Chương 18
MADAME ROSA ĐỘ NÀY CÓ những đợt di trú ngày càng dài và nhiều khi ngồi thừ ra hàng giờ. Tôi nhớ tới tấm biển ông thợ giày Reza treo lên báo trường hợp ông vắng mặt thì cần đi tìm hàng khác, nhưng tôi chẳng bao giờ biết mình có thể tìm ai, vì ngay giữa La Mecque còn có người dính phải dịch tả. Tôi ngồi xuống chiếc ghế đẩu cạnh Madame, nắm tay Madame và đợi Madame trở về.
Bà Lola hết lòng giúp chúng tôi. Đi làm ở công viên Boulogne về, bà lử đử vì những nỗ lực bỏ ra cho hoạt động chuyên môn và đôi lúc ngủ không trở mình đến tận năm giờ chiều. Buổi tối bà lên phụ chúng tôi một tay. Thảng hoặc chúng tôi vẫn còn người đến ở trọ nhưng không đủ sống và bà Lola bảo nghề làm đĩ đang lụn bại dần do cạnh tranh rẻ rúng. Cảnh sát không ra đòn với gái điếm đã xếp xó mà cứ nhắm vào những người còn đáng đồng tiền bát gạo. Đã từng xảy ra một vụ tống tiền, một mô ca vốn chỉ là thằng dẫn gái vớ vẩn dọa tố con một bà điếm lên An sinh Xã hội để truất quyền phụ mẫu của bà nếu bà không chịu đi Dakar, và chúng tôi đã trông đứa bé trong mười ngày – nó tên Jules, thật đúng là trên cả mức cho phép – trước khi mọi việc được dàn xếp êm thấm vì có ông N’Da Amédée ra tay. Bà Lola làm việc nhà và giúp madame Rosa đảm bảo vệ sinh thân thể. Tôi sẽ không tung hô bà Lola nhưng tôi chưa thấy ông Senegal nào làm mẹ tốt bằng bà, tiếc nỗi tự nhiên lại không chịu. Bà là nạn nhân của bất công và ở đây rõ ràng ta mất đi một số đứa trẻ hạnh phúc. Đến cả quyền nhận con nuôi bà cũng không có vì người giả gái dị biệt quá mà điều này người ta đố bao giờ bỏ qua cho bạn. Bà Lola bởi lẽ ấy đôi khi cứ ủ rũ như gà phải trời mưa.
Tôi có thể nói với các bạn rằng cả tòa nhà đã phản ứng tích cực trước tin cái chết của madame Rosa, điều sẽ xảy đến vào thời điểm thích hợp, lúc nào mọi cơ quan của Madame đồng lòng hợp sức trên tinh thần đó. Có bốn anh em nhà Zaoum làm nhân viên chuyển nhà, đó là những người sức dài vai rộng nhất khu phố, chuyên trách đàn piano, giường tủ và tôi nhìn họ với lòng ngưỡng mộ túc trực bởi tôi cũng muốn được làm bốn người như họ. Họ đến bảo chúng tôi cứ đánh tiếng nếu cần đưa madame Rosa lên xuống mỗi khi Madame thèm ra ngoài dạo vài bước. Chủ nhật là ngày không ai chuyển nhà, họ khênh và đưa Madame xuống như một chiếc dương cầm, họ xếp Madame vào xe rồi chở Madame ra sông Marne cho Madame được hít thở bầu không khí trong trẻo. Hôm đó, Madame đầu óc lành lặn và thậm chí còn bắt đầu lên kế hoạch tương lai vì không muốn bị chôn cất theo nghi lễ tôn giáo. Ban đầu tôi tưởng bà Do Thái nhà ta sợ Thượng đế và hòng mong thoát khỏi vòng kiềm tỏa của Ngài khi được chôn phi tôn giáo. Hóa ra sai tóe loe. Madame có sợ gì Thượng đế đâu, mà bảo giờ khí trễ rồi, mọi chuyện đã an bài và Ngài khỏi phải đến xin Madame mở lượng hải hà nữa. Tôi cho là khi đầu óc chạy tốt madame Rosa muốn chết hẳn chứ không theo kiểu sau đó vẫn còn đường phải đi.
Trên đường về, mấy anh em Zaoum cho Madame đáo qua khu Les Halles với những phố Saint-Denis, Fourcy, Blondel, La Truanderie và Madame trở nên bồi hồi, nhất là khi trông thấy ở phố Provence cái khách sạn nhỏ thời trẻ mình ngày ngày thừa sức tung tăng lên xuống cầu thang cả bốn chục bận. Madame bảo chúng tôi Madame vui được gặp lại những vỉa hè góc phố mình từng đứng vận động, Madame cảm thấy đã hoàn tất đâu ra đấy bản hợp đồng của mình. Madame mỉm cười và tôi nhận thấy nó đã lên tinh thần cho Madame. Madame lại kể về thời tốt đẹp xa xưa, bảo đó là quãng hạnh phúc nhất đời mình. Khi lui về ở tuổi quá ngũ tuần, Madame vẫn còn khách quen nhưng thấy tuổi mình không đảm bảo yếu tố thẩm mỹ nên quyết định đổi nghề. Chúng tôi dừng chân uống nước ở phố Frochot và madame Rosa ăn một cái bánh ga tô. Sau đó chúng tôi về nhà và mấy anh em Zaoum đưa Madame lên gác bảy như một bông hoa và cuộc dạo chơi làm Madame nức lòng đến mức trong Madame như trẻ ra đến mấy tháng.
