← Quay lại trang sách

Chương 1

Ngày xưa, có một cô bé lọ lem”. Pauline kể. Michael đang đổ bột yến mạch vào tô, nghe đến đây, anh dừng công việc đang làm, đứng từ phía bàn nhìn cô. “Hôm ngày 15 tháng 1”, Pauline kể tiếp, “là sinh nhật lần thứ 23 của người phụ nữ ấy”.

“Chà, hôm đó chẳng phải cũng là sinh nhật con sao!”, mẹ Michael nói với cô, “Con cũng lớn thế rồi, ngay hôm qua thôi!”.

“Do hôm đó lại là ngày tệ hại nhất trong đời người phụ nữ”, Pauline lại tiếp, “nên cô rất nhạy cảm về tuổi của mình”.

Michael cẩn thận hỏi: “Ngày tệ hại nhất trong đời cô ấy sao?”.

Pauline đứng dậy xốc đứa bé trên chiếc ghế cao ngồi thẳng người lên. Đứa bé đã đến tuổi biết ngồi, nhưng vẫn chưa vững. Nếu không có người lớn giúp, nó sẽ dần tuột xuống, cuối cùng cằm dán xuống đất.

“Đúng vậy, lúc đó cô ấy không còn sức nữa”, Pauline vừa nói vừa trở về chỗ ngồi, “lại mang thai hai tháng, tiều tụy vô cùng. Sau lần mang thai trước, vóc dáng cô vẫn chưa trở lại bình thường. Chồng cô kém hơn cô ba tháng, mỗi năm sau ba tháng mừng sinh nhật, cô đều trở thành người phụ nữ già hơn chồng. Anh có tưởng tượng được đó là cảm giác thế nào không? Cô vừa già vừa béo vừa xấu, ngực cũng bắt đầu chảy xệ”.

Thật ra dưới mắt Michael, Pauline lại đẹp hơn trước đây. Sáng sớm, cô không đánh phấn, cũng chẳng thoa son, mặc bộ đồ in hoa ở nhà, trông cô tựa như đứa trẻ vừa khỏe mạnh lại tràn đầy sức sống. Cái thai thứ hai vẫn chưa thấy rõ bụng, dù Pauline tưởng tượng thế nào, dấu ấn rõ nét nhất để lại trên cơ thể cô sau lần mang thai đầu tiên chính là ngực cô càng tròn đầy hơn trước. Anh cười, bắt gặp ánh mắt của cô, nhưng Pauline lại hỏi: “Mẹ uống thêm cà phê không ạ?”.

“Thôi, cám ơn con yêu. Con biết uống nhiều cà phê không tốt cho dạ dày của mẹ”. Bà Anton trả lời.

“Nhưng người phụ nữ này lại rất may mắn”, Pauline nói tiếp, “chồng cô rất ân cần chu đáo, không bao giờ làm cô buồn! Anh đã giúp cô có một ngày sinh nhật viên mãn”.

Michael thấy hơi bất an. Dĩ nhiên anh không hề quên sinh nhật của cô - vì đấy là chuyện khó tha thứ nhất - nhưng anh cũng không thể phủ nhận mình chẳng cố hết sức để cô có một ngày sinh nhật viên mãn. Năm nay, sinh nhật Pauline rơi vào ngày làm việc, trùng hợp thay, hôm đó anh lại có một mối làm ăn.

“Hôm đó anh ấy dậy rất sớm”, Pauline nói, “rón ra rón rén vào bếp, chuẩn bị bánh sandwich Pháp và nước cam cho cô. Anh bưng mâm trở vào phòng ngủ, nói với cô: ‘Chúc em sinh nhật vui vẻ, em yêu!’. Nói xong lại tặng cô một bó hồng đã giấu sẵn ở thang cứu hỏa. Đó là một bó hồng cành dài, đắt tiền. ‘Em đáng nhận được chúng, em yêu,’ anh nói, ‘anh muốn tặng cho em viên hồng ngọc chứ không phải hoa hồng’”.

Mắt Pauline lấp lánh, giọng nói cũng đã phấn chấn lên đôi chút. Mẹ Michael hoàn toàn bị thu hút bởi câu chuyện của cô, bà lên tiếng khen, “Lãng mạn quá! Đúng vậy không?”, bà hỏi Michael. Nhưng Michael chẳng nói gì, chỉ lặng lẽ nhìn Pauline, tay ấn mạnh lên chiếc khăn ăn.

“Nhưng sự thật, món quà của anh ấy”, Pauline lại tiếp, “chỉ là...”.

Lần đầu tiên giọng cô run lên, cô quay người cởi yếm ăn cho đứa bé.

“... Chỉ là thứ chẳng có chút ý nghĩa”, cô trầm giọng nói, “một lọ nước hoa, hoặc một bộ áo ngủ. Anh luôn tặng cô những thứ vô nghĩa! Thậm chí anh chưa từng nói ‘Chúc em sinh nhật vui vẻ, em yêu, em nên đến cửa hiệu bán đồ gia dụng và chọn mua một ấm trà mà em luôn bảo với anh là rất thích’”.

Michael chú ý thấy mẹ nhìn anh với ánh mắt khó hiểu, rồi nói: “Chà, vậy...”.

“Nhưng sao em lại kể câu chuyện này, nó làm anh thấy chán ghét?”. Pauline cất cao giọng hát, “Phải chăng đây là cuộc sống chúng ta hằng ao ước?”.

Bỗng nhiên cô nhè nhẹ đứng dậy, bồng bé Lindy khỏi chiếc ghế cao, đi ra khỏi bếp.

Trong cửa hiệu tạp hóa dưới nhà, Michael xé mở một thùng giấy, lấy ra từng hộp đào, rồi đặt chúng lên giá có dán tem “17 - 18 điểm”. Lòng anh đang biện giải cho chính mình. “Phải chăng anh nên thử tìm hiểu những suy nghĩ trong lòng em?”. Anh thầm hỏi Pauline, “Sao anh biết được em thích món quà sinh nhật gì chứ? Anh 22 tuổi rồi! Anh chỉ từng mua quà cho một người phụ nữ, đó chính là mẹ anh! Nhưng mẹ luôn thích những món quà có vẻ thực dụng!”.

Anh nhớ lại chuyện mấy hôm trước, vì Pauline từng khoe với anh ấm trà của mẹ anh rất xinh xắn, thế là anh quyết định tặng cô một ấm trà làm quà. Anh còn ngỡ đây là ý hay. Anh từng tự hào vô hạn trước về ý nghĩ đó của mình! Nhưng giờ đây, một cảm giác đau buồn nhanh chóng vây trùm lấy anh.

Anh còn để ý thấy Pauline không hề nhắc đến chiếc bánh sinh nhật của cô. Đó là chiếc bánh kem sô-cô-la.

Eustace từ trong kho bước ra, anh ta vừa đi vừa đếm trứng gà trong thùng. Anh đặt thùng trứng gà cạnh bên tủ lạnh, sau đó thẳng người vươn vai, dùng tay đấm vài cái vào lưng. “Chắc tuyết sắp rơi rồi”, anh nói, “xương cốt tôi cứ đau nhức suốt”.

“Phải đó, hông của tôi cũng đau dữ dội”. Michael nói với anh.

“Chuẩn bị hàng cho bà Dubrowski xong chưa?”.

“Ngoài những thứ ghi trên phiếu mua hàng, còn thiếu nhiều đấy”.

Thế là Eustace lại quay người đếm trứng gà. Giờ thực phẩm trong cửa hiệu đều đựng trong một cái túi vải bố giống loại của người bán báo vác trên lưng, có một dây vải vắt chéo trước ngực tựa như dải đạn. Eustace bảo anh ta lớn tuổi rồi, không đạp nổi chiếc xe chất đầy hàng hóa để đi đưa hàng, nên mới nghĩ ra cách này. Eustace đặt túi bố lên vai, đi ra cửa. Ngay lúc đó bà Serge bước vào. “Chào buổi sáng, Eustace! Chào buổi sáng, Michael!”, bà vừa chào vừa tránh sang một bên cho Eustace đi qua.

“Chào buổi sáng, bà Serge”, Michael vừa đáp vừa đứng dậy đi lấy cây nạng. “Bên ngoài chắc lạnh lắm?”.

