Chương VI
Thật kỳ lạ, Thérèse chỉ nhớ lại những ngày tiếp sau hôm Anne và ông bà La Trave ra đi như một thời kỳ hôn mê. Ở Argelouse, coi như mặc nhiên nàng phải tìm cách giải quyết thỏa đáng việc buộc anh chàng Azévédo buông tha cô bé, lại chỉ thấy nàng thong dong hết ăn rồi ngủ. Bernard đồng ý không ở nhà mình mà qua nhà Thérèse, tiên nghi hơn, lại có bà cô Clara, khiến họ khỏi phải lo những việc lặt vặt. Người khác thì dính líu gì đến Thérèse? Họ cứ lo liệu lấy. Chẳng có gì khiến nàng thích thú hơn là cứ giữ trạng thái ngây dại này cho đến khi được giải thoát. Sáng nào, Bernard cũng nhắc việc nàng hứa gặp Jean Azévédo, khiến nàng nổi xung. Thérèse sừng sộ với anh, nàng bắt đầu cảm thấy khó mà chịu đựng nổi anh. Có thể do tình trạng thai nghén, như Bernard vẫn tưởng, nên sự cáu gắt chẳng có gì lạ. Chính anh lúc đó cũng chớm bị tác động bởi nỗi ám ảnh chung của cả dòng họ, dù rằng ít khi nó hiện ra trước năm ba mươi tuổi: nỗi sợ chết nơi một thanh niên vạm vỡ cường tráng thoạt tiên khiến người ta kinh ngạc. Nhưng nói thế nào khi anh cả quyết:
- Mấy người không biết tôi cảm thấy điều gì đâu…? Thân thể những kẻ ăn nhiều, thuộc tầng lớp nhàn rỗi và quá dư thừa, chỉ có bề ngoài là khỏe mạnh. Cây thông trồng trên đất màu mỡ tất nhiên tăng trưởng nhanh, nhưng ruột cây mục ruỗng rất sớm, tuy đang lúc tươi xanh, vẫn phải đốn bỏ.
- Bực thật!
Người ta nói với Bernard, nhưng anh cảm thấy rõ cái tì vết ngay ở bản chất của sự rạn nứt đó.
Thế rồi thật không tưởng tượng nổi, anh không ăn nữa, anh không biết đói.
- Sao anh không thử đi khám xem?
Anh nhún vai, làm ra vẻ dửng dưng. Thực ra, sự mơ hồ dù sao cũng không đáng sợ bằng một phán quyết tử hình, có lẽ vậy. Ban đêm, đôi khi một tiếng rên khò khè khiến Thérèse giật mình tỉnh dậy. Bernard nắm lấy tay nàng, áp lên ngực trái mình cho nàng nghe hơi thở anh ngắt quãng từng cơn. Nàng đốt ngọn nến, đứng lên, rót một ít valérinate[7] vào ly nước. Tình cờ nào xui khiến thứ thuốc trộn này công hiệu! Sao nó không gây chết người? Chẳng có gì xoa dịu, ru ngủ thực sự bằng một giấc ngủ ngàn thu. Kẻ hay kêu rên kia, sao anh lại quá sợ hãi cái điều giúp mình mãi mãi nguôi đau?
Anh ngủ lại trước nàng. Làm sao nằm chờ giấc ngủ bên cái thân xác to lớn, mà tiếng ngáy đôi khi gợn nỗi kinh hoàng? Nhờ Trời, anh không gần nàng nữa. Hình như đối với anh, trong mọi thao tác, làm tình là nguy hiểm cho tim anh hơn cả. Gà gáy sáng đánh thức các trang trại. Trong gió đông, chuông cầu kinh từ nhà thờ Saint Clair đổ liên hồi, cuối cùng Thérèse cũng thiếp đi. Một lần nữa, gã đàn ông trở dậy. Anh mặc vội quần áo, theo lối nhà quê, chỉ vục đầu cho qua loa trong nước lạnh. Rồi như con chó, anh lẩn nhanh xuống bếp, vốn khoái thức ăn thừa trong chạn, anh đứng thẳng lưng ăn vội mẩu đùi gà, lát thịt chín giầm mỡ, thêm chùm nho và miếng bánh mì xát tỏi, đấy là bữa ăn ngon duy nhất trong ngày của anh. Anh vứt xương cho Flambeau và Diane nhai trèo trẹo. Sương mù phảng phất hương mùa thu. Giờ này, Bernard không còn đau nữa, mà cơ thể anh lại như tràn trề nhựa sống thanh xuân. Lát nữa đàn chim cu sẽ bay qua, phải lo mấy con chim mồi, làm mờ mắt chúng. Đến mười một giờ, anh về, lúc đó Thérèse vẫn còn ngủ.