Ở nhà có Moïse về thăm chúng tôi đang ngồi trước cửa. Tôi chào nó rồi để nó lại cùng một madame Rosa đang sung sức. Tôi xuống quán cà phê dưới nhà tìm anh bạn đã hứa cho tôi một chiếc áo khoác da xuất xứ từ một cửa hàng quân phục Mỹ xịn chứ không phải của giả, nhưng anh ta không có đấy. Tôi ngồi lại một lúc với ông Hamil, ông có vẻ khỏe khoắn, ông ngồi bên tách cà phê đã uống cạn và bình thản mỉm cười với bức tường trước mặt.
- Ông Hamil, ông khỏe chứ ạ?
- Chào bé Victor, được nghe giọng cháu ta vui lắm.
- Ta sẽ sớm tìm ra các loại kính dành cho tất cả mọi người, ông Hamil ạ, ông sẽ lại nhìn rõ.
- Cần tin tưởng vào Thượng đế.
- Rồi một ngày kia sẽ có những cặp kính tuyệt vời chưa từng thấy và người ta thật sự có thể nhìn rất rõ, ông Hamil ạ.
- Nếu vậy thì, cháu Victor của ta, hãy tôn vinh Thượng đế, vì chính Người đã cho ta sống lâu thế này.
- Ông Hamil, cháu không phải Victor. Cháu là Mohammed. Người bạn kia cùa ông mới là Victor.
Ông tỏ vẻ sửng sốt.
- Ừ nhỉ, bé Mohammed… Tawa kkaltou’ala al Hayy elladri là iamoût… Ta đặt niềm tin nơi Người Sống không từ giã cõi đời… Thế ta đã gọi cháu thế nào hả bé Victor?
Rõ khỉ.
- Ông đã gọi cháu là Victor.
- Sao ta lại như vậy được nhỉ? Xin lỗi cháu nhé.
- Ồ, không sao, không sao hết, tên này hay tên kia cũng vậy thôi, không sao đâu ạ. Từ hôm qua tới giờ ông thế nào?
Ông có vẻ lăn tăn. Tôi thấy ông căng sức nhớ lại, nhưng các ngày của ông giống nhau từng giây từng phút kể từ khi ông không còn sống để bán thảm chí sáng tận tối nữa, thế nên trong đầu ông là một màu trắng tinh khôi, ông vẫn để tay phải trên Cuốn Sách nhỏ cũ sờn mà Victor Hugo đã viết và Cuốn Sách hẳn đã quen cảm nhận bàn tay vịn vào nó, như ở người già khi ta giúp họ qua đường.
- Từ hôm qua đến giờ, cháu hỏi ta vậy phải không nhỉ?
- Hôm qua hay hôm nay đều không sao cả, chỉ là thời gian qua đi thôi ông Hamil ạ.
- Thế thì, hôm nay, ta ngồi ở đây cả ngày, bé Victor của ta ạ…
Tôi nhìn Cuốn Sách, nhưng không có gì để nói, họ ở bên nhau hàng năm nay rồi.
- Một ngày kia cháu cũng sẽ viết một cuốn sách, ông Hamil ạ. Với đủ thứ trong đấy. Thế ngoài ra ông Victor Hugo còn viết cái gì hay ho nữa ạ?
Ông Hamil nhìn xa xăm và mỉm cười. Tay ông khẽ động đậy trên Cuốn Sách như ve vuốt nó. Các ngón tay lậy bậy.
- … Đừng đặt cho ta nhiều câu hỏi quá, bé…
- Mohammed.
- Đừng hỏi ta nhiều quá, hôm nay ta hơi mệt.
Tôi cầm lấy Cuốn Sách, ông Hamil cảm nhận được điều đó và trở nền bồn chồn. Tôi ngó nhan đề rồi trả nó lại cho ông. Tôi cầm tay ông đặt lên trên.
- Đây, ông Hamil, nó đây, ông có thể cảm nhận thấy nó.
Tôi nhìn các ngón tay ông rờ roạng Cuốn Sách.
- Cháu không giống nhứng đứa trẻ khác, bé Victor của ta ạ. Ta vẫn biết thế.
- Một ngày kia cháu cũng sẽ viết những kẻ khốn nạn, ông Hamil ạ. Lát nữa có ai đưa ông về nhà không?
- Inch’Allah. Chắc sẽ có ai đó, vì ta tin vào Thượng đế, bé Victor của ta ạ.
