← Quay lại trang sách

Chiếc Tàu Ma

Ngày 30 Tháng Chín, 1858

Vịnh Stefansson, Nam Cực

Rosanna Mender biết nếu bà không tiếp tục đi tới, bà sẽ chết. Bà hầu như hoàn toàn kiệt sức và chỉ di chuyển với sức mạnh của ý chí. Nhiệt độ xuống rất thấp dưới số không. Nhưng chính những cơn gió lạnh buốt mới thực sự là những hàm răng khủng khiếp cắn xé da thịt bà. Cơn buồn ngủ chết người nhẹ nhàng len lỏi qua thân thể và chậm chạp gặm mòn ý chí cầu sinh của bà. Rosanna vẫn bước tới, một bàn chân nặng nề rớt xuống phía trước bàn chân kia, loạng choạng khi mất thăng bằng vì sự vỡ vụn bất chợt của lớp băng dưới chân. Hơi thở trở nên dồn dập, hổn hển như một người leo núi đang tranh đấu với một chóp đỉnh trên rặng núi Hy mã Lạp Sơn mà không được trang bị bình dưỡng khí.

Tầm nhìn của bà không còn nữa khi những cơn gió giá buốt xoáy từ trước mặt, được bảo vệ bởi một khăn quàng dày bằng len quấn quanh cổ bên trong cái áo da thú có lông của người Eskimo. Dù Rosanna chỉ thỉnh thoảng nhìn qua kẽ hở của cái khăn quàng, đôi mắt bà cũng đau nhức và đỏ vì sự tấn công của những hạt tuyết li ti. Sự thất vọng cấu xé Rosanna khi bà nhìn lên và thấy bầu trời xanh lóng lánh và mặt trời chói lọi bên trên cơn bão tuyết. Những trận bão tuyết làm tối tăm mặt mũi dưới bầu trời quang đãng không phải là một hiện tượng bất thường tại Nam Cực.

Điều đáng ngạc nhiên là ít khi có tuyết rơi trong vùng Nam Cực. Thời tiết lạnh đến nỗi bầu khí quyển không thể chấp nhận hơi nước, vì vậy những hạt tuyết rơi xuống rất nhỏ. Mỗi năm lớp tuyết dày thêm không tới năm inch trên khắp bề mặt lục địa.

Một phần tuyết đã tích tụ trên mặt đất đã được nhiều ngàn tuổi. Mặt trời khô khan chiếu nghiêng lên mặt tuyết thành một góc lệch, và sức nóng của nó phản chiếu trở lại không gian làm tăng thêm sự lạnh lẽo khác thường của vùng địa cực.

Rosanna đã gặp may. Không khí lạnh không xâm nhập qua quần áo của bà. Thay vì mặc y phục chống lạnh của âu châu, bà lại mặc những quần áo chồng bà đã mua khi giao dịch thương mại với người Eskimo trong những ngày đầu ông săn cá voi tại Bắc Cực. Y phục lót bên trong gồm một áo chẽn, một quần soóc dài tới đầu gối và một đôi bít tất làm bằng lông thú mềm giữ ấm hai bàn chân. Nhiều lớp áo quần bên ngoài ngăn chận khí hậu buốt giá thái quá. Cái áo khoác bằng da vừa khít cho phép thân nhiệt lưu chuyển và thoát ra ngoài không gây đổ mồ hôi. Nó được may bằng da chó sói, trong lúc cái quần dài bằng da tuần lộc. Đôi ủng cao và thẳng lót lông thú bên trong ôm sát đôi bít tất.

Nguy hiểm đáng sợ nhất của bà lúc này là để cho bị thương tại mắt cá hoặc ống chân trên lớp băng lởm chởm; và nếu bà sống sót vì một lý do nào đó, vẫn còn sự đe dọa của hiện tượng tê cóng. Dù thân thể được che chở, nhưng gương mặt vẫn làm bà lo lắng. Nếu hai bên má hoặc mũi bị ngứa, dù ít nhất, bà phải gãi mạnh lên da để máu lưu thông lại, và điều đó thật nguy hiểm. Bà đã quan sát sáu người trong đoàn thủy thủ của chồng bà bị tê cóng vì ngứa, hai trong số những người này bị mất những ngón chân và một người mất tai chỉ vì gãi.

Thật may mắn khi những cơn gió giá buốt đã chấm dứt và chấm dứt luôn sự hung dữ của nó, và sự di chuyển của Rosanna trở nên dễ dàng hơn một giờ trước đó, khi bà bắt đầu bị lạc vì ham đi dạo. Tiếng gió gào thét yếu dần trong tai bà và bà đã có thể nghe những âm thanh cót két của những tinh thể băng dưới bàn chân mình.

Bà đến gần một ngọn đồi cao khoảng mười lăm bộ được tạo thành bởi những khối băng vĩnh cửu trên biển cọ xát nhau và đẩy những tảng băng nhô lên cao được gọi là gò hoặc đồi. Hầu hết tạo thành một bề mặt lởm chởm. Những cái gò này đã bị thời tiết bào mòn cho tới khi những góc cạnh của nó trở nên nhẵn thín. Khuỵu xuống trên hai bàn tay và đầu gối, bà bò lên gò băng, duỗi hai chân ra mỗi khi leo được một quãng ngắn.

