← Quay lại trang sách

Chương 17

MAY THAY, chúng tôi có những người hàng xóm qua đỡ đần. Tôi từng kể các bạn nghe về bà Lola ở tầng năm, cái ông giả gái tiếp khách trong công viên Boulogne, có ô tô nên trước khi ra đó bà thường tạt lên phụ chúng tôi một tay. Bà mới ba mươi lăm tuổi và còn nhiều thành công trước mặt. Bà mang cho chúng tôi nào sô cô la, nào cá hồi xông khói, nào rượu sâm banh vì nó đắt tiền và chính thế mà những người vận động bằng lỗ đít không bao giờ dành dụm được. Hồi đó có tin đồn Orleans là người làm công gốc Bắc Phi mắc bệnh dịch tả và việc đầu tiên bà Lola làm thành lệ là rửa tay. Bà kinh hãi bệnh dịch tả, nó không được vệ sinh và chuộng sự nhơ nhớp. Tôi thì tôi không biết dịch tả nhưng tôi nghĩ nó không đến nỗi kinh như bà Lola nói, đó là một căn bệnh vô can. Nhiều khi tôi còn muốn bảo vệ dịch tả vì ít nhất cũng không phải lỗi của nó nếu nó như thế, nó chưa bao giờ quyết định sẽ là bệnh dịch tả mà mọi việc cứ tự xảy đến với nó.

Bà Lola lượn xe cả đêm ở công viên Boulogne bà bảo mình là người Senegal duy nhất trong nghề và bà đắt hàng vì cùng lúc sở hữu cả một đôi nhũ hoa nóng bỏng và một con cu. Bà đã nuôi dưỡng đôi gò bồng đảo nhân tạo như nuôi gà. Quá khứ đấm bốc khiến bà sung mãn đến độ có thề cầm một chân bàn nâng bổng lên nhưng người ta không trả công cho bà vì việc đó. Tôi quý bà lắm, đó là một người không giống bất cứ cái gì và không ai so đọ được. Tôi nhanh chóng ngộ ra rằng bà quan tâm tới mình là để có con có cái, mà bà không có được trong nghề của mình vì thiếu điều kiện cần và đủ. Bà đội một bộ tóc vàng giả và có bộ ngực được hâm mộ trong giới các bà các cô và được bà bồi bổ hàng ngày bằng hoóc môn, bà uốn éo người khi vừa đi giày cao gót vừa làm các động tác pê đê để gợi hứng cho khách hàng, nhưng đó quả thực là một người khác hẳn mọi người và ta thấy tin tưởng. Tôi không hiểu sao người ta toàn bị xếp hạng vì lỗ đít và vì sao lại quan trọng hóa nó lên trong khi nó không thể làm hại ai. Tôi có ve vãn bà đôi chút vì chúng tôi cần bà quá. Bà thảy tiền cho chúng tôi, bếp núc cho chúng tôi, nếm náp nước xốt trong lúc làm những bộ tịch nho nhỏ và vẻ mặt vui tươi, với đôi hoa tai và động tác nhún nhảy trên đôi giày cao gót. Bà bảo khi còn trẻ ở Senegal bà ba lần liền hạ gục Kid Govella nhưng bà luôn khổ sở vì mình là đàn ông. Tôi nói với bà “Madame Lola, bà thật chẳng giống bất kỳ ai hay thứ gì”, điều này làm bà khoái lắm, bà đáp “Đúng thế, bé Momo ạ, ta là một tạo vật trong mơ”, và quả đúng thế, bà giống với chú hề màu xanh hay cậu ô Arthur của tôi, những người cũng hoàn toàn dị biệt. “Cháu sẽ thấy, bé Momo ạ, khi cháu lớn lên, rằng những dấu hiệu để được cung kính bề ngoài chả có nghĩa lý gì, như cặp tinh hoàn vốn là cái ngẫu nhiên.” Madame Rosa ngồi trên ghế bành của mình và van vỉ bà hãy ý tứ vì tôi hãy con trẻ con. Không, bà tử tế thật vì bà hoàn toàn ngược đời và không nanh ác. Khi bà chuẩn bị ra ngoài buổi tối, đội tóc giả màu vàng, đi giày cao gót, đeo hoa tai và với khuôn mặt da đen đẹp mang dấu tích của võ sĩ đấm bốc, chiếc áo thun trắng tôn rõ bộ ngực lên, chiếc khăn hồng quấn quanh cổ để che đi cái yết hầu mà người giả gái rất kỳ thị, chiếc váy ngắn xẻ một bên và đôi bít tất đăng ten, trông không thể tin được, thật. Đôi khi bà biến đi đâu một hai ngày ở Saint-Lazare và kiệt sức trở về, trang điểm trễ nải rồi đi nằm và uống một viên thuốc ngủ vì không phải người ta rốt cuộc sẽ quen được với tất cả. Một lần cảnh sát đến nhà bà khám lục ma túy nhưng không đúng thế, các bà bạn đố kỵ đã vu khống bà. Ở đây tôi đang nói với các bạn về cái thời madame Rosa vẫn còn nói được và còn nguyên cả cái đầu trừ việc thỉnh thoảng Madame im bặt giữa chừng và há hốc miệng nhìn thẳng trước vẻ mặt không biết mình là ai đang ở đâu đang làm gì. Đó là chứng bác sĩ Katz gọi là tình trạng ngây ngô. Ở Madame nó nặng hơn rất nhiều ở người khác và nó đều đặn đè lên Madame nhưng Madame vẫn nấu món cá chép kiểu Do Thái đâu ra đấy. Hàng ngày khi công viên Boulogne chạy việc bà Lola đến hỏi thăm và cho chúng tôi tiền. Trong khu phố bà rất được trọng vọng và những kẻ dám ho he sẽ lĩnh đủ vào mõm.

