← Quay lại trang sách

Chương 7

Nhiều năm sau...

Cả đêm Pauline đều mong đến trời sáng, nhưng bà lại ngủ quên. Vào lúc nào đó trong đêm khuya, bà mơ thấy mình quên thanh toán một hóa đơn đến hạn. Cơn mơ khó chịu đánh thức bà dậy, may đồng hồ lúc này chỉ 6 giờ 10 phút. Tuy hơi sớm, nhưng cũng là giờ thức dậy bình thường. Thế rồi bà nhìn xung quanh, căn phòng tối đến lạ thường. Bà sờ soạng tìm chiếc đồng hồ, giờ mới hơn 2 giờ rưỡi khuya. Pauline vừa thở dài vừa vung tấm chăn đắp trên người, rồi nằm ngửa trên giường.

Giờ đã là tháng tư, đây là mùa không nóng cũng chẳng lạnh trong năm. Pauline trở mình, đến khi bà tỉnh dậy, kim đồng hồ đã chỉ 9 giờ. Cả thế giới bắt đầu một ngày mới mà chẳng báo với bà một tiếng. Pauline nằm đó và nghe thấy tiếng nô đùa của bọn trẻ nhà hàng xóm, xa xa vang vọng tiếng soàn soạt của những nhân viên thu dọn chai lọ phế thải, “Ối, trời ạ!”. Pauline chợt nhớ chưa mang rác trong nhà ra đầu ngõ, chắc không kịp rồi. Bà uể oải bò khỏi giường, đi thẳng đến trước cửa sổ và mở nó ra, chồm người nhìn bên ngoài, xe chở rác vừa mới rẽ vào góc đường, biến mất trong tầm nhìn của bà. Lúc này, Pauline nhìn thấy bà hàng xóm đang chăm sóc đám lan tử đinh trên mảnh đất trống sau nhà. Bà ngẩng đầu, mặt trời trên cao tít đang tỏa ra ánh nắng vàng rực ấm áp và chói lọi.

Sao không có nước nóng? Trời ạ! Rốt cuộc là chuyện gì? Pauline mình trần như nhộng đứng trên tấm thảm trong nhà tắm, đưa tay vào vòi nước phía sau tấm rèm nhựa thử xem nhiệt độ của nước, một phút, hai phút... mãi đến khi bà lạnh cứng đờ cả người. Từ dạo trước bà đã thấy căn nhà này đang giày vò mình. Nghĩ đến đây, bà tắt nước, bắt đầu nhớ lại: ký ức cuối cùng của bà về nước nóng là thùng nước dưới tầng hầm và nguồn của nhiệt lượng là gas - thứ vật chất vô hình làm bà thấy sợ. Nếu giờ dưới tầng hầm đầy gas thì sao?

Pagan đã rời khỏi trường, tuy bà rất muốn gọi cho Michael, nhưng lại lo vợ anh ta bắt máy. Người bắt máy phải là Michael. Bà thắt dây lưng của chiếc áo khăn lông rồi nhìn đồng hồ, ngồi trên giường bấm số điện thoại của George.

“Xin chào?”, bên kia đầu dây vọng đến tiếng Samantha. Ối, tạ ơn trời đất! Pauline nghe thấy tiếng cháu gái bỗng vui không nói nên lời. “Bà đây, bà nội đây”.

“Ồ, bà nội, bà biết không? Nhà cháu vừa có một con cún đấy”. Giọng của Samantha đầy vẻ tự tin và hãnh diện.

“Cháu nói là nhà cháu vừa nuôi một con cún sao? Ồ, bà cứ ngỡ JoJo dị ứng với lông thú”.

“Đúng thế đấy bà. Nhưng mẹ đọc báo thấy người dị ứng với lông thú có thể nuôi chó xù, vì nó không có gàu bám da”.

“Bà chưa từng nghe nói chó có gàu”, Pauline trả lời, “lẽ nào không phải thế sao? Chó sao có gàu được chứ? Ồ, phải rồi, chó xù là loại chó động chút là sủa phải không?”.

“Cũng không hẳn. Mẹ đọc sách rồi, chó xù là một trong những loài chó thông minh nhất đấy! Hơn nữa, chúng còn đặc biệt thạo...”.

“Mẹ phải không ạ?”, Sally bỗng giành lấy ống nghe. “Con không muốn ngắt ngang cuộc trò chuyện của hai bà cháu, nhưng con và cô chó xù này có hẹn ở Phoenix”.

“Ồ, phải, Samantha vừa nói với mẹ nhà con vừa nuôi một con chó xù! Thú vị lắm, thật đấy”.

“Chiều nay chúng con gọi cho mẹ nhé, được không ạ?”. “Dĩ nhiên, ơ, thật ra mẹ muốn nói với George một số việc gấp trong nhà”.

“George đến cửa hiệu ngũ kim rồi. Thế này nhé, con để lại giấy nhắn cho anh ấy, bảo anh ấy về nhà gọi ngay cho mẹ, được không ạ? Thế nhé mẹ, tạm biệt”.

Trong điện thoại vọng lại tiếng tít tít. Trong tay Pauline vẫn còn cầm ống nghe, dù biết rất rõ Sally quả thật có việc gấp vội ra ngoài, nhưng ít nhiều bà cũng thấy mình bị tổn thương.

Bà lại gọi cho Karen.

“Karen? Có phải con không?”.

“Vâng, thưa mẹ, con đây”.

“Trời ạ, chuyện tệ hại nhất xảy ra rồi, trong nhà chẳng có chút nước nóng!”.

“Không có nước nóng?”.

“Phải. Mẹ định đi tắm, nhưng chỉ toàn nước lạnh ngắt”. “Ôi, tệ thật! Mẹ có gọi cho công ty điện lực không?”. “Công ty điện lực? Không, đây không phải vấn đề điện, mà là gas, mẹ thấy gas có vấn đề”.

“Gas? Ối, mẹ ơi, dù thế nào cũng vậy cả thôi. Mẹ nên gọi cho công ty điện lực. Được không? Con phải gác máy đây, lát nữa con có cuộc họp, giờ đã muộn lắm rồi, cả bữa sáng con cũng chẳng kịp ăn đấy!”.

“Họp? Hôm nay là thứ bảy mà! Chẳng phải thứ bảy con không cần đi làm sao?”.

“Thường là thế, nhưng nếu hôm nay chúng con không tăng ca, đến thứ hai sẽ có khối người bị đuổi khỏi nhà họ đang thuê, thế nên...”.

“Ồ, được, được rồi, vậy con đi mau đi”. Nói xong Pauline gác máy.

Khó khăn của bà bây giờ vẫn chưa đến mức làm trễ nãi công việc của Karen.

Không tắm, không gội đầu, tức giận, bụng đói, Pauline bực dọc lục tìm áo lót trong ngăn tủ áo. Vào những lúc này, Pauline rất nhớ Lindy. Trong ba đứa con của bà, Lindy là đứa giàu lòng cảm thông nhất, nhạy bén nhất, và cũng là đứa khi mẹ nhờ việc gì là nó làm ngay. Ngược lại, Karen quá say mê công việc; George sống hoàn toàn dưới sự kiểm soát của Sally. Nhìn mà xem: chúng quả là những đứa con làm ta buồn và thất vọng!

Có người nói với Pauline sống một mình là việc rất khó khăn, vì nó không chỉ phức tạp mà thậm chí rất đau khổ, vì thế cần có lòng nhẫn nại. Mỗi lúc thế này, Pauline luôn trả lời: “Đùa à? Tôi là mẹ của ba đứa con đấy!”.

Pauline mặc một chiếc quần ống rộng, rồi tròng một chiếc áo thun vào. Bao nhiêu năm qua, bà luôn giữ kiểu tóc ngắn bồng bềnh, nhưng vì sáng nay không tắm, nên tóc áp sát trên da đầu, trông bà như một thầy tu. Bà cau mày đứng trước gương, chải nhẹ mái tóc, cố gắng làm nó trông tự nhiên.

Pauline đã 64 tuổi, nhưng bà chưa từng ngạc nhiên hoặc cảm thán trước điều này. Với bà, 64 dường như là tuổi của người khác, chẳng liên quan gì đến mình.