Sự cố gắng làm mất đi chút sức khỏe của Rosanna. Bà không biết bằng cách nào, cũng không nhớ đã tranh đấu như thế nào, nhưng bà đã lên tới đỉnh gò. Rã rời vì kiệt sức, tim đập loạn xạ, hơi thở đứt đoạn. Bà không biết mình đã nằm đó bao lâu, chỉ có cảm giác đầy biết ơn vì đôi mắt không còn nhức buốt bởi những cơn gió lạnh giá. Sau mấy phút, khi tim đã đập chậm lại và hơi thở bắt đầu ổn định, Rosanna tự nguyền rủa mình vì tình huống hiểm nghèo bà đã điên rồ gây ra. Bà không biết lúc này là mấy giờ. Không có đồng hồ đeo tay, bà không thể xác định bao nhiêu thời gian đã trôi qua từ lúc bà rời khỏi chiếc tàu săn cá voi của chồng, chiếc Paloverde.

Gần sáu tháng trước, chiếc tàu đã bị khóa chặt trong khối băng, và vì phải chịu đựng sự buồn chán, bà đã đi dạo hàng ngày, nhưng luôn giữ khoảng cách để nhìn rõ chiếc tàu và đoàn thủy thủ của nó, những người luôn theo dõi bà. Sáng nay, bầu trời quang đãng khi bà rời chiếc tàu, nhưng sau đó, nó nhanh chóng trở nên xám xịt khi trận bão tuyết quét qua lớp băng, chỉ trong vài phút, chiếc tàu mất dạng, và bà Rosanna thấy mình bị lạc trên khối băng.

Theo tập quán, những tàu săn cá voi không bao giờ rời cảng khi có phụ nữ trên tàu. Nhưng nhiều bà vợ từ chối ngồi yên tại nhà trong ba hoặc bốn năm chồng họ vắng mặt. Bà Rosanna Mender không muốn trải qua hàng ngàn giờ cô đơn, một mình. Bà là một phụ nữ vững vàng, dù cơ thể nhỏ nhắn, chỉ đạt năm feet chiều cao và cân nặng không tới một trăm pound. Với đôi mắt màu nâu sáng và nụ cười cởi mở, bà là một phụ nữ xinh đẹp ít khi than phiền về những khó khăn buồn chán và rất ít khi bị say sóng. Trong cabin chật hẹp của mình, bà đã hạ sinh một cậu con trai và bà đặt tên là Samuel. Và dù chưa nói với chồng, bà đang mang thai khoảng hai tháng đứa con thứ nhì. Đoàn thủy thủ chấp nhận sự có mặt của bà trên tàu, dạy một số người học đọc, viết giúp những lá thư để họ gởi về nhà cho vợ con và gia đình, và hoạt động như một nữ y tá mỗi khi có ai bị thương hoặc đau ốm trên tàu.

Tàu Paloverde là một trong những tàu đánh bắt cá voi từ San Francisso trên bờ biển phía tây của đất nước. Đó là một chiếc tàu chắc khỏe, đặc biệt được thiết kế cho những chuyến đi đến địa cực trong mùa săn cá voi. Với một chiều dài một trăm ba mươi hai bộ, rộng ba mươi bộ, mớn nước mười bảy bộ, trọng tải của nó gần ba trăm ba chục tấn. Kích thước chiếc tàu cho phép nó vận chuyển một lượng dầu cá lớn và thích hợp với một thủy thủ đoàn gồm sĩ quan và nhân viên cho những chuyến đi có thể kéo dài đến ba năm. Sống tàu, khung và sườn ngang của nó đều làm bằng gỗ thông lấy từ những cánh rừng trong rặng núi Sierra Nevada. Khi tất cả những thứ đó đã vào đúng vị trí, những tấm ván dày 60 inch được đặt lên và gắn chặt bằng một loại đinh gỗ thường lấy từ những cây sồi.

Nó được trang bị với ba lớp vỏ tàu, những đường nét của nó rõ ràng, sống động và huênh hoang. Các phòng ốc trên tàu được trang trí thật gọn gàng với những đồ gỗ và panô bằng gỗ vân sam mua từ Washington. Cabin của thuyền trưởng được trang bị đặc biệt vì bà vợ ông nhất quyết cùng đi với chồng trong chuyến đi dài ngày. Hình chạm ở mũi tàu là một tác phẩm điêu khắc rất đẹp trên một loại cây chỉ có ở vùng tây nam, cây paloverde. Tên chiếc tàu trải rộng ngang qua thân sau của nó với những chữ cái chạm trổ và mạ vàng. Cũng tại thân sau tàu còn được trang hoàng với hình ảnh một con chim ưng sải cánh chạm trên thân tàu.

Thay vì đi về hướng bắc, qua biển Bering tới Bắc Cực - nơi có nhiều mặt biển hơn — để săn cá voi, chồng bà Rosanna, thuyền trưởng Bradford Mender lại đưa chiếc Paloverde tiến về phía nam để đến Nam Cực. Ông tin rằng từ lúc vùng này không còn được lưu ý và ít được những người săn cá voi dũng cảm từ New England thăm viếng, nơi đây sẽ là một cơ hội bằng vàng để tìm thấy những ngư trường săn cá voi lý tưởng.