Tôi phát chán vì ông chỉ chăm chăm nghĩ đến kẻ nọ.
- Ông kể cháu nghe điều gì đi ông Hamil. Ông hãy kể cho cháu cuộc trường chinh đến Nice của ông đi, khi ông mười lăm tuổi ấy.
Ông lặng thinh.
- Ta ấy à? Ta đã có một cuộc trường chinh đến Nice ư?
- Khi ông còn trẻ như măng ấy.
- Ta không nhớ. Ta không còn nhớ chút gì nữa.
- Thế thì để cháu kể ông nghe nhé. Nice là một ốc đảo bên bờ biển, có rừng mimosa, có những cây cọ và những ông hoàng người Nga người Anh đánh nhau bằng hoa. Có nhứng chú hề nhảy múa tung tăng trên phố, có giấy màu từ trên trời rơi xuống và không bỏ sót một ai. Một ngày nào đó cháu sẽ đi Nice, cháu cũng thế, khi nào cháu trẻ.
- Sao cơ, khi nào cháu trẻ? Cháu đã già rồi sao? Cháu mấy tuổi rồi, cháu bé của ta? Cháu đúng là bé Mohammed, phải không nhỉ?
- À, điều ấy thì chẳng ai biết gì, tuổi cháu cũng thế nốt. Cháu không được đề ngày. Madame Rosa bảo cháu sẽ không bao giờ có tuổi cho mình vì cháu khác biệt và cháu sẽ không bao giờ làm điều gì khác ngoài nó, khác biệt. Ông có nhớ madame Rosa không? Bà sắp chết rồi.
Thế nhưng ông Hamil lại lạc lối ở bên trong bởi cuộc đời bắt người ta sống mà không đoái hoài đến điều xảy ra với họ. Ở tòa nhà đối diện có một bà là bà Halaoui sang đón ông trước giờ đóng cửa và dìu ông về giường vì bản thân bà cũng đơn chiếc. Tôi còn không rõ họ quen nhau và hay chỉ muốn tránh phải ở một mình. Bà có một quầy bán lạc ở chợ Barbès, như bố bà hồi còn sống. Vậy nên tôi bảo:
- Ông Hamil ơi ông Hamil! như thế này, đểnhắc ông nhớ rằng vẫn còn ai đó yêu thương ông, biết tên ông và rằng ông có một cái tên.
Tôi nán lại với ông một hồi lâu và để thời gian trôi đi, cái thời gian lờ lững trôi, không phải thời gian Pháp, ông Hamil thường bảo tôi thời gian chầm chậm đến từ sa mạc cùng những tốp lạc đà, không hối hả vì nó chở cõi vĩnh hằng. Nhưng kể điều đó ra lúc nào chẳng đẹp đẽ hơn là nhìn thấy nó trên khuôn mặt một người già mỗi ngày lại bị đánh cắp thêm một ít, và nếu các bạn muốn biết ý kiến của tôi thì thời gian ấy mà, nếu muốn tìm nó thì hãy đến phường kẻ cắp.
Chủ quán cà phê mà chắc chắn các bạn cũng biết, vì đó là ông Driss, đến liếc về phía chúng tôi. Đôi lúc ông Hamil buồn đi tè và phải tức thì đưa ông ra nhà vệ sinh trước khi mọi thứ ập đến. Nhưng đừng nên nghĩ ông hết tự giác và vô giá trị. Người già cũng có giá trị y hệt mọi người, dù đã bị sứt mẻ. Họ cũng xúc cảm như bạn như tôi và điều đó nhiều khi làm họ đau lòng còn hơn chính bản thân chúng ta vì họ đã đánh mất khả năng tự vận động. Nhưng họ bị tự nhiên bào mòn, cái tự nhiên có thể là đồ đĩ thõa xinh tươi âm ỉ thiêu hủy họ. Chỗ chúng ta còn chó má hơn ngoài tự nhiên, vì tuyệt đối cấm phá thai cho người già dù tự nhiên lần mòn bóp nghẹt họ và mắt họ trồi ra vì căm phẫn. Đó không phải trường hợp của ông Hamil, ông có thể già hơn nữa và có thể chết ở tuổi một trăm mười hay có khi còn thành vô địch thế giới chưa biết chừng, ông vẫn làm tròn trách nhiệm của mình và nói “tè” khi cần kíp, trước khi nó xộc đến và thế là ông Driss lại nắm cùi tay ông và đích thân tháp tùng ông ra nhà vệ sinh, ở người Ả-rập, khi một người già lụ khụ và sắp sửa bị rũ bỏ, người ta tỏ lòng kính trọng ông và kiếm lại cũng chừng ấy từ tài khoản của Thượng đế, và lợi nhuận không hề cỏn con. Dẫu vậy cũng thật buồn cho ông Hamil vì phải bị dẫn đi giải, tôi đã chia tay họ tại đấy vì theo tôi thì đừng nên theo đuổi nỗi sầu bi.