Pauline mang vớ vào đôi chân trần, sau đó mở bếp lò lên. Lửa bật lên ngay, xem ra vấn đề nước nóng không phải do gas. Vậy, rốt cuộc là thế nào? Bà nghĩ có nên xuống tầng hầm xem thử không, nhưng liền gạt bỏ ý nghĩ đó ra khỏi đầu ngay. Bà nấu một ấm cà phê trên bếp, sau đó rót một ly nước cam cho mình, rồi cho hai miếng bánh mì vào máy nướng. Lúc này, bà lại thấy thật ra sự việc cũng chẳng tệ hại thế. Pauline ngồi xếp bằng trên chiếc ghế cạnh bàn, căn bếp tràn đầy ánh nắng, ly nước cam trong tay làm bà run run. Mùa hè ấm áp sắp đến rồi, cây cối bắt đầu nẩy chồi xanh, rồi ra lá nhanh thôi, tiếng chim líu lo ngoài cửa sổ mang đến cho bà niềm hy vọng vô hạn: xuân này, có lẽ lũ chim sẽ làm tổ trên cây sơn thù du của bà. Bà yêu ngôi nhà của mình. Từ sau khi ly hôn, con cái luôn khuyên bà rời khỏi đây, dọn đến sống trong chung cư. Nhưng bà đã sống ở đây bấy nhiêu năm rồi, đến tháng 9 năm nay là tròn 36 năm! Không biết ngoài nơi này, bà còn có thể sống thoải mái và vui vẻ ở đâu không. Dù là những vật dụng cũ cũng có thể mang đến đôi chút an ủi cho tâm hồn bà: chiếc bàn cà phê trong phòng khách, chiếc trường kỷ kiểu Columbia đã lỗi thời ở hành lang, còn cả hốc tường đặt ti vi trông buồn cười ở phòng giải trí. Nếu muốn, bà hoàn toàn có thể tu sửa lại nơi này, nhưng tại sao phải làm thế? Bà nhớ, mỗi vật dụng ở đây từng là món đồ bà mơ ước từ lâu. Vì số vật dụng này, bà phải chọn lựa trên tạp chí từ mấy tháng trước, sau đó tính toán kỹ càng và cố gắng dành dụm. Bảo bà mang những thứ này vứt ở trước ngõ chờ người thu gom rác chúng kéo đi, chắc chắn sẽ làm bà buồn đến chết.

Rất nhiều người dễ dàng quên đi quá khứ, chẳng chút lưu luyến. Còn bà, tuyệt đối không phải người như thế.

Lúc này em gái Pauline là Sherry gọi điện đến. Sherry là “đứa bé” đã 56 tuổi. Đến độ tuổi này, cô vẫn có thể cáu kỉnh vì những chuyện vụn vặt, và hôm nay là vì nhân viên giặt ủi. “Em vào tiệm giặt, nói với nhân viên rằng em đã mua 6 chiếc áo len ở đây. Anh ta hỏi em hóa đơn đâu. Em hỏi ngược anh ta nói thế là sao, gì mà hóa đơn đâu? Em vừa mới đưa áo đến đây! Nhưng anh ta nói, em vừa bảo mua 6 chiếc áo len. Anh ta bảo vấn đề ở chỗ em, chính cách nói của em làm anh ta hỏi thế, chuyện đó rất bình thường. Tính khí anh chàng nhân viên đó thật tệ, lại còn cố chấp! Cứ như em làm gì sai đấy, thiệt tình!”.

Pauline chép miệng, nói với Sherry: “Em không bao giờ cho rằng...”.

“Anh chàng giặt ủi này hình như cũng chính là người nhầm áo của em lần trước. Thật tình, lần trước anh ta đưa cho em một chiếc áo màu tím đỏ trông chẳng ra sao, còn là cỡ 22! Cỡ 22 đấy! Chị nói xem, sao anh ta lại đưa cỡ 22 cho em, em thấy anh ta cố tình làm thế mà!”.

“Nhà chị không có nước nóng”. Pauline bỗng nhiên nói với Sherry.

“Sao cơ?”.

“Sáng nay chị thức dậy định đi tắm, nhưng phát hiện không có nước nóng, nước trong vòi lạnh chết đi được”.

“Em cũng từng gặp chuyện như thế một lần”. “Sau đó thế nào? Em giải quyết ra sao?”. “Ừm, em không biết, Pete xử lý nó”.

“Ồ”. Pauline thốt lên.

“Ồ, không phải thế, hình như nhân viên ống nước đến sửa. Nhưng”, Sherry vui mừng nói, “Pete đã gọi điện cho nhân viên ống nước”.

“Làm thế là tốt nhất”. Pauline nghĩ bụng, đây quả là cách sống của Sherry.

“Chị nói sao? Ồ, em xin lỗi, chị yêu, em vô tâm quá. Ôi, tội nghiệp, chuyện gì chị cũng phải tự làm. Thật chẳng công bằng, cần em đánh thức Pete để anh ấy sang giúp chị không?”.

“Không, không cần đâu, chẳng phải chuyện to tát gì. George đến cửa hiệu ngũ kim về sẽ gọi điện cho chị”.

Sherry nói vẻ đồng cảm: “Em thật không biết chị sống như thế nào, sao chị chịu đựng được nhiều thế! Nếu là em, chắc em điên mất rồi. Em sẽ gọi ngay cho Michael, sau đó nói với anh ấy ‘Đến đây ngay, tên xấu xa!’”.

“Được rồi, được rồi”. Khi Sherry vừa dứt lời, Pauline thấy mình là người phụ nữ cao thượng và độ lượng. “Sự thật chị một mình vẫn sống tốt. Đúng, nếu không làm thế, giờ chắc chị càng tệ hại hơn. Em xem, chị vẫn tiếp tục tiến bước. Chị không phí thời gian vào những oán hận vô nghĩa đâu”.

“Chị quả là người phụ nữ cừ khôi!”, Sherry thốt lên lời cảm thán.

“Chuyện này thật ra không khó”.

Pauline nói thế với Sherry. Thực tế, Pauline cũng nghĩ vậy. Suốt bao năm nay, lòng oán hận Michael đã biến mất trong bà. Cũng có thể vì bà từng oán hận quá mức, nên không còn tình cảm dành cho ông. Bà tự nói với mình, cuộc sống không có Michael giờ đây tốt hơn nhiều so với cuộc sống có Michael trước kia! Làm gì có người đàn ông nào từ bỏ hôn nhân của mình chỉ vì một tranh cãi nhỏ kia chứ? Vấn đề của Michael là vì ông không biết tha thứ cho người khác. Với Michael, vấn đề mãi tồn tại: lời nói ra mãi không thể rút lại, chuyện xảy ra rồi cũng mãi không thể xem như chưa xảy ra. Đấy chính là tính cách của ông ấy, nên ông chỉ có thể sống chung với Anna, người lúc nào cũng trông u ám.

Pauline phải thừa nhận rằng mình vẫn còn ác cảm với Anna.

Khi chuông cửa reo, Pauline tưởng George đích thân đến, nhưng thật ra là một công nhân thường ghé ngang đây vào mùa xuân và mùa hè mỗi năm. “Bà cần tôi vệ sinh máng nước không ạ? Nơi đó phải nói là bừa bộn vô cùng”. Nhưng Pauline từ chối, “Không, cám ơn, tôi không cần đâu. Về lý tôi có một thợ lợp mái, anh ta sẽ làm những công việc đó”.

“Về lý?”, người đó nói xong cười rộ lên. Anh quay người gọi đứa trẻ khoảng mười mấy tuổi đang lóng ngóng bên đường: “Này, máng nước của bà đây theo lý đã được vệ sinh rồi!”.

Thế là, Pauline ngại không dám hỏi anh về vấn đề máy nước nóng, vốn dĩ bà định làm thế khi vừa nhìn thấy người công nhân đó. Nhưng bây giờ, bà đành làm ra vẻ nhã nhặn, nói một câu “cám ơn” rồi đóng cửa lại.

Pauline trở thành một bà lão nông cạn, làm bộ làm tịch từ lúc nào thế?

Có trời mới biết anh thợ lợp mái ở đâu? Tháng 12 năm ngoái lẽ ra anh ta phải đến! Thời đại bây giờ, quả thật chẳng thể trông mong vào ai cả!

Pauline lại gọi cho George, lần này nhà George chẳng ai nghe điện thoại. Bà lại gọi cho cô hộ lý làm chung văn phòng. Hình như chồng cô làm ở công ty tu sửa bếp, nhưng chắc chẳng liên quan gì đến máy nước nóng? - nếu Pauline nhớ không nhầm - kết quả, nhà họ cũng chẳng ai nghe máy. Mọi người đều đi tìm niềm vui rồi, hôm nay quả là ngày cuối tuần dành cho những gia đình bận rộn. Được thôi, đành thế vậy! Pauline gác máy, vào phòng ngủ mang giày, chẳng ai có thể ru rú trong nhà một mình.