Ngay sau khi đến gần vành đai Nam Cực, đoàn thủy thủ đã bắn hạ sáu con cá mập lúc chiếc tàu đi qua vùng nước chưa có băng trôi. Sau đó, trong tuần lễ cuối cùng của Tháng Ba, nhằm vào mùa thu tại Nam Cực, họ bắt đầu vào một vùng có nhiều băng trôi, càng lúc càng dày đặc hơn cho đến lúc lớp băng cao đến gần bốn bộ. Chiếc tàu Paloverde vẫn còn có thể thoát ra vùng biển trống trải, nhưng một trận gió đột ngột gầm rú kéo tới, đẩy chiếc tàu vào sâu trong vùng băng trôi dày đặc. Không còn khả năng nào để thoát ra vì băng càng lúc càng vây chặt chiếc tàu, đoàn thủy thủ tàu Paloverde chỉ có thể bất lực đứng yên và ngắm cái bẫy lạnh lẽo khép dần lại.

Khối băng nhanh chóng tấn công quanh chiếc tàu săn cá voi với một sức mạnh thô bạo, đẩy nó về phía địa cực như thể nó bị bóp chặt trong một nắm tay khổng lồ. Mặt biển còn trống trải quanh địa cực nhanh chóng bị băng trôi tràn ngập. Thuyền trưởng Mender và đoàn thủy thủ của ông bất lực chống chọi và sau cùng đành thả neo, giữ chiếc tàu cách bờ địa cực gần hai dặm. Nhưng trong nhiều giờ, chiếc tàu kẹt cứng trong khối băng tiếp tục dày thêm, và chẳng bao lâu, mọi dấu vết của mặt nước đều bị thay thế bởi khối băng trắng xóa. Mùa đông Nam Cực phủ chụp lên họ và thời gian của ban ngày bắt đầu rút ngắn lại. Chẳng còn hy vọng thoát khỏi, và thời tiết dịu dàng với nhiệt độ ấm áp hơn là những gì còn cách xa họ đến bảy tháng nữa.

Những cánh buồm đã khô, được kéo lên và tháo xuống sẽ lại được kéo lên vào mùa xuân, nếu định mệnh cho phép thời tiết trở nên ấm áp hơn và gia ơn cho chiếc tàu di chuyển tự do. Lúc này, biết trước sẽ bị cầm tù lâu ngày, nên mọi thực phẩm đều được thận trọng dè sẻn để cầm cự trong những tháng dài mùa đông. Thực phẩm trong các hầm chứa có thể duy trì đến lúc khối băng bắt đầu tan vào mùa xuân như mọi người suy đoán. Nhưng việc thả dây câu qua những lỗ trống trong khối băng đã cung cấp nhiều hơn mong mỏi của họ, và nhiều loài cá ngon được nhanh chóng đông cứng trong những thùng chứa trên boong. Và bầy chim cánh cụt vui nhộn với hàng triệu con cũng làm họ khuây khỏa. Chỉ có điều đáng buồn là, dù đã tìm đủ mọi cách để sửa soạn bữa ăn, đầu bếp của chiếc tàu cũng bất lực trước những món ăn không hợp khẩu vị.

Nhưng nỗi sợ chính đoàn thủy thủ phải đối mặt là tình trạng giá buốt khủng khiếp và những chuyển động bất chợt của những tảng băng trôi. Nguy hiểm bị đông cứng giảm đi nhiều bằng cách đốt dầu cá voi chảy ra từ vết thương do phóng lao trước khi bị đông trong băng. Dầu cá họ lấy được lên tới hơn một trăm thùng lớn, quá đủ để giữ cho những lò sưởi đốt qua mùa đông tệ hại nhất tại Nam Cực.

Cho tới lúc này, những tảng băng trôi tương đối không quấy nhiễu họ. Nhưng thuyền trưởng Mender biết đó chỉ là vấn đề thời gian trước khi băng oằn xuống và trôi đi. Sau đó, tàu Paloverde dễ dàng nhận ra thân thể nó bị nhốt chặt trong khối băng vụn và nhọn, như thể cái khung bằng gỗ của nó có thể bị ép cho tới khi nó trở nên phẳng như một tờ giấy bởi sự dồn nén của khối băng khổng lồ. Thuyền trưởng Mender không thể cảm thấy thích thú khi nghĩ đến vợ ông và cái bào thai đứa bé đang tranh đấu để sống sót cho tới khi một chiếc tàu khác xuất hiện vào mùa hè. Và phép lạ đó chỉ có một phần ngàn khả năng xảy ra.

Lại còn sự đe dọa chết chóc do bệnh hoạn. Bảy người trong số đoàn thủy thủ đã có triệu chứng thiếu vitamin. Một số gián, bọ và chuột trên tàu đã chết vì không chịu nổi cái lạnh khắc nghiệt. Những đêm dài dằng dặc tại Nam Cực, những cơn gió lạnh buốt và đơn độc càng làm tình trạng của họ trở nên buồn tẻ đến độ lạnh lùng. Ông Mender chống lại tình trạng bức bối đó bằng cách tạo không khí bận rộn cho người của ông với đủ thứ công việc để đầu óc và cơ thể họ luôn hoạt động.

