Chương 2
Chuông điện thoại reo, Pauline nói to: “Các con cứ ngồi yên! Để mẹ nghe! Ngồi yên đấy!”.
Thật ra, chẳng đứa nào nhúc nhích cả. Lindy và George vừa ăn sáng vừa lặng lẽ nhìn mẹ. Karen còn quá nhỏ, chưa biết nghe điện thoại, cô bé không ngừng nhét bột yến mạch nhão nhẹt vào trong miệng con búp bê.
Bà Anton lê bước chân ra khỏi phòng ngủ đến hành lang trải thảm, thấy Pauline đang chạy về phía mình, liền nép người vào tường cho cô qua. Pauline không nghe điện thoại trong bếp, mà chạy xuống phòng dưới, nghe một cuộc điện thoại khác ở đó.
“Alô?” cô vừa thở dốc vừa bắt máy, vừa nhảy lò cò vì chạy vội quá nên bất cẩn vấp ngón chân.
“Chào, con yêu”. Mẹ cô nói.
“Ồ, mẹ à”.
“Chà, sao thế con”.
“Con chỉ... mẹ khỏe không ạ?”.
“Khỏe lắm, cám ơn con. Nhưng chị con không ổn rồi. Tối qua, con bé thấy đau từng cơn trước khi sinh, có lẽ chỉ là cảm giác của nó thôi, 2 giờ sáng nó có gọi điện đến, bố con thúc mẹ đi xem thế nào. Con bé cùng Doug nhét đầy một túi hành lý vội vã đến bệnh viện. Con đoán xem? Bác sĩ bảo là đau giả. ‘Đau giả?!’ nó nói, ‘Không thể nào! Tôi có phải sinh lần đầu đâu! Ông tưởng tôi không biết ư...’”.
Bọn trẻ vứt một quyển truyện tranh trên quầy bar, giờ chỉ còn lại mỗi trang bìa - những trang bên trong đã rơi rụng khắp nơi trong phòng, bao gồm cả một trang vẽ hình chuột Mickey thắt chiếc nơ đỏ to tướng. Thật ra, đặt một quầy bar trong phòng chẳng hợp lý chút nào vì Pauline và Michael đều ít uống rượu. Nhưng Pauline định chờ khi cuộc sống của họ có chút thời gian rỗi rãi sẽ mời hàng xóm đến mở tiệc rượu. Cô còn định chờ bọn trẻ lớn khoảng mười mấy tuổi sẽ mở vũ hội, rồi làm nước ngọt vị cam kết hợp kem viên và một số thức uống khác. Dù vậy, họ vẫn chọn căn nhà có quầy bar. Họ được quyền chọn một trong ba kiểu nhà A, B, C. Nhưng hai kiểu nhà B và C đều vượt ngoài khả năng của họ. Nói đúng hơn là nằm ngoài khả năng của bố cô, vì ông là người trả tiền đợt đầu. Còn kiểu nhà A, tức kiểu nông trại California, đều mang những nét đặc sắc nổi bật: chẳng những trong nhà có quầy bar, còn có một trụ gạch tựa như ống khói xuyên xéo từ trên xuống; ngoài ra, chỗ vốn là lò sưởi âm tường được cải tạo thành ô vuông lõm vào. Họ lên kế hoạch chờ có tiền sẽ mua một chiếc ti vi đặt vào đó.
“Donna tội nghiệp khóc lóc đòi về nhà”, mẹ cô nói tiếp: “Con có biết chị con mệt thế nào không? Tối không ngủ được, lưng đặt đâu cũng thấy khó chịu...”.
“Được rồi, lát nữa con sẽ gọi điện cho chị ấy”, Pauline nói, “mẹ thử giúp chị ấy vui lên nhé”.
“Phải đó, nên làm thế, con yêu. Tâm trạng chị con rất tệ, trông nó rất chán nản”.
“Con phải đi đây!”, Pauline nói.
Gác máy xong, cô lại đứng tại chỗ một lúc, mắt nhìn điện thoại, nhưng nó không reo nữa.
Trong bếp trên lầu, bà Anton đang dọn dẹp tủ chén bên bếp lửa. Bà lấy muối, tiêu, bột bắp, đường và bột khoai từ trong tủ chén ra. Bà trùm khăn trên đầu, rồi thắt gút trước trán, đôi chân vừa trắng vừa nhỏ lộ ra từ bên dưới, gầy như da bọc xương.
“Mẹ đang tìm gì thế?”, Pauline hỏi. “Quả mận khô”.
“Mẹ ngồi nghỉ đi, con tìm cho. George, đừng nghịch miếng bánh mì nướng trong tay nữa, hoặc là ăn cho hết mau, hoặc rời khỏi đó ngay. Còn Lindy... Lindy, con mặc thứ gì vậy?”.
Lindy mặc chiếc quần soọc thể thao và một chiếc áo cánh màu hồng tay phồng - mà trước giờ nó luôn từ chối mặc. Mỗi sáng chủ nhật, khi chúng thay quần áo chuẩn bị đến nhà thờ, Pauline đều hỏi: “Này, mẹ con ta cùng mặc áo cánh nhé?”, nhưng Lindy cứ bảo không. Tóm lại, ngoài bộ quần áo đang mang trên người, thì bộ nào con bé cũng mặc. Nó là đứa bé có tính cách ương bướng! Pauline định cất đi, chờ Karen lớn một chút sẽ cho nó mặc. Karen trông lại thích hợp với bộ trang phục đó hơn: làn da trắng hồng, tóc vàng mắt xanh. Còn mắt Lindy lại có màu đen giống như Michael. Từ năm 7 tuổi, con bé đã gầy nhom, góc cạnh như bố. Pauline luôn tin rằng: một ngày nào đó Lindy sẽ lột xác thành một cô gái đẹp, nó sẽ trở thành cô gái được mọi người chú ý, trở thành người mẫu trên tạp chí thời trang. Nhưng giờ phút này, vào một buổi sáng thứ bảy, con bé đứng đó và làm mọi người bất ngờ khi cùng lúc mặc cả áo cánh và quần thể thao, còn Pauline mặc quần sọt. “Lindy”, Pauline hỏi, “con vào thay áo thun được không? Mắc chiếc áo này vào tủ, để tránh làm nó nhăn”.
“Con không muốn mặc áo thun”, Lindy nói, hất cằm như khiêu khích, mắt nhìn xéo mẹ, tóc cô bé vừa đen vừa dài, rũ xuống hai bên má.
“E hèm, mẹ chẳng đưa người ăn mặc kiểu đó đi bơi đâu”. Pauline nói xong, liền quay người tìm quả mận khô trong tủ bếp. Cô biết rõ một điều: nếu không chủ động tăng nhanh xung đột, vấn đề với Lindy sẽ càng dây dưa không dứt. Pauline nói xong, thì thấy Lindy đang tuột dần khỏi chiếc ghế, sải bước dài ra ngoài.
“Con được đi bơi”, George nói, “vì con mặc áo thun”.
“Đúng vậy, George bé bỏng. Mẹ ơi, con không tìm thấy quả mận khô, chắc mẹ phải ăn sáng với món khác”.
“Nhưng ông Stanek bảo quả mận khô tốt cho sức khỏe. Ông bảo nên ăn nhiều mận khô và thức ăn thô giàu chất xơ”.
“Sốt táo thế nào ạ?”, Pauline hỏi.
“Sốt táo! Con muốn giết mẹ đấy à! Con biết sốt táo sẽ gây táo bón mà!”.
“Vậy ăn ít trái cây đóng hộp nhé, con nhớ có thấy một hộp ở đâu...”.
“Mẹ chẳng hiểu sao nữa”, bà Anton nói, “nhà ta mở cửa hiệu tạp hóa, nhưng mẹ luôn chẳng có thứ gì để ăn”.
Pauline chau mày nhăn mặt với chiếc hộp đựng nho khô và đậu phộng.
“Michael đâu rồi? Hôm nay là thứ bảy mà! Chẳng phải nó bảo từ nay sẽ ở nhà vào thứ bảy sao?”.
“Ồ, mẹ biết tính anh ấy mà”, Pauline nói, “anh ấy không yên tâm để người khác làm việc. Lúc nãy anh ấy nhận được điện thoại của Eustace bảo tủ lạnh gặp trục trặc, nên vội đến đó ngay”.
“Ra là thế”, bà Anton vừa nói vừa quay người bước đi. “Đây rồi”, Pauline nói, “có một ít cám lúa mì, chẳng còn gì khác nữa”.
Bà Anton bĩu môi không thích, nhưng vẫn ngồi vào ghế để Pauline múc một bát.