Trong cửa hiệu Giant trên đường York, Pauline mua thực phẩm cho tuần sau - trái cây mang đi ăn trưa sau giờ làm và một số thực phẩm đông lạnh bà dùng làm bữa tối. Sau đó, bà đến cử hiệu quần áo Stewart trả lại chiếc áo cánh. Bà nói với cô bán hàng rằng chồng mình không thích chiếc áo này. Thực tế, dù trước khi Pauline ly hôn, chồng bà cũng chưa một lần đưa ra ý kiến trước thẩm mỹ ăn mặc của bà. Nhưng bà không muốn nói với cô bán hàng lý do thật sự, đấy là vì cổ áo của nó: lúc mặc trong phòng thử đẹp đến mê người, nhưng khi về nhà, lại thấy nó quá xấu.

Chả trách gì bà tiêu tiền ngày càng ít! Chẳng còn thứ gì có thể làm bà trông đẹp hơn nữa, nhưng điều này rất có lợi cho việc kiểm soát chi tiêu.

Quầy hàng của một cửa hiệu bán mỹ phẩm đang có khuyến mãi trang điểm miễn phí cho khách hàng. Một người phụ nữ đang được đánh phấn tô son còn những người khác đứng xem xung quanh. Pauline nhìn vào đó, rồi đi thẳng ra ngoài. Bà đến chỗ đậu xe, chọn con đường khá xa nhưng xanh mát lái về nhà. Lúc đó, radio đang phát bản nhạc cổ điển “Tình yêu tháng tư” từng nổi tiếng một thời, xem như để chào đón mùa xuân đã đến. Bà ngân nga hát theo, chẳng chú ý xem mình đang đi trên con đường nào.

Vừa về đến nhà, Pauline lại gọi ngay cho George, cuối cùng lần này chính George nghe điện thoại. “Chào mẹ, mẹ khỏe chứ ạ!”. Giọng George đầy vẻ kinh ngạc.

“Sally có nói với con chuyện máy nước nóng không?”, cô hỏi thẳng.

“Máy nước nóng? Không có ạ. Nhưng cô ấy có để lại mảnh giấy cho con, bảo con gọi điện cho mẹ, con đang định làm xong việc sẽ gọi ngay...”.

“Nhà mẹ chẳng có lấy một giọt nước nóng. Dù chờ bao lâu, nước vẫn lạnh thấu xương”.

“Ôi!”.

Pauline dừng một lúc, cuối cùng hỏi: “Mẹ phải làm sao?”.

“Ừm, mẹ, con nghĩ mẹ nên gọi cho thợ sửa ống nước”. “Thợ sửa ống nước! Ôi, trời! Tìm thợ sửa ống nước vào ngày thứ bảy sao? Con biết họ sẽ nói gì không? Chắc chắn họ bảo hôm nay không thể đến, để thứ hai. Vậy, mẹ phải chịu đựng ngày cuối tuần không có nước nóng, không...”. “Có lẽ chỉ là vấn đề ở công tắc điều khiển”. George nói. “Công tắc?”.

“Mẹ có biết giờ tầng hầm thế nào không? Nếu mặt đất tầng hầm có nước, có lẽ mẹ phải thay một bộ máy nước nóng mới; nhưng nếu không, vậy rất có thể vấn đề là ở bộ điều khiển, nếu thế thì rất đơn giản”.

“Vậy sao, có lẽ chỉ là hư bộ điều khiển”. Pauline nói giọng chán nản.

“Vậy mặt đất có nước không mẹ?”. “Mẹ không rõ”.

“Không rõ?”. George hỏi với giọng ngạc nhiên.

“Phải, mẹ không dám xuống tầng hầm một mình”. “Ôi, mẹ ơi!” George quả thật đã mất kiên nhẫn.

“Được rồi, được rồi, mẹ xuống đó xem thử, nhưng con không được gác máy đó, OK?”.

Pauline đặt ống nghe trên bàn, men theo hành lang đến trước cầu thang xuống tầng hầm. Từ đây đến tầng hầm tổng cộng có ba bậc thang, bà đứng trước bậc thang nín thở, vểnh tai nghe ngóng, nhưng dưới đó chẳng có tiếng động gì cả. Trước phòng khách trải một tấm thảm lông, trông như mặt bàn bi da, nhìn từ góc độ này dường như chẳng có gì khác lạ. Thế là Pauline lấy can đảm đi về phía tầng hầm. Bà nhón chân đi nhẹ qua phòng khách, nhìn vào trong qua cửa phòng bar. Nơi đó có đủ thiết bị gia dụng: bếp, máy nước nóng, máy rửa chén bát và máy sấy quần áo, những thứ này đều chất ở đó. Nguồn sáng duy nhất là ánh đèn lờ mờ rọi xuống từ trên cửa sổ cao cao. Pauline nhìn lướt qua mặt đất, mặt đất xi-măng không ẩm ướt lắm, bà cũng không ngửi thấy mùi gas. Có lẽ sự việc không tệ hại thế.

“Chắc hỏng bộ điều khiển rồi”, bà nói qua điện thoại với George.

“Ừm, thế thì tốt. Tình huống thế này mẹ chỉ cần mở lại công tắc là được”.

“Mẹ?”.

“Mẹ biết cách dùng diêm mà!”. “Nhưng, mẹ sợ sẽ nổ”.

George im lặng vài giây, sau đó nói: “Được rồi, con đến giúp mẹ”.

“Ôi, tốt quá, cám ơn con, con yêu”.

“Nhưng con phải làm xong việc ở đây đã”. “Vậy cần khoảng bao lâu?”, Pauline hỏi. “Vài giờ? Con không thể nói chắc”.

“Thực ra, mẹ có hẹn ăn trưa với mấy người bạn...”, bà nhìn đồng hồ, “khoảng 1 tiếng sau”.

“Được thôi, chờ mẹ về con sẽ qua nhà”.

“Không! Khoan đã! Lẽ nào mẹ không cần phải tắm, thay quần áo mới đi sao? Con không thể đến lúc này à?”.

“Không được, mẹ ơi, bây giờ không được”. George trả lời.

“Không, George”.

“Mẹ đi dùng bữa về lại gọi cho con, sau đó con sẽ đến ngay, được chứ ạ? Con hứa đấy”.

“Được rồi, được rồi, cũng chỉ đành vậy thôi”. Pauline nói với giọng ấm ức.

Tiếp đó, bà chậm chạp gác máy với vẻ buồn bã, cứ như George có thể nhìn thấy mình vậy.

Lần này đến lượt Katie Vilna tổ chức họp mặt. Cũng như mọi khi, bà đã chuẩn bị xong tất cả: rượu cocktail có cắm cây dù nhỏ xinh đẹp, ngoài ra còn có bó hoa tươi rất to.

Họ đã bỏ thói quen chơi bài từ lâu. Lúc đầu, đám phụ nữ này uống vài ly trong phòng khách trang trí lộng lẫy: có một chiếc đàn piano lớn, mấy tấm thảm Ba Tư và vài vật dụng thời Victoria. Uống rượu xong họ đến thẳng phòng ăn. Hoa tươi trong phòng bài trí tựa như một ngọn tháp nhỏ, Katie phải di dời số hoa này để mọi người có thể nhìn thấy mặt nhau. Katie ngồi chỗ đầu bàn, hôm nay bà mặc chiếc áo captan (áo dài của người Thổ Nhĩ Kỳ, có thắt ngang lưng) suôn mượt, nhưng kiểu ăn mặc này giống đi dự dạ tiệc hơn. Ngồi bên phải Katie là Wanda, hiển nhiên bà chẳng hề sửa soạn, mặc chiếc váy rộng thùng thình cùng với chiếc áo len to, vẻ mặt khá uể oải. Đối diện với Wanda là Marilyn, sắc mặt bà trông kém hơn trước nhiều, có lẽ là kết quả của việc hóa trị bệnh ung thư vú. Tóc bà bám sát vào da đầu tựa như tóc của đứa bé mới sinh. Hôm nay bà không mặc bộ trang phục bó sát người, mà mặc một bộ đồ thể dục. Pauline ngồi ở sau cùng, bà vẫn mặc chiếc quần rộng thường ngày, nhưng chiếc áo thun ban sáng được thay bằng chiếc áo sọc đỏ thời trang, bà còn buột một chiếc khăn có vân xoắn ốc trên đầu.