“A, phải đó, với tôi thì rất lạnh”. Bà vừa trả lời, vừa kéo mạnh cổ áo khoác. Thật ra, bà sang từ nhà bên cạnh, chắc chắn bà chưa thấy lạnh nên mới bước vào trong cửa hiệu này. Dường như Michael phát hiện mọi người phụ nữ hình như đều muốn trò chuyện. “Dạo gần đây mẹ cậu thế nào?” bà hỏi, “Pauline vẫn khỏe chứ? Bé Lindy sao rồi?”.

“Họ đều rất khỏe. Gần đây có tin gì của Joey không?”.

“Chiều mai nó về nghỉ phép”.

“Hay quá!”.

“Ừ, tôi muốn lấy vài hộp sữa bò, định làm kem cho nó ăn”. “Sữa bò đóng hộp”, Michael vừa nói vừa quay người tiến về kệ sữa. “Bà lấy một hay hai hộp?”.

“Hai hộp. Hẳn cậu nghĩ tôi điên, làm kem vào tháng giêng”.

“Không đâu, thưa bà”, Michael trả lời, “tôi biết Joey thích ăn kem”. Anh đặt sữa bò lên quầy hàng. “Bà còn cần gì nữa không?”.

“A, tôi nghĩ xem nào, lấy một hộp keo gelatin, nhằm tránh bất trắc, tốt nhất lấy thêm một ít bột hương thảo... Pauline uống trà gừng tôi chỉ chưa?”.

“Tôi không rõ lắm”. Michael trả lời.

“Tôi bảo cô ấy, cho 1/4 muỗng cà phê bột gừng vào nửa cốc nước ấm, uống từng ngụm nhỏ trước bữa sáng. Lúc trước, tôi cũng làm thế khi sinh Joey, rất hiệu quả”.

“Mai tôi sẽ chuẩn bị một ít cho cô ấy”. Michael nói. “Cô gái tội nghiệp, người dù có béo tròn đến đâu cũng chẳng chịu nổi, nếu không ăn uống gì”.

“Đúng thế, cô ấy quả rất khó chịu”. Michael phụ họa. Nhưng khi bà Serge đi khỏi một lúc, anh lại lầm bầm:

“Nhưng đâu chỉ mình cô ấy khó chịu chứ”.

Đúng vậy, anh biết rõ mình không nên oán thán nữa. Nếu đổi lại là mình, chẳng ăn được gì sẽ thế nào? Cộng thêm cả việc mang thai, lại còn những chuyện phức tạp khác của phụ nữ.

Nhưng điều làm anh không biết được là nỗi buồn của Pauline, có bao nhiêu phần là do ốm nghén, bao nhiêu phần là do tình cảm vợ chồng nảy sinh vấn đề? Chà, phụ nữ thật khó đoán, mà anh lại chẳng có chút kinh nghiệm! “Mình nói những gì? Làm những gì? Cô ấy thấy sao trước hành vi và lời nói của mình?”. Lúc nào anh cũng cứ hỏi lòng như thế. Những người đàn ông khác có từng gặp vấn đề tương tự không? Anh có thể tìm ai đó tâm sự không? Nếu anh thay đổi, vợ anh sẽ vui hơn bây giờ không?

Lúc đầu khi họ gặp nhau, gương mặt Pauline luôn xuất hiện lúm đồng tiền và luôn nghe thấy tiếng cười trong trẻo của cô ấy! Anh luôn tin cô là người vui tươi. Vào lần hẹn hò đầu tiên, cô từng tin tưởng đặt tay mình vào tay anh. Những ngón tay thon dài mịn màng của cô áp sát vào lòng bàn tay to lớn của anh. Và lúc đó, anh từng nghĩ rằng ít nhất phải mất mấy tuần mình mới có thể thân mật với cô như thế. Thậm chí anh còn mong muốn xảy ra một số việc nguy hiểm - ví dụ một chiếc xe hơi mất kiểm soát bỗng nhiên xông thẳng về phía họ - như thế anh có thể trở thành người bảo vệ cho cô.

Nhưng chẳng bao lâu sau đó, anh liên tiếp phạm sai lầm và không hề phủ nhận điều này. Chẳng hạn, lần đó anh hẹn gặp Pauline trong buổi tiệc, nhưng không đi đón cô. Thật ra, anh làm thế chỉ vì nghĩ cho cảm nhận của mẹ. Anh biết chuyện đó mình đã sai, sai vô cùng, và việc Pauline không xuất hiện trong buổi tiệc cũng hoàn toàn chính xác. Anh ý thức ngay được điều này - bỗng nhiên anh thấy mình chẳng giống một người đàn ông mạnh mẽ, mà là một kẻ nhát gan. Suy nghĩ này làm anh phiền muộn vô cùng. Thế là anh chạy một mạch đến nhà cô, bấm chuông cửa, rồi nhờ ông Barclay gọi cô. Anh xin lỗi đồng thời thuyết phục cô theo anh ra ngoài. Ngay trong đêm đó, mẹ anh lại ngất xỉu ngay tại buổi tiệc. Vậy, anh nên làm gì trong tình huống này? Dù sao anh cũng không thể phớt lờ sự tồn tại của mẹ. Và Pauline một lần nữa lại biến mất trong màn đêm. Sau đó, anh lại chạy đến nhà cô, nhờ ông Barclay, nhưng chỉ nhận được sự từ chối. “Xin lỗi, chàng trai trẻ, ta e giờ con bé chẳng muốn gặp ai cả”. Rồi liên tiếp mấy ngày sau đó, bà Barclay ra mở cửa, nói với anh hết lý do này đến lý do khác, đại loại hình như Pauline vẫn còn đang ngủ. Càng về sau, Pauline bắt đầu mất kiên nhẫn: “Tôi nghĩ anh đừng đến nữa”. Sau lần đó, chẳng biết anh đã đứng một mình trước cửa nhà Barclay bao nhiêu lần. Những việc này đã mờ dần trong tâm trí anh.

Nhưng có một việc cảm động nhất mà đến bây giờ anh không bao giờ quên chính là cảnh Pauline trong chiếc áo khoác đỏ, chạy như bay trên đường Aliceanna, đưa anh ra chiến trường. Cảnh tượng rung động lòng người đó chẳng lẽ không thể bù đắp cho những thiếu sót đáng tiếc khác sao? Chẳng lẽ điều đó không thể bù đắp những thời khắc căng thẳng, không hoàn mỹ và thấy chán ghét nhau sau khi họ kết hôn sao?

Bà Piazy bước vào mua hộp thịt giăm bông và hộp mì ống. “Đấy là một món ăn tôi mới học được, định tối nay làm thử”. Bà nói với Michael, “Món này tôi học từ tạp chí đấy. Hôm nay Pauline thấy sao rồi?”.

“Vẫn không mấy ổn”, anh đáp.

“Cô ấy ăn bánh mặn chưa? Lúc mang thai, tôi cũng ăn thế đấy. Mỗi sáng thức dậy hãy cho cô ấy ăn 6 - 8 cái, lúc nào thấy buồn nôn thì ăn thêm mấy cái nữa”.

“Tôi sẽ nói lại với cô ấy, cám ơn bà Piazy”.

“Đừng lo nữa, Michael. Cậu không gạt được tôi đâu! Trông mặt cậu dài sọc ra thế! Tôi biết cậu đang khổ não vì cô ấy! Nhưng, hãy tin lời tôi, cô ấy sẽ khỏe lại thôi”.

“Vâng, cám ơn bà Piazy”.

“Hai người thật lòng yêu nhau mà”. Bà lại nói.

Khi bỏ tay vào túi tìm tiền lẻ, bà nhìn Michael mỉm cười, nụ cười ấm áp và đầy khoan dung.

Buổi trưa, Michael lại đi tìm Eustace, anh chàng da đen đó đã giao hết hàng, đang bận rộn trong kho. “Eustace?”, anh gọi, “Anh có trong đó không?”.

“Tôi ở đây”.

“Tôi lên ăn cơm đây”.

“Được”, Eustace đáp, vừa chui ra từ sau một thùng cải muối, một tay thô ráp của anh cầm một miếng sandwich tự nướng ở nhà đang ăn dở dang.