- Thế nào? Còn gã Azévédo kia? Em biết là ở Biarritz, mẹ đang mong ngóng tin tức qua hòm thư lưu trữ chứ?
- Thế còn tim anh thì sao?
- Đừng nhắc đến tim anh. Chỉ nghe nói tới là anh lại cảm thấy nhói đau. Tất nhiên, như thế là quá kích động. Em cũng nghĩ là anh bị kích động phải không?
Chưa bao giờ nàng đáp đúng ý anh:
- Ai biết được. Chỉ có anh mới rõ mình cảm thấy thế nào thôi. Đâu phải vì lẽ cha anh chết do viêm phổi… nhất là vào tuổi anh… Cố nhiên bệnh tim là điểm yếu của dòng họ Desqueyroux. Điệu bộ sợ chết của anh nom buồn cười quá! Bernard ạ! Có bao giờ anh cảm thấy thấm thía như em về cái vô tích sự của mình không? Không à? Anh không nghĩ rằng cuộc sống của những người như chúng ta, chẳng đã giống cái chết một cách kinh khủng rồi sao?
Anh nhún vai. Nàng làm anh nghẹn họng bởi mớ ý tưởng ngược đời của nàng. Ra vẻ tài trí thì có khó gì: cứ vơ hết những gì trái với lẽ thường. Nhưng nàng sai lầm to, anh tiếp, với anh cần chi phải lắm lời, tốt hơn nên dành đến lúc gặp mặt gã Azévédo.
- Em biết là gã sẽ rời khỏi Vilméja vào giữa tháng mười chứ?
Ở Villandraut, ga xép cuối cùng trước khi đến Saint Clair, Thérèse nghĩ: “Nói sao cho Bernard hiểu mình không hề yêu gã thanh niên đó? Chắc tại anh tưởng là mình say mê gã. Như tất cả những ai chưa từng yêu tha thiết, anh nghĩ rằng tội ác mà người ta gán cho nàng, chỉ có thể là vì tình mà thôi”. Bernard phải hiểu, là dạo đó, nàng không hề ghét bỏ anh, dẫu cho anh thường quấy rầy nàng, nàng không tin là một người đàn ông khác có thể giúp được nàng điều gì. Xét cho cùng Bernard đâu đến nỗi tệ. Nàng ghét cay ghét đắng những nhân vật khác thường được mô tả trong tiểu thuyết, mà ta chẳng bao giờ gặp ngoài đời.
Người đàn ông cừ khôi duy nhất mà nàng được biết, đó là cha nàng, dù nàng có tô vẻ thêm đôi nét cao quý cho người đảng viên cấp tiến bướng bỉnh và đa nghi đó. Ông hoạt động trên nhiều lãnh vực: là nhà công nghiệp, ngoài một trại cưa ở B, ông còn tự khai thác nhựa của mình và của phần đông họ hàng trong một cơ xưởng ở Saint Clair. Là kẻ đầu cơ chính trị, đối với những ai bị thiệt hại vì thái độ đanh thép của ông; nhưng rất được lòng ở tỉnh. Và hết sức khinh thường phụ nữ! Kể cả Thérèse, vào cái thuở ai cũng khen nàng thông minh sắc sảo. Nhất là từ khi xảy ra thảm kịch.