Thoạt tiên, họ bàn về sức khỏe của Marilyn. Họ chỉ có thể bắt đầu từ đề tài này. Chắc giờ bà không còn thấy mệt mỏi nữa? Bà thích ăn gì nào? Bà nên ăn nhiều vào nhé! “Quả thật em ăn không nổi”, Marilyn nói với mọi người, “em có thử ăn nhiều, nhưng chỉ nghĩ đến thức ăn là em buồn nôn. Xin lỗi, Katie”. Bà nói thế vì bà không hề đả động đến phần salad thịt cua, món ruột của Katie.

Pauline thấy rằng mọi người có mặt đều nghĩ: không thấy đói là một việc hạnh phúc biết bao, nhưng họ phải ép mình gạt bỏ suy nghĩ này. Trời ạ, mãi đến giờ, bà mới thật sự hiểu ho!

Nhớ lại tuy hơi buồn cười, nhưng mấy người bạn thân này đều quen biết khi bà ở St. Cassian. Pauline từng có một dạo chán ghét người Ba Lan vô cùng - tên của họ chẳng những khó viết, mà phát âm cũng rất kỳ quái, họ luôn chơi những bản nhạc kỳ quặc, thức ăn của họ làm ta phát ngán, vào dịp lễ, họ luôn mặc trang phục đậm bản sắc dân tộc - nhưng bây giờ, chỉ cần nghe thấy tiếng nhạc Ba Lan thanh thoát phát ra từ cây đàn phong cầm, bà liền rưng rưng nước mắt.

Lúc này, Wanda lại bắt đầu lối nói ngang ngược đặc trưng: “Em nên ăn nhiều sữa chua, Marilyn, lát nữa chị cho em một hiệu sữa chua dinh dưỡng, trong đó có một loại men khuẩn rất có ích cho cơ thể...”. Phải, Wanda luôn thích ra lệnh cho người khác, còn Katie luôn mặc những bộ trang phục sọc thô chất liệu rẻ tiền, Marilyn không ngừng khoe con mình thông minh ngoan ngoãn thế nào.

Nhưng từ lâu, Pauline đã mất khả năng đánh giá khách quan về những người bạn này. Bà chẳng biết mình có thật sự thích họ không. Nhưng thế thì sao? Có thích họ không cũng chẳng còn quan trọng nữa, đến độ tuổi này, chẳng lẽ còn phải đi quen bạn mới sao?

Bỗng nhiên Katie hỏi mọi người có chú ý thấy cả đời họ đã xảy ra bao nhiêu chuyện không. “Xem đấy, chúng ta có một quả phụ”, nói xong bà nhìn Wanda gật gù, “hai người phụ nữ ly hôn, một người lấy chồng khác còn người kia thì không; một người con chết, còn người kia thì con bỏ đi; một người phẫu thuật cắt tử cung, giờ lại có thêm một người mắc bệnh ung thư vú”.

“Một ngày nào đó”, Marilyn nói: “trong chúng ta cũng sẽ có người chết đi”.

Lời như thế e rằng chỉ mình Marilyn dám nói.

Giờ đây, Pauline lại cảm nhận được suy nghĩ của mọi người, thế là, bà liền đổi đề tài. “Này, biết gì chưa? Mình sắp hẹn hò đấy!”.

“Hẹn hò? Với ai?”, mọi người đều nhao lên.

“Ồ, mình kể cho nghe, anh ấy làm việc trong nhà thờ, tên là Dun Osgood. Phải, chắc là thế. Mấy năm trước vợ chồng anh ấy chuyển từ bang Minnesota đến đây. Nhưng Giáng sinh năm ngoái vợ anh ấy qua đời rồi, rất đột ngột, sau bữa ăn Giáng sinh, bệnh tim bà ấy đột phát trong lúc ngủ. Sau lần đó, mình có trò chuyện với anh ấy, rất thông cảm và đau lòng trước chuyện xảy ra, hỏi xem anh ấy sau này có dự định gì không... Sau đó, chủ nhật tuần trước, làm lễ xong, anh ấy mời mình cùng dùng bữa tối. Chuyện thế đấy”.

“Ừ, ra thế. Vậy”, Wanda vừa nói vừa bấm tay đếm gì đó, “tháng giêng, tháng hai, tháng ba... chỉ có 4 tháng! Đúng là đàn ông!”.

“Có lẽ, anh ấy chỉ muốn tìm một người bạn, thế thôi! Dù sao mình cũng không ngại! Chúng mình có thể tạo dựng một mối quan hệ tốt trước, sau đó, ừm, cứ từ từ từng bước...”.

“Ồ, Pauline, số bạn luôn may mắn thế, bạn luôn tìm được đàn ông”. Katie nói: “Nhìn mình đây, mình đã mưu cùng kế cạn. 6 năm rồi mình chẳng quen ai một cách đàng hoàng. Còn bạn, bạn đã quen 10 người rồi!”.

“Ôi, làm gì nhiều thế!” Pauline nói: “Tin mình đi, thỉnh thoảng đàn ông chỉ mang đến tai họa cho bạn thôi, thật đấy”.

“Rốt cuộc bạn có bí quyết gì? Còn nhớ cảnh lần đầu bạn gặp Michael không?”, Katie nói.

“Pauline bị thương ở trán”, Wanda kể với Marilyn: “Tụi chị đưa cô ấy đến cửa hiệu tạp hóa của mẹ Michael mua bông băng”.

Marilyn đã nghe câu chuyện này vô số lần, bà chỉ mỉm cười nhìn vết sẹo trên huyệt Thái dương của Pauline.

“Lúc đó cô ấy hệt như một con nai bị thương! Ý chị là, chẳng chút lãng mạn gì cả. Nhưng phải thừa nhận rằng, Michael rất căng thẳng. Anh ta muốn tự mình băng bó cho Pauline, sau đó nắm tay cô chạy ra khỏi cửa hiệu, còn nói sẽ không bao giờ rời xa cô”.

“Làm gì có chuyện không bao giờ rời xa chứ!”. Pauline thấy giọng mình khô khốc.

“Lúc đó chị nghĩ anh chàng bị Pauline bỏ bùa mê rồi! Bọn chị xem xét kỹ quần áo, kiểu tóc và nụ cười của cô ấy - còn nhớ không, Katie? Chúng ta từng vẽ một chấm nhỏ ở môi trên bắt chước bạn ấy, còn tưởng đấy chính là bí quyết thu hút đàn ông. Nhưng những chấm nhỏ ở môi trên của bạn ấy là thật, còn của chúng mình động chút là phai mất. Ôi, tiếp sau đó là Richard, mọi người còn nhớ Richard không?”.

“Nha sĩ Richard?”, Marilyn nói.

“Không, Norm mới là nha sĩ, các bạn hiểu ý mình không? Chúng ta chẳng còn biết rõ ai với ai!

Norm là nha sĩ mà Pauline quen khi vừa ly hôn, sau đó cô mới quen Richard. Richard là bác sĩ khoa mắt”. Wanda tiếp tục kể với mọi người.

“Thực tế, anh ta là nhà kinh doanh mắt kính”. Pauline đính chính.

“Richard là người Pauline quen lâu nhất, vốn dĩ anh ta muốn kết hôn với Pauline, cách nói chuyện của anh ta làm người nghe có cảm giác đó”.

“Anh ta hay vạch lá tìm sâu, hơn nữa cứ thích đánh giá người khác”. Pauline nói.

“Nghe mình nè!”, Katie nói lớn: “Bạn có biết bao nhiêu người phụ nữ ở độ tuổi này đều muốn lấy một người như Richard không!”.

“Chắn chắn Richard rất vui khi gặp được người như bạn. Đấy là điều mình muốn nói”.

Katie vung mạnh tay, sau đó đưa mắt sang hướng khác. Pauline thấy Katie làm thế quả rất thô lỗ.

