← Quay lại trang sách

Chương VII

Bernard, bên ngưỡng cửa, chờ Thérèse về.

- Anh không sao cả! Anh không sao cả!

Anh reo lên, ngay khi thấy áo nàng hiện ra trong bóng tối.

- Em có tin là, vạm vỡ như anh mà lại thiếu máu không? Thật khó ngờ, thế mà đúng đó, nhìn bề ngoài mà lầm chết, anh sẽ được điều trị… theo phương pháp Fowler, ấy là arsenic[8]; điều quan trọng là anh ăn biết ngon.

Thérèse nhớ là thoạt tiên nàng không hề giận, những gì đến từ Bernard ít tác động tới nàng hơn lệ thường (như chuyện từ đâu rất xa). Nàng không nghe anh nói, tâm hồn và thể xác nàng hướng về một vũ trụ khác, nơi đó những con người đầy khát vọng đang sống, và chỉ mong được hiểu, được biết – và theo một câu Jean vẫn hay nhắc lại với vẻ vô cùng tâm đắc; “trở thành chính họ”.

Cuối cùng khi ngồi vào bàn ăn, nàng mới nói đến cuộc tiếp xúc của mình.

Bernard gắt ầm lên:

- Sao nãy giờ em không nói? Em thiệt lạ lùng! Thế nào? Em và gã quyết định ra sao?

Nàng vẽ ngay cái chương trình dù sao cũng được thực hiện. Jean Azévédo nhận viết một lá thư cho Anne với lời lẽ dịu dàng để xóa tan mọi hy vọng của cô. Bernard cười ồ khi Thérèse quả quyết là gã thanh niên không hề nghĩ đến chuyện cưới xin. Một kẻ thuộc dòng họ Argelouse mà không thiết cưới xin Anne de la Trave ư?

- Kìa, em có điên không? Chỉ vì gã chẳng làm nên trò trống gì, hạng người đó chẳng bao giờ dám liều khi biết chắc sẽ thất bại. Em còn ngây thơ lắm, cô bé ạ.

Vì bầy muỗi, Bernard không muốn châm đèn, bởi thế anh không trông thấy ánh mắt Thérèse “Anh đã biết thèm trở lại” như anh nói. Vị bác sĩ ở Bordeaux đã trả lại sự sống cho anh.

“Tôi có thường gặp Jean Azévédo không? Anh đã rời Argelouse vào cuối tháng mười… Chúng tôi đã dạo chơi với nhau năm hoặc sáu lần gì đó; tôi chỉ nhắc riêng cái lần chúng tôi cùng soạn thảo lá thư cho Anne. Chàng ngây ngô tin vào những lời an ủi mà đọc thoáng qua tôi đã thấy hãi hùng, song chẳng nói gì với anh hết. Những lần rong chơi cuối cùng nhòa lẫn trong tôi thành một kỷ niệm chung. Jean Azévédo miêu tả tôi nghe về Paris, về tình bằng hữu, và tôi hình dung một vương quốc mà qui luật là “trở thành chính mình”.

- Ở đây bà buộc phải dối trá suốt đời.

Những lời như thế, anh thốt ra với dụng ý gì? Anh nghi ngờ gì tôi? Cứ theo lời anh, không thể nào tôi chịu đựng nổi cái tình trạng ngột ngạt này.

- Bà hãy nhìn kia, anh nói với tôi, mặt băng bao la ảm đạm níu giữ bao sinh linh nơi đây; thỉnh thoảng một khe nứt hé lộ dòng nước đen ngòm; ai đó vùng vẫy rồi biến mất tăm; mặt băng hững hờ khép lại... bởi mỗi người, ở đây cũng như nơi khác, đều sinh ra với nghĩa vụ riêng. Ở đây cũng như nơi khác, mỗi số kiếp đều cá biệt, vậy mà vẫn phải phục tùng cái vận mệnh chung buồn thảm ấy. Vài kẻ chống đối, từ đó gây ra những thảm kịch mà các dòng họ bao giờ cũng ỉm đi. Như người ta thường nói ở đây: Cần phải im lặng

- A! Ðúng thế.