Ông đã ngồi tại bàn giấy trong cabin của mình để tính toán cả trăm lần mong tìm cách thoát khỏi tình huống kỳ quặc này. Nhưng ông bất lực không thể tìm ra giải pháp hoặc khả năng nào, bao giờ ông cũng bị đẩy vào ngõ cụt. Mọi cơ hội may mắn để thoát khỏi tình huống khốn đốn đến rõ ràng thật xa vời

Trận bão tuyết chấm dứt cũng đột ngột như khi nó xảy ra. Và mặt trời đã trở lại. Nheo mắt nhìn xuống trên bề mặt lấp lánh của khối băng, bà Rosanna trông thấy cái bóng của mình thay vì sự hoang vắng bất tận vây quanh. Nhưng tim bà chỉ trở nên rộn ràng khi bà đưa mắt nhìn ra đường chân trời và bắt gặp hình dáng chiếc tàu Paloverde cách đó khoảng một dặm rưỡi. Thân tàu màu đen hầu như bị che kín bởi khối băng, nhưng bà có thể trông thấy lá cờ Mỹ đang tung bay giữa bầu không khí giá buốt chết chóc và nhận ra ông chồng đang lo sợ của mình đã treo cao nó trên cột buồm chính để làm tín hiệu cho bà dễ dàng nhận ra nó. Rosanna chợt thấy mình khó có thể tin được bà đã lạc xa đến thế. Trong đầu óc lộn xộn của mình, Rosanna đã nghĩ bà đang tiến gần đến chiếc tàu nhưng thực ra bà đã lạc xa nó.

Khối băng không hoàn toàn trống trải, Rosanna có thể nhìn thấy những đốm nhỏ chuyên động trên bề mặt của nó và bà nhận ra đó là chồng bà và những thủy thủ của ông đang đi tìm bà. Rosanna vừa nhổm đứng lên để vẫy họ thì bất chợt bà thoáng thấy một thứ không hề chờ đợi - những cột buồm của một chiếc tàu khác lờ mờ hiện ra giữa hai khối băng đồ sộ nối liền nhau bên mép địa cực.

Ba cột buồm và xà néo buồm cùng với những dây chão, dây thừng để cột buồm có vẻ còn nguyên vẹn với những lá buồm cuộn lại. Một cơn gió mang theo không khí không lạnh lắm, bà tháo cái khăn quàng khỏi mặt và đôi mắt, và có thể nhìn thấy hầu hết thân chiếc tàu bị vây trong trong khối băng. Thân phụ bà Rosanna đã từng là thuyền trưởng chỉ huy những chiếc tàu buồm lớn buôn bán trà đến tận Trung Hoa; và lúc còn là một cô gái trẻ, bà đã từng thấy hàng ngàn chiếc tàu với đủ loại thiết bị đến và rời khỏi Boston, nhưng đây là lần đầu tiên bà trông thấy một chiếc tàu như con tàu này, bị đóng khung trong khối băng giống như một bức tranh treo trong nhà ông nội bà.

Chiếc tàu ma đã cũ, cũ lắm rồi, với phần thân sau đồ sộ của nó có nhiều cửa sổ và hành lang nằm ló khỏi mặt nước. Chiếc tàu dài, hẹp và sâu. Chiều dài của nó đến một trăm bốn mươi bộ, rộng ba mươi lăm bộ, bà phỏng đoán. Giống như chiếc tàu bà đã thấy trong bức tranh, chiếc tàu này hẳn phải là tàu loại tám trăm tấn của Công ty Anh An cuối thế kỷ mười tám.

Bà quay khỏi chiếc tàu và vung vẩy cái khăn quàng để lôi kéo sự chú ý của chồng và đoàn thủy thủ. Một người trông thấy động tác đó trên mặt băng qua khóe mắt, và báo động cho những người khác. Họ bắt đầu nhanh chóng chạy qua lớp băng vỡ về phía Rosanna, với thuyền trưởng Mender dẫn đầu. Hai mươi phút sau, cả đoàn thủy thủ của tàu Paloverde đã tới chỗ bà, vui vẻ hò reo khi nhận ra bà vẫn còn sống và an lành.

Vốn là một người trầm tĩnh và ít nói, nhưng ông Mender vẫn bộc lộ một xúc động sâu sắc khi ôm bà trong hai cánh tay, những giọt nước mắt đông lại trên hai gò má ông. Ông hôn bà thật lâu với tất cả thương yêu. “Ồ, lạy Chúa!” ông thì thầm, “Anh nghĩ em đã chết rồi. Em sống sót được quả là một phép lạ”.

Là một bậc thầy trong nghề săn cá voi ở lứa tuổi ba mươi sáu, Bradford Mender thực hiện chuyến đi săn lần thứ mười này, và tàu của ông bị vây hãm trong khối băng tại Nam Cực. Là một người Anh cứng cỏi, tháo vát, ông cao đến sáu feet và trông đẫy đà, cân nặng đến hai trăm hai mươi lăm cân Anh. Ông có một đôi mắt màu xanh sắc bén, mái tóc màu đen, bộ râu chạy dài từ thái dương đến cằm. Nghiêm khắc nhưng công bằng, ông chưa bao giờ có vấn đề với các sĩ quan và đoàn thủy thủ khiến ông phải xử sự thiếu hiệu quả và thành thật. Là một người săn cá voi vừa là một hoa tiêu lịch lãm, ông Mender còn là một doanh nhân sắc sảo, nên ông không những là chủ nhân chiếc tàu mà còn là chủ nhân của những người trên tàu.