Michael nói: “Ơ, hay tôi chờ anh ăn xong rồi mới đi?”. “Không cần đâu, thưa anh”.

Thật ra, ý Michael là không muốn Eustace ăn trước mặt khách, dù sao anh tuyệt đối không được làm thế. Nhưng anh lại không biết nói sao với Eustace. Sự thật là anh không muốn người giúp việc cho nhà mình có hành động thế. Trước thời chiến, nhà anh chưa từng thuê ai. Chỉ trong thời gian anh đi lính, mẹ anh mới thuê người giúp việc, về sau sức khỏe mẹ kém nên anh giữ Eustace ở lại, và giờ thì Pauline lại phải chăm con.

Anh đi xuyên qua kho, leo lên cầu thang phía sau, không dùng nạng mà bám vào tay cầm cầu thang để chống chịu. Anh không còn đi cà thọt nữa, có điều bước chân trông vẫn còn loạng choạng. Mỗi lần duỗi chân bước đi anh phải nghiêng mình một chút. Nhưng anh vẫn hay dùng nạng vì muốn tránh người lạ hỏi han đủ điều, chẳng hạn như sao anh không đi phục dịch.

Pauline bảo anh làm thế là rất ngốc. “Cớ chi anh lại để ý người ta nghĩ gì chứ?”, cô hỏi anh thế, “Anh và em biết sự thật là đủ rồi”.

Pauline kiên cường hơn anh về nhiều mặt.

Mẹ Michael ngồi cạnh bàn trong bếp, còn Pauline bế con đứng bên bếp lò, tay không ngừng khuấy canh trong nồi hầm. “Chào, ăn cơm thôi”, Michael nói với cô, mẹ anh cũng nói: “Chào, con yêu”. Nhưng Pauline chẳng có chút phản ứng. Michael vờ như không thấy điều này, anh vừa gọi: “Lindy!” vừa đưa tay ra đón, bỗng nhiên Pauline buông lỏng tay, làm Michael suýt chút làm con rơi xuống đất. Anh bồng con ngồi xuống ghế, vừa áp sát con vào ngực. “Bố đây”, anh nói với đứa bé ôm trong lòng, “nó bảo: ‘con mừng bố về nhà! Cả buổi sáng con mong bố suốt!’”.

Lindy chăm chú nhìn mặt bố. Cô bé có mái tóc đen như Michael. Mắt cô bé màu xám xanh tối nhạt, khi lớn lên rất có thể sẽ thành màu nâu sậm giống anh, cánh tay và những ngón tay thon dài của cô bé đã mang dáng dấp của bố nó. Có lẽ vì cô bé rất giống anh nên anh thương nó. Trước đây, anh nghĩ mình sẽ có vợ, có con, đó là chuyện bình thường, nhưng không ngờ việc có một đứa con lại làm anh hạnh phúc, lo lắng và mong nhớ nhiều đến thế.

Mẹ anh đang kể cho Pauline nghe cuộc tranh luận gần đây giữa bà với một người khác. Khi mẹ thắp một ngọn đèn nhỏ trong một lần diễn tập, anh ta nói với mẹ rằng:

‘bà Anton’, ‘nếu nhà bà ở Baltimore bị không kích, biến mất khỏi bản đồ, bà thấy sao hả?’”. Anh ta tưởng mình là ai chứ”, bà nói, “chẳng qua chỉ là một sĩ quan dự bị phòng không thôi, chứ có phải Thượng đế đâu”.

“Đó hoàn toàn vì anh ta là tên ngốc”. Pauline nói với mẹ chồng.

Giọng điệu của cô lúc nói chuyện với mẹ chồng rất nhẹ nhàng và vui vẻ. Giờ đây, cô và mẹ Michael đã trở nên rất thân thiết với nhau, còn Michael lại trở thành người ngoài. Anh thở dài, đút một muỗng thức ăn cho Lindy. “Em không dùng bữa với cả nhà sao?” anh hỏi, nhưng Pauline không trả lời. Dường như đã được anh thuyết phục, cô bước người qua, cầm muỗng. Anh cúi đầu xuống thấp, ngửi thấy mùi hương tỏa ra trên mái tóc xõa dài của cô. Anh còn chú ý thấy bên dưới lớp phấn thoa người có một ít mùi mồ hôi vừa toát ra, mùi hương đó vừa làm anh thích, vừa làm anh thấy được sự vất vả của nàng.

Pauline múc một muỗng canh kem sữa cà chua, sau đó ngồi xuống. Michael lấy lại chiếc muỗng của mình trong tay Lindy và bắt đầu ăn. Mẹ anh cũng cầm muỗng lên, Pauline vẫn ngồi đó, thẩn thờ nhìn bát canh.

“Em yêu”, cuối cùng Michael lên tiếng, “lẽ nào em không muốn ăn chút gì sao?”.

“Trừ khi em có thể phục hồi trạng thái ban đầu”. Cô đáp.

“Bà Piazy bảo có thể thử ăn ít bánh mặn”.

Trên bàn đặt một hộp bánh, nhưng Pauline chẳng hề động đến, mà nói: “Mọi người tha cho em được không?”. Nói xong, cô đặt khăn ăn cạnh bát, đứng dậy rời khỏi bếp.

Michael và mẹ nhìn nhau, chỉ nghe thấy tiếng cửa phòng ngủ đóng nhẹ.

“Nó càng ngày càng yếu, chắc nó sắp chịu hết nổi rồi”. Mẹ Michael nói.

Bỗng nhiên, Michael nảy sinh một ý nghĩ, lẽ nào anh không đáng để được mọi người thương hay sao? Tình cảnh anh lúc này rất khó khăn.

Khi họ dùng cơm xong, Michael bảo với mẹ là anh vào thăm Pauline. “Được, nên làm thế”, bà nói, “để mẹ rửa bát đĩa cho”. Thế là, anh bồng Lindy khỏi chiếc ghế cao, đi lên lầu.

Để an toàn hơn, anh gõ nhẹ cửa phòng ngủ, không ai trả lời. Đứng ngoài một hồi lâu, anh đẩy cửa bước vào.

Pauline không nằm trên giường như anh nghĩ, mà đứng ở cửa sổ cạnh bên chiếc nôi của Lindy. Cô vén rèm cửa nhìn ra ngoài, khi Michael bước vào cô cũng không quay đầu nhìn. “Pauline”, anh gọi.

“Chuyện gì?”.

“Anh mong em nên ăn chút gì đó”.

Mắt cô vẫn nhìn ra cửa sổ, dù chỉ nhìn thấy những mặt cửa mờ nhạt của nhà bên kia đường.

Đây vốn là phòng ngủ của bố mẹ Michael, nhưng sau khi Michael kết hôn, nó lại trở thành tổ ấm hạnh phúc của anh. Chiếc giường sắt màu trắng và cái tủ đầu giường bằng gỗ đỏ của bố mẹ Michael để lại giờ đã được Pauline trang trí lại: chiếc chăn thêu tên Pauline, cô dùng khi còn con gái; hoa cài áo trên bộ trang phục cô mặc tham gia vũ hội thời trung học phổ thông, dù đã bay màu và trở nên thô cứng, nhưng vẫn để trên tủ đầu giường; và cả ảnh chụp với các bạn thời trung học được lồng vào khung kính đặt ở đó. Phong cách trang trí này thể hiện cá tính của cô, thậm chí mấy vật dụng mới thêm vào cũng thể hiện điều này - một cái nôi, một chiếc rương đựng của hồi môn mà không ai biết đến.

Anh bước tới, đứng cạnh cô. “Con thấy mẹ không?”, anh hỏi Lindy, “Mẹ yêu tội nghiệp, hiện mẹ con không được khỏe”.

Pauline buồn than: “Anh không hề hiểu tôi gặp vấn đề gì, đúng không?”.

“Thực tế, anh nghĩ mình biết”, Michael đáp. Lúc nói chuyện, anh cố gắng giữ giọng bình tĩnh, tránh làm cô tổn thương nhiều hơn. “Anh hiểu suy nghĩ của em. Rằng anh nên cho em nhiều bất ngờ hơn vào ngày sinh nhật”.