“Con đi lấy khăn và quần bơi”, Pauline nói với George, “Karen, mau ăn hết đi, chúng ta đến bể bơi thôi, trễ rồi...”.
Chuông điện thoại lại reo. “Để con nghe”. Cô nói lớn.
Cô bay ra ngoài bếp, chạy vào hành lang, xuống phòng dưới nhà. Mỗi khi điện thoại reo, cô luôn xem đó là may mắn của mình, vì không khi nào bà Anton nghe thấy tiếng chuông reo mà nhấc ống nghe lên.
“Alô?”, Pauline bắt máy. “Pauline phải không?”.
Cô kêu lên: “Ồ! Alex! Chào anh!”.
Khi nói câu này, giọng cô có vẻ thoải mái, còn pha chút ngạc nhiên, dường như người này luôn ở nơi xa vời trong tư tưởng của cô.
“Mong rằng cô không bận việc gì”. “Không, chẳng bận gì cả”.
“Tôi biết thứ bảy là ngày của gia đình”.
“Thật ra, Michael vào thành phố rồi”. Cô nói, “Với tôi, cuối tuần cũng như mọi ngày thôi”.
“Được, tôi có một việc muốn nhờ cô giúp”. “Chuyện gì chứ?”, cô hỏi.
Trông cô cứ như một người khác - sức sống tràn trề, như một cô gái mặc váy ngắn bay bay trong gió mà bạn chỉ thấy ở sân golf.
“Tôi phát hiện một ít thịt trong tủ lạnh dưới tầng hầm”, anh nói, “nó được để trong đó lâu lắm rồi, có lẽ vẫn... Cô biết đấy, nó đã ở trong đó từ trước khi chúng tôi chia tay. Nên tôi muốn hỏi cô, nếu ăn số thịt đó, có nguy hiểm tính mạng không?”.
“Ồ, thế à...”, cô nói, cố tình câu giờ để cuộc trò chuyện của họ dài hơn.
“Tôi vẫn chưa muốn rời khỏi thế giới này đâu”, anh nói, “dù mọi người đều nghĩ trái tim tôi đã tan nát từ lâu”. “Anh nói rất đúng!”, cô tỏ ý tán đồng ngay, “Nhưng tủ lạnh của anh mở suốt chứ? Nó cũng chưa từng bị hư hỏng hoặc mất điện phải không?”.
“Theo như tôi biết, đến giờ vẫn chưa”.
“Adelaide rời khỏi anh, từ khi...”.
Trong cuộc nói chuyện gần đây nhất của họ, lần đầu tiên cô nhắc đến chuyện vợ Alex bỏ đi. Khi lớn tiếng nói ra tên vợ anh, Pauline thấy mình có hơi lỗ mãng.
“Từ hồi tháng 5”, Alex nói tiếp, “nhưng cô ấy là người lo xa, số thịt đó chắc đã được mua vào mấy tuần trước khi chúng tôi chia tay”.
“Nếu thế thì”, Pauline nói, “thịt vẫn dùng được”.
“Cô nghĩ thế thật sao?”.
“Có thể nó không được tươi lắm, nhưng...”. “Vậy tôi mạo hiểm một lần”. Alex nói.
“Than ôi, anh đừng mạo hiểm vì lời tôi nói chứ!”.
“Sao lại không thử?”, anh hỏi, “Còn ai giỏi hơn cô nào? Chà, cô là bà Betty Crocker của chúng tôi mà! Tôi vẫn còn nhớ món sốt cô mang đến trong lần picnic hồi ngày 4 tháng 7 đấy!”.
“Đó là món sốt dạ tiệc kiểu Hawaii của tôi”. Cô nói, không khỏi vui ra mặt.
“Mùi vị đó quả thật tuyệt vời”. “Nhưng Michael bảo ăn không quen”. “Đó chính là điểm độc đáo của nó!”.
“Anh ấy hỏi tôi: ‘Sao em lại dọn một đĩa thức ăn có cho nước tương vào ngày Độc lập chứ?”.
Lindy gọi: “Mẹ ơi”.
Pauline quay phắt người lại, do quay người vội quá, khuỷu tay cô bất cẩn va vào quầy bar. “Ồ! Chào con!”, cô nói với Lindy.
Lindy đang đứng ở chân cầu thang. Cô bé đã thay áo, một chiếc áo yếm tam giác buộc chặt trên thân hình phẳng phiu của cô bé. Pauline hỏi: “Chuyện gì thế, con yêu?”. Nhưng Lindy vẫn nhìn cô chằm chằm, đôi mắt nó đen đến mức Pauline không đoán được nó đang nghĩ gì.
Đầu dây điện thoại bên kia, Alex vẫn đang thao thao bất tuyệt: “... Tôi thấy ngưỡng mộ mẫu phụ nữ hiểu biết rộng...” anh còn muốn nói tiếp, nhưng Pauline ngắt ngang, “Ái chà!” cô vui vẻ nói, “Con gái tôi đến rồi!”.
“Ồ, vâng”. Alex nói. “Vậy tạm biệt nhé”.
“Tạm biệt, Pauline!”.
Cô gác máy.
Lindy hỏi: “Ai thế mẹ?”. “Một người bạn”.
“Bạn gì?”.
“Thì là bạn, Lindy, chú ấy hỏi về cái tủ lạnh...”. “Chuyện về cái tủ lạnh là sao?”.
“Chuyện nấu nướng, hiểu chưa?”.
Lindy vẫn không chịu thôi, tiếp tục làm phiền mẹ.
“Chúng ta phải đi rồi”. Pauline nói với cô bé, sau đó bước những bước nhanh về phía cầu thang, vừa xoa chỗ khuỷu tay va vào cạnh quầy bar.
Một ngày nào đó, có lẽ họ sẽ có hai chiếc xe hơi, giống như các gia đình khác, nhưng giờ vẫn chưa mua nổi. Cứ dắt theo con là Pauline phải đi bộ. Bằng không thì phải lái xe đưa Michael vào thành phố, hết giờ làm lại phải đến đón anh về. Dù vậy, Elmview Acres vẫn đáng để cô tới lui. Nơi đây cây xanh bóng mát, an nhàn dễ chịu, mọi thứ đều có trật tự và tạo cảm giác bình yên!
Lúc đầu, Michael phản đối dọn đến đây. Anh thấy căn nhà này quá đắt, lại cách những người quen biết quá xa. Nhưng, họ phải ở trong căn nhà ọp ẹp đó đến bao giờ? Ba đứa con chen nhau trong một căn phòng. Pauline và Michael thậm chí không có lấy phòng riêng, chỉ có thể nằm ngủ trên chiếc sô-fa dài gấp mở được trong phòng khách. Hơn nữa, khách đến chơi đều phải vào nhà từ bếp.
Còn một nguyên nhân nữa là George và Lindy chỉ có thể chơi ngoài đường. Đây cũng là một trong những nhân tố mang tính quyết định. Mỗi ngày từ bên ngoài về, cả hai mặt mày đều lem luốc, đầu gối bám đầy bụi bẩn. Trong khi đó, mỗi căn nhà ở Baltimore đều có một bãi cỏ trống. Khu nhà mới xây còn có bể bơi riêng.
Bể bơi ở khu nhà Elmview Acres trông giống như cây đàn ghi-ta có tạo hình nho nhã. Bên cạnh bể nước cạn dành cho phụ nữ và trẻ nhỏ còn có hàng ghế xếp và ghế nằm cho mọi người nghỉ ngơi. Nhưng, hôm nay chỉ thấy hai người phụ nữ ngồi đó - Mimi Drew và Joan Derby - vì là sáng thứ bảy, rất nhiều bà nội trợ đều theo chồng đi ra ngoài. Pauline vẫy tay với Mimi và Joan, rồi đẩy xe em bé vào phòng thay quần áo. Cô tranh luận với George: “Không được, George, con không được vào phòng thay quần áo nữ, con lớn rồi, con có thể tự mình vào phòng thay quần áo nam”. Thế là George đành kẹp một chiếc khăn lông cuộn tròn dưới nách rồi lê bước nặng nề về phía phòng thay quần áo nam. Pauline để xe đẩy ở cửa phòng thay đồ, lấy chiếc balô đi biển từ cái giỏ phía sau ra, rồi dẫn Lindy và Karen vào căn phòng âm u lạnh lẽo, đầy mùi xi măng ẩm ướt. Một bên tường trong phòng đặt một chiếc ghế dài, đầu kia từng là gian phòng nhỏ làm bằng gỗ thô. Cô cho Karen thay bộ đồ bơi màu trắng đỏ có nếp gấp ở phần mông tựa như váy rumba giúp giấu chiếc tã kềnh càng của cô bé. Trong lúc đó, Lindy lại gắng sức mặc chiếc quần bơi và áo không tay - đây cũng là bộ đồ bơi duy nhất cô bé chịu mặc. Pauline đã sớm từ bỏ tranh luận với cô bé về đề tài này.