“Nếu anh đã không khẩn khoản yêu cầu em mặc những quần áo của người Eskimo anh đã tặng em, chắc chắn em đã đông cứng và chết từ nhiều giờ trước”.

Ông buông bà ra và quay sang sáu người thủy thủ đang vây quanh họ và hét mừng vợ ông thuyền trưởng đã được tìm thấy còn sống.

“Chúng ta hãy đưa bà Mender trở lại tàu thật nhanh và ăn một ít súp nóng”.

“Không, chưa được”, bà nói, vừa chộp cánh tay ông và chỉ. “Em mới phát hiện một chiếc tàu khác”.

Mọi người đàn ông đều quay nhìn, mắt họ dõi theo cánh tay duỗi ra của bà.

“Một chiếc tàu Anh, tôi nhận ra những đường nét của nó từ một bức tranh trong phòng khách nhà ông nội tôi tại Boston. Nó có vẻ là một chiếc tàu vô chủ”.

Ông Mender chăm chú nhìn vật vừa phát hiện, nó trắng một cách ma quái dưới nấm mồ băng tuyết của mình. “Anh hoàn toàn tin em nói đúng. Rõ ràng nó có những đường nét của một chiếc tàu buôn rất cũ từ những năm 1770”.

“Tôi đề nghị chúng ta tìm hiểu nó, thưa Thuyền trưởng”, sĩ quan thứ nhất của tàu Paloverde, Nathan Bigelow, nói. “Có thể nó còn chứa lương thực đủ giúp chúng ta sống sót tới mùa xuân”.

“Số lương thực đó ít ra cũng đã trải qua tám mươi năm”, giọng ông Mender thật nặng nề.

“Nhưng chúng được bảo quản trong băng giá mà”, Rosanna nhắc ông.

Ông dịu dàng nhìn bà, “Em vừa trải qua những khó khăn, em thân yêu. Anh sẽ nhờ một trong các thủy thủ của anh giúp đưa em trở lại tàu Paloverde”.

“Không, anh yêu”, Rosanna nói với giọng quả quyết, vẻ mệt nhọc của bà biến đâu mất. “Em có ý định sẽ xem những gì phải xem”. Trước khi ông thuyền trưởng có thể ngăn cản, bà đã leo lên con dốc của ngọn đồi dẫn tới khối băng và hướng về phía chiếc tàu bị bỏ rơi.

Ông Mender nhìn toán thủy thủ của mình và nhún vai. “Tôi không muốn nhọc công hơn thua với một phụ nữ tò mò”.

“Một con tàu ma”, Bigelow thì thầm. “Thật đáng thương khi nó bị nhốt kín vĩnh viễn trong khối băng, hoặc chúng ta có thể đưa nó về và yêu cầu được hưởng quyền lợi dành cho người trục vớt nó”.

“Nó quá cũ, chẳng đáng giá mấy”, ông Mender nói.

“Tại sao các ông còn đứng đó trong giá rét và nói vớ vẩn chứ?” Rosanna nói, giọng hối thúc của bà có vẻ mất kiên nhẫn. “Chúng ta phải nhanh lên trước khi một cơn bão khác kéo tới”.

Leo lên gò băng thật nhanh cho đến khi tới chỗ chiếc tàu bỏ hoang, họ nhận ra khối băng đã dồn cao dựa vào thân tàu, giúp họ dễ dàng leo lên thành tàu phía trên và leo qua lan can tàu. Rosanna, ông thuyền trưởng và toán thủy thủ nhận ra họ đang đứng trên sàn lái tại boong trên cùng, đã bị phủ một lớp băng mỏng.

Ông Mender nhìn quanh, ngắm cảnh hoang vắng rồi lắc đầu với vẻ bối rối. “Tôi lấy làm lạ tại sao thân tàu không bị băng ép và làm nó vỡ”.

“Tôi chưa bao giờ nghĩ mình sẽ đứng trên boong một chiếc tàu Anh và Đông An Công ty”, một trong các thủy thủ nói khẽ, đôi mắt anh ta tỏ ra e dè. “Chắc chắn không có chiếc nào được đóng trước khi ông nội tôi chào đời”.

“Nó có một kích thước thật tuyệt”, ông Mender chậm rãi nói. “Trọng tải của nó khoảng chín trăm tấn, tôi đoán thế. Dài một trăm năm mươi bộ và rộng bốn mươi bộ”.

Hạ thủy từ một xưởng đóng tàu trên sông Thames, chiếc tàu buôn của Anh quốc cuối thế kỷ mười tám này được bán cho Công ty Anh và Đông An. Nó được đóng theo tiêu chuẩn một tàu chở hàng, nhưng vì lúc đó vẫn là thời điểm hoạt động của bọn cướp biển và những tàu chiến chuyên việc cướp bóc của những kẻ thù của nước Anh, vì vậy nó được trang bị với hai mươi tám khẩu đại liên nặng mười tám cân Anh. Ngoài ra nó còn được đóng để vận tải hàng hóa và thích hợp với những cabin dành cho hành khách. Vì thế, nó là một chiếc tàu lai căn. Mọi thứ trên boong vẫn nằm đúng chỗ, đều bị tuyết phủ, như thể nó đang đợi chờ một đoàn thủy thủ ma. Những khẩu súng đứng im lặng trên những giá đỡ, những phao cứu sinh vẫn còn buộc vào những thanh lan can tàu và những cửa sập vẫn còn đủ.