- Tất cả nếu không ngu xuẩn, cũng đều mắc bệnh cuồng trí.
Ông nói với viên luật sư. Kẻ chóng giáo hội đó, lại rất dễ cả thẹn. Dù đôi khi cũng ngâm nga một điệp khúc của Béranger, ông không chịu nổi việc người ta động đến một số vấn đề kín đáo, lúc đó, mặt ông đỏ rần như cậu bé mới lớn. Qua ông de la Trave, Bernard được biết rằng ông Larroque lúc cưới vợ hãy còn tân!
Từ khi góa vợ, vẫn mấy vị ấy bảo, chưa thấy ông có tình nhân bao giờ. “Cha em đúng là một người kỳ dị!
Vâng, đó là một kẻ kỳ dị. Nếu ở xa, nàng tạo ra cho mình một hình ảnh tươi đẹp về ông, thì khi đến gần, Thérèse lại chán ngán cho sự hèn hạ của ông. Ông ít khi về Saint Clair, thường ghé Argelouse hơn, vì ông không thích gặp ông bà La Trave. Trước mặt họ, dù bị cấm bàn chuyện chính trị, cuộc tranh luận ngớ ngẩn ấy vẫn nổ ra lúc ăn cháo và chẳng mấy chốc đã trở thành gay gắt. Thérèse thấy xấu hổ nếu phải xen vào, nàng tự hào đã không hé môi, trừ phi người ta đụng đến vấn đề tôn giáo. Lúc đó, nàng xông vào tiếp cứu ông Larroque. Ai cũng lớn tiếng, đến nỗi cả bà cô Clara cũng nghe ra vài câu lõm bõm, thế là bà lao vào cuộc cãi vã. Và với thứ giọng ghê rợn của người điếc, bà tha hồ biểu lộ nhiệt tình của một bà già cấp tiến “biết rõ những gì xảy ra trong các tu viện”. Kỳ thực, Thérèse nghĩ, bà mộ đạo hơn bất kỳ ai trong dòng họ La Trave, nhưng luôn khai chiến với đấng chí tôn đã bắt bà phải điếc và xấu xí, để bà chết mà chưa hề được yêu, chưa một lần ân ái.
Từ lúc bà La Trave đứng dậy rời khỏi bàn ăn, người ta nhất trí nhau nên tránh những lý luận trừu tượng, Vả lại, chính trị không thôi cũng đủ khiến người ta nổi khủng, dù tả hay hữu họ đều đồng ý cái nguyên tắc cơ bản: quyền sở hữu ruộng đất. Nhưng có nên hay không, khoanh đám cháy lại? Và nếu người ta cam chịu, thì trong chừng mực nào? Thérèse, người “có ý thức sở hữu trong máu” muốn rằng vấn đề phải được đặt ra, nhưng nàng ghét cái thói giả dối bề ngoài, mà hai gia đình Larroque và La Trave khoác lên tham vọng chung của họ. Khi cha nàng tuyên bố:
- Mãi mãi trung thành với nền dân chủ!
Nàng ngắt ngang:
- Bà ơi! Không cần đâu, ở đây chỉ có hai cha con mình thôi mà.
Nàng nói rằng trong chính trị cái cao cả nhất cũng khiến nàng ghê tởm, nàng không thể hiểu nổi cái bi thảm của cuộc xung đột giai cấp, trong một xứ sở mà kẻ nghèo nhất cũng là nghiệp chủ, chỉ mong được giàu thêm, nơi mà sở thích chung về đất đai, săn bắn, cái ăn uống, đã tạo ra giữa mọi người, dù tư sản hay nông dân, một tình nghĩa anh em gắn bó. Hơn nữa Bernard có học thức, thiên hạ nói là anh đã chui ra khỏi hang. Cả Thérèse cũng lấy làm sung sướng thấy anh là người có thể chuyện vãn được:
- Tóm lại, khá hơn đồng bạn nhiều…
Nàng nhận xét anh thế đó, cho đến ngày gặp gỡ Jean Azévédo.