Cô bảo hai đứa bé ra khỏi gian phòng, nhưng không được rời khỏi phòng thay quần áo. Hai đứa ngồi trên ghế dài chờ mẹ. Sau đó cô vào thay quần áo. Cô mặc một bộ đồ bơi sọc xanh, có dải bèo để chân trông thon thả hơn. Dạo gần đây, dường như đùi cô bỗng nhiên to ra rất nhiều.
Nếu Alex Barrow thấy Pauline thế này sẽ phản ứng thế nào nhỉ!?
Có một chuyện làm cô luôn cảm thấy nuối tiếc: cô cũng từng trẻ đẹp, nhưng khoảng thời gian đó thật ngắn ngủi! Dù khi cô nói thế, Michael vẫn thật lòng phản đối, “Em vẫn còn trẻ! Chưa đến 30 mà! Em vẫn là người phụ nữ đẹp nhất thành phố!”, nhưng cô lại nghĩ rằng, anh nói thế chỉ chứng minh được anh rất ít chú ý đến vợ. Cằm của cô dường như ngày càng nặng nề, hầu như đã biến thành hình vuông, chỉ có mái tóc dày khó chải ít nhiều che đậy được những sự thật. Mặt cô ngày càng... tuy chưa đến mức tối sạm, nhưng cũng thiếu độ sáng bóng, da cũng chảy xệ và có vài nếp nhăn.
Cô mang ba lô lên vai, bước ra ngoài. Karen đang ngoan ngoãn ngồi mút ngón tay cái trên chiếc ghế dài. Còn Lindy đang đu người trên thanh ngang ở lối vào phòng thay quần áo, một nửa người bên trong, một nửa người bên ngoài, đôi vai gầy nhỏ tắm dưới ánh nắng, hai chân như hai ống que đang treo lủng lẳng trong bóng tối. “Lindy!” Pauline gọi, “Mẹ có bảo con ngồi trên ghế dài chờ mẹ không?”.
Không trả lời, Lindy chạy ra bể bơi. Pauline và Karen đi phía sau.
Khi ngang qua phòng thay quần áo nam, George cũng theo ra. Giống như Karen, George cũng là đứa trẻ biết nghe lời, ngoan ngoãn đứng chờ nơi Pauline dặn. Nó béo tròn, da trắng, đang mặc chiếc quần bơi vải sọc. Nó đưa khăn cho Pauline, hỏi: “Mẹ ơi, giờ con có thể xuống bể bơi chưa?”. Người bạn thân nhất của nó, Buddy Derby đang mở trận thủy chiến với mấy đứa trẻ nhà Drew.
Pauline nói: “Đi đi”. Thế là nó vù chạy mất. “Đừng chạy!”, Pauline gọi với theo, nhưng đã quá muộn. Lindy đã ở dưới bể bơi, lúc nãy vừa đến bên thành bể, cô bé đã ôm gối nhảy tủm xuống, làm nước bắn tung tóe.
Pauline dắt tay Karen - bàn tay nhỏ mềm mịn như kem - đi về phía hai người phụ nữ. “Hôm nay không đi cùng ông nhà sao?”, cô vừa hỏi vừa bỏ ba lô xuống. “Brad lại đau nửa đầu”, Mimi thở dài một tiếng. Joan nói: “Phil phải đi làm”.
“Ồ, Michael cũng vậy”. Pauline nói với họ.
Mimi Drew dáng người tròn trịa, mặt trái lê, là người phụ có vẻ ngoài bình thường. Còn Joan lại giống như một người mẫu, dáng cao ráo, phía sau cặp kính râm là khuôn mặt lạnh như tiền, mặc bộ đồ bơi màu đen hai mảnh, phô bày những đường cong tuyệt mỹ của cô. Khi ở cạnh Joan, Pauline luôn có cảm giác tự ti. Cô ngồi xuống chiếc ghế nằm trên cùng, bên trái là Mimi và Karen. “Anh ấy hứa với tôi, sau này sẽ ở nhà vào thứ bảy”, Pauline nói, “nhưng hầu như luôn có việc cần anh ấy giải quyết”.
“Đúng vậy, đàn ông là thế đấy”. Joan hưởng ứng. Cô ngẩng nhìn mặt trời nói: “Tôi nói với Phil cần phải cắt cỏ, nhưng anh ấy bảo: ‘Anh xin lỗi, thư ký đã sắp xếp một cuộc họp rất quan trọng cho anh’”.
“Còn phải vệ sinh rãnh thoát nước!”, Mimi chen vào, “Mỗi lần tôi nhắc đến chuyện rãnh thoát nước, y như rằng Brand đau đầu”.
Michael cũng không biết vệ sinh rãnh thoát nước. Lúc họ mới chuyển đến, cũng chính là mùa thu năm ngoái, Bob Dean nhà bên cạnh đã nói với họ có một cây to thường rụng lá, làm rãnh thoát nước ở đây lúc nào cũng bị nghẽn, đồng thời anh ta bảo rất sẵn lòng cho nhà Anton mượn thang. Về sau Michael nói với Pauline, anh cứ tưởng Baobo nói đến rãnh thoát nước bên đường. “Chúng ta cứ để mặc lá trên đó không được sao?”, anh từng hỏi Pauline như thế, “Rãnh thoát nước trên mái nhà chẳng phải để hứng lá rơi sao?”.
Pauline dang hai tay bất lực, dù sao cô cũng lớn lên ở thành phố.
“Mỗi tuần đều phải cắt cỏ, chán quá!”, Michael từng nói thế.
Michael là một trong số ít những ông chồng không biết bơi, da anh cũng trắng hơn những người đàn ông khác.
Karen ra sức xoay mình vùng khỏi Pauline, chạy ra bể bơi. Pauline biết cô bé rất nhát, thậm chí không dám nhúng cả đầu ngón chân xuống nước. Hơn nữa còn có một nhân viên cứu hộ ngồi trên ghế quan sát, nên cô ngồi trở lại ghế nằm, nhắm mắt lại. Ánh nắng rất ấm áp, tiết trời không oi bức như lúc trưa, từng cơn gió nhẹ thổi lướt qua làn da, khí Clo bốc hơi trong bể bơi làm cô thấy uể oải, mệt mỏi, giống như đang trôi trên mặt nước.
Mimi đang nói về chuyện bữa tối nấu gì, “... Tuần này đã làm món cá ngừ một lần rồi”, cô nói, “cả hambuger và hot dog...”.
“Nấu cơm cũng thường thôi. Tôi ghét nhất là vắt óc nghĩ xem hôm nay ăn gì. Joan nói, “đôi lúc tôi mong có người lên thực đơn cả tuần cho tôi”.
“Tôi nên lấy miếng thịt trong tủ lạnh mang nướng”, Mimi nói tiếp, “thậm chí tôi không xác định nó còn ăn được không”.
“Giống như Alex vậy”. Pauline nói, rồi mở mắt ra. Mimi hỏi: “Alex?”.
Pauline cảm thấy thấy tim đập nhanh, cứ như mình sắp làm chuyện gì nguy hiểm vậy. “Alex Barrow”, cô nói, “anh chàng đó chẳng bao giờ chịu vệ sinh tủ lạnh sạch sẽ”.
“Alex Barrow từng bàn chuyện tủ lạnh với chị sao?”. “Ờ, đúng vậy”. Pauline đáp. Giọng cô hơi run rẩy, còn mang chút bối rối và rụt rè. Thế là cô quay nhìn Karen, để mình có được một khoảng thời gian dịu lại. “Chẳng là anh ấy không biết làm gì với chuyện bếp núc. Đàn ông đều thế mà. Karen, con yêu, đừng đến gần bể bơi quá!”.
Karen đang đứng ở chỗ cách bể bơi 1 yard, cô bé quay đầu nhìn Pauline, miệng vẫn mút ngón tay.
“Sao anh ấy lại nhắc đến chuyện này?”, Joan hỏi. “Một lần thôi, trong điện thoại”.
“Chị và Alex Barrow liên lạc điện thoại với nhau sao?”. “Ừ, đúng vậy!”.
“Chị gọi cho anh ấy, hay anh ấy gọi cho chị?”.