Có một vẻ kỳ lạ gì đó đầy dọa nạt và quái đản nơi những chiếc tàu cũ kỹ, một sự tò mò nham hiểm không thuộc Trái Đất này mà thuộc về một thế giới khác. Một cảm giác sợ hãi vô cớ xâm chiếm các thủy thủ đang đứng trên boong tàu như thể có một sinh vật gớm ghiếc, già cỗi đang chờ đợi để chào đón họ. Thủy thủ là những kẻ rất mê tín, và không một người nào - trừ Rosanna đang phấn khích bằng nhiệt tình của một phụ nữ - lại không cảm thấy sợ hãi sâu sắc và mơ hồ.

“Lạ thật”, Bigelow nói. “Có vẻ như đoàn thủy thủ đã bỏ tàu trước khi nó bị giam hãm trong khối băng”.

“Tôi không nghĩ thế”, ông Mender nói. “Phao cứu sinh vẫn còn đủ”.

“Chỉ có Chúa biết chúng ta sẽ thấy gì tại những boong bên dưới”.

“Vậy hãy xuống xem đi”, giọng bà Rosanna xôn xao.

“Không có em đâu, em yêu. Anh nghĩ tốt nhất em nên ở lại đây”.

Rosanna ném cho chồng một cái nhìn kiêu hãnh, và chậm chạp lắc đầu. “Em sẽ không chờ đợi một mình trong lúc có những con ma đi loanh quanh”.

“Nếu có con ma nào”, Bigelow nói, “thì tới lúc này chúng cũng đã đông cứng rồi”.

Ông Mender ra lệnh cho người của mình. “Chúng ta sẽ chia thành hai nhóm tìm kiếm. Bigelow, cậu hãy đem theo ba người và xem xét khu dành cho thủy thủ và hầm chứa hàng. Nhóm còn lại chúng tôi sẽ lục soát khu hành khách và sĩ quan tàu”.

Bigelow gật đầu, “Vâng, thưa Thuyền trưởng”.

Tuyết và băng đã tụ cao thành một ngọn núi nhỏ quanh cánh cửa dẫn vào những cabin ở đuôi tàu, vì vậy ông Mender đẩy Rosanna và người của mình đi về phía đuôi cao của boong tàu; tai đây họ tìm cách nâng cái nắp đậy hầm tàu bị tuyết lấp kín. Đẩy nó sang một bên, họ thận trọng leo xuống cầu thang dẫn vào bên trong. Rosanna bám sát phía sau ông Mender, bấu chặt dây thắt lưng quanh cái áo khoác dày cộm. Màu da mặt trắng trẻo bình thường của bà trở nên đỏ hồng vì phấn khích và hồi hộp.

Bà không ngờ mình sắp đi vào một cơn ác mộng đông cứng.

Tại cánh cửa cabin thuyền trưởng, họ trông thấy một con chó Đức, loại chó chăn cừu cao lớn, nằm cuộn mình trên một tấm thảm nhỏ. Đối với Rosanna, con chó có vẻ đang ngủ. Nhưng ông Mender lấy mũi giày đẩy nhẹ nó, và sự chạm nhẹ đó cho ông biết con vật đã chết cứng.

“Nó cứng như một tảng đá”, ông Mender nói.

“Con vật đáng thương”, Rosanna buồn bã thì thầm.

Ông Mender gật đầu về phía cánh cửa đóng dẫn tới cuối hành lang. “Cabin của thuyền trưởng. Tôi rùng mình khi nghĩ đến chuyện chúng ta có thể tìm thấy cái gì trong căn phòng đó”.

“Có thể chẳng tìm thấy gì”, một thủy thủ nói, giọng căng thẳng. “Mọi người đều có thể rời bỏ chiếc tàu và lội bộ dọc bờ biển đi về phía bắc”.

Rosanna lắc đầu. “Tôi không thể tưởng tượng ai đó có thể bỏ lại một con vật xinh đẹp như thể để nó chết cô độc trên tàu”.

Những người đàn ông dùng sức mạnh mở toang cánh cửa phòng thuyền trưởng và bước vào một khung cảnh ghê rợn. Một phụ nữ, với bộ trang phục trong thời kỳ giữa đến cuối thế kỷ mười bảy, ngồi trong một-cái ghế, đôi mắt màu đen của bà ta mở rộng và buồn bã nhìn cái hình dáng của một đứa bé nhỏ nhắn nằm trong cái giường cũi của trẻ con. Bà ta bị đông cứng cho đến chết trong lúc đau buồn sâu sắc vì mất mát một thứ có vẻ là con gái bé bỏng của mình. Trong lòng bà là một cuốn Thánh Kỉnh mở rộng tại chương Psalms.

Cảnh tượng thê lương làm tê cóng Rosanna và nhóm thủy thủ tàu Paloverde. Sự hào hứng của bà phút chốc tan biến trong cảm giác đau đớn. Bà đứng đó, im lặng cùng với những người khác, hơi thở dồn dập của họ làm mờ căn phòng giống như một nấm mồ đó.