Đó là khoảng thời gian mà cái mát mẻ ban đêm còn đọng lại dến suốt buổi sáng hôm sau. Và ngay lúc dùng bữa ăn nhẹ, dù trời nóng bức thế nào, từ xa, một chút sương mù đã báo hiệu hoàng hôn. Những con chim cu đầu tiên bay qua. Và Bernard chỉ trở về lúc chiều tối. Tuy nhiên, ngày hôm ấy, sau một đêm khó ngủ, anh đi thẳng một mạch lên Bordeaux, để khám bệnh.
“Bấy giờ, tôi không ước ao gì cả - Thérèse nghĩ. – Tôi đi dạo trên đường khoảng một giờ, vì một phụ nữ có mang cần phải đi lại đôi chút. Tôi tránh các khu rừng, cứ mỗi lúc lại phải dừng chân vì các bẫy lưới chim cu, huýt gió, chờ đến khi gã thợ săn lên tiếng cho phép mình đi tiếp. Nhưng có khi, một tiếng huýt dài đáp lại: Một bầy chim vừa sà xuống rặng sồi; buộc mình phải ẩn núp. Rồi tôi quay về nhà; ngồi mơ màng trước lò sưởi hay bên bếp lửa, tất cả đều do bà cô Clara phục dịch. Như một vị thần không thèm nhìn kẻ phục sự mình, tôi không mảy may chú ý đến cô gái già lúc nào cũng lải nhải bằng giọng mũi, hết chuyện bếp núc đến điền trang; bà nói, nói mãi để khỏi phải nghe. Hầu như bao giờ cũng là những giai thoại đau thương liên quan đến những tá điền bà săn sóc, chăm lo với sự tận tâm sáng suốt, các cụ già lâm cảnh đói khát, suốt đời lam lũ, người tàn tật bị bỏ rơi, phụ nữ ở đợ phải làm việc nặng nhọc quá mức. Với vẻ hân hoan, bà cô Clara kể lại, qua thứ thổ ngữ ngây ngô, những lời nói hung ác nhất của họ. Thực ra bà chỉ thương mình tôi, thế mà tôi chẳng buồn nhìn thấy bà quì dưới chân, tháo giày ra, cởi vớ, xoa nắn, sưởi ấm bàn chân tôi trong đôi tay nhăn nheo của bà.
“Balion đến nhận lệnh mỗi khi có việc phải đi Saint Clait vào ngày hôm sau.
“Bà cô Clara lập danh sách những thức cần mua, gom các toa thuốc của các bệnh nhân ở Argelouse.
“Trước tiên, hãy đến hiệu thuốc, Barquey không có nhiều thì giờ để bào chế thuốc trong ngày đâu…”
Lần đầu tiên tôi gặp Jean… Tôi phải nhớ lại từng tình tiết. Đến đó, tôi chọn chỗ lưới bẫy chim cu bỏ phế, nơi cách đây chưa bao lâu, tôi cùng Anne ăn bữa quà chiều và tôi biết cũng chốn này, từ dạo đó, cô thường hẹn gặp Jean Azévédo. Không, trong tâm trí tôi, đây chẳng phải là một cuộc hành hương, Nhưng những cây thông phía này phía này, quá cao lớn nên người ta khổng thể ngồi rình lũ chim cu: tôi sẽ không quấy rầy các thợ săn. Cái bẫy lưới đó không còn sử dụng được nữa, vì khu rừng chung quanh che khuất chân trời, những ngọn thông cao vút, cách xa nhau không còn chừa khoảng trời thênh thang để người rình nhìn thấy đàn chim xuất hiện. Em có nhớ, mặt trời tháng mười vẫn còn gay gắt, tôi lê từng bước khó nhọc trên lối đi ngập cát, ruồi cứ vo ve bên tôi. Cái bụng sao mà nặng nề! Tôi ước mong được ngồi trên cái băng mục nát trong lều. Tôi vừa mở cánh cửa, một thanh niên đầu trần bước ra; nhác thấy, tôi đã nhận ran gay Jean Azévédo. Thoạt tiên, tôi ngỡ mình vừa phá đám một cuộc hẹn hò, bởi mặt anh có vẻ ngượng nghịu. Nhưng tôi muốn tháo lui mà không xong, cũng lạ là anh ta cứ muốn cầm giữ tôi lại.