“Dĩ nhiên là anh ấy gọi cho tôi”. Pauline trả lời. Nhưng lúc này Pauline bắt đầu hối hận vì nhắc đến chuyện Alex. Thế rồi cô ngồi thẳng lưng trên chiếc ghế nằm, sau đó gọi: “Karen, có muốn ăn bánh không?”.
“Hai người còn nói những gì?”. Joan hỏi tiếp.
“Ồ, chỉ những chuyện vụn vặt, chẳng có gì đặc biệt”. “Tôi không biết hai người thân vậy đó!”.
Pauline vẫn nhìn Karen chăm chú.
“Anh ấy có kể cho chị nghe chuyện vợ anh ấy bỏ đi không?”, Mimi hỏi.
“Trời ạ, dĩ nhiên là không!”, Pauline trả lời. Cô khom người tìm đồ trong balô. “Thậm chí chúng tôi chưa từng nhắc đến chuyện đó. Thật tội nghiệp, anh ấy không bao giờ muốn nhắc đến chuyện này”.
Pauline dừng tìm đồ trong balô, ngẩng đầu lên thì thấy hai người phụ nữ kia đều đang quan sát cô. Miệng Mimi mở ra hình tròn. Joan bỏ kính mát, cắn nhẹ gọng kính như đang suy nghĩ gì đó, hai mắt nheo nheo, bộ dạng suy tư.
“Tôi chỉ thấy chuyện này rất bí ẩn”, cuối cùng Mimi nói, “họ là một cặp trời sinh đấy! Alex da ngâm đen, tướng mạo đẹp trai, nói chuyện hài hước; còn Adelaide lại là cô gái tóc bạch kim, thông minh lanh lợi. Tôi chưa từng thấy họ cãi nhau, còn chị?”.
“Nhưng họ không có con cái”, Joan nói, “có lẽ đây là lý do họ ly hôn”.
Pauline nói: “Có lẽ vậy, nhưng...” nói đến đây, cô dừng lại. Nếu cô nói với họ rằng con cái không phải là liều thuốc giúp tăng cường tình cảm vợ chồng, chắc chắn sẽ làm họ sửng sốt.
“Rồi một đêm”, Mimi tiếp tục kể câu chuyện của cô, “anh ấy đi làm về nhà, phát hiện cô ấy đã bỏ đi. Ôi! Chắc anh ấy xấu hổ lắm! Vì tin này do Laura Brown - một người xa lạ sống gần đó - nói anh biết, cô bảo vợ anh quyết định rời bỏ anh”.
“Thậm chí cả Laura cũng không biết nguyên nhân”, Joan xen vào, “cô ấy bảo Adelaide chỉ đến nhà cô, đưa chìa khóa cho cô và bảo mình sẽ về nhà bố mẹ ở Ohio”.
“Bí ẩn ghê!”, Mimi kinh ngạc nói.
Họ nhìn Pauline đầy hy vọng, còn Pauline chỉ gọi to: “Đến đây, con yêu!”, sau đó giơ cao một hộp bánh quy hình con thú.
Khi họ rời khỏi bể bơi, mặt trời đã chiếu ngay đỉnh đầu. Ánh nắng nóng hừng hực rọi vào mặt họ. Mặt bọn trẻ ửng hồng, mồ hôi nhễ nhại. Karen ngồi trong xe đẩy duỗi thẳng hai chân ra ngoài, ưỡn người ra trước và giãy nãy lên; George không hiểu sao Buddy Derby có thể ở lại bể bơi chơi tiếp, còn mình lại phải về nhà. “Chắc vì bà Buddy Derby không ở nhà chờ nó về ăn trưa!”. Pauline không hơi đâu giải thích nhiều. Vai cô cháy nắng, còn bị dây áo ngực làm rát da; chân của cô thì bị quai giày cà nổi bọng nước. Cứ nghĩ đến chuyện về đến nhà còn phải chuẩn bị bữa trưa và trong bếp chất đống những thứ còn thừa của bữa sáng, đĩa bẩn, tạp dề dính đầy dầu mỡ, truyện tranh vung vãi khắp nơi, đồ chơi vứt bừa bộn. Tất cả đều làm cô tuyệt vọng vô cùng.
Bỗng chốc, cô rẽ trái sang đường Beverly đến đường Candlestick.
Lindy nói: “Đây không phải đường về nhà”.
Pauline không trả lời. Cô lúng túng trước sự thông minh và nhạy bén của Lindy. Hai đứa kia chưa từng khiến cô có cảm giác này.
“Sao chúng ta lại đi đường này vậy mẹ?”.
“Mẹ nghĩ chắc các con muốn hóng gió một chút”. Pauline trả lời.
“Con không thích! Con muốn về nhà ăn trưa”.
“Vậy sao, nhưng mẹ muốn. Mẹ đã chán ngán những thứ giống nhau lặp lại mỗi ngày”. Pauline nói, sau đó cô còn ngân nga một bài hát, tốc độ lái xe cũng chậm dần như để các con ngắm cảnh hai bên đường. Thực tế, phong cảnh ở đây chẳng khác gì đường Winding: cũng là những căn nhà thấp kiểu nông trại, từng bãi cỏ nối vào nhau giống như những sân golf rộng lớn. George ở phía trước né trái né phải rồi nhảy qua những rãnh nứt trên đường; Lindy đi chậm phía sau, Pauline có thể nghe rõ tiếng cô bé lê từng bước chân.
Khi gần đến cuối con đường thứ hai, họ tới trước nhà Alex Barrow. Pauline dừng lại. Một người phụ nữ đang nhổ cỏ trong vườn dã yên thảo. Cô mỉm cười với người phụ nữ đó, “Hoa đẹp quá!”, cô nói.
“Ồ, cám ơn”.
“Tiết trời hôm nay thích hợp nhổ cỏ nhất!”. “Phải đấy!”.
Người phụ nữ đó lại nhổ một nhúm cỏ, sau đó dừng lại, dường như đang chờ Pauline trò chuyện.
“Tiết trời mùa hè năm nay rất tuyệt”. Pauline nói. “Đúng vậy!”.
Pauline tiếp tục tiến bước mà chẳng muốn chút nào. Lúc đi ngang qua nhà Alex, cô đẩy chiếc xe nhỏ thật chậm rãi. Nhà anh là kiểu C, tức thiết kế sang trọng, xây bằng gạch và đá phiến. “Trên sân thượng nhà này có một vỉ nướng gắn vào tường”, cô nói với Lindy, “trong bức tường gạch kiên cố này có vỉ nướng đúc bằng sắt”.
Lindy ngắm nhìn kỹ căn nhà này. “Sao mẹ biết?”, cô bé hỏi.
“Mẹ từng đến đây dự tiệc cocktail”.
“Có thể nướng kẹo dẻo trên vỉ nướng gắn tường không?”. “A, được chứ”.
“Nếu ở đây con sẽ làm thế”.
“Có một người tên Alex Barrow sống ở đó”. Pauline nói. Cuối cùng cô nghe thấy mình đọc rõ cái tên này, “Alex” nghe rất khí khái và “Barrow” làm ta dễ chịu.
Cô lại dừng một lúc. Nhưng cửa nhà đóng kín, bên ngoài vườn cũng im lìm. Cuối cùng, cô bước đi.
Mẹ chồng cô đang nhìn ra ngoài qua cửa sổ phòng khách. Khi họ đến gần, Pauline thấy chiếc rèm cửa sổ dạng lưới cá kéo mạnh một cái. Nhưng, khi họ đi từ cửa sau vào nhà, bà Anton lại đang ngồi trong bếp, hai tay nắm chặt lấy mép bàn. “Mấy mẹ con đi đâu vậy?”, bà lớn tiếng hỏi, “Mẹ lo lắm đấy!”.
“Chúng con đến bể bơi, mẹ quên rồi sao?”.
“Mấy mẹ con không đi từ hướng bể bơi về, mà từ hướng khác”.
“Chúng con về bằng đường tắt”. Pauline trả lời. Cô đặt balô ở một góc bàn. Sau đó, dưới cái nhìn như rađa của bà Anton, cô bắt đầu thu dọn bát đĩa dùng trong bữa sáng qua một bên.
“Lúc đầu mẹ nghĩ, ồ, thật ra, mẹ đoán chắc chúng chơi vui quá, quên cả giờ ăn trưa. Sau đó mẹ lại nghĩ, lỡ một trong ba đứa sẩy chân rơi xuống nước chết chìm thì sao?”.
“Chúng con đến bể bơi cùng gia đình Drew và Derby, rất vui mẹ à”, Pauline nói, “sau đó chúng con về nhà theo đường Candlestick, tập thể dục đấy mà”.