Ông Mender trở ra, và bước vào một cabin khác kế đó và tìm thấy người thuyền trưởng của chiếc tàu, và ông biết ngay đó là chồng của người đàn bà đã chết. Người đàn ông này đang ngồi tại bàn làm việc, lọt thỏm vào một cái ghế. Mái tóc màu đỏ của ông ta phủ đầy băng, và gương mặt trắng bệch. Một bàn tay vẫn nắm chặt một cây bút làm bằng lông ngỗng. Một tờ giấy nằm trên bàn trước mặt ông ta. ông Mender phủi lớp giá trên tờ giấy và đọc những dòng chữ:

Ngày 26 Tháng Tám, 1779

Đã trải qua năm tháng từ khi chúng tôi bị vướng vào nơi đáng nguyền rủa này sau khi cơn bão đã đẩy chúng tôi lạc khỏi hành trình về phía nam của chúng tôi. Lương thực cạn sạch. Không ai được ăn gì từ mười ngày qua. Phần lớn thủy thủ đoàn và hành khách đã chết. Con gái bé bỏng của tôi chết hôm qua, người vợ đáng thương của tôi chỉ một giờ trước. Nếu ai đó tìm thấy xác chúng tôi, xin vui lòng báo cho các giám đốc của Công ty Thương mại Skylar Croft tại Liverpool về số mệnh của chúng tôi. Tất cả đã tới lúc kết thúc. Tôi sẽ sớm gặp lại vợ và con gái yêu dấu của mình.

Leigh Hunt Thuyền trưởng tàu Madras

Cuốn nhật ký bọc da của tàu Madras nằm một bên bàn giấy của thuyền trưởng Hunt. Ông Mender thận trọng gạt lớp băng phủ trên bìa cuốn nhật ký xuống sàn tàu và nhét cuốn sổ vào trong áo khoác. Sau đó ông rời khỏi cabin thuyền trưởng và đóng cửa lại.

“Anh tìm thấy gì?” Rosanna hỏi.

“Xác ông thuyền trưởng”.

“Tất cả đều khủng khiếp quá”.

“Anh tưởng tượng sẽ còn những chuyện tệ hơn”.

Câu nói đã trở thành lời tiên tri. Họ chia nhau vào các phòng, từ nơi này đến nơi khác. Khu vực dành cho hành khách rõ ràng tế nhị và đầy đủ phương tiện hơn. Hành khách được đáp ứng nhu cầu bài trí nơi ở của họ với đi-văng, giường, ghế và những phương tiện chống lại thời tiết khắc nghiệt. Những hành khách giàu có thường đem theo những đồ dùng cá nhân như bàn viết, kệ sách và nhạc cụ, kể cả piano và đàn harp. Tại đây, những người tìm kiếm phát hiện gần ba chục thi thể trong các tư thế chết khác nhau. Một số chết ngồi, một số nằm trên giường trong lúc những người khác nằm sóng soài trên sàn tàu. Có vẻ như tất cả đều chết trong lúc họ đang lơ mơ ngủ trong trạng thái thanh thản.

Rosanna thực sự bị sốc trước những xác chết với đôi mắt mở lớn. Màu sắc của tròng đen trong mắt họ có vẻ như được tăng cường bởi gương mặt trắng trẻo bao quanh chúng. Bà co rúm lại khi một thủy thủ của tàu Paloverde bước lại gần và đưa tay vuốt mái tóc của một trong những phụ nữ. Mái tóc đông cứng phát ra một tiếng động khô khan kỳ lạ và vỡ rời ra trong bàn tay người thủy thủ.

Căn phòng lớn sang trọng hơn trên boong phía dưới trông càng giống một nhà xác sau một thảm họa. Ông Mender thấy có rất nhiều xác chết, hầu hết là đàn ông, nhiều người trong số họ là sĩ quan quân đội Anh trong bộ đồng phục. Cuối cùng là khu hành khách bình dân, cũng có rất nhiều những xác chết đã đông cứng nằm trên những cái võng treo lủng lẳng cùng những hành lý của họ.

Tất cả những người có mặt trên tàu Madras ngày đó đều chết an lành. Không hề có tình trạng lộn xộn. Không một đồ vật nào bừa bãi. Tất cả mọi thứ đều ngăn nắp, gọn gàng. Nhưng, theo những ghi chép cuối cùng của thuyền trưởng Hunt, có vẻ như thời gian đã ngừng lại và tất cả đều chết bình an như lúc họ còn sống. Những gì Rosanna và ông Mender trông thấy đều không bị vặn vẹo hoặc tỏ ra kinh hoàng mà chỉ đơn thuần là một bất hạnh không chống lại được. Những người này đã chết bảy mươi chín năm và đã bị thế giới quên lãng. Thậm chí những người đã thắc mắc về số phận của họ và đau buồn về sự mất tích của họ cũng đã chết từ lâu rồi.

“Em không hiểu”, Rosanna nói, “Bằng cách nào tất cả bon họ đã chết?”

“Những người không chết vì đói thì cũng chết lạnh”, chồng bà trả lời.

“Nhưng họ có thể bắt cá qua lớp băng và săn bắn chim cánh cụt như chúng ta đã làm, và đốt dần từng phần của chiếc tàu để giữ ấm”.