Trên đường lái xe về nhà, Pauline vẫn đầy suy tư. Khi radio phát bản “Paris tháng tư”, bà tắt nhạc. Tình huống thực tế của rất nhiều sự việc trông khác hẳn với vẻ bề ngoài của nó. Dường như xung quanh Pauline chẳng thiếu đàn ông. Quả thật là thế. Nhưng Norm, nha sĩ luôn đeo dây chuyền vàng, móng tay toàn màu vàng - dù thế nào Pauline cũng không chịu nổi. Và bà quen Bruce, quả là một người rất có hy vọng, nhưng chẳng hiểu sao, bỗng nhiên ông ta lại không gọi điện cho Pauline nữa. Bản thân bà cũng không rõ nguyên nhân thật sự. Bà nghi ngờ nó liên quan đến lần cãi nhau của họ. Hôm đó hai người hẹn cùng dùng bữa tối, nhưng Bruce đến trễ.

Còn về Richard, lúc đầu khi họ mới quen nhau, ông thu hút thế, bởi ông luôn biết khen mọi ưu điểm ở bà. Ông khen bà là thợ làm vườn xuất sắc, là đầu bếp giàu óc sáng tạo nhất. Ông thích khi bà cười rộ lên và cũng đánh giá cao lòng nhiệt tình của bà. Dĩ nhiên, Pauline biết rõ điều này không kéo dài bao lâu. Mãi đến một hôm, Richard hỏi bà có thể thay giấm trong món xà lách thành nước cốt chanh không, như thế mùi vị món này sẽ không xung đột với mùi chai rượu nho ông mua. Giấm khác với rượu nho sao? Lẽ nào trước giờ ông không thích món xà lách bà làm? Bỗng nhiên, Pauline thấy mình mất tự tin, bà bắt đầu mất tự tin về sức hấp dẫn của mình.

Về sau, con gái Richard mời ông đến bang Ohio mừng Giáng sinh, ông nói với Pauline rằng sẽ dời ngay đến đó. “Thật ra”, ông nói, “hôn nhân của con gái anh gặp chút vấn đề, anh nghĩ lúc thế này nó muốn có người ở bên cạnh...”.

Kết quả, Pauline chỉ nói “Anh phải đến đó”, vì dĩ nhiên bà hiểu con cái luôn là quan trọng nhất. Nhưng ông không nói với Pauline rằng thật ra ông đã mua vé máy bay từ trước.

Pauline không thể che giấu sự tổn thương của mình. “Em hiểu rồi”, lúc đó bà nói thế này: “đây chính là chân tướng của sự việc! Đúng thế, em hiểu cả rồi!”.

Câu trả lời của Richard là: “Em cứ hay chuyện nhỏ hóa to!”.

Câu nói này làm Pauline nhớ đến những lời Michael thường nói trước đây: “Em đúng là chuyện bé xé to!”. “Em dễ xúc động quá đấy!”, “Pauline, em phải học cách kềm chế bản thân!”.

Từ đó bà bắt đầu xa lánh Richard. Sau khi trở về từ Ohio, ông chẳng còn tìm thấy Pauline nữa. Bà không nghe điện thoại của ông và khi ông xuất hiện trước cửa nhà, bà phớt lờ.

Pauline tuyệt đối không để lịch sử tái diễn, thật ra việc từ bỏ này buộc bà phải sống một mình trong quãng đời còn lại, tự giải quyết vấn đề máy nước nóng, lái xe về nhà một mình trong tình huống mất phương hướng... Ôi, hỡi Thượng đế, đây chẳng khác gì mê cung! Tựa như một mình trôi dạt trên một hành tinh vô hạn, chẳng ai bảo vệ mình!

Đèn đỏ trước mặt sáng lên, thế là Pauline rẽ trái. Tạ ơn trời đất, sau khi rẽ xong cuối cùng bà đã biết mình ở đâu! Qua mấy ngã tư nữa chính là Stewart cổ xưa yêu dấu! Bỗng nhiên Pauline thấy nhẹ cả người, bà rẽ vào bãi đậu, rồi đi vào một trung tâm mua sắm.

Quầy hàng mỹ phẩm vẫn còn đang khuyến mãi, một cô gái trẻ soi gương ngắm nhìn thành quả của nhân viên trang điểm: lông mi đen đen, hai má sáng bóng đầy sức sống, làn môi tươi như mứt dâu. Pauline giảm chậm bước chân, lúc này, cô nhân viên trong quầy hàng mời gọi: “Bà có muốn thử sản phẩm của chúng tôi không?”.

Mỹ phẩm của Pauline đầy cả một ngăn tủ: má hồng, phấn nền, phấn phủ. Rất nhiều thứ bà chỉ dùng qua một lần. Dù thế, bà vẫn trả lời: “Được, thử xem nào!”. Tối hôm đó, quả thật bà có một buổi hẹn, sửa soạn chút cũng hay.

Khi ngón tay cô nhân viên trang điểm vỗ nhẹ lên mặt Pauline, bà thấy rất dễ chịu, kem dưỡng được phủ nhẹ lên vùng da khô dưới mắt bà, loại kem này có hương hoa hồng nhàn nhạt. Ngón tay cô nhân viên rất mát, cô chăm sóc da cho Pauline rất dịu dàng, vùng ngực đầy đặn của cô chỉ cách mặt Pauline vài centimet. Giờ đây, cô nhân viên bắt đầu khen: “Chân mày của bà đẹp thật đấy! Tôi sẽ đánh ít nhũ xanh lên đôi mắt đẹp của bà”. Kết quả trang điểm không mấy khả quan - vẫn là Pauline già nua. Lúc này, ba bốn vị khách đứng trước quầy hàng, nhìn Pauline sau khi trang điểm, tấm tắc khen ngợi. Cuối cùng, bà mua cả bộ sản phẩm chăm sóc da và một bộ mỹ phẩm trang điểm dành riêng cho bà. Cô nhân viên bỏ tất cả sản phẩm vào một túi nhỏ có in logo công ty. Pauline phải dùng đến hai túi mua hàng để mang mọi thứ về nhà.

George bảo máy nước nóng hư là do bộ điều khiển. Đúng như anh nghĩ. Anh chỉ mất không đến nửa giờ là Pauline có thể dùng nước nóng rồi. George đóng cửa tầng hầm, hai đầu ngón tay kẹp lấy hộp diêm bỏ vào trong túi áo, trên khuôn mặt béo tròn lộ vẻ hài lòng. “Thật ra, mẹ có thể tự làm những chuyện này”. Anh nói với Pauline.

“Ôi, con yêu, mẹ biết, mẹ tệ quá!” Pauline nói: “Mẹ không nên dựa dẫm các con như vậy”. Dừng vài phút, để tránh George phản bác, bà nói tiếp: “Nhưng sao lại là vấn đề ở bộ điều khiển chứ?”.

“Là sao mẹ?”.

“Ý mẹ là, sao bộ điều khiển lại có vấn đề? Sao mẹ biết được con đi rồi nó không hỏng nữa?”.

“Ôi, nếu như thế, mẹ cần một thợ sửa ống nước rồi!”. “Ý con là sẽ có khả năng đó thật?”, Pauline hồi hộp hỏi. “Bộ điều khiển hỏng, con sửa lại rồi, sau đó là ổn.

Chính mẹ bảo có lẽ nó sẽ lại hỏng mà”.

“Nhưng nếu lần này hỏng mà không có nguyên nhân, con xem, giống như lúc này đây, chúng ta chẳng biết làm thế nào để phòng chuyện này xảy ra lần nữa. Con hiểu ý mẹ không?”.

George thở dài, nói: “Sao mẹ lại cứ hay lo bò trắng răng thế?”.

“Được rồi, con nói đúng! Mẹ là một bà già ngốc tự chuốc phiền muộn vào thân! Mẹ phải chịu trách nhiệm hoàn toàn với căn nhà này, nhưng con không thể vì thế mà trách mẹ”.

“Suốt bao năm nay chúng con đều khuyên mẹ chuyển đến chung cư sống mà!”.

“Trời ạ, George, các con đều lớn lên trong căn nhà này đấy! Đây là nhà mẹ! Nếu bảo mẹ sống trong căn hộ chung cư vừa nhỏ vừa cũ, mẹ thà chết!”.

“Chẳng phải bố cũng từng sống trong căn hộ chung cư một thời gian sao?”, George nói.

“Phải, nhưng đó là chuyện của bố”. Pauline nói với vẻ không vui, “Hơn nữa, bố là đàn ông, tình cảm của đàn ông chẳng thể so sánh với phụ nữ!”.

George biết mình lại rơi vào thế bí. Mỗi lần anh muốn rời khỏi đều rơi vào thế tiến thoái lưỡng nan. Pauline hiểu George quá rõ, “Uống chút cà phê nhé?”, bà hỏi.

“Không, không cần đâu mẹ”.