- Ồ không, mời bà vào, thưa bà. Tôi xin thề là bà chẳng làm phiền gì tôi cả.
Tôi ngạc nhiên chẳng thấy ai trong túp lều tôi vừa vào, theo lời khẩn khoản của anh ta. Có thể cô mục đồng đã lẻn trốn ngõ khác chăng? Nhưng không một cành cây lay động. Anh ta đã nhận ra tôi, và cái tên Anne de la Trave được nhắc đến đầu tiên. Tôi ngắm nhìn, qua lớp áo tussor, cái chỗ tôi đã xuyên thủng bằng kim găm: đó là sự tò mò tự nhiên chẳng gợn chút đam mê nào. Anh ta có đẹp trai không? Một vầng trán phẳng. Đôi mắt nhung của dòng giống anh. Đôi má bầu bĩnh mà điều tôi vẫn gớm nơi những thanh niên lứa tuổi anh là mụn, dấu hiệu biến động của máu, tất cả những gì mưng mủ, và gan bàn tay hâm hấp, mà anh ta vừa lấy khăn lau trước khi bắt tay tôi. Nhưng cái nhìn nóng bỏng, tôi thích cái miệng rộng lúc nào cũng hé ra, để lộ hàm răng nhọn: mõm của con chó nhỏ hứng tình. Thế còn tôi thì sao? Thân thiết như người nhà vậy. Tôi còn nhớ chưa chi tôi đã lên giọng kẻ cả với điệu bộ trịnh trọng, tố cáo anh ta “đã mang đến sự xáo trộn và chia rẽ giữa một nơi tôn nghiêm”. A! Hãy nhớ lại vẻ sửng sốt không hề giả vờ, giọng cười trẻ trung của anh ta:
- Thế ra bà ngỡ tôi muốn cưới cô ấy sao? Bà ngỡ là tôi khao khát cái hạnh phúc đó ư?
Trong một thoáng, tôi kinh hãi nhận ra cái vực thẳm ngăn cách không cùng giữa nỗi đam mê của Anne và sự hờ hững của chàng trai. Anh ta bào chữa quyết liệt, dĩ nhiên làm sao anh khỏi bị quyến rũ trước một cô gái tuyệt vời như thế? Anh có bị cấm vui chơi đâu, và chính vấn đề hôn nhân không thể đặt ra giữa họ, nên trò chơi đối với anh vô hại. Có thể là anh đã vờ chia sẻ những mơ ước của Anne… chỉ đến khi tôi giận dữ cắt ngang, anh ta mới thành khẩn phân bua rằng chính Anne có thể làm chứng là anh đã biết tự đè nén không dám đi quá xa. Ngoài ra, anh tin chắc là nhờ anh mà tiểu thư de la Trave được biết những phút yêu đương chân thật duy nhất trong cuộc đời buồn tẻ của mình.
- Bà nói cô ấy đau khổ ư? Nhưng thưa bà, thử hỏi nàng còn có gì đẹp hơn để mà chờ đợi nơi số phận mình, ngoài nỗi đau khổ ấy? Tôi đã nghe tiếng tăm bà, tôi biết có thể trao đổi với bà chuyện này vì bà không giống những người ở đây. Trước khi nàng sang ngang, dấn thân vào quãng đời sầu thảm làm dâu một gia đình cố cựu nào đó ở Saint Clair, tôi đã trang bị cho Anne chút vốn cảm giác và mộng mơ – những gì có thể giúp nàng thoát khỏi tuyệt vọng, và dù thế nào đi nữa, khỏi u mê! Tôi không còn nhớ vẻ tự phụ quá mức và tình cảm lai láng đó, có khiến mình bực dọc không, hay tôi lại vì thế mà bàng hoàng?
