng nghĩ tới lời cảnh báo của Fawles. “Cậu đang gặp phải nguy hiểm cực lớn, Raphaël ạ! Chúng ta không phải đang ở trong một cuốn tiểu thuyết đâu, con trai.” Chỉ có điều bản thân Fawles chắc chắn không tin vào lời mình nói. Và đó chẳng phải chính là điều ông đã khuyên tôi sao: đưa tính tiểu thuyết vào cuộc đời mình - và đưa cuộc đời vào việc viết? Tôi đã nghiền những khoảnh khắc khi mà hư cấu nhiễm sang cuộc đời. Tôi thích đọc đến vậy cũng một phần là vì thế. Không phải để trốn chạy đời thực quay sang một thế giới tưởng tượng, mà là để trở lại với thế giới đã biến đổi nhờ những gì tôi đọc được. Giàu có hơn nhờ những chuyến du hành và gặp gỡ trong hư cấu và ước ao được tái đầu tư chúng vào thực tại. “Sách vở mà để làm gì, nếu chúng không đưa ta trở lại với cuộc sống, nếu chúng không thể khiến ta uống say cuộc sống với nhiều mê đắm hơn?” Henry Miller từng thắc mắc. Chắc hẳn là chẳng để đạt được điều gì đáng kể.
Vả lại có Nathan Fawles. Người hùng của tôi, quân sư của tôi. Người vừa năm phút trước đã phong tước cho tôi thành một trong những người cùng hàng ngũ với ông. Tôi không thể để ông lại một mình đương đầu với một mối nguy chết người. Tôi đâu phải loại nhát cáy, khỉ thật! Tôi đâu phải trẻ con. Tôi là một nhà văn đi giúp đỡ một nhà văn khác.
Hai nhà văn chống lại toàn thế giới…
Đúng lúc đứng dậy rời khỏi băng ghế để quay lên boong thì tôi chợt nhận ra chiếc xe van của Audibert đang trờ tới trước tòa thị chính. Một chiếc 4L cũ kỹ được sơn lại thành màu xanh cổ vịt mà ông ta bảo vài năm trước đã mua lại từ ông chủ hàng hoa.
Ông chủ hiệu sách đỗ xe hàng đôi trước bưu điện rồi ra khỏi xe để thả một phong bì vào hòm thư. Ông ta vội vã quay trở về phía chiếc xe, nhưng trước khi ngồi vào ghế lái, ông ta nhìn hồi lâu về hướng con phà. Tôi nấp sau một cây cột kim loại, thầm hy vọng ông ta không nhìn thấy mình. Khi tôi rời chỗ nấp, chiếc xe van đã rẽ ở góc phố. Tuy nhiên, dường như tối vẫn trông thấy hai đèn pha của nó nhấp nháy qua màn sương mù, như thể chiếc xe đã dừng lại.
Làm gì đây? Tôi bị giằng co giữa nỗi sợ và khát khao được hiểu. Tôi cũng lo cho Nathan nữa. Lúc này khi biết Audibert có khả năng làm những gì, tôi có quyền bỏ rơi ông chăng? Tiếng còi phà thông báo phà sắp khởi hành. Hãy đưa ra quyết định! Trong khi phà được tháo dây neo, tôi nhảy lên lối đi dạo lát gỗ. Tôi không thể chạy trốn. Ra đi là gục ngã và từ bỏ tất cả những gì tôi hằng tin tưởng.
Tôi men theo mũi đất trước chòi gác của trưởng cảng, rồi qua đường nhằm hướng bưu điện. Sương mù giăng khắp nơi. Tôi đi theo vỉa hè tới tận phố Mortevielle nơi chiếc xe của ông chủ hiệu sách đã rẽ. Đường sá vắng tanh, chìm trong sự ẩm ướt và làn nước dấp dính. Càng tiến về phía chiếc xe van với các đèn hiệu nhấp nháy xuyên thủng màn sương mù, tôi càng có cảm giác rằng một mối đe dọa vô hình đang bủa vây xung quanh, sẵn sàng nuốt chửng mình. Khi tới ngang tầm chiếc xe, tôi nhận thấy không có ai ngồi trên ghế lái.
- Mày đang tìm tao phải không, thằng cạo giấy?