“Một lúc thôi. Hay là uống thứ khác, nước hoa quả hay bia nhé?”.

“Bọn trẻ chắc đang chờ con về”, George cười nhẹ nói, “con cún đó to bằng lòng bàn tay đấy mẹ!”.

“Giờ bố con ở đâu?”, Pauline chợt hỏi: “Ở chỗ Anna sao? Nơi đó là gia đình hạnh phúc của ông ấy sao?”.

“Kìa mẹ!”.

“Có phải nơi đó, con biết đấy, luôn có cảm giác gia đình rất ấm áp, dễ chịu phải không?”.

“Trông cũng được”. George trả lời, ngoảnh đầu nhìn ra cửa sổ.

“Vì mẹ luôn nghĩ - nếu mẹ sai thì nói mẹ biết - mẹ luôn nghĩ Anna không phải mẫu người phụ nữ của gia đình. Mẹ thật không tưởng tượng nổi cô ta bố trí nhà cửa thế nào. Có lẽ nơi đó có rất nhiều món đồ trang trí nhỏ, ảnh hoặc khăn trải giường bằng len đan, dĩ nhiên, chắc còn nhiều thứ khác. Nhưng cô ta sẽ bài trí thế nào? Cô ta thích loại vật dụng gia đình nào?”.

“Ôi, mẹ, con không biết”. George vừa trả lời vừa đi đến phòng ăn. “Con chẳng có khái niệm về vật dụng gia đình, đó chỉ là một căn nhà, thế thôi”.

“Nhưng con cũng có chút ấn tượng chứ”, Pauline vội nói, “con vào căn nhà đó ít nhiều có chút cảm giác, chẳng hạn như rất xa lạ, rất rối hoặc rất... Con không có chút ấn tượng nào sao?”.

George ra đến cửa, khom người hôn nhẹ lên má Pauline: “Tóm lại, ừm, bình thường thôi. Chúng ta xem có nước nóng chưa nhé mẹ?”.

Nói xong, George mở cửa ra ngoài.

Vấn đề nước nóng giải quyết xong. Pauline tắm rất lâu, sau đó sấy khô tóc. Tiếp theo, bà mặc một chiếc váy dài màu xanh nhạt, phối với một đôi giày gót vừa màu xanh. Pauline không biết Dun Osgood sẽ đưa mình đi dùng bữa ở đâu, thế nên bà chọn một chiếc váy dài thích hợp với mọi trường hợp. Cuối cùng, bà dùng mỹ phẩm mới mua hôm nay: phấn nền màu ngà, má hồng màu hồng nhạt, son màu đỏ hoa hồng và phấn mắt màu xanh nhạt, màu xanh đó hầu như hợp với màu xanh chiếc váy của Pauline. Bây giờ, người phụ nữ trong gương tỏa ánh hào quang, mái tóc vàng tựa như một chiếc nón có viền hoa trùm kín đầu bà. Đã rất lâu, Pauline từ bỏ suy nghĩ làm một người phụ nữ xinh đẹp, giờ bà có thể sửa soạn mình trông hòa nhã và không đến mức bị người khác ghét. Bà còn nhớ thuở con gái, nhìn thấy những người phụ nữ có tuổi cứ ra sức tô son hoặc uốn tóc tạo hình gợn sóng, bà luôn thấy trong lòng có chút an ủi. Bà bây giờ không cần thiết tìm kiếm sự đồng cảm ở người khác.

Khi chuông cửa vang lên, là đúng 6 giờ tối. Người tôn trọng giờ giấc thường đồng nghĩa với sự nhiệt tình, và ngược lại. Khi Pauline mở cửa, Dun Osgood đã đứng đó mỉm cười rất tươi. Ông đứng ở một góc, dáng người cao to, luôn khom lưng rất khiêm tốn, dưới mái tóc xám là khuôn mặt đầy nếp nhăn. “Chào, đúng là nơi này rồi, em khỏe không?”.

“Em rất khỏe, Dun, anh thế nào?”.

“Rất tốt, được cùng dùng bữa với em quả thật tuyệt vời. Em mặc thế không thấy lạnh chứ?”.

“Dạ không ạ”. Pauline lấy xách tay trên chiếc trường kỷ rồi khóa cửa. Bà chú ý thấy cách ăn mặc của Dun rất giống mình, cũng là một chiếc áo khoác thể thao, bên trong là một chiếc áo sơ mi trắng hở cổ và một chiếc quần dài màu xám chất liệu rất tốt. Khi họ cùng đi xuống dốc, Dun ôm nhẹ eo bà, sau đó bước đến chỗ để xe, mở cửa, đồng thời thật cẩn thận để không kẹp phải gấu váy của bà.

“Mong rằng em sẽ thích nơi anh chọn”. Sau khi nổ máy Dun nói với Pauline: “Nhà hàng Pincers, em từng đến đó chưa?”.

Pauline lắc đầu.

“Trước đây, thứ tư mỗi tuần anh đều cùng Mattie ăn tối ở đó, vì thứ tư nếu gọi một phần tráng miệng, em có thể được một phần quà tặng tương tự hoặc được giảm giá trực tiếp. Mattie thường chọn bánh kem Boston, còn anh lại thích bánh kem sôcôla hạt dẻ”.

“Nghe rất tuyệt”. Pauline đáp.

“Phải đấy, rất tuyệt. Nhưng hôm nay không phải thứ tư”.

“Không sao, em không mấy thích bánh ngọt”. Pauline nói.

“Không phải thật đấy chứ?”. Dun gần như kêu lên, trông ông ngạc nhiên vô cùng, Pauline thấy ông có vẻ quá khoa trương. Dun dừng lại trước một đèn giao thông ở ngã tư, “Vậy, em có vẻ khác với Mattie, cô ấy chẳng thể sống được nếu thiếu bánh ngọt! Có lẽ em không tin, bánh nướng cô ấy làm chắc chắn mỏng nhất trên thế giới!”.

Pauline hình dung Mattie Osgood trong đầu, có lẽ cô ta rất dịu dàng, nhưng không béo tròn, mặt có một số đốm nhỏ và luôn cười thân thiết. “Chắc anh rất nhớ chị ấy”. Pauline nói với Dun.

“Ồ, đúng thế, anh rất nhớ cô ấy”.

Dun có cách phát âm rất đặc trưng của bang Minnesota, nặng và ấm hơn những nơi khác, tuy nghe hơi lạ, nhưng rất tự nhiên và chân thành.

“Thỉnh thoảng, anh cảm thấy cô ấy vẫn còn bên anh”, Dun thú thực, “anh còn muốn nói chuyện này hoặc chuyện nọ với Mattie, hoặc nói với bản thân. Hầu như mọi chuyện lại trở về quá khứ”.

“Anh nghĩ thế sao?”. Pauline hỏi, “Dường như người đã ra đi lại trở về bên anh. Em cảm nhận được một bên cơ thể anh trở nên ấm áp và đầy đủ, và khi trở về hiện thực, cả người anh đều trở nên lạnh như băng, nhưng lại thoải mái hơn nhiều”.

“Thế sao?”. Dun nhìn Pauline một cái rồi chuyển dời ánh mắt đi nơi khác.

Vài phút tiếp sau hai người đều chẳng nói gì, Pauline cho rằng sự im lặng này có thể giúp Dun ổn định lại tinh thần. Ánh đèn mờ dần, thành phố nhỏ hẻo lánh mất đi ánh sáng ban ngày. Những bông hoa màu đỏ thắm trên cây thông trắng, còn những căn nhà hai bên đường lại lộ màu xám nhạt tựa như ngọc trai.

“Dun”, Pauline hỏi khi thấy Dun đã ổn định trở lại, “sao anh nghĩ đến việc dùng cái tên Dun? Ý em là, đây không phải một cái tên thường thấy”.

“Ồ, phải, tên này của bên ngoại anh”, Dun trả lời, “họ là gia tộc Dunniston, anh luôn tự giản đơn hóa nó thành Dun”.

“Em rất thích cái tên này”.

“Thật sao? Tên em cũng rất hay”. Dun nói.

Pauline dựa nửa người trên ghế, tư thế này làm bà rất dễ chịu. Xe của họ rẽ sang phía Đông, hòa vào dòng xe đông nghẹt. Pauline thích cuộc sống về đêm, thích hẹn hò - bạn phải sửa soạn thật đẹp, sau đó vui mừng nôn nao, cùng một người khác trò chuyện sâu sắc. Dun Osgood không dễ ứng phó, nhưng như thế làm Pauline cảm thấy có mong muốn chinh phục mãnh liệt hơn. Dù thế nào, bà chẳng bao giờ thích mẫu đàn ông không có cá tính, bảo gì nghe nấy.