“Bơi vẫn chưa đủ tập thể dục sao?”.
Pauline dọn chén bát bẩn để vào bồn rửa chén, thấm ướt một miếng bọt biển, trở về trước bàn, cô rảo nhanh qua Karen, cô bé đang hát ngân nga với con búp bê ngay giữa sàn nhà. “Mẹ muốn dùng canh gì?”, cô hỏi mẹ chồng.
“Mẹ chẳng ăn nổi gì nữa, khi nãy rất đói, giờ không chỉ nghe dạ dày trống rỗng, còn thấy buồn nôn”.
Pauline lau bàn xong, rồi mở tủ bếp lấy một hộp mì gà. Khi cô đặt đồ khui lên hộp, bà Anton nói: “Ăn thịt bò hầm tiêu xanh vậy”.
Pauline chớp nhanh mắt một cái, sau đó để hộp thịt gà qua một bên, rồi đến trước tủ bếp.
Karen đang hát bài “Khúc ru bé yêu”, George và Lindy đang cãi nhau vì tranh một hộp chữ cái làm bằng sắt từ. “Lindy”, Pauline nói, “con có thể lấy hộp màu ra khỏi bếp lò không? Chúng sắp chảy thành sáp rồi”.
“Mẹ đoán sau đó con đến cửa hiệu nhà Joan Derby uống Coca”, bà Anton nói, “theo mẹ thấy, cô ta là người phụ nữ lười biếng nhất trên đời. Suốt ngày ăn không ngồi rồi, cả buổi sáng nhởn nhơ ở bể bơi, sau đó về nhà lại nói chuyện phiếm với bạn bè”.
“Con không đến cửa hiệu nhà họ”, Pauline nói, “lúc chúng con về, Joan vẫn còn ở lại. Con và bọn trẻ về thẳng nhà”.
“Ồ, con không về thẳng nhà, nửa phút trước con mới thừa nhận đấy thôi”.
Thỉnh thoảng, Pauline cảm thấy một khát vọng gì đó rất mãnh liệt trong cô. Nó làm toàn thân cô run lên. Cô có thể bị cảm giác này của mình làm sợ mất hồn bất cứ lúc nào.
“Em từng cảm mến một chàng trai đi chung nhà thờ. Anh ấy có được người mẹ tuyệt vời nhất trên đời”. Cô nói với Michael.
Hôm đó Michael về rất muộn, bỏ cả bữa trưa. Karen và bà Anton đang ngủ trưa, hai đứa kia chơi xích đu ở sau vườn. Pauline chỉ đành chuẩn bị phần cơm trưa khác cho anh. Cô nhanh chóng trộn xong xà lách cá ngừ, lại bưng lên món xà lách cải bắp ăn thừa hôm qua. Dù cô đã dùng bữa cùng cả nhà, nhưng khi ngồi cùng Michael, cô vẫn ăn vài miếng cá ngừ.
“Bà ấy tên Dimity”, cô nói tiếp, “mỗi lần em đi ngang qua nhà, bà đều dùng cái ly sứ đẹp nhất pha cho em một tách trà. Sinh nhật em, bà tặng em lọ nước hoa Amour mà bố mẹ không bao giờ cho em dùng”.
“Người đó tên gì?”, Michael hỏi. Anh đang đưa tay lấy xà lách cải bắp, nhưng nửa chừng thì dừng lại, nhìn cô chăm chú.
“Em nói rồi mà, bà ấy tên Dimity”.
“Ý anh bà ấy là mẹ ai?”.
“Anh chàng đi chung nhà thờ với em tên Rodney”. “Em chưa từng kể cho anh nghe về người con trai nào đi cùng nhà thờ”.
“Em chưa từng kể sao? Mẹ anh ấy sinh 7 đứa con trai, không có con gái, bà muốn em làm con gái bà”.
“Em chưa hề kể cho anh nghe dù chỉ nửa lời! Em bảo đã kể cho anh nghe về mọi người đàn ông từng có quan hệ với em, nhưng từ trước tới giờ, anh chưa từng nghe câu chuyện về anh chàng đi cùng nhà thờ”.
“Ồ, sao? Người đàn ông từng có quan hệ ư”, Pauline nói, “lúc đó chúng em chỉ mới 13 tuổi, làm sao anh có thể nói chúng em có quan hệ chứ?”.
“Vậy sao em lại nhắc đến người đó?”.
“Em không nhắc đến Rodney, em chỉ nhắc đến mẹ anh ấy, phải chi giờ em còn giữ liên lạc với bà ta”.
Michael lại quan sát vẻ mặt Pauline một lúc, sau đó lắc đầu không nói gì, anh đưa tay lấy xà lách bắp cải.
Rodney Dimity! Một chàng trai mặt đầy tàn nhang, mũi dẹp tròn, trước đây mỗi lần Pauline bắt chuyện, mặt anh luôn đỏ như con gái. Cô từng nghĩ có lẽ đấy chính là điểm tạo nên sức hút của anh. Anh là người chân thành, nhưng lại hơi thiếu dũng cảm. Họ chưa một lần nắm tay, có chăng chỉ là bí mật mỉm cười với nhau vài lần, và mỗi lần như thế mặt Rodney đỏ như gấc chín. Không lâu sau đó, cô quên bẵng anh, thân với người con trai khác. Richard Brand là chàng trai mà cô trao nụ hôn đầu; Darryl Mace tặng cô một chiếc nhẫn quý to tướng, cô móc nó vào dây chìa khóa, bỏ trong túi, làm như thế để bố mẹ không chú ý. Bố mẹ cô từng cho rằng Darryl lớn tuổi, không hợp với con gái họ. Lúc đó anh 18 tuổi, cô mới 15 tuổi. Pauline lúc đó không được phép đi xem phim cùng với con trai. Ồ! Từ lâu cô đã quên Rodney Dimity!
Hồi học trung học, những chàng trai cô mê mẩn dường như là những người có tính thách thức và tự kiêu. Mỗi lần quen, cô luôn cho rằng chàng trai đó chẳng màng để ý đến cô nhưng không lâu sau đó tình thế lại thay đổi. Thế là họ bắt đầu hẹn hò, dần dà, cô thấy mình không hài lòng, rồi lại tiếp tục có một người khác lại lọt vào mắt xanh của cô, một người trông cao xa vời vợi, nhưng dù vậy... Giờ đây khi nhớ lại chuyện xưa, cô nghĩ những tình cảnh đó tựa như nhìn xuống một bậc thang dài: Rodney dịu dàng đứng ở chân cầu thang, Roy Cannon - lớp phó học tập, đội trưởng đội bóng đá, cũng là đối tượng được nhiều cô gái trong trường theo đuổi - đứng ở đầu cầu thang, đôi vai rắn chắc với cơ bắp cuồn cuộn. Roy sau khi tốt nghiệp đã đến làm việc ở công ty người chú kinh doanh xe “second hand”, nhưng Pauline lúc đó đã không còn thích anh. Cô bắt đầu chú ý thấy anh nói chuyện quá lớn, hơn nữa khi không mặc áo cầu thủ, cổ anh trông rất quái dị. Nhưng sau khi họ chia tay, không hề xuất hiện một chàng trai mới nào thay thế vị trí của anh trong lòng Pauline. Lúc đó, cô đã tốt nghiệp, đến làm việc ở văn phòng của bố và nơi đó cơ hội gặp gỡ đàn ông càng ít hơn. Khi chiến tranh bắt đầu, cô vẫn chưa có bạn trai. Có lẽ người ta sẽ bảo đấy là điều may mắn, nhưng bản thân cô lại không nghĩ vậy. Sau sự kiện Trân Châu cảng, cả nước có trào lưu nhập ngũ. Đi đến đâu đều thấy những cặp tình nhân ôm nhau: chàng trai đứng trước cửa văn phòng đăng ký nhập ngũ, cô gái bên cạnh tự hào và dũng cảm khoác tay anh, nhưng Pauline lại không được như thế.
Và Michael là trường hợp ngoại lệ.
Anh là một chàng trai rất tốt bụng và điển trai, Pauline phát hiện rất nhiều ưu điểm ở anh. Ồ, anh ấy rất tốt! Anh là người đứng đắn, làm việc cẩn trọng và cần cù. Nếu đổi lại là mình, có lẽ biểu hiện của cô tệ hơn anh nhiều. Đấy cũng là một điểm cô thường nhắc nhở bản thân.