Pauline bắt đầu tranh biện, nhưng anh lại ngửa bàn tay kia ra rồi nói: “Anh rất xin lỗi. Dĩ nhiên anh không muốn làm em thất vọng, anh có cảm giác dạo gần đây em hay buồn bực. Em đang mang thai, lại bị nghén, dĩ nhiên không được vui - anh và mẹ cũng như em - đều không ngờ rằng chúng ta có đứa thứ hai sớm thế, cũng chính chuyện này làm em phiền muộn”.

“Sao anh biết được chuyện gì làm tôi phiền muộn chứ?”, Pauline quay người hỏi.

Lindy bắt đầu khóc, Michael vỗ nhẹ sau lưng con bé, nói: “Thôi nào, Pauline. Được rồi, bình tĩnh nào, em yêu”. “Anh đang gọi tôi là ‘em yêu’ sao! Anh đang bảo tôi bình tĩnh sao! Anh chuyện gì cũng biết nhỉ! Chỉ có tôi mới biết chuyện gì làm tôi phiền muộn thôi!”.

Mọi người đều có thể nghe thấy - dĩ nhiên, bao gồm cả mẹ anh, thậm chí có cả Eustace và những khách hàng đang có mặt trong cửa hiệu lúc đó. Giọng nói lúc này của cô ít nhất cũng nâng cao 8 phần, nghe vừa vang vừa sắc lạnh, hoàn toàn không giống cái giọng khàn khàn trầm ấm thường ngày của cô. Vì tức giận mà Pauline trở nên rất kích động. Nó làm từng lọn tóc quăn gợn sóng của cô dựng thẳng lên, trông rất dữ dằn. Anh bất lực khi thấy sự việc đến mức này. Anh không hề có ý muốn kiểm soát cô, nhưng việc anh thử làm cô bình tĩnh lại khiến cô càng tức giận. “Em yêu”, anh vẫn cố gắng, “Em yêu”, “bình tĩnh đi nào, Pauline”. Nhưng cô vẫn tức giận thét lớn, tay nắm chặt hai nắm đấm. Cô giành lấy đứa bé đang khóc ôm vào lòng, rồi thét lên: “Ra ngoài! Ra ngoài ngay! Kẻ tự cao tự đại, đáng ghét, ra ngoài mau! Để mẹ con tôi yên!”.

Anh chẳng nói gì nữa, quay lưng bỏ ra ngoài. Anh chưa từng oán hận sự nhu nhược, vô dụng của mình như bây giờ. Dù vậy, anh đã cố gắng hết sức rồi. Anh trở vào bếp, và khi đi ngang qua mẹ, anh phát hiện mẹ đang nhìn mình chằm chằm, tay vẫn cầm cái khăn khô lau bát đĩa.

“Con nghĩ con nên trở xuống làm việc”. Anh nói, nở một nụ cười gượng với mẹ, sau đó chậm chạp bước ra ngoài.

Lẽ nào mình không yêu vợ mình chứ?

Chà, không, dĩ nhiên thế. Đây chỉ là một trong vô vàn sóng gió mà mọi cặp vợ chồng phải vượt qua. Anh chú ý thấy một tiêu đề lớn trên trang bìa tạp chí Pauline thường mua: “Làm cách nào bóp chết chiến tranh trong hôn nhân ngay từ khi còn là trứng nước?” và “Sao chúng ta cứ mãi cãi nhau?”.

Nhưng phần lớn những người vợ khác không khó hiểu, và hay thay đổi thất thường như Pauline.

Anh bỏ ba củ hành tây trên cân vào một túi giấy màu nâu, đặt trên quầy hàng, đưa cho bà Golka. Bà đang suy nghĩ có nên mua nửa ký đường không, nhưng lại không muốn dùng hết phiếu thực phẩm. Bà nói với Michael rằng hai đứa con song sinh của bà thích ăn ngọt. Michael đáp: “Thích ăn ngọt, vậy à...”, nói xong anh lại nhìn vào bàn cân, trên bàn cân có 4 vết lõm. Đấy là kết quả của việc Pauline ném nó xuống đất trong một lần cãi nhau.

Chà, chẳng còn nhớ rõ họ cãi nhau bao nhiêu lần rồi. Cãi cọ do vấn đề tiền bạc: cô luôn tiêu tiền vào những thứ mà anh cho rằng không cần thiết, chẳng hạn những vật trang trí nhỏ trong nhà, và một số trang sức không dùng đến. Michael lại tiết kiệm hơn - nhưng theo cách nói của Pauline là keo kiệt. Cãi cọ do vấn đề nhà ở: cô từng nói mình sắp điên rồi, nhồi nhét trong căn nhà tối mờ ngột ngạt, suốt ngày đối diện với mẹ anh. Cô muốn chuyển đi ngay khi chiến tranh kết thúc - sống trong ngôi nhà xung quanh là cây cối, có một cái vườn hoa thậm chí còn có một khu vườn bên hông nhà, chứ không phải kiểu căn nhà này nối tiếp căn kia. Michael nói anh chẳng mua nổi căn nhà như thế, nhưng Pauline bảo bố cô có thể giúp, hơn nữa ông đã hứa rồi - đã hứa rồi! Michael thấy mặt mình nóng lên vì xấu hổ. Thế là, anh bảo sống ở vùng ngoại ô làm sao buôn bán, nhưng Pauline nói có thể chuyển cả cửa hiệu đến đó. “Nếu thế, mọi người ở đường St. Cassians phải mua hàng hóa ở đâu?”. Anh hỏi, nhưng cô trả lời: “Mọi người ở St. Cassians ư? Ai màng đến họ kia chứ? Từ lâu em đã chẳng muốn làm người ở St. Cassians nữa rồi! Ở đó mọi người đều biết rõ chuyện của nhau. Chúng ta cũng nên mở rộng tầm mắt!”.

Thậm chí, cả cuộc sống chăn gối cũng trở thành nguyên nhân gây cãi vã. Anh có nên bắt đầu cùng một cách không? Phải chăng lần nào anh cũng dùng một tư thế và lặp lại cùng một động tác? Những vấn đề này từng làm Michael sửng sốt vô cùng, “Ồ, nhưng, ý anh là, anh phải làm sao...”. Anh lắp bắp hỏi, nhưng Pauline nói: “Thôi, bỏ đi, anh quên những gì em nói đi”. Sau đó, anh quên chuyện ấy thật. Thực tế, giờ họ chẳng quan hệ chăn gối gì nhiều, nhưng anh lại nghĩ: nếu xét sức khỏe hiện nay của cô ấy, tình hình này có thể lý giải.

Tuy nhiên, anh nhớ rất rõ những lần họ cãi nhau kịch liệt nhất, nhưng không nhớ vì lý do gì. Thực ra, họ rất hiếm khi cãi nhau lúc nói chuyện, vì phần lớn là do tính cách khác nhau. Nếu phân tích cá tính của hai người: Pauline làm việc nóng vội và không có kế hoạch, còn Michael lại rất cẩn thận và có lề lối; Pauline nghĩ gì nói đó, còn Michael luôn cân nhắc kỹ càng trước khi nói chuyện; Pauline tràn đầy sức sống, cô tập bước đi nước kiệu, nhảy điệu Jig, đánh trống, trong khi Michael lại thích yên tĩnh; với Pauline mỗi người bạn mới quen đều là bạn tốt nhất của cô, còn mỗi một cuộc tranh cãi nhỏ nhặt đều có thể khiến tình bạn ấy kết thúc mãi mãi, còn Michael có rất ít bạn thân nhưng tình bạn đó thường khá lâu bền.

Pauline cho rằng hôn nhân là sự dung hòa giữa hai tâm hồn, còn Michael lại nghĩ hôn nhân là hai người kết đôi đồng hành để không còn lẻ loi. “Anh nghĩ gì đó?”, cô thích hỏi thế, và “Nói em muốn biết cảm nhận thật sự của anh”. Cô luôn có thói quen mở và đọc thư của anh, ngay cả anh nói chuyện điện thoại với ai cô cũng hỏi rõ. Thậm chí, cả thói quen bảo anh đoán - cô lúc nào cũng nói “đoán xem chuyện gì, Michael... Không phải, nghiêm túc chút đi, đoán lần nữa xem... Mau lên, thì đoán đi mà... Không phải! Đoán lần nữa... Đoán mau đi!”. Với Michael, anh thấy điều đó rất phiền.