“Phải rồi, Dun”, Pauline nói, “em vẫn chưa biết, anh có con không?”.

“Ồ, không, vợ chồng anh không có con”. Lúc nói, anh lại phát ra tiếng “Ồ” rất đặc trưng. “Thật ra tụi anh rất muốn có con, nhưng em biết đấy, cuộc sống chẳng phải chuyện gì cũng được như ý”.

“Đấy chính là cuộc sống!”, Pauline đáp lại.

“Thật ra với anh, đây cũng chẳng phải chuyện gì to tát, nhưng anh biết Mattie rất thất vọng. Cô ấy đối xử đặc biệt tốt với cháu của mình, phải nói là yêu chiều”.

“Cháu chị ấy chắc ở rất gần vợ chồng anh? Như thế thỉnh thoảng họ có thể đến bầu bạn với hai người?”.

“Không, không”.

Pauline dừng lại một lúc.

“Em có một trai và hai gái”. Một lúc sau bà lên tiếng. “Thật sao?”, Dun rất ngạc nhiên. Ông lái xe vào bãi đậu cạnh nhà hàng. “Anh nghĩ chắc Mattie thích con gái, cô ấy nói con gái theo mẹ hơn con trai”.

“Chị thấy thật...”, Pauline bỗng dừng lại. Bà muốn phản bác quan điểm này, nhưng nghĩ lại, bà thấy mình không nên.

Nhà hàng yên tĩnh đến lạ thường, thậm chí nơi đây cũng chẳng có âm nhạc. Ánh sáng rất mờ, nhân viên nhà hàng phải dùng đèn pin đưa họ đến bàn. Họ đi ngang qua mấy bàn có người đang dùng bữa, phần lớn khách đều cầm ly rượu cocktail phối anh đào đen hoặc trái cây cắt lát. Đây là nhà hàng dành cho những vị khách có tuổi, Pauline vô cùng quen thuộc với những nơi thế này. Giờ đang là lúc bận rộn nhất ở đây: từ 5 giờ chiều đến khoảng 6 giờ rưỡi. Bà chọn tư thế ngồi dễ chịu cho mình trên chiếc ghế êm, đón lấy thực đơn rất mỏng nhưng lại rất to từ tay nhân viên phục vụ. Bàn ăn làm từ gỗ màu sậm rất thô, mặt bàn trải tấm lót bằng giấy. Trên đó đặt một giá nến có ánh sáng lờ mờ nhưng rất lung linh. Pauline lấy cái chụp thiếc ra, như thế ánh nến có thể đủ sáng cho bà nhìn rõ thực đơn, ở đây có: xà lách Ceasar, bánh kem thịt cua, sườn bò lóc xương... Bà nhìn Dun mỉm cười: “Ở đây tuyệt quá!”. Giọng bà rất nhẹ, nhưng dù thế, đây vẫn là giọng nói lớn nhất nghe thấy trong nhà hàng.

“Ở đây có món em thích sao?”, Dun hỏi. “Dĩ nhiên”.

“Nhưng em biết không, Mattie chẳng thích hải sản, vợ chồng anh chuyển từ nơi xa xôi đến bờ biển Đông, phải nói là uổng phí! Ở đây, tụi anh không thể ăn cua và cá tươi ngon. Đường ruột của cô ấy luôn có vấn đề, biết sao được? Cô ấy luôn thích món sườn bò lóc xương, em có thể gọi một phần nếm thử”.

“Ồ, không, em nghĩ chúng ta nên thử bánh kem thịt cua”. Pauline nói với giọng kiên quyết.

“Vậy, bà muốn uống gì?”, nhân viên phục vụ đứng bên cạnh hỏi.

Pauline chợt ý thức được mình đang nói quá to, thế là, bà giảm âm lượng xuống: “Anh thấy rượu vang trắng thế nào?”. Bà nhìn Dun, chờ câu trả lời của ông. Dun chẳng phản ứng gì, thế là bà quay sang nói với nhân viên phục vụ: “Loại bình thường được rồi”.

“Cho tôi một ly nước cà chua”. Dun nói.

“Anh không uống chút cocktail sao?”, Pauline hỏi Dun. “Không, nó làm anh buồn ngủ”. Dun trả lời, “Em cứ gọi món, không sao đâu. Thêm một phần sườn bò lóc xương”. Anh nói với nhân viên phục vụ: “Chín hoàn toàn, thêm cá con và xà lách, cho tôi nước sốt Pháp”.

“Bà muốn ăn chung với loại rau gì?”. Nhân viên phục vụ hỏi Pauline. Đây là một cô gái trẻ, buộc tóc đuôi ngựa, trông hơi ngờ nghệch, nhưng giọng cô nói lại rất dịu dàng.

“Ừm, rau...”, Pauline suy nghĩ một lúc, rồi lại xem thực đơn, “cải bắp và đậu”.

Pauline chờ đến khi cô phục vụ đi xa mới nói với Dun: “Thật ra, em không nhất thiết phải uống rượu vang, uống nước hoa quả như anh cũng được”.

“Ồ, không, anh muốn em có một bữa ăn vui vẻ!”. Dun nói: “Anh mong em không để tâm chuyện anh nói về món tráng miệng lúc nãy, tuy hôm nay không phải thứ tư, nhưng em cũng đừng vì thế mà không gọi món tráng miệng nhé. Thực tế, anh muốn gọi một món, mặc cho nó có giảm giá không! Anh luôn nói với mấy người bạn, cứ mặc sức hưởng thụ cuộc sống khi chúng ta còn có thể!”.

“Chúng ta ăn hết chỗ thức ăn đã gọi trước, em không biết lát nữa còn bụng chứa hết không!”. Pauline nói với Dun.

“Em biết thường tụi anh làm thế nào không? Anh và Mattie đều rất xa xỉ gọi ba món bánh, rồi thì bỏ phần thứ ba. Như Mattie thường nói, cứ như chúng ta chẳng cần trả tiền cho phần bánh này vậy! Hôm nay chúng ta cũng thế nhé, tuy không phải thứ tư, nhưng là ngày đặc biệt”.

Pauline nhìn thẳng vào mắt Dun: “Ồ, hôm nay là ngày đặc biệt sao?”.

“Dĩ nhiên”.

“Đây là lần đầu chúng ta đi riêng với nhau, chỉ có hai ta”.

Lúc này, ánh mắt của Dun nhìn sang cô phục vụ đang đi về phía họ, trên tay cô bưng nước uống. Khi ly rượu vang đế thấp đặt trước mặt Pauline, ánh mắt của Dun có vẻ rất nồng nàn. Tiếp đó, ly nước cà chua của ông được mang lên, trên ly còn trang trí một cây cần tây cắm nghiêng.

“Cạn nào!”. Pauline nâng ly rượu rồi nói với Dun. “Phải, cạn ly”.

Họ uống một ngụm nhỏ, rồi đặt ly xuống.

“Anh có biết em thích hỏi người khác điều gì không?”. Pauline tin tưởng dần nghiêng người về phía Dun, một ngón tay vòng trên miệng ly, đấy là hành động thường thấy của Pauline. Lúc này, ông phải học cách tỏ ra hài hước dí dỏm. “Thật ra đó là một bài trắc nghiệm tính cách”, bà nói, “khi em muốn tìm hiểu một người, em sẽ hỏi người đó ngôi nhà mơ ước của họ”.

“Ngôi nhà mơ ước của họ?”.

“Vâng... ý em là hầu hết mọi người đều tưởng tượng ngôi nhà của mình thế nào. Chẳng hạn một ngày, họ leo lên cầu thang trước giờ không chú ý đến. Sau đó mở cửa ra, bỗng nhiên, trước mặt họ xuất hiện một căn phòng lớn, họ không biết rằng nhà mình còn có một căn phòng như thế! Anh từng có suy nghĩ này không?”.

“Ừm, nghe em nói thế, anh lại thấy rất quen thuộc”. “Đấy chính là điều mà em quan sát thấy: có nửa số người đều nghĩ thế quả thật rất tuyệt! Giờ lại phát hiện một nơi mới! Đấy chính là điều em muốn, vấn đề trong nhà không có phòng giải trí được giải quyết xong. Nửa số người khác sẽ nghĩ, xem ra chỗ này hơn một năm chưa quét dọn rồi, giờ chỉ có thể thấy chút ánh sáng chiếu rọi từ nóc nhà”.