“Những ghi chép cuối cùng của ông thuyền trưởng cho thấy chiếc tàu của ông ta trôi giạt quá xa lộ trình xuôi về phía nam của họ. Anh đoán là họ bị kẹt vào khối băng khi còn cách bờ xa hơn chúng ta lúc này, và ông thuyền trưởng vì tin họ cuối cùng sẽ thoát được nên đã tuân thủ luật hàng hải, cấm đốt lửa trên tàu vì sợ hỏa hoạn, cho đến khi mọi sự trở nên quá trễ”.

“Vì vậy, người này nối tiếp người kia, tất cả đều chết”.

“Sau đó, khi mùa xuân đến và băng tan, thay vì được dòng chảy mang ra khỏi nơi đó để vào vùng nam Thái Bình Dương như một chiếc tàu vô chủ, những trận gió nghịch lại đẩy chiếc tàu vào bờ và nó nằm yên ở đó từ đầu thế kỷ trước”.

“Tôi nghĩ ngài nói đúng, thưa Thuyền trưởng”, sĩ quan thứ nhất Bigelow nói, từ mũi tàu tiến lại. “Phán đoán qua quần áo trên những xác chết, những kẻ đáng thương đó không hề nghĩ chuyến đi sẽ đưa họ vào những vùng nước lạnh lẽo. Hầu hết bọn họ đều mặc quần áo dành cho khí hậu nhiệt đới. Chắc chắn họ đã rời Ấn độ để tới Anh quốc”.

“Đúng là một thảm kịch khủng khiếp”, Rosanna thở dài, “Không một thứ gì có thể cứu sống những kẻ bất hạnh này”.

“Chỉ có Thượng đế”, ông Mender thì thầm, “chỉ có Chúa”. Rồi ông quay sang Bigelow. “Họ đã chở loại hàng hóa gì?”

“Tôi không tìm thấy vàng hoặc bạc mà chỉ thấy một lượng trà lớn, những đồ sứ Trung Hoa lèn chặt trong những thùng gỗ, và những súc lụa cùng với đủ loại cây mây, gia vị và long não. Và, ồ vâng, tôi còn tìm thấy một kho chứa hàng nhỏ, được khóa bằng dây xích lớn, nằm ngay bên dưới cabin thuyền trưởng”.

“Cậu đã xem qua chưa?” ông Mender hỏi.

Bigelow lắc đầu. “Chưa, thưa ngài. Tôi nghĩ chỉ ngài mới thích hợp cho công việc đó. Tôi đã để lại những người của tôi để tháo xích”.

“Có thể nơi đó chứa những thứ quí giá”, Rosanna nói, màu hồng hiện ra trên hai gò má.

Viên sĩ quan thứ nhất dẫn họ xuống một cái thang dẫn tới phòng chứa hàng hóa đặc biệt. Căn phòng nằm đối diện với một khẩu đại pháo nặng mười tám cân Anh phủ kín băng. Hai trong số các thủy thủ tàu Paloverde đang tấn công cái khóa kếch sù nối hai đầu sợi xích hàn dính vào cánh cửa và vách tàu. Họ dùng một cái búa chẻ và một cái đục tìm thấy trong kho dành cho thợ mộc để tấn công cái khóa cho tới lúc nó bung ra, và đẩy cánh cửa vào phía trong.

Căn phòng hiện ra lờ mờ qua những tia sáng đến từ một cửa thông gió trên thành tàu. Những thùng gỗ trong phòng vẫn năm ngăn nắp trên những kệ gắn liền nhau. Ông Mender bước tới một thùng gỗ lớn và dễ dàng nâng một mép nắp thùng lên.

“Những thùng này không được đóng hàng cẩn thận và được đưa lên tàu tại cảng bởi các thương gia”, ông điềm tĩnh nói. “Theo tôi, hình như các thủy thủ cũng đã cẩu thả xếp chúng vào kho vào một lúc nào đó trong chuyến đi, rồi căn phòng được khóa lại theo lệnh của thuyền trưởng”.

“Đừng đứng đó nữa, ông chồng yêu quí”, Rosanna ra lệnh, bốn chồn vì tò mò. “Mở chúng đi nào”.

Trong lúc toán thủy thủ đứng bên ngoài căn phòng chứa hàng, ông Mender và Bigelow bắt đầu mở những thùng gỗ. Hầu như không ai còn quan tâm đến cái lạnh khủng khiếp. Họ đều không thể chống lại cảm giác nôn nóng chờ đợi sẽ tìm thấy một kho tàng lớn với vàng bạc và đá quí. Nhưng khi ông Mender cầm lên một trong những món hàng chứa trong một thùng gỗ, những hy vọng của họ nhanh chóng tan vỡ.

“Một bình trà bằng đồng đỏ”, ông nói và đưa nó cho Rosanna, bà đưa cao nó lên tới chỗ có nhiều ánh sáng hơn trong phòng. “Nó được chạm trổ thật đẹp. Có lẽ là phong cách Hy Lạp hoặc La Mã, nếu em nhận xét đúng về đồ cổ”.

Bigelow lấy ra nhiều vật dụng điêu khắc và đưa chúng qua cánh cửa mở. Hầu hết là những vật chạm trổ nhỏ bằng đồng đỏ mang hình thù những con thú trông có vẻ lạ lùng với những cặp mắt gắn bằng đá opal màu đen.

“Những con thú đẹp thật”, Rosanna thì thầm, vừa chiêm ngưỡng những thiết kế được chạm khắc bằng đục hoặc bằng a-xít ân sâu vào