Tính cách hai người khác nhau như thế, sao có thể dung hòa? Michael cho rằng: chỉ riêng điểm này có thể chứng minh suy nghĩ của anh về hôn nhân là chính xác.

Anh cẩn thận để túi đường đứng trên quầy hàng. “Bà còn cần gì nữa không?”, anh hỏi bà Golka.

“Sao?”.

“Bà còn cần mua thêm gì không, bà Golka?”.

“Ồ”, bà nói, “xin lỗi, đủ rồi”.

Bà cười lắc đầu, đưa sổ thực phẩm trong tay cho Michael. Cửa hiệu tạp hóa thường có mấy giờ cao điểm: sáng họ mua những vật dụng cần thiết hằng ngày đã dùng hết trong một đêm; xế trưa họ mua thức ăn trước khi bọn trẻ tan học về để chuẩn bị cơm trưa cho chúng; buổi chiều họ mua những thứ cần thiết để chuẩn bị cơm tối; từ 5 giờ chiều khách sẽ thưa dần, chỉ có Wanda đứng bên quầy hàng. Wanda Lipska, đấy là tên bây giờ của cô. Cô mua hàng xong, còn tò mò chưa muốn về. “Anh nghe nói về chuyện Ernie Moskowicz đi nhập ngũ chưa?”.

“Ernie Moskowicz!”, Michael ngạc nhiên nói, “Cậu ấy vừa mới có con mà!”.

“Còn nữa, quán cà phê Hy Lạp tên Nick cháy rồi; Anna Grant lấy một Đại tá, chuyển đến sống ở bang Arizona. Anh còn nhớ Anna không? Cô gái chơi piano trong hôn lễ của anh đấy”. Wanda hỏi.

Michael trả lời: “Dĩ nhiên là nhớ”. Dĩ nhiên anh nhớ Anna - nhớ hàng lông mi dài thẳng của cô và cả mái tóc màu nâu buông xõa ngang vai. Bất chợt anh khao khát cô mãnh liệt, thế rồi anh tự hỏi bản thân: sao trước đây mình không yêu cô gái như Anna Grant? Nếu thế, hẳn giờ anh đã sống những ngày đơn giản và yên bình!

Thậm chí có thể là Wanda. Wanda mà anh từng quen biết có vẻ làm người ta chán ghét. Nhưng giờ cô đang ôm túi mua hàng đứng bên cạnh anh, có thai 6 tháng, sắc mặt hồng hào, trẻ đẹp và khỏe mạnh. Cô mặc áo khoác màu nâu cũ sờn, hình như mẹ hoặc bạn cô đã từng mặc. Trông chiếc áo hơi nhỏ, không che nổi cái bụng đang nhô ra của cô. Dù vậy, khuôn mặt hơi rộng kiểu Balan điển hình của cô lại rạng rỡ vì hạnh phúc.

“Cho tôi gởi lời hỏi thăm Pauline nhé”, cô vừa nói vừa quay người chuẩn bị rời khỏi, “bảo với cô ấy rằng tôi mong cô ấy có thể thấy... Ồ, bạn đến rồi! Chào!”.

Quả đúng là Pauline. Cô đang bồng bé Lindy, bước vào từ cửa chính hướng ra đường, đeo túi lưới mua hàng trên vai. Cô vẫn mặc áo khoác đỏ, đội chiếc nón Michael gọi là Robin Hood - cũng màu đỏ, màu rất hợp với áo khoác, chỉ vào chủ nhật cô mới lấy ra đội. Vành mũ hẹp, lại còn cắm một chiếc lông vũ đen rực rỡ. Lúc họ yêu nhau, Michael thường tìm kiếm chút sắc đỏ trên đường. Mỗi khi thấy có áo đỏ lướt qua trong đám đông, tim anh đều đập nhanh liên hồi.

“Chào bạn, Wanda! Chào Michael!”, Pauline chào họ. “Con bé xinh quá”, Wanda nhìn bé Lindy, “hệt như thiên thần”. Nói xong cô còn thơm cô bé mấy cái. Lindy cũng ăn mặc hoa hòe như mẹ: áo khoác nỉ màu hồng, đội mũ len nhỏ cũng màu hồng. Cô bé nghiêng mặt quan sát kỹ Wanda, sau đó quay đầu về phía Michael, dường như muốn hỏi: “Chuyện gì thế bố?”, Michael cũng nhìn nó, nhưng không cười.

“Mẹ con mình đến cửa hàng thịt”, Pauline nói, “mình muốn mua ít thịt chuẩn bị cơm trưa cho Michael. Dạo này thịt đắt thật! Mỗi pound phải mất 7 điểm mua hàng! Nhưng Michael làm việc vất vả quá, mình phải bổ sung đủ protein cho anh ấy”.

“Bạn vốn là người may mắn”, Wanda nói với Pauline, “lấy được anh chồng có cửa hiệu tạp hóa. Phải chi mình được như bạn, ở ngay dưới nhà có cà phê và đường mình cần”.

Pauline cười khanh khách. “Phải đó”, cô bảo, “mình rất may mắn, bạn đúng lắm!”, vừa nói Pauline vừa quay đầu về phía Michael, hy vọng anh cũng cười.

Nhưng anh chẳng cười, chỉ nhìn cô lạnh lùng. Thế rồi Wanda hắng giọng, chuẩn bị rời khỏi.

Với Pauline, lời nói ra tựa như một hạt bụi, hoặc vài giọt sữa tràn khỏi ly, có thể dễ dàng lau sạch không để lại dấu vết. Cô sẽ nghĩ rằng một lời xin lỗi đơn giản - thậm chí chẳng cần thiết - có thể xóa bỏ mâu thuẫn giữa hai người; cô ngỡ tâm trạng mình vui rồi có thể xóa bỏ những lời đã nói với chồng: tự cao tự đại, đáng ghét, luôn tự cho mình là đúng. Cô nấu ăn trong bếp với vẻ mặt vui tươi thoải mái, vừa ngân nga bài hát “Mọi người sẽ bảo chúng ta đang yêu”, vừa dùng nĩa chia phần thịt ra từng đĩa. Cô đang nấu món Michael yêu thích. Miếng thịt áo bằng bột mì, muối và tiêu, sau đó bỏ vào chảo dầu rán với lửa lớn. Thông thường, tay nghề nấu nướng của cô rất yếu, món vốn rất ngon cô lại thêm quá nhiều gia vị và làm quá nhiều. Michael thích nhất các loại rau củ, như măng đóng hộp, món khoai không nêm gia vị trộn một miếng bơ nhỏ.

“Tuyệt thật”. Bà Anton nhìn thức ăn trên bàn hớn hở nói, vừa trải khăn ăn lên đùi. Lindy khoái chí trên chiếc ghế cao, nắm chặt miếng măng trong tay, nước xốt cứ chảy ra hai bên tay nó. Michael trả lời một tiếng “Ừm”, rồi với tay lấy hũ muối.

Trong bữa cơm, Pauline luyên thuyên kể những tin mình nghe được khi đi mua sắm. Con gái ông Zynda từ Richmond về thăm ông; Henry Piazy cưới một cô gái Anh, ồ không, có lẽ họ chỉ vừa mới đính hôn; Tessie Dobek tối qua được đưa vào viện vì viêm ruột thừa cấp tính. “Ối, trời ạ”, mẹ Michael nói, “Tom và Grace tội nghiệp! Họ đã mất đứa con trai duy nhất, giờ lại đến đứa bé này. Chắc họ đau buồn đến phát điên”. Michael không trả lời, tiếp tục ăn cơm. Nếu chỉ nghe Pauline nói thế, bạn sẽ tưởng cô rất quan tâm chuyện hàng xóm láng giềng, chứ không phải khinh miệt họ.

Mẹ Michael nói: “Giờ Tessie bao nhiêu tuổi rồi nhỉ, chắc 12 tuổi? Hay 13 tuổi? Michael, hẳn con biết...”, bà Anton muốn anh cũng tham gia vào cuộc trò chuyện của họ.

Nhưng Michael chỉ nói một câu “không biết”, sau đó lại lấy một miếng bánh mì cho mình.