Thực ra, anh ta nói nhanh đến nỗi lúc đầu tôi không kịp hiểu ra, nhưng sau đó, trí óc tôi quen dần với sự liến thoắng đó:
- Có thể tin rằng tôi mơ ước một cuộc hôn nhân như vậy sao? Neo chân trong vũng cát lầy này, hay đèo bồng một cô gái giữa Paris? Tất nhiên tôi gìn giữ và tôn thờ hình ảnh Anne mãi mãi. Và bà bắt gặp tôi ở đây, đúng vào lúc tôi đang nghĩ đến nàng đấy. Nhưng làm sao người ta có thể tự ràng buộc mình được, thưa bà? Mỗi phút đem đến một niềm vui riêng – một niềm vui khác hẳn mọi niềm vui đã qua.
Vẻ háo hức của con thú non, sự hiểu biết của một người, điều ấy lạ lùng quá khiến tôi chăm chú lắng nghe, không dám ngắt lời. Vâng, đúng là tôi bị mê hoặc rồi! Trời ơi! Sao mà dễ dàng! Nhưng quả là tôi đã bị mê hoặc. Tôi còn nhớ tiếng giậm chân, tiếng lục lạc leng keng, tiếng la hét cộc cằn của bọn mục đồng, từ xa báo hiệu đàn cừu sắp đến gần. Tôi nói với chàng trai rằng, ngồi với nhau thế này trong lều chắc trông dị hợm lắm nhỉ, tôi mong anh đáp là miễn mình đừng gây tiếng động, cho đến khi đến đàn cừu qua hết, tôi sẽ vui hưởng phút yên lặng bên nhau, sự đồng lõa vô tình này (cả tôi nữa, tôi cũng khao khát, và mong ước mỗi phút giây phải mang đến cho tôi cái gì để sống). Nhưng Jean Azévédo lẳng lặng đến mở cửa lều, rồi lẩn ra ngoài, điệu bộ hết sức kiểu cách. Chỉ đến lúc biết chắc tôi chẳng còn thấy gì trở ngại anh mới dừng bước không đưa tôi về tận Argelouse. Chuyến về, có vẻ quá nhanh đối với tôi, dù người bạn đồng hành vẫn có đủ thời gian đề cập đến bao nhiêu là chuyện. Anh đổi mới một cách kỳ lạ nhiều điều tôi ngỡ có biết qua chút ít. Thí dụ về vấn đề tôn giáo, khi tôi lặp lại những gì tôi vẫn quen nói trong gia đình, anh liền cắt ngang:
- Vâng, có thể là thế… nhưng rắc rối hơn nhiều…
Quả nhiên, trong cuộc tranh biện, anh làm sáng tỏ nhiều điềm thật kỳ diệu. Nhưng chúng có thật kỳ diệu đến thế không?... Tôi tin là bây giờ, tôi đã chán mứa cái giọng cầu kỳ ấy: anh nói đã từ lâu, anh tin tưởng chẳng có gì đáng kể, ngoài sự kiếm tìm, lần theo dấu vết Thượng đế:
- Xuống tàu, ra khơi, trốn biệt như trốn thần chết, những kẻ tin chắc đã tìm thấy, rồi yên vị, dựng thành trì để ru ngủ mình trong đó; đã từ lâu, tôi khinh bỉ bọn họ…
Anh hỏi tôi có đọc quyển “Cuộc đời của cha Foulcauld” của René Bazin không và vì tôi giả bộ cười, anh bảo rằng quyển sách ấy đã đảo lộn tâm trí anh:
- Sống nguy hiểm liều lĩnh theo cái nghĩa sâu xa, anh tiếp, có lẽ chẳng phải là tìm kiếm hay bắt gặp Thương đế, và khi đã tìm thấy, lại nằm mãi trong quỹ đạo của người.