Tôi không rõ chúng tôi sẽ ra sao ở tầng bảy nếu không có sáu tầng kia với những người thuê nhà không tìm cách chơi xấu nhau. Họ chưa bao giờ tố cáo madame Rosa với cảnh sát kể cả khi nhà Madame chứa tới mười nhóc con gái đĩ làm lộn tùng phèo trong cầu thang.

Tầng ba còn có một ông người Pháp cư xử cứ như không phải ở nhà mình. Ông ta cao lớn, khô khan với một cây gậy và sống âm thầm không khiến ai để ý. Ông biết tin madame Rosa đang yếu đi và một hôm ông leo bốn tầng lầu nối giữa hai nhà để đến gõ cửa. Ông vào nhà, chào madame Rosa, thưa bà, tôi xin gửi tới bà tất cả sự trân trọng của tôi, ông ngồi xuống, đặt mũ lên đầu gối, thẳng thớm, đầu vươn thẳng và ông lấy trong túi ra một chiếc phong bì dán tem bên trên có viết đầy đủ tên họ của ông.

- Tôi là Louis Charmette, đúng như tên viết trên này. Bà có thể đọc ở đây. Đó là một bức thư con gái tôi viết cho tôi, mỗi tháng một lần.

Ông chìa cho chúng tôi xem lá thư trên đó có viết tên ông, như muốn cho chúng tôi thấy ông vẫn còn môt cái tên.

- Tôi là nhân viên đường sắt nghỉ hưu, cán bộ hành chính. Tôi được biết bà đau nặng sau hai mươi năm sống cùng trong khu, và tôi muốn tranh thủ dịp này.

Tôi đã nói với các bạn là madame Rosa, không kể bệnh tật, rất trải đời và việc xảy ra làm Madame toát mồ hôi lạnh. Madame còn đầm đìa mồ hôi hơn khi có điều gì càng ngày Madame càng mù mờ không hiểu, mà đó lại là điều vẫn xảy ra khi người ta già đi và họa vô đơn chí. Vậy nên cái ông người Pháp đã cất công leo bốn tầng gác đến chào Madame đã giáng cho Madame một đòn chí mạng, nó như muốn nói Madame chết đến đít và đấy là sứ giả chính thức. Nhân vật này lại còn ăn mặc đạo mạo, với bộ trang phục đen tuyền, sơ mi, cà vạt chỉnh tề. Tôi không nghĩ madame Rosa muốn sống nhưng muốn chết Madame cũng không nốt, tôi nghĩ không phải cái này cũng chẳng phải cái kia, mà chỉ là Madame đã quen rồi. Tôi thì tôi tin còn nhiều việc đáng làm hơn thế.

Cái ông Charmette này tỏ ra nhất mực quan trọng và nghiêm trang trong cái dáng ngồi thẳng đuỗn và bất động, và madame Rosa hoảng. Giữa họ có một quãng lặng lê thê và sau đó họ không có gì để nói với nhau. Nếu các bạn muốn biết ý kiến của tôi thì cái ông Charmette này leo lên là bởi ông ta cũng cô độc và muốn tham vấn madame Rosa để liên kết. Đến độ tuổi nào đó người ta ngày càng có ít người người viếng thăm, trừ phi người ta có con cháu và những người này bị luật tự nhiên bó buộc. Tôi cho là cả hai người cùng làm cho nhau sợ và họ nhìn nhau như muốn nói xin ông nói trước đi không xin bà nói trước đi. Ông Charmette già hơn madame Rosa nhưng trông ông khô hơn, còn bà Do Thái tứ phía dồi dào nên bệnh tật có chỗ rộng rãi hơn nhiều. Mà nói chung với một bà già vốn từng phải là người Do Thái nhiều thế thì mọi thứ khắc nghiệt hơn so với một ông nhân viên Liên đoàn đường sắt quốc gia Pháp.