Tôi kêu lên. Ðôi khi tôi có thắc mắc về một ông chú, một bà cô mà hình ảnh đã biến khỏi mọi tập an-bom, nhưng không bao giờ nhận được câu trả lời, trừ một lần, tôi nghe thú nhận: “Ông ấy đã mất tích..., người ta muốn cho ông ấy mất tích”.

Có phải Jean Azévédo lo ngại cho số phận của tôi. Anh cam đoan là với Anne anh chưa bao giờ nảy ra ý nghĩ bàn về những vấn đề này, bởi chưng, dù có mê đắm đến đâu, cô ấy vẫn là một tâm hồn dung dị, hơi bướng bỉnh một chút, nhưng sẽ bị khuất phục ngay.

- Còn bà! Tôi cảm nhận trong những lời nói của bà một nỗi khát khao thành thực…

Nên kể hết những chuyện ấy cho Bernard nghe không? Có điên mới mong anh hiểu được gì! Dù thể nào đi nữa, anh phải biết là tôi không ngoan ngoãn đầu hàng đâu. Tôi nhớ đã phản đối chàng trai, rằng anh ta chỉ khéo tô vẽ cho cái kiểu suy đồi hèn hạ nhất. Tôi đã phải viện dẫn đến những bài học luân lý mà người ta giảng trong trường trung học “Là chính mình?” Tôi lặp lại, “nhưng chúng ta chỉ tồn tại trong chừng mực mà chúng ta tự tạo” (Không cần khai triển, nhưng có lẽ nên khai triển cho Bernard). Azévédo cho rằng tự chối bỏ mình là một kiểu suy đồi tệ hại nhất. Anh khẳng định không một vị anh hùng hay bậc thánh nào lại chẳng hơn một lần nhìn ngắm lại chính mình, chẳng đạt tới mọi giới hạn của mình trước tiên.

- Phải tự vượt mình để tìm thấy Thượng đế.

Anh nhấn mạnh. Và nói thêm:

- Chấp nhận mình, điều đó buộc những kẻ tài hoa nhất ta phải đương đầu với chính họ, nhưng trực diện, trong một trận đấu minh bạch. Bởi thế cho nên thường xảy ra việc những kẻ phóng túng lại hay tìm đến một tôn giáo nghiêm ngặt nhất.

Đừng tranh cãi với Bernard về cái lý vững chắc của thứ đạo đức ấy - mà thừa nhận với anh đó là những lời ngụy biện vụng về. Miễn anh hiểu. Anh cố gắng hiểu một phụ nữ như tôi có thể bị xúc phạm đến đâu và điều gì tôi cảm thấy, buổi chiều trong phòng ăn Argelouse. Bernard trong góc bếp cạnh đó, tháo giày ra, nói lăng nhăng đặc sệt giọng quê mùa về số chim hạ được trong ngày. Những con chim cu giãy giụa làm căng phồng cái bị quẳng trên bàn. Bernard ăn thong thả, sung sướng đã ăn biết ngon trở lại, say mê đếm từng giọt nước “Fowler”:

- Sức khỏe đấy.

Anh nói. Lửa cháy ngùn ngụt và vào lúc ăn tráng miệng, anh chỉ cần xoay chiếc phô tơi, duỗi thẳng đôi chân mang giày dạ ra hơ. Đôi mắt lim dim khép lại trước tờ “Gironde[9] nhỏ”. Đôi lúc anh ngáy, nhưng cũng lắm khi, tôi không nghe cả tiếng thở của anh nữa. Đôi giày cà tàng của Balionte còn lê lết dưới bếp; sau đó bà mang nến lên. Rồi thì im lặng, cái im lặng của Argelouse! Những người chưa đến vùng đầm lầy hẻo lánh này, không thể biết thể nào là im lặng, nó bao trùm ngôi nhà, như đông cứng trong cái khối dày đặc của rừng, nơi chẳng còn sự sống, ngoài tiếng khi thảng thốt của một con cú mèo (tưởng chừng chúng tôi nghe, trong đêm tối, tiếng nấc từ lâu nén lại của mình).