“Vết thương ở mông anh ấy lại đau rồi”, Pauline giải thích với mẹ, “con dám chắc tuyết sắp rơi đấy. Mẹ có chú ý dáng đi của anh ấy hôm nay không? Bài tập thể dục buổi sáng cũng không thể tập hết”. Cô nói thế, cứ như không có Michael vậy, còn bà Anton cũng không hiểu nguyên nhân hành động kỳ quái của con trai.

Mẹ anh nói tiếp đề tài lúc nãy, “Phải đó”, bà nói, “mẹ cũng cảm nhận được dấu hiệu tuyết sắp rơi, mình mẩy đau nhức vô cùng”.

“Hôm nay mẹ uống thuốc chưa?”, Pauline hỏi. “Mẹ quên rồi! Cám ơn con đã nhắc mẹ”.

“Con đi lấy thuốc, mẹ ngồi yên đấy nhé”. “Không, không cần đâu! Con ngồi xuống đi!”.

Hệt như đang nhảy trong một buổi vũ hội được tập duyệt kỹ lưỡng, hai người phụ nữ cứ giữ tư thế nửa đứng nửa ngồi, như đang khom gối hành lễ với đối phương. Một lúc sau, Pauline ngồi vào chỗ, bà Anton đã đứng dậy hoàn toàn, lê bước ra khỏi bếp.

“Đáng ra, em nên nhắc mẹ sớm hơn”, Pauline nói với Michael, “phòng bệnh tốt hơn chữa bệnh, bệnh thật rồi thì khó mà chữa trị”.

Michael chẳng nói gì cả, xé một miếng bánh mì nhỏ, bỏ vào trong đĩa của Lindy.

“Nhưng dĩ nhiên anh biết rõ hơn em”, Pauline nói tiếp, “vết thương trên mông anh sẽ nhắc anh thời tiết thay đổi rồi”.

Anh vẫn không nói. “Michael?”.

“Ăn chút bánh mì đi, Lindy, ngon lắm đấy”. Michael nói với con.

“Michael, lẽ nào anh định suốt đời không nói chuyện với em sao?”.

“Chà, bánh mì. Con biết nói không? ‘Bánh mì’?”. Lindy cười toét miệng với anh, để lộ hai chiếc răng cửa nho nhỏ dính món măng nghiền mà nó vừa ăn.

“Anh đừng thế mà, Michael, chúng ta không thể làm lành sao?”.

“Bánh mì”. Anh nói với Lindy.

“Thú thật, lời em nói không phải ý như anh nghĩ đâu! Lúc đó chỉ là do em thấy không được khỏe. Michael, thật tình em không chịu đựng được khi nổi cáu với em”.

“Anh không nổi cáu với em”. Michael nói. Mắt anh vẫn nhìn Lindy.

Pauline hỏi: “Anh không có sao?”.

“Anh buồn về em, và chán ngán vô cùng, cả cái tính hay làm người ta khó chịu của em nữa! Có lẽ, lúc đầu anh không nên lấy em!”.

Sự im lặng càng làm họ ngạt thở - một bầu không khí ngột ngạt bao trùm cả căn bếp.

Một lúc sau, tiếng bước chân của bà Anton vọng từ trong phòng ngủ ra. “Tìm thấy thuốc rồi!” giọng bà rất cao.

Bà đi vào bếp, tay cầm một túi thuốc bằng giấy màu xanh lam mua ở hiệu thuốc của nhà Sweda. Michael nói: “A, vâng”. Pauline ngồi thẳng người trên ghế, hỏi: “Mẹ cần nước uống thuốc không ạ?”.

“Không cần đâu, cám ơn con yêu, ly mẹ vẫn còn nước”. Bà Anton đáp, sau đó ngồi xuống ghế.

Michael cầm nĩa rồi tiếp tục ăn, còn Pauline vẫn ngồi bất động trên ghế.

Ăn cơm xong, mẹ Michael bảo để bà rửa bát đĩa. “Hai đứa lên lầu nghỉ ngơi đi”. Bà nói với họ. Nhưng Lindy lại réo khóc, nó buồn ngủ rồi.

Thế là Michael nói: “Con pha sữa cho con bé đây”.

“Ồ, để mẹ pha cho, con yêu, hai đứa đi nghỉ đi”.

Cứ như không nghe thấy lời mẹ nói, anh đi đến bên giá để bình sữa đã khử trùng. Mẹ anh không can thiệp nữa.

Pauline bồng Lindy về phòng ngủ thay tã. Michael pha sữa xong, sau đó cho vào một nồi nước đặt lên bếp hâm nóng. Anh khoanh hai tay trước ngực, dang hai chân đứng bên bếp lửa, nhìn nước trong nồi dần sôi. Phía sau anh, bà Anton đang lau đĩa. “Đừng hâm sữa nóng quá”. Một lúc sau, bà nói. Anh đáp: “A?... Dạ”. Sau đó anh nhanh chóng lấy chai sữa ra khỏi nồi. Còn làm nóng mấy đầu ngón tay. “Chết tiệt”. Anh mắng. Lần đầu tiên mẹ anh không phàn nàn gì trước những lời thô tục này. Anh đặt chai sữa dưới vòi nước bể giặt đồ để giảm bớt độ nóng, bà Anton lùi ra sau một chút, sau đó anh đi lên phòng ngủ, lắc mạnh bình sữa trong tay.

Trong phòng ngủ chẳng có ai.

Chiếc nôi của Lindy trống không, chiếc chăn của cô bé rất hờ hững treo trên thành nôi. Miếng trải giường bằng nhựa Pauline thường lót dưới giường họ trước khi thay tả cho Lindy vẫn xếp ngay ngắn đặt trên tủ com mốt (tủ năm ngăn kéo).

Anh đi xuyên qua phòng khách đến nhà tắm, ở đó cũng chẳng có ai. Thậm chí anh còn thò đầu vào căn phòng nhỏ của mẹ, nhưng vẫn chẳng thấy gì.

Chắc chắn họ đã men theo cầu thang đi ra ngoài trời. Họ không đi cầu thang có mái che và an toàn hơn ở phía sau, mà chọn cầu thang cứu hỏa kim loại rung rinh sắp sập thông ra đường Porter. Có lẽ, Pauline đã men theo cửa sổ trong phòng ngủ trèo ra bên ngoài ban công - đó là cái giàn lộ thiên. Cô ôm đứa trẻ mới 6 tháng tuổi vừa đói vừa buồn ngủ, tã lại ướt trong lòng, men theo cầu thang trơn trợt đi trong đêm đông lạnh giá. Gió Bắc vẫn đang rít lên, dự báo sắp có một trận tuyết lớn trước bình minh.

Anh trở vào bếp, đặt bình sữa trên tấm ván để ráo nước quần áo. Mẹ anh vừa rửa sạch bát đĩa, vừa nhìn anh đầy ngờ vực.

“Con nghĩ chắc hai mẹ con mình đi dạo thôi”. Anh nói. Bà dừng việc đang làm.

“Đi dạo gần nhà trước lúc ngủ”. Anh lại nói. Bà đáp: “Ừ”.

Bà để bát đĩa lên giá. Michael cầm một chiếc khăn giúp bà lau chén bát, rồi xếp chúng lại lên giá. Khi bắt đầu lau nĩa, anh lại thoải mái ngân nga một khúc nhạc. Một lúc sau, anh mới phát hiện mình đang ngân nga bài “Mọi người sẽ bảo chúng ta đang yêu”.

Than ôi, tính nắng mưa thất thường của Pauline! Cô quả là người khó đoán biết trước! Nếu Pauline cứ mãi bồng Lindy đi trong màn đêm chỉ vì những tức giận nhất thời, sao cô bé học được cách ngủ nghỉ đúng giờ chứ? Sắp 9 giờ rồi, họ ra ngoài đã hơn hai tiếng. Đứa trẻ cần được giữ ấm, ngoài trời thì quá lạnh.

Michael cứ đi qua đi lại trong phòng. Một lần nữa đến bên chiếc nôi nhỏ, anh lấy tấm chăn của Lindy từ thành giường xuống, vuốt thẳng và xếp ngay ngắn. Những vật dụng của con cũng phải gọn gàng sạch sẽ, anh nghĩ thế. Sao có thể để con mình lớn lên trong một môi trường lộn xộn, không ngăn nắp. Chúng cần sự ngăn nắp và sạch sẽ tuyệt đối.