Dun gật gù.

“Anh thuộc nhóm người nào?”, Pauline hỏi. “Anh ư?”.

“Anh xem căn phòng như thế là một món quà hay một gánh nặng? Em thấy vấn đề này rất thú vị, anh thấy sao?”.

Lúc này cô phục vụ đặt đĩa trước mặt họ: “Hai vị còn cần gì khác nữa không ạ?”.

“Không, tạm thời không cần, ồ”, Dun nói với Pauline, “còn em?”.

“Không, cám ơn”, Pauline nói với cô phục vụ. “Dun, không sao đâu, nó chẳng có câu trả lời đúng hay sai, chỉ là một bài trắc nghiệm thôi, anh hiểu không? Em chỉ trắc nghiệm xem anh thuộc mẫu người nào thôi”.

“Ồ, thực tế, anh không biết mình có từng có suy nghĩ này không, thế nên...”.

Pauline “Ồ” một tiếng. “Vấn đề này rất thú vị”.

Dun nói xong, lấy dao cắt miếng thịt bò. Pauline di chuyển giá nến một chút, để ánh sáng sáng hơn. “Anh biết không, nếu là em, em thấy nên thế này: trời ạ, một căn phòng mới! Một phát hiện vĩ đại! Nhưng chồng em, chắc chắn không thế... tất cả mơ ước của anh ấy là, có thể tìm được cả tầng lầu. Như thế, anh ấy sẽ biến căn nhà thành kiểu nhà nông trại, dưới đất khắp nơi đều là bùn đất, nước, trong đó còn có rắn bơi qua bơi lại”.

“Sao anh ấy lại có suy nghĩ như thế?”, Dun hỏi. “Ơ? Ồ, đấy chính là giấc mơ của anh ấy!”.

“Anh ấy gặp vấn đề à?”. “Sao? Vấn đề gì?”.

“Chồng em, ý anh là chồng em mới qua đời sao?”.

“Ồ, không, anh ấy không qua đời.

Vợ chồng em ly hôn”. Pauline trả lời.

“Ồ, anh hiểu rồi”.

“Tụi em chia tay 13 năm rồi”. Pauline nói. “Anh rất tiếc”. Dun nói với Pauline.

“Không, anh không cần phải an ủi em. Em không sao đâu”. Nói xong Pauline liền xắn một miếng bánh kem thịt cua. Thế rồi bà nói giọng dịu dàng: “Tụi em chia tay trong hòa bình và rất thân thiện, không cãi nhau hoặc đưa ra tòa rùm beng”.

“Ừm, nhưng đấy là chuyện làm ta đau khổ. Anh không dám tưởng tượng, nếu Mattie đề nghị ly hôn với anh, anh sẽ làm gì. Em có thể tin được không, tụi anh chưa từng cãi nhau lớn tiếng. Ý anh là, tuy tụi anh không thường thống nhất ý kiến, ví dụ như cô ấy thích chỉnh nhiệt độ cao hơn, còn anh đã vã mồ hôi rồi; hoặc cô ấy thích đến những vũ hội náo nhiệt, còn anh thích yên tĩnh. Nhưng tụi anh chẳng bao giờ vì thế mà cãi nhau, cũng chưa bao giờ hối hận vì đã chọn đối phương. Anh nghĩ chắc mình là một người đàn ông hạnh phúc, và thực tế, anh nghĩ mình được như thế”.

“Phải”, Pauline nói, “quả thật anh rất may mắn, nhưng không phải mọi người đều có thể may mắn như anh”.

Bỗng nhiên, Pauline thấy mình đang bị vây bủa bởi một bầu không khí trầm buồn mãnh liệt, tựa như một màng sương mù dày đặc lặng lẽ bao trùm cả căn phòng.

Bỗng nhiên trong nhà hàng vang lên một tiếng động lớn làm Pauline tỉnh người. Không gian chợt huyên náo, tiếp theo là tiếng loảng xoảng. Được thức tỉnh vào lúc này quả là rất tốt. Pauline ngồi thẳng người lên, nhìn qua vai Dun hướng về trước quầy bar, cô gái phục vụ cho họ lúc nãy đang từ đánh vào mặt mình, trước mặt là đống đĩa vỡ. “Thượng đế ơi!”, Dun nói, nhưng Pauline lại la lên: “Đừng quay đầu nhìn”.

“Sao?”.

“Con gái Karen của em từng là nhân viên phục vụ nhà hàng để chi trả tiền học phí trường Luật. Nó bảo khi vào nhà hàng dùng bữa, nếu tình cờ gặp ai đó đánh vỡ ly tách bát đĩa, thì đừng nhìn họ, hãy cứ vờ như không có chuyện này vậy. Chà, cô bé tội nghiệp, chắc sẽ bị phạt đây!”.

“Anh còn tưởng thứ gì nổ tung chứ”. Dun vừa nói vừa chuyển sự chú ý về đĩa thịt bò của mình. Ông lại cắt một miếng cho mình và sau lưng ông, cô phục vụ đang vén váy ngồi xuống dọn chỗ ly vỡ vào mâm. Pauline háo hức chờ mọi chuyện xảy ra, còn Dun lại nhìn bà. Lúc này Pauline phát hiện có một tách cà phê trắng ở giữa lối đi. Dun chợt hỏi: “Em có đứa con gái làm luật sư ư?”.

“Vâng”. Pauline trả lời. Tách cà phê trắng vẫn nằm ở giữa lối đi, trong căn phòng mờ tối phát ra ánh sáng yếu ớt. Nhìn từ góc độ này, chiếc tách trông không bị vỡ, cứ như có ai cố tình đặt nó ở đó. Pauline đang suy nghĩ có nên nói với cô phục vụ nơi đó còn một chiếc tách không, nhưng lại lo cô ta cho mình là nhiều chuyện. Thế là, bà ép mình chuyển ánh mắt sang Dun, “Anh dám cá, chắc chắn em rất tự hào về con gái”.

“Tự hào?”.

“Nhà mình có một luật sự mà!”.

“Ồ, phải, nhưng anh không bao giờ biết nó là người của gia đình em, nó đổi họ thành Antonczyk”.

“Sao con bé lại làm thế?”. Dun dừng lại hỏi.

“Chắc đấy là một thách thức!”. Pauline nói, “Đó là họ bên chồng em, có thể là hai hay ba đời trước, về sau, họ giản lược thành Anton, em chẳng biết từ khi nào con bé đổi tên cho mình, có thể gọi đây là sự truy tìm ngọn nguồn chăng. Karen là thế, chỉ biết nghĩ cho bản thân”.

“Một đứa cháu của Mattie cũng thế”. Dun nói. “Thật sao?”.

“Thật, nhưng nó chỉ đổi tên, từ Peter thành Rock”. Pauline nghĩ một lúc.

“Nguyên nhân đổi tên của nó cũng giống con gái em, còn bảo thế này nghe mốt hơn. Anh không biết, tóm lại, người trong gia đình đều rất buồn, Mattie bảo rồi sẽ có ngày nó đổi lại tên cũ. Về sau, trong đám tang của Mattie, nó nói với anh, giờ nó đã muốn đổi lại tên cũ, dì Mattie nói đúng. Họ đều tin cô ấy, cô ấy chẳng bao giờ quên sinh nhật chúc mừng, Mọi ngày lễ cô ấy đều gởi thiệp cho họ, Giáng sinh, Phục sinh, Lễ tình nhân, Lễ tạ ơn, thậm chí cả Lễ quốc tế lao động”.

Lúc này, ánh mắt của Pauline lướt qua Dun, bà thấy một đôi vợ chồng già bước vào nhà hàng. Họ dừng lại ở chỗ quầy bar, cô phục vụ lúc nãy đã không còn ở đó. Họ nhìn nhau, người chồng đi lên trước vài bước rồi quay đầu nhìn vợ. Vợ ông trông có vẻ do dự. Trong tay người chồng cầm một chiếc nón nỉ. Khi đi vào nhà hàng, ông hồi hộp xoay chuyển vành mũ và sau lưng ông, người vợ cẩn thận bước đi. Người đàn ông tăng nhanh tốc độ, hình như ông đã chọn bàn sau lưng Pauline nên nhắm thẳng mục tiêu rảo bước nhanh, kết quả đạp phải chiếc tách cà phê mà