Nhưng khi hẹn hò, cô đã chú ý thấy một số khuyết điểm ở Micheal, nhưng lại không bận tâm, hơn nữa chẳng bao lâu sau cô lại quên mất điều đó. Khi anh không hiểu những lời đùa cợt của cô; khi anh hy sinh tình cảm của cô vì mẹ mình; khi anh phê bình một người bạn của cô, cô chỉ hơi bực một chút và vẫn giữ vững hình tượng của anh trong lòng mình: anh là tình yêu lãng mạn cô chờ đợi cả đời này! Chẳng phải mọi người đều nghĩ thế? Họ là một cặp trời sinh! Trẻ tuổi thế, xinh đẹp thế, nhưng lại bất hạnh thế. Lúc đó, anh sắp rời khỏi nhà, đi chiến đấu vì đất nước! Còn cô ở nhà chờ ngày anh chiến thắng trở về! Radio không ngừng phát bài hát “Tôi không bao giờ cười nữa”. Chiến tranh đang diễn ra ác liệt ở châu Âu, cả thế giới đều muốn chia cắt họ, nhưng cuối cùng họ lại giành được thắng lợi!
Thế là cô tiếp tục kiên trì hướng đi sai lầm. Chính tự cô làm bản thân mình lún sâu: cô hứa với Michael viết thư cho anh mỗi ngày, dù bản thân cô lại ghét viết lách; trong khi thư của anh gởi về chỉ nhắc những chuyện đâu đâu: chi tiết diễn tập quân sự, ai đó trốn sau gốc cây nào đó, người này ở cánh phải, người kia ở cánh trái... Nhưng khi thề sẽ không gặp bất cứ người con trai nào khác, cô thấy rất cô đơn. Cô lẻ loi một mình nhưng khắp nơi giữa thành phố này lại đầy những anh lính đẹp trai. Dù sao cô vẫn còn rất trẻ, không thể cưỡng lại nổi những cám dỗ bên mình. Với bản thân cô, quả là phí tuổi xuân.
Cuối cùng cô quyết định: mình phải kết thúc tất cả! Mình phải viết thư cho anh ấy, kết thúc mối quan hệ này. Mình quan tâm làm gì chứ? Người khác nói gì có sao đâu?
Nhưng khi cô đang cân nhắc quyết định này, thì Michael lại gặp tai nạn. Dĩ nhiên bạn không thể từ bỏ một người đang nằm trên giường bệnh. Cô phải chờ anh bình phục rồi mới viết tiếp bức thư đó. Nhưng vượt ngoài dự đoán, anh đón tàu về nước. Khi bước xuống từ tàu hỏa, cô thấy nơi khóe môi anh xuất hiện những nếp nhăn sâu, lúc đó anh chỉ mới 21 tuổi. Bộ quân phục trên người anh rất ngay ngắn chỉnh tề, trông oai vệ khác thường; chân anh lại bị thọt, thật đáng thương. Thế là Pauline mặc bộ váy mùa hè chạy như bay về phía anh lính. Cái nạng trong tay anh bất chợt ngã xuống đất. Anh dang rộng hai tay ôm chặt lấy cô và hỏi có bằng lòng lấy anh không, cô trả lời đồng ý.
Thật ra, nếu lúc đó cô muốn rút lui vẫn còn kịp, mọi chuyện sau đó sẽ không xảy ra! Rất nhiều lần, cô gần như đã làm được, trong đó bao gồm cả phút cuối cùng trước lễ cưới. Nhưng thời gian qua như thoi đưa, chỉ vài năm sau, cô trở thành người phụ nữ như thế này đây.
Hầu như ngày nào cô cũng bất mãn về những khuyết điểm của anh: cố chấp, quá cẩn thận, thiếu lãng mạn, nói chuyện cứng nhắc, tiền bạc bủn xỉn, nghi ngờ với những sự vật không rõ ràng, làm việc võ đoán, không hiểu con cái, tỏ ra lạnh lùng vô tình với những người xung quanh, không thích giao tiếp, cuộc sống vợ chồng nhạt nhẽo. Tất cả thường làm cô bực bội. Mỗi khi cô không vui, anh vẫn luôn nói những câu làm người ta bực mình “Anh bảo này, Pauline, em yêu...”. Mỗi lần cãi nhau, sự yêu chiều của anh đều nhắc nhở những khuyết điểm tồn tại nơi cô mà lúc vui cô cũng từng miễn cưỡng thừa nhận chúng. Nhưng cô biết rõ rằng: đấy không phải vấn đề cốt lõi, sau lưng nó còn một nguyên nhân cơ bản, đó chính là họ không xứng đôi, sự kết hợp của họ lúc đầu là một sai lầm!
Mỗi lần Michael nhắc đến chuyện này đều làm lòng cô đau như cắt. Anh muốn từ bỏ cô? Anh muốn sống những ngày không có cô? Mỗi lúc như thế, cô đều nghĩ sự khác biệt giữa họ có lẽ không phải vì anh quá điềm tĩnh, mà vì cô quá nóng nảy, thiếu nhẫn nại; cũng không vì anh làm việc quá cẩn thận, mà vì cô quá lỗ mãng, vân vân và vân vân... Mỗi lần nghĩ đến đây, cô đều không nén được nước mắt, hy vọng mọi chuyện đều có thể bắt đầu lại: gặp lại anh, rơi vào lưới tình rồi lấy anh - dĩ nhiên lần này cô sẽ trân trọng những gì mình có.
Phòng ngủ chính là niềm tự hào của cô, bởi chính cô đã trang hoàng nó. Còn việc bố trí phòng khách, cô đành phải nhượng bộ bà Anton: trải những miếng lót đăng- ten trước đây người vùng quê thường dùng, thảm dài thêu tay trải dưới sàn, trên cửa treo cây thánh giá. Nhưng khi bước vào phòng ngủ, bạn sẽ cảm nhận rõ hơi thở hiện đại: thảm màu kem trải khắp sàn; trên vật gia dụng bằng gỗ màu nâu nhạt trang trí miếng nhựa dán Formica; tay cầm ngăn kéo cũng đầy những đường nét mạ crôm không đối xứng; ván đầu giường làm bằng nhựa màu trắng có “vết rạn băng tuyết”; màu sắc tấm trải giường tươi đẹp, phía trên là hoa in trừu tượng gồm ba màu đỏ, vàng và xanh lam sẫm; phía trên giường treo khung ảnh Piasso, Michael luôn gọi nó là “Ba nhà soạn nhạc sau khi tàu trật đường ray”; tấm gương ở bàn trang điểm cũng rất lạ, hình phi tiêu.
Hai vợ chồng đã thống nhất không chất bất cứ thứ đồ vụn vặt gì trong phòng, chỉ đặt vài vật trang trí nhỏ trang nhã ở chỗ nào đó. Nhưng nói dễ làm khó, nhất là khi bạn có con. Bây giờ, trên tủ com mốt chất đầy quần áo đã giặt sạch đang chờ xếp lại, còn cả một đống búp bê giấy của Lindy và kính bơi George cũng vứt ở đó. Hơn nữa, Pauline còn có một thói quen: lúc thay quần áo cô thích vứt bừa bãi lung tung. Giờ cô đang chọn trang phục cho buổi chơi bài canaxta (loại bài Nam Mỹ) chiều nay. Mặc bộ này không thích hợp, cô liền chọn bộ khác. Thế là trên giường đầy váy, áo và quần đủ màu đủ loại, giày cũng vứt khắp nơi. Cô vốn đã chọn mặc áo cổ chữ V màu hồng, nhưng lại không biết nên phối với quần hay váy. Vào lúc cô vật vã với một chiếc váy bó sát người, chuông điện thoại reo. Do mắc chân ở gấu váy, cô gần như loạng choạng vồ đến chiếc điện thoại đặt trên đầu giường, “Alô?”, cô trả lời.
“Pauline phải không?”, là Alex gọi.
“Ừm!”, cô vừa nói vừa ngó ra cửa. Cửa khép hờ, chưa đóng kín. “Chuyện gì thế?”, cô hỏi.
Cô không muốn giọng mình nghe có vẻ hồ hởi, bèn dùng ngón tay nhấn mạnh lên miệng. Nhưng đối phương chẳng lấy làm lạ. Anh nói: “Tôi muốn rã đông một miếng bít tết, nhưng vừa nãy tôi mở ra mới biết đó là thịt bò xay”.
“Thịt bò xay”, cô lặp lại, sau đó bạo dạn hỏi, “Adelaide không dán tem trên các gói thức ăn trong tủ lạnh sao?”. “Mỗi gói này là không”, anh trả lời, “tôi chỉ có thể đoán theo hình dáng của gói thức ăn, nhưng rất hiển nhiên, tôi đã thất bại. Vậy giờ tôi phải làm thế nào? Giúp tôi với! Tôi luôn lúng túng khi gặp trục trặc trong bếp!”.