Anh nghe tiếng mẹ bước ra từ nhà vệ sinh, chần chừ một lúc ở hành lang, rồi trở về phòng ngủ của bà. Có lẽ vì mang đôi dép dày và nặng, bước chân của bà nghe chậm chạp lạ thường. Anh nghĩ, mình nên đến phòng mẹ chúc bà ngủ ngon. Anh lại nghe tiếng khóa cửa phòng. Âm thanh đó như chứa đầy sự trách móc và bất lực.

Tấm chăn của Lindy do Pauline may hồi mang thai, cô dùng chỉ len màu vàng nhạt viền đường biên trên miếng vải sa tanh vàng. Vì cô cho rằng trước khi đi vào giấc ngủ, trẻ con đều thích sờ những ngón tay nhỏ xinh lên thứ gì đó trơn mịn. Cô có chút kiến thức về mặt này. Cô biết những đứa trẻ mới chào đời rất sợ mình sẽ bị tổn thương, nên cứ cuộn tròn người như cuốn chả giò; cô biết âm thanh mà trẻ con thích - chúng thích tiếng động có âm cao hơn, nhưng không thích tiếng la hét; cô còn biết động tác đung đưa trẻ nằm ngang có thể tạo hiệu quả an ủi, còn đung đưa lên xuống sẽ làm cứng cơ bắp của chúng.

Michael chẳng biết cô học những thứ này từ đâu, thậm chí anh nghi ngờ cô chưa từng học - đấy chỉ là ý nghĩ của riêng cô.

Anh đặt tấm chăn xếp cẩn thận lên giường Lindy, rồi đặt con ếch xanh ở đầu giường cho ngay ngắn lại. Đó là đồ chơi thuở nhỏ của Pauline, trông đã bạc màu, lớp lông bên ngoài nhẵn trụi vì thường bị sờ, điều này cho thấy nó từng được yêu quý biết bao. Miệng con ếch may bằng chỉ, nhưng một bên bị đứt đường may, biến nó thành con ếch vểnh môi cười ngây ngô. Chân phải của nó cũng được may lại bằng chỉ xanh màu nhạt.

Pauline là người thích ôn lại kỷ niệm xưa đồng thời rất tiết kiệm. Mãi đến giờ cô vẫn còn giữ con dế làm bằng thiếc. Đấy là món quà Michael bỏ vào một chiếc hộp tặng cô trong lần hẹn hò đầu tiên. Cô vẫn còn giữ một chiếc cốc giấy hình trụ tròn, giờ bị đè bẹp thành hình cái nêm giống như chiếc bánh có nhân. Đó là món đồ họ từng dùng chơi đùa trên tàu hỏa trong chuyến đi hưởng tuần trăng mật ở Washington.

Anh nhìn quanh căn phòng. Trên bức ảnh trong khung kính, bạn bè cô đang mỉm cười thân thiết; chậu xương rồng cũng nhanh chóng mọc vươn lên trên bệ cửa sổ.

Buổi tối, cô thường cùng mẹ anh chụm đầu xem chung một quyển tạp chí, thỉnh thoảng họ lại cười khanh khách. Dường như đề tài nào cũng có thể làm họ vui - thậm chí chỉ là một bức ảnh thời trang, hoặc một số kim chỉ nam nói về cách tạo một cuộc sống thú vị. “Hãy gom những đôi vớ không mang trong nhà bạn làm quà tặng chiến tranh?”. Pauline thường đọc theo tạp chí, “Dùng kim móc thành một chiếc túi có dây rút dễ thương, trên đó thêu hoa văn, chắc chắn rất bắt mắt!”. Mẹ anh nghe đến đây, ôm bụng cười ngặt nghẽo, mắt híp lại thành hai đường chỉ. Michael chưa từng thấy mẹ vui thế, dù lúc bố và em trai anh còn sống bà cũng chưa từng cười như thế. Chỉ có Pauline mới khơi dậy niềm vui nơi bà.

Anh nghe tiếng đồng hồ báo thức làm bằng thiếc đặt trên tủ đầu giường kêu tích tắc tích tắc, âm thanh nghe trầm buồn và chậm rãi. Ngoài ra, căn phòng im ắng vô cùng. Dường như, sự im ắng này đang đè nặng lên anh, “Thấy chưa?”, hình như nó đang hỏi, “Nếu không có Pauline anh sẽ trở nên cô đơn thế nào rồi chứ?”.

Anh mở tủ lấy áo khoác, rồi đi ra ngoài.

Ngoài trời tuyết sắp rơi rồi. Bầu trời tối om lộ ra một tia màu hồng tựa như một bức ảnh phối màu thủ công.

Trong không khí bao phủ một mùi hương nồng nặc, trên đường người qua lại thưa thớt, thỉnh thoảng có một vài người bước đi vội vàng. Mỗi khi cây nạng của Michael đặt xuống vỉa hè đều phát ra âm thanh vang dội tựa như tiếng kim loại va vào nhau. Dường như đầu cao su của cây nạng đó cũng bị tiết trời giá rét làm cho lạnh cứng.

Trong thâm tâm, Michael cảm nhận được tâm hồn mình trống rỗng khi không có Pauline, trái tim anh đang âm thầm nhỏ máu.

Lúc trong trại huấn luyện tân binh, anh luôn xếp gọn chiếc khăn choàng cô tặng, cẩn thận đặt dưới gối nằm. Mỗi tối, anh đều lấy nó ra, áp sát vào mặt, hít thật sâu mùi hương ấm áp của nó. Lúc đầu, nó có mùi của Pauline, có lẽ đây chỉ là tưởng tượng của anh thôi - như ngửi thấy mùi hương sữa tắm hạnh nhân trên người cô ấy, có mùi hương của làn môi cô, thậm chí còn tỏa ra mùi sốt táo trong nhà bếp. Nhưng khi anh đi tàu đến California, những mùi hương đó hoàn toàn biến mất, chỉ còn lại mùi chỉ len. Thế rồi anh lại liên hệ mùi hương này với Pauline, mọi vật đan bằng len đều làm anh nhớ đến cô ấy - tấm chăn quân dụng, mũ chống gió của anh lính cùng găng tay của những cô gái - đều khơi dậy trong anh một nỗi nhớ da diết. Trong thư gởi cô, anh viết “anh vì em mà mắc bệnh tương tư”, “đời anh không thể thiếu vắng em” - những lời nói nồng cháy đại loại như thế, nó đều xuất phát từ tình cảm chân thật của anh.

Pauline viết thư hồi âm: “Nhớ anh!”, “Yêu anh!”, “Phải chi hôm qua có anh cùng chơi bowling!”. Về sau, khoảng cách giữa các lần viết thư cho anh ngày càng dài, cả những lời nói ngọt ngào vốn đã ít và lại càng ít đi. Cuối cùng những lời nói ngọt ngào dần dần biến mất mà thay vào đó cô bắt đầu nói nhiều về câu lạc bộ quân nhân nơi cô làm việc. Cô cung cấp cà phê và bánh rán cho các anh lính. Cô gọi họ là bạn, “anh chàng đến từ Nebraska là anh lính tốt nhất mà em từng gặp”, “anh chàng tóc đỏ tên Davey, em từng kể chuyện anh ta với anh”. Nhưng dù vậy, anh vẫn không khỏi lo lắng vì cô không chỉ cùng họ đi chơi bowling, mà còn cùng trượt băng, khiêu vũ. “Làm thế là thể hiện lòng yêu nước của em!”, cô giải thích như thế về chuyện khiêu vũ. “Nếu điệu Jitterbug (điệu nhảy giật gân) là một biểu hiện của lòng yêu nước, nhất định em sẽ nhảy!”. Lúc đọc thư cô gởi, anh nheo mắt vì muốn tìm xem trong từng hàng chữ có điều gì bất thường không. Trong thư anh viết: “Mong rằng em không bắt đầu quên anh”. Cô hồi âm: “Em sẽ mãi mãi không quên anh! Nhưng em không thể ngồi ở nhà suốt đêm, em chỉ mới 21 tuổi, anh mong điều gì ở em chứ?”. Thực tế, anh lại nghĩ ở nhà suốt là tốt, nhưng không nói cô nghe suy nghĩ này.