Nhất là sau ngày Azévédo lên đường, tôi mới càng thấm thía sự im lặng đó. Ngày nào tôi biết sáng ra mình còn gặp lại hắn, sự hiện diện của anh khiến cho bóng tối bên ngoài không còn đáng sợ. Giấc ngủ gần gũi của anh làm đêm tối, rừng cây hết cô quạnh, trống trải. Ngay khi anh chẳng còn ở Argelouse, sau lần gặp cuối cùng anh hẹn năm tới sẽ về.

Anh nói. Hy vọng là lúc đó tôi đã biết tự giải thoát (đến bây giờ tôi vẫn chưa biết anh nói bâng quơ hay là có dụng ý nữa. Tôi nghĩ là gã dân Paris này, hết chịu đựng nổi sự im lặng, cái im lặng của Argelouse, và anh quý mến tôi chỉ vì tôi là kẻ duy nhất chịu khó nghe anh nói).

Ngay khi từ biết anh, tôi ngỡ như mình chui vào con đường hầm vô tận, tiến sâu vào bóng tối ngày càng thêm mịt mờ và đôi lúc tôi tự hỏi biết rồi cuối cùng mình có kịp hít thở không khí tự do nước khi chết ngạt không. Cho đến ngày sinh nở, vào tháng giêng, đã chẳng có gì xảy ra.

Tới đây, Thérèse ngập ngừng, nàng cố gắng xua đi những ý tưởng quẩn quanh về những gì xảy ra trong ngôi nhà ở Argelouse, mấy hôm sau, ngày Jean ra đi: “Không, không, nàng nghĩ, việc đó chẳng dính líu đến những gì lát nữa đây mình phải giãi bày với Bernard. Tôi không thể mất thời giờ vì những điều vớ vẫn, chẳng đưa tới đâu cả. Nhưng dòng ý nghĩ cứ ngang bướng, nó rẽ ngả nào làm sao ngăn được: Kỷ niệm buổi chiều tháng mười ấy sẽ không nhạt nhòa trong tâm trí Thérèse.

Trên tầng gác, Bernard thay quần áo.Thérèse đợi đến khi củi đã cháy hết mới ra gặp anh - sung sướng được ngồi một mình trong giây lát. Giờ này Jean Azévédo đang làm gì nhỉ? Có thể anh đến uống rượu trong cái quán nhỏ mà anh đã kể với nàng; có thể (bởi đêm yên ả xiết bao), anh ngồi xe dạo chơi với người bạn trong rừng Boulogne hoang vắng. Có thể anh đang làm việc trước bàn và Paris gầm gừ phía xa. Sự im lặng, chính anh tạo ra nó, chinh phục nó từ cái huyên náo của thiên hạ, anh không bị nó đề nặng từ bên ngoài như cái im lặng đang làm Thérèse ngộp thở, sự im lặng đó là công trình của anh, không lan xa hơn ánh sáng ngọn đèn, hay những ngăn kệ đầy sách...

Thérèse miên man nghĩ ngợi và rồi tiếng chó bỗng sủa ầm lên, kêu hừ hừ, và một giọng nói thân quen một giọng nói mệt mỏi, từ phòng ngoài, khiến nàng yên lòng. Anne de la Trave đẩy cửa vào. Cô đi bộ từ Saint Clair về trong đêm, giày vớ bết đầy bùn. Trên gương mặt ủ ê, đôi mắt cô long lanh. Cô quẳng chiếc nón lên ghế, hỏi ngay:

- Anh ấy đâu?

Lá thư viết xong và đem bỏ bưu điện Thérèse và Jean tưởng rằng sự việc đã kết thúc, không hề nghĩ rằng Anne có thể không bỏ cuộc - làm như người ta dễ dàng nhượng bộ lẽ phải, nghe theo những lập luận khi vấn đề liên quan đến chính cuộc đời mình. Cô ấy đã tìm cách thoát khỏi sự canh chừng của mẹ, để leo lên một toa tàu. Trên con đường Argelouse tối mịt, khoảng trời sáng giữa những ngọn cây dẫn lối cho cô đi. “Tất cả chỉ để gặp lại chàng, nếu cô gặp được chàng, chàng sẽ bị chinh phục lại, nhất định phải gặp lại chàng.” Cô loạng choạng, lê chân theo vết bánh xe, vì quá vội về Angelouse. Thế mà bây giờ Thérèse nói với cô là Jean đã ra đi, anh ấy hiện ở Paris. Anne lắc đầu nói không, cô không tin, cô cần không tin nàng để khỏi phải quị xuống vì mòn mỏi và tuyệt vọng.