Cô cười rộ lên. Bỗng nhiên cô thấy mọi chuyện trên thế giới này chẳng còn quan trọng nữa. Thực tế, nếu nhìn nhận sự việc như vậy, thịt bò xay, Elmview Acres và cuộc sống gia đình chẳng qua chỉ là... một trò hề. Cô nói: “Được rồi, thật ra anh có thể dùng nó làm hamburger”.
“Lần trước khi tôi làm hamburger, thịt xay cứ rơi xuống vỉ nướng”, anh nói, “Adelaide giận điên người, lúc đó có khách đến chơi, tôi mang một ít xác thịt bò cháy ra. Tôi bất chấp nguy hiểm khi lấy chúng ra khỏi lửa đấy”.
“Anh nên nói là bánh thịt bò than”. Pauline đề nghị, vừa cười khanh khách. Cô từng học tiếng Pháp sơ cấp, nên lúc phát âm “r” rất nặng. Alex cũng cười rầm lên, điều này làm cô thấy hài lòng. Cô nói tiếp: “Vậy, bánh nhân thịt thì sao?”.
“Ừ nhỉ, tôi cũng nghĩ đến bánh nhân thịt...”.
“Tôi biết ý này chẳng có gì mới lạ, nhưng tôi biết cách chế biến cho nó ngon nhất! Món này gọi là bánh nhân thịt Trung Hoa. Anh có thể tìm thấy cách làm bánh nhân thịt bình thường trong sách dạy nấu ăn của Adelaide. Anh trộn một hộp rau cắt nhỏ và nửa hộp mì, mùi vị tuyệt vời!”.
“Chờ đã, tôi phải viết lại. Rau cắt nhỏ...”.
“Nhưng phải nhớ để ráo nước trước”. Cô nhắc. Được xem là chuyên gia nấu ăn với Pauline là rất thú vị.
“Mì...”.
“Cách chế biến của tôi là: khi thịt bắt đầu vàng, đặt một miếng giấy bạc dưới chảo. Tôi không thích thịt quá cháy, cũng không thích lớp ngoài nó quá cứng”.
“Một miếng giấy bạc...” Alex nhắc lại, “Chà, cám ơn cô nhiều, Pauline. Tôi biết cô có thể cứu tôi mà”.
“Tôi sẵn lòng giúp anh bất cứ lúc nào”, Pauline nói với anh, “mong rằng sẽ có hiệu quả”.
Sau khi họ tạm biệt nhau, cô gác máy.
Rồi cô chọn được bộ trang phục ưng ý mà chẳng mất quá nhiều thời gian. Cô mặc một chiếc áo trắng, xỏ chân vào đôi giày gót vừa, rồi với tay lấy chiếc ví trên ghế nhựa. Khi đi ngang qua bếp, cô nói với Michael. “Em đi đây”. Anh đang chơi trò “câu cá” với George và Lindy trên bàn ăn trong bếp. Karen vừa thức dậy, đang ngồi trên chân anh, vừa mút ngón cái vừa quấn tóc trên ngón trỏ múp míp. Pauline nói: “Nếu chúng đòi ăn, trong hộp có bánh quy, trong tủ lạnh còn sữa sôcôla”.
“Lúc nãy ai gọi điện thoại đến thế?”, Michael hỏi. “Điện thoại?”.
“Ừ, điện thoại”.
“Ồ, phải rồi, Wanda đấy”.
“Wanda! Chẳng phải em sắp gặp cô ấy rồi sao?”. “Đúng thế”.
“Hai người nói chuyện rất lâu”.
“Anh biết phụ nữ đều thế mà”. Pauline nói, sau đó vẫy tay với anh rất tự nhiên, rồi ra ngoài.
Pauline lái chiếc xe Dodge màu đen mờ được bố để lại khi ông đổi chiếc Deluxe màu hồng nhạt sau chiến tranh. Lúc đầu Michael không biết lái xe, đành để Pauline dạy nhưng anh học khá nhanh. Giờ đây mỗi lần cô lái xe đưa anh đi làm, anh đều chỉ ra tật xấu của cô: mắc lỗi khi vào số hoặc lớn tiếng bảo cô chạy quá nhanh. Cô phóng xe nhanh ra đường, không chú ý có chiếc xe du lịch đang chạy vào hướng này, khi nghe tiếng còi xe của đối phương, cô mới vội đạp thắng. Cô tin chắc Michael không nghe thấy tiếng động, vì chẳng thấy bóng dáng anh đâu cả.
Cô cho xe chạy thẳng dọc theo con đường uốn khúc ở Elmview Acres ra khỏi cổng lớn mới phát hiện mình rẽ nhầm hướng, cô lại quay trở về. Cuối cùng cô chạy bon bon sau một chiếc xe buýt, và không ngừng mơ mộng. Trong đầu cô hiện lên khuôn mặt to rộng và làn da thô ráp của Alex Barrow - một người từng trải sóng gió; cơ thể anh rắn chắc khỏe mạnh, giống một vận động viên đấu vật. Anh không điển trai, có thể nói là rất xấu, nhưng lại xấu đến mức làm người ta rung động. Nghĩ đến đây, cô bất giác cử động người trên ghế ngồi.
Giáng sinh năm ngoái, cô và Michael cùng tham gia một buổi dạ tiệc có quy mô rất lớn. Vợ chồng đều bị tách ra. Vợ ngồi một bàn, chồng ngồi một bàn. Lúc đó tình cờ Alex ngồi cạnh Pauline. Đến giữa buổi tiệc, anh chồm người qua hỏi cô có chú ý những người ngồi ở bàn này đều hơi khiếm nhã không. “Khiếm nhã?” cô lặp lại. Tiếp đó, anh giải thích: “Phải, mọi người ở bàn chúng ta toàn nói đùa, nhưng người ở bàn bên kia lại bàn chuyện chính trị.
Họ là nửa nghiêm túc trong hôn nhân, còn chúng ta là nửa vui vẻ”.
Cô phát hiện anh nói đúng. Jack Casper ngồi cạnh cô đang kể về mẩu chuyện thú vị khi đi Santa vào năm 3 tuổi. Còn vợ Jack ngồi ở bàn bên kia lại công kích đề án dời hội nghị Israel đến Jerusalem. Khi bàn họ cười rầm lên sau điểm nút mẩu chuyện của Jack, Alex nói với Pauline: “Thấy chưa?”.
Anh nói: “Chúng ta là người thích tìm niềm vui, còn họ lại là người có tinh thần trách nhiệm, tính toán kỹ càng chi tiêu trong gia đình, họ bảo với chúng ta là không chịu nổi phí du lịch nào đó”.
Một lúc sau, người ở bàn bên kia nghe loáng thoáng lời họ nói liền tham gia vào cuộc thảo luận - vợ Jack phản bác, cô cho rằng mọi người ở bàn cô cũng là người thích vui chơi, chỉ nói chuyện nghiêm túc không có nghĩa họ không có óc hài hước. “Nhưng, dù vậy”, đồng thời cô nói, “anh phải thừa nhận một điều, có những chuyện còn quan trọng hơn vui chơi”.
Alex hỏi: “Chuyện gì thế?”.
“Ý tôi là, anh phải chấp nhận hiện thực”.
“Hiện thực!”, Alex lặp lại lời cô với giọng điệu hết sức kinh hãi, Jack Casper nhảy cỡn lên, vừa gào lớn “Không! Không bao giờ!” vừa vung nắm đấm trên đỉnh đầu. Những người ngồi cùng bàn với anh vừa reo hò vừa vỗ tay, còn những người ngồi bàn bên kia nhìn sự việc trước mắt với vẻ thờ ơ.
Lẽ nào từ lúc đó Alex Barrow đã gây ấn tượng trong tâm trí Pauline rồi sao?
Ái chà! Mới đó mà cô đã vào đến thành phố rồi. Cô rẽ trái ở phía trước rồi rẽ trái lần nữa. Khi lái đến ngã tư kế tiếp, cô thấy phía trước có bảng hiệu “cấm rẽ trái”, nên cô rẽ sang phải, sau đó lại rẽ trái. Nhưng giờ cô đang ở đâu? Hình như cô lạc đường rồi.