Madame ngồi trên ghế bành của mình, tay cầm chiếc quạt giữ lại từ thời xưa, thời người ta còn tặng Madame những món quà dành cho phái yếu, bị choáng mạnh đến nỗi không biết phải nói gì. Ông Charmette nhìn Madame, ngay đơ với chiếc mũ trên đầu gối như thể ông đến đón Madame đi, còn madame Do Thái đầu rung bần bật và mướt mồ hôi vì sợ. Dẫu sao cũng buồn cười khi tưởng tượng cái chết có thể vào nhà và ngồi xuống, đặt mũ lên đầu gối và nhìn thẳng vào mắt bạn như muốn nói đã đến giờ rồi. Tôi thì tôi thừa sức thấy rằng đó chỉ là một ông Pháp thiếu đồng hương và túm ngay cơ hội đánh tín hiệu về sự hiện diện của mình khi tin đồn madame Do Thái sẽ không xuống đất nữa đã lan khắp công luận đến tận hiệu tạp hóa Tunisie của ông Keibali nơi tất cả mọi tin tức đều về tụ hội.

Ông Charmette này có khuôn mặt rợp già, nhất là xung quanh hai con mắt, những kẻ đầu tiên cứ trũng cả xuống và sống vò võ trong quận lỵ của mình với dấu hiệu của tại sao, quyền nào, cái gì xảy đến với tôi. Tôi nhớ rõ như in về ông, tôi nhớ ông ngồi thang ra sao trước mặt madame Rosa trên tấm lưng mà ông không còn cúi xuống được nữa vì bệnh thấp khớp càng già càng nặng, đặc biệt khi đêm về mát lạnh, điều thường xuyên xảy ra những lúc trái mùa. Ở quầy đồ khô ông nghe phong thanh madame Rosa sẽ không còn trụ lại được bao lâu nữa và Madame bị xâm hại ở các cơ quan chính yếu giờ không còn tí công ích nào, và hẳn ông tin rằng một người như vậy có thể hiểu ông hơn những người vẫn còn nguyên xi lành lặn, và ông đã leo lên. Madame Do Thái thì hoảng loạn, đó là lần đầu tiên Madame đón tiếp một ông Pháp Công giáo ngồi ngay đơ trực diện. Họ còn im lặng thêm nữa, thêm nữa, rồi ông Charmette mở đôi lời, và ông bắt đầu nói một cách trang trọng với madame Rosa về tất cả những gì ông đã làm trong đời cho ngành đường sắt của Pháp, như thế dẫu sao cũng là quá nhiều với một madame Do Thái già đang ở vào tình trạng tiến triển rất xa và vì vậy Madame đi từ sửng sốt này đến ngạc nhiên khác. Họ sợ, cả hai người, vì không phải lúc nào tự nhiên cũng tiến hành mọi việc một cách tốt đẹp. Tự nhiên, nó làm loạn xì ngầu và nhắm tứ tung, ngay cả mình làm gì nó còn không biết, khi là lá hoa chim chóc khi là một madame Do Thái già ở tầng bảy và không còn khả năng đi xuống nữa. Cái ông Charmette này khiến tôi mủi lòng vì rõ mồn một là ông ta cũng rứa, không còn gì chẳng còn ai, dù vẫn có bảo hiểm xã hội. Tôi thì tôi thấy thứ thiếu thốn chính là những mặt hàng thiết yếu.

Đâu phải lỗi của người già nếu họ toàn bị tấn công vào lúc cùng buổi tận và tôi không nồng nhiệt gì với các quy luật của tự nhiên.

Người ta cũng có cảm giác gì đó khi nghe ông Charmette nói về các đoàn tàu, các nhà ga và giờ xuất phát, như thể ông còn hy vọng có thể thoát ra bằng cách bắt đúng chuyến tàu vào giờ hoàng đạo và tìm được chỗ đổi tàu, trong khi ông biết tỏng mình đã đến nơi và chỉ còn việc xuống tàu nữa mà thôi.

Họ tiếp tục như vậy hồi lâu và tôi thấy lo cho madame Rosa, tôi thấy rõ Madame bấn loạn hoàn toàn bởi một cuộc viếng thăm quan trọng dường kia, giống như người ta đến dâng lên Madame những niềm vinh hạnh cuối cùng.

Tôi mở mời ông Charmette hộp sô cô la bà Lola cho chúng tôi, nhưng ông không đụng đến vì ông có các cơ quan bắt ông phải kiêng của ngọt. Cuối cùng ông xuống lại tầng ba và cuộc viếng thăm của ông đã không dàn xếp được tí gì, madame Rosa thấy mọi người càng ngày càng tử tế với mình và đó chưa bao giờ là một điềm lành.