Anh mô tả:
“Cuộc phiêu lưu bi tráng của những kẻ thần bí” than vãn rằng thể chất mình không cho phép anh thử dấn thân.
Nhưng kỷ niệm dù trôi xa, anh không nhớ là mình đã rất trong sạch…
“Thật khiếm nhã biết bao cái lỗi thổ lộ tâm tình đó, nó biến đổi cái tính e dè của tỉnh lẻ, sự kín tiếng mà mỗi người ở đây gìn giữ cho cuộc sống riêng tư”. Chuyện soi mói ở Saint Clair chỉ mới đụng chạm bên ngoài: những cõi lòng chẳng bao giờ chịu phơi mở. Thực ra, tôi biết gì về Bernard? Nơi anh, mãi mãi chẳng có gì khác hơn bức ký họa mà tôi rất hài lòng khi cần hình dung ra anh? Jean nói, còn tôi lặng thinh, chỉ ậm ừ vài câu tranh luận quen thuộc trong gia đình. Cũng như ở đây, những chiếc xe đều “rập khuôn”, có nghĩa là khá rộng để bánh xe khớp với vết lún của xe bò. Mọi tư tưởng của tôi, cho đến nay, đều “rập khuôn” với cha tôi và bố mẹ chồng.
Jean Azévédo để đầu trần, tôi thấy lại, qua chiếc áo hở khuy, một bộ ngực trẻ con, cái cổ no đầy. Tôi có bị quyển rũ bởi vẻ đẹp thể xác không? A! Lạy Chúa, không! Nhưng anh là người đàn ông đầu tiên tôi được gặp và với anh, trên hết, chỉ có đời sống tinh thần là đáng kể. Những mẩu chuyện hay sách vở của thầy anh, bạn bè anh ở Paris, mà anh luôn nhắc đến, khiến tôi không thể xem anh như một người lập dị. Anh là thành viên của một tầng lớp ưu tú, “những kẻ đang tồn tại”? Anh nói. Anh kể ra những tên tuổi, không hề nghĩ là tôi có thể chưa biết và tôi giả vờ như chẳng phải nghe lần đầu.
Khi cánh đồng Argelouse hiện ra ở khúc quanh con đường.
- Đến rồi ư?
Tôi kêu lên. Khói cỏ chay vương vất trên mặt đất khô cằn, từng nuôi sống lúa mạch đen, qua một khe hở bên bờ dốc, đàn cừu lừ lừ trôi đi như dòng sữa bẩn và có vẻ như chúng đang gặm cát. Jean phải băng qua cánh đồng để về Vilméja. Tôi nói với anh:
- Tôi sẽ đưa anh đi; những vấn đề này làm tôi say mê.
Nhưng chúng tôi chẳng tìm ra điều gì để nói với nhau nữa. Những cọng lúa bị cắt len qua giày, đâm vào gót chân khiến tôi nhột nhạt. Tôi có cảm giác anh muốn về một mình, để có thể nhởn nhơ theo đuổi một ý nghĩ vừa đến với anh. Tôi lưu ý anh là chúng tôi chưa bàn gì về Anne cả. Anh cho rằng chúng ta đâu thể tự do chọn lựa đề tại mạn đàm, hay thậm chí trầm tư mặc tưởng:
- Nếu không, anh tiếp, giọng kiêu kỳ, ta phải khép mình tuân theo phương pháp do những kẻ thần bí bày ra. Những người như chúng ta luôn luôn bị cuốn theo những trào lưu, tuột heo những cơn lốc…
Thế là anh lại qui hết vào những gì anh đọc được hồi ấy. Chúng tôi hẹn gặp lại nhau để quyết định một kế hoạch hành động về chuyện Anne. Anh nói với vẻ lơ đãng. Và không trả lời một câu hỏi của tôi, anh cúi xuống, bằng một cử chỉ thơ dại, anh trỏ tôi xem chiếc nấm vừa ngắt được và đưa lên môi hôn.
Chú thích:
[7] Thuốc chỉ thống, làm dịu cơn đau