- Chị nói dối như vẫn từng nói dối.

Và bởi Thérèse cãi lại, cô tiếp:

- Phải rồi chị có tinh thần gia tộc. Chị làm ra vẻ là người phóng khoáng... Nhưng từ khi thành hôn, tức khắc chị trở nên một phụ nữ nề nếp con nhà... Vâng, vâng, đồng ý: chị ngỡ làm như thế là phải, chị cứu vớt tôi bằng cách phản bội tôi hả? Chị khỏi phải phân trần gì cả.

Có ấy bước lại mở của. Thérèse hỏi cô định đi đâu.

- Sang Vilméja, đến chỗ anh ấy.

- Chị nhắc lại, từ hai ngày này, anh ta không còn ở đó nữa.

- Em không tin chị.

Cô ấy đi ra. Thérèse bèn châm ngọn đèn lồng treo ở phòng ngoài và đến gần cô.

- Em lạc đường rồi, cô bé Anne ơi. Em đi về hướng Biourse. Vílmeja ở lối này.

Họ băng qua vùng sương mù từ đồng cỏ tỏa ra. Bầy chó vụt thức dậy. Kia là rặng sồi Vilméia, ngôi nhà chẳng phải đìu hiu mà như hoang phế. Anne đi vòng quanh cái nhà mồ trống vắng ấy, giơ nắm tay đập vào cửa liên hồi. Thérèse đặt ngọn đèn lồng lên cỏ, đứng im lìm. Nàng nhìn cái bóng mờ ảo của cô bạn áp sát vào mãi cửa sổ tầng dưới. Chắc hẳn, Anne gọi mãi một cái tên, nhưng không réo to lên, biết rằng cũng vô ích thôi. Có lúc, ngôi nhà che khuất cô, rồi cô hiện ra, quay lại cửa chính, ngồi bẹp xuống thềm, đôi cánh tay ôm quanh đầu gối, giấu mặt vào trong đó. Thérèse nâng cô đứng dậy, dìu cô đi.

Anne lảo đảo, thầm thì:

- Sáng mai, em sẽ lên Paris. Paris chẳng rộng lớn gì mấy, em sẽ tìm thấy chàng giữa Paris...

Nhưng với giọng của một cô bé không còn đủ sức chống cự và đã buông xuôi. Bernard tỉnh giấc do những tiếng nói lao xao, khoác áo ngủ ngồi chờ họ ở phòng khách. Thérèse đã lầm to khi gạt khỏi ký ức cảnh tượng xảy ra giữa ông anh và cô em gái. Người đàn ông có thể phũ phàng nắm chặt cổ tay cô gái nhỏ rũ rượi mệt lả, lôi xềnh xệch đến tận một căn phòng trên tầng hai, khóa trái cửa lại, chính là chồng mày đó Thérèse ơi, cái gã Bernard, hai giờ tới đây, sẽ là quan tòa xét xử mày. Tinh thần gia tộc thôi thúc anh ta, nên anh ta sẽ không do dự. Trong mọi trường hợp, anh ta luôn biết phải làm gì để phục vụ cho lợi ích của dòng họ. Dằn vặt, âu lo, nàng chuẩn bị những lời biện hộ dài dòng, tiếc thay chỉ những người vô nguyên tắc mới bị thuyết phục bởi lý lẽ xa lạ ấy. Bernard sẽ chế giễu những luận cứ của mày: “Tôi biết tự phải làm gì”. Anh luôn luôn biết anh phải làm gì. Thảng hoặc, cô dụ dự anh nói: “Chúng tôi đã bàn luận kỹ trong thân tộc và chúng tôi xét thấy..." Sao mày có thể nghĩ là anh ta chưa sẵn sàng một bản án? Số phận mày đã được định đoạt vĩnh viễn. Tốt hơn là hãy cứ đi ngủ.

Chú thích:

[8] Thạch tín

[9] Một tỉnh của vùng sông Gironde bên Pháp, tỉnh Bordeaux.