Anh không khỏi oán hận cuộc sống quân đội. Khoảng thời gian vắng nhà làm anh đau khổ vô cùng. Cuộc sống thiếu sự riêng tư làm anh lo lắng, bất an. Hầu như những ngày trong quân đội đều cho anh cảm giác này. Không những sợ chiến đấu, mà anh còn sợ những buổi huấn luyện quân sự: bò rạp trong những lùm cây gai góc, không ngừng run lên giữa hai hàng kẽm gai, lưỡi lê trong tay anh không ngừng đâm mạnh ra trước, vì dùng sức quá mạnh suýt nữa anh đã đâm phải hai anh lính đứng hai bên, còn họ sau khi lầu bầu một tiếng bất an cũng đâm ra trước như thế. Hồi ở trại huấn luyện, anh đã cầu nguyện mình được cử làm công việc văn phòng. Sự sắp xếp như thế chẳng phải càng hợp tình hợp lý hơn với một chàng trai lớn lên trong một cửa hiệu tạp hóa sao? Nhưng theo những trải nghiệm của anh ở California, rõ ràng đời sống quân đội khác hẳn trong suy nghĩ của anh. Hầu hết các buổi huấn luyện đều liên quan đến thuốc nổ. Điều tệ hại hơn là, anh lại phải ở chung phòng với anh lính đến từ Virginia cứ ngáy suốt đêm tên Connor.

Cùng lúc đó, Pauline đang khiêu vũ với những anh lính khác, thì thầm to nhỏ với các bạn nữ, trang điểm trước gương. Anh khao khát được sống an nhàn vui vẻ như cô biết bao, đôi lúc anh lại nghĩ việc nhập ngũ là một sai lầm do cô gây ra. Nói đúng hơn, đấy không phải lỗi, mà là ảnh hưởng của cô. Sự ảnh hưởng lớn nhất đó chính là ánh mắt nhiệt tình và tràn đầy hy vọng của Pauline. Không, nên loại bỏ suy nghĩ này, đàn ông phải chịu trách nhiệm với quyết định của mình.

Anh không ngừng nói thế với bản thân, nhưng càng ngày anh càng chán ghét cuộc sống trong quân đội. Những con bọ trên bãi tập không ngừng cắn họ; khi vị sĩ quan nói dài dòng, tay các anh lính phải cầm vũ khí đứng yên một chỗ, thời gian trôi qua, vũ khí ngày càng trở nên nặng nề; thậm chí cả gió rét trong trời đông giá lạnh và anh chàng Connor giường bên cứ ngáy suốt cũng làm anh phát điên. Một đêm nọ, sau 8 ngày, cuối cùng Pauline cũng viết thư cho anh. Nhưng thư lại nhắc đến một thượng úy “khéo đối nhân xử thế” nói giọng Boston. Michael nhảy phắt xuống giường, không ngừng gào thét “Dừng lại! Dừng lại! Dừng lại!” sau đó túm lấy gối, đè mạnh lên mặt Connor, ba anh lính mới đến kéo anh ra. Connor ngồi dậy, sửng sốt trừng mắt nhìn anh, mặt đầy vẻ nghi hoặc. Michael hai tay ôm mặt ngồi xuống giường mình.

Sau lần đó, mọi người xung quanh đều cố tình lẩn tránh anh. Trong trại huấn luyện tân binh, anh vốn không có bạn bè, một số ít những người bạn xã giao với anh cũng bắt đầu dần xa lánh. Cấp trên theo dõi Michael sát sao, Connor không ngừng nắm bắt cơ hội gây rắc rối cho anh - “bất cẩn” đánh đổ tách cà phê của anh, hoặc cố ý đẩy anh ra khỏi hàng ngũ. Không bao lâu sau, vào một lần tập huấn trong rừng, súng của Connor cướp cò, bắn trúng mông trái của Michael. Sau sự việc đó, có người cho rằng đây là vô tình, nhưng Michael biết rất rõ... Dù vậy, anh cũng không tố cáo Connor.

Cuối cùng, Connor thắng, Michael đành cuốn gói về nhà.

Anh đi băng qua đường Purslane rồi rẽ phải, đến trước nhà Barclay. Ánh đèn in rõ hình dáng cửa sổ tầng dưới trong sân vườn, chiếu sáng cột của vòm cửa nhà bằng gỗ. Michael không thích vòm cửa, vì thấy nó rất xa xỉ. Vòm cửa nhà Barclay trông đã cũ, giày ống cao su vứt lung tung khắp nơi, xẻng xúc tuyết đã gỉ sét và cây chổi cùn đặt bên cửa dường như đang cúi đầu chào mừng anh đến.

Anh bấm chuông cửa, dậm chân trên tấm thảm trước nhà. Anh định bấm thêm lần nữa, nhưng lại đột ngột thay đổi ý định, rút ngón tay trở về.

“A”, cuối cùng ông Barclay cũng xuất hiện dưới ánh đèn rộng lớn, “Michael à”.

“Vâng, con đây, thưa bố”. “Xin chào”.

Ông Barclay vừa nói vừa đứng sang một bên, chí ít lần này ông không ngâm mình trong bồn tắm. Ông mặc áo len cổ chữ V và quần túm ống, một tay cầm tờ báo “Tin tức bưu điện”, kính lão không gọng xệ xuống trên sống mũi.

“Con nghĩ tuyết sắp rơi”. Michael vừa nói vừa bước vào.

“Phải đó, dự báo thời tiết cũng nói vậy”. Ông Barclay chỉ tờ báo trong tay về phía cầu thang nói: “Nó và con bé ở trên lầu”. Sau đó, ông ngồi vào ghế dựa lúc nãy.

Mẹ Pauline ngồi trên ghế lắc lư vẫy tay thân thiện với Michael, “Dạo này vẫn khỏe chứ, Michael?”, bà hỏi. “Ồ, con rất khỏe, thưa mẹ”.

Bà đang đan một chiếc khăn tay màu xanh, chỉ len không ngừng lướt nhẹ trên đùi bà. Trong lò sưởi nhen lên ngọn lửa nhỏ yếu, tiếng nhạc du dương phát ra từ radio. Chiếc radio đó rất mới lạ, nút rà đài nằm xéo phía trên, người nghe không cần ngồi xuống cũng có thể chuyển đài. Ông Barclay ngồi lại xuống ghế, rồi lại lật báo xem.

Michael nhìn cảnh trước mắt một lúc lâu, rồi quay người đi lên cầu thang.

Ở đoạn cuối tầng hai có mấy gian phòng rộng hơn, một trong số đó là phòng ngủ của Pauline trước đây. Pauline đang đứng cạnh chiếc nôi cũ, vừa đưa nhẹ vừa ngân nga khúc hát thường ru bé Lindy ngủ. Phòng tối mờ, nhưng ánh đèn từ phòng khách hắt vào đủ giúp Michael nhìn thấy vẻ mặt Pauline khi cô ngẩng đầu nhìn anh. Mắt cô ươn ướt, miệng nở nụ cười yếu ớt, hai khóe môi đang run nhẹ, ánh mắt đầy hy vọng.

“Em yêu, Pauline”. Anh gọi tên cô, cây nạng trong tay ngã xuống đất, anh đi về phía cô, ôm cô vào lòng. Anh cảm giác được nước mắt cô làm ướt làn da nơi cổ anh. Lúc này đây, anh thấy cô quan trọng với anh biết dường nào và yếu đuối biết bao. “Em tưởng anh không đến tìm em nữa, tưởng anh không cần em nữa, tưởng anh không yêu em nữa”. Cô rủ rỉ bên tai anh. Anh nói: “Anh không bao giờ bỏ em. Dĩ nhiên anh yêu em. Anh không thể là người chồng không yêu em!”.

Anh ôm chặt cô vào lòng, nhìn ra ngoài cửa sổ cao lớn tối đen qua đỉnh đầu cô, thấy tuyết bên ngoài đang rơi. Những bông tuyết trắng mềm không ngừng rơi từ trên không xuống nhẹ tênh, làm ta không cảm nhận được sự tồn tại của nó. Anh thấy nếu mình nín thở, thời gian sẽ mãi lắng đọng ở giây phút này.