Nhưng sau một lần rẽ trái nữa, cảnh sắc trước mặt cô trở nên ngày càng quen thuộc. Cô đến một con đường hai bên đầy các cửa hiệu và nhà cửa, bảng hiệu của các cửa hàng thường viết bằng chữ Hy Lạp, Ba Lan hoặc Tiệp Khắc; vòm cửa các ngôi nhà đều lau sạch bong không một vết bụi; trong tủ kính bày đầy những con búp bê cài hoa nhựa và mặc trang phục dân tộc; tượng thạch cao Đức mẹ Maria dang hai tay cầu nguyện; những người phụ nữ có tuổi mặc trang phục đen, đầu đội khăn, lê những bước nặng nề trên vỉa hè với túi hàng hóa căng đầy trên tay; một số bé gái đang chơi trò nhảy lò cò hoặc thảy đá, những cô bé lớn hơn thì mặc váy dây mùa hè, bước nghênh ngang qua đám con trai, vờ như không nghe thấy tiếng huýt sáo của chúng.
Lúc đầu Pauline động viên Michael dọn khỏi nơi này là đúng. Cuộc sống ở đây rối loạn, phức tạp, lại không có trật tự.
Nơi chơi bài canaxta là nhà Katie Vilna. Vì Katie đã ly dị, nên nhà cô cũng là nơi duy nhất mà bạn bè có thể đến bất cứ lúc nào. Nhà cô ở tầng trên hiệu cắt tóc Golka, cũng là nơi cô lớn lên từ nhỏ, giờ cô sống với con trai ở đó. Khi Pauline nghĩ đủ mọi cách để lách vào chỗ đậu xe trước cửa nhà, bỗng thấy Wanda và Marilyn đi về hướng cô. Cô bấm còi xe, thế là họ dừng lại chờ - mông Wanda trông to và chắc, trang phục hơi lỗi thời, cô mặc một chiếc váy liền áo in hoa tay rất ngắn; còn Marilyn, một cô gái đến từ New Jersey lại mốt hơn nhiều, mặc chiếc váy liền áo kiểu áo blouse rộng lớn. “Bạn có thể cho xe vào rồi đó”, Wanda nói lớn, “bẻ bánh lái sang trái một chút nữa... lùi xuống, lùi xuống... dừng!”.
Pauline tắt máy xuống xe, vì trời nóng nên cô mở hết cửa sổ. “Chào, mình đến đây!” cô nói lớn, “Kiểu tóc của em đẹp thật đấy, Marilyn!”. Cô nói thế chỉ cốt ý làm Marilyn vui, vì kiểu tóc của cô ta - cuốn lọn sát da đầu, trông giống như chó lông xù - làm mặt cô trông to tướng. Hai người phụ nữ ôm nhẹ Pauline một cái, sau đó cả ba cùng bước vào cửa bên phải hiệu cắt tóc.
Cầu thang bên trong hẹp và dốc. Nấc thang trải lớp cao su có vân gợn sóng. Tường đã từ lâu không sơn lại, màu trắng vốn có giờ đã biến thành màu vàng giống sốt sữa trứng. Nhưng, khi Katie mở tung cánh cửa chính, bên trong nghiễm nhiên là một thế giới khác. Cô đổi hết nội thất màu tối âm u của bố mẹ thành kiểu mới nhất. Mỗi mép đều khảm kim loại tráng crôm, mọi tấm đệm đều bọc bằng lớp nhựa màu đỏ cam, góc hình tròn, làm tất cả nội thất đều có tạo hình đẹp đẽ. “Mời vào! Mời vào!” cô nói, “Mấy bạn đến trễ đấy nhé! Mình còn tưởng mấy bạn quên cả rồi!”.
Trong mắt Pauline, Katie lớn tuổi nhất. Dù cô giữ dáng rất đẹp, nhưng mọi gian khổ mà cô từng trải - hôn nhân ngắn ngủi, sinh non và tranh chấp trong quá trình ly hôn - làm mặt cô luôn mang nét khổ sở khiến người ta nhìn mà chạnh lòng. Trong bốn người phụ nữ, chỉ cô mặc chiếc quần thường màu xanh táo có in hoa văn nhiệt đới, so ra, trang phục của những người khác dường như quá lòe loẹt.
“Donald ở nhà dì mình”, cô nói, “tối nay dì sẽ trông con giùm vì mình có hẹn. Mình đưa nó sang đó sớm vì còn phải chuẩn bị”.
Tiệc tùng! Thử nghĩ xem! Đám phụ nữ có tuổi xung quanh đây sẽ không ngừng lắc đầu trước hành động này của Katie. Nhưng Pauline lại cho rằng cuộc sống của Katie rất thú vị. Chồng cũ của Katie là người kế thừa sự nghiệp nấu rượu ở Milwaukee, anh trả cho cô món tiền cấp dưỡng kếch xù, thế nên Katie mới có tiền mua nội thất và quần áo mới. Nếu bằng lòng, thậm chí cô còn mua được một căn nhà tốt hơn. Pauline không hiểu sao Katie không làm thế, cô luôn động viên cô ấy dọn đến Elmview Acres.
Thật ra, chơi bài canaxta chỉ là một cái cớ. Họ ngồi ngay vào một chiếc bàn xếp. Marilyn xào bài, Wanda kinh bài... Cùng lúc đó, họ luôn miệng buôn dưa lê - Katie vừa làm quen với một người, nhưng thành công hay không vẫn là một ẩn số, chẳng có thông tin nào là chính xác; Janet Witt lấy một nhà thiết kế lớn hơn cô 20 tuổi, giờ sống tại Hollywood ở California; sau đó, Wanda lại bảo nhận được thư của Anna Graint, cô là bạn học của Pauline, ngoài việc gởi thiệp chúc Giáng sinh cho nhau, hầu như giữa hai người đã đứt liên lạc. “Các bạn có biết Anna mang thai rồi không?” Wanda hỏi, “Cuối cùng cô ấy cũng có em bé! Cô ấy bảo định lấy bằng âm nhạc trước, nhưng đầu tháng 9 sinh rồi, chắc phải tạm gác chuyện học lại”. Lời Wanda làm mọi người nhớ đến chị của Pauline. “Ngày sinh theo dự tính của chị ấy đã vượt quá 3 tuần, sắp một tháng rồi”, Pauline nói, “bụng chị ấy ngày một to ra, chị ấy sắp điên lên vì nó”.
“Đứa thứ mấy rồi?”, Katie hỏi.
“Thứ tư. Mình chẳng hiểu nổi chị ấy đang nghĩ gì”. “Em từng nói với Lukas”, Marilyn thêm vào, “em bảo với anh ấy: ‘Thượng đế ban cho em hai bàn tay, chỉ có hai thôi, lúc qua đường mỗi tay dắt một đứa, đấy cũng là lời dạy của ông trời dành cho chúng ta”.
“Phải đấy, chẳng sai chút nào, nếu em có thể làm theo lời dạy”, Wanda nói, dù cô đã sinh 5 đứa con gái.
“Chẳng phải thế sao!” Pauline nói. Lúc trò chuyện, mọi người đều mỉm cười nhìn cô, vì khi mang thai Karen, mọi người đều đến an ủi cô. Khi vẫn còn là con gái, cô từng mong muốn có thật nhiều con. Nhưng sau hai lần sinh, cô đã thay đổi ý định, bởi vì những năm tháng nuôi con quả là rất vất vả.
“Có chết mình cũng không quên được”, Wanda nói tiếp, “mùa hè năm đó, mình đang mang thai Claire, lúc đó vẫn chưa ai biết tin này. Mẹ chồng luôn mang đủ các loại rau đến cho mình đóng lọ, mình liền nói: ‘Than ôi, con rất xin lỗi, trong khoảng thời gian này con không làm được việc đó, vì con chán ghét, chán ghét, chán ghét đóng lọ rau củ, vì mẹ phải biết rằng phụ nữ không nên dự trữ thức ăn vào những ngày đặc biệt đó’. Nghe xong, bà nói:
‘Vẫn chưa xong sao?’ Sau đó chép miệng bỏ đi. Một lần, bà còn hỏi mình cần đến khám bác sĩ không. Cuối cùng bà phát hiện mình mang thai...”.
Mọi người cười rộ lên, dù đây không phải lần đầu họ nghe câu chuyện này. Dường như với họ, ôn lại kỷ niệm xưa là một đề tài vui vẻ và thoải mái nhất.
Marilyn đang chia bài. “1, 1, 1, 1”, cô đếm, “2, 2, 2, 2”, đồng thời nghiêm túc chia từng lá bài, thỉnh thoảng dừng lại hút một hơi thuốc, sau đó lại đặt điếu thuốc trở về gạt tàn nằm giữa cô và