Tôi quay ngoắt lại và nhìn thấy bóng Audibert khoác chiếc áo mưa màu đen. Tôi mở miệng toan hét lên, nhưng trước khi tôi có thể phát ra bất cứ âm thanh nào dù nhỏ nhất, ông ta đã dùng hết sức bình sinh quật chiếc que cời lò lên người tôi. Một tiếng kêu hãi hùng vẫn tắc nghẹn trong cổ họng tôi.
Rồi bóng tối bủa vây quanh tôi.
4.Trời mưa như trút nước.
Nathan Fawles đã ra đi vội vã tới mức ngôi nhà mở toang hoang. Về đến Nam Thập Tự, ông không buồn bỏ công đóng cửa chính lại. Mối đe dọa ông phải đương đầu không phải là những mối đe dọa mà người ta có thế đẩy lui bằng cách dựng lên những bức tường hay nấp sau chướng ngại vật.
Ông ra sân hiên để đóng một cánh cửa con đang đập vào tường. Với mưa và những trận cuồng phong, Beaumont mang dáng vẻ hoàn toàn khác. Ta không còn ở Địa Trung Hải nữa, mà trên một hòn đảo Scotland bão quật.
Fawles đứng bất động nhiều phút, mặc cơn mưa lạnh quất vào người. Những hình ảnh khó lòng chịu đựng không ngừng quấy nhiễu ông. Hình ảnh vụ thảm sát gia đình Verneuil, hình ảnh tra tấn Karim và giết hại Apolline. Trong đầu ông cũng âm vang cả những từ ngữ từ mấy lá thư ông đã đọc lại ngày hôm trước. Những thông điệp được viết cách đây hai mươi năm cho người phụ nữ xiết bao yêu thương. Suy sụp, ông để mặc những giọt nước mắt chảy dài trên má trong khi mọi chuyện trồi lên. Cơn điên dại vì để vuột mất tình yêu, cuộc sống ông đã từ bỏ, cái dòng đỏ lòm vẽ nên từ máu của ngần ấy xác chết, những nạn nhân liên đới của một câu chuyện trong đó họ chỉ là những vai phụ thầm lặng.
Ông quay trở vào nhà để thay quần áo. Trong lúc mặc quần áo khô, ông cảm thấy chán nản vô cùng tận, như thể toàn bộ nhựa sống tưới tắm nuôi dưỡng cơ thể ông đã bị rút sạch. Ông hối hả muốn toàn bộ chuyện này kết thúc. Ông đã sống hai mươi năm trở lại đây theo cách của một Samurai. Ông đã cố gắng đối diện cuộc sống bằng lòng quả cảm và danh dự. Cố gắng tuân theo kỷ cương và đi theo con đường đơn thương độc mã đã dẫn ông đến chỗ tự chuẩn bị về mặt tinh thần để đón nhận cái chết, để không sợ hãi cái ngày nó tới.
Ông đã sẵn sàng. Ông những muốn rằng chương cuối này không bị viết ra trong tiếng ồn và nộ khí, nhưng đó là chuyện không tưởng. Ông đã dấn thân ra tiền tuyến của một cuộc chiến nơi không bao giờ có kẻ chiến thắng. Mà sẽ chỉ có những người chết.
Từ hai chục năm nay, ông biết mọi chuyện rồi sẽ kết thúc tồi tệ. Biết rằng sớm muộn ông cũng sẽ buộc phải giết người hoặc bị giết, bởi điều đó nằm trong chính bản chất của bí mật khủng khiếp mà ông là người được ủy thác.
Nhưng ngay cả trong những cơn ác mộng tồi tệ nhất, Fawles cũng không hình dung được Thần chết sắp mang ông đi lại có đôi mắt màu xanh lam, mái tóc vàng óng và gương mặt xinh đẹp của Mathilde Monney.
Chú Thích(21) (1884-1947): biên tập viên văn học người Mỹ, có công khám phá các tác giả nổi tiếng như Ernest Hemingway, F. Scott Fitzgerald và Thomas Wolfe…
(22) (sinh năm 1934): nhà văn kiêm biên tập viên văn học người Mỹ, có công khám phá các tác giả nổi tiếng như Raymond Carver, Rick Bass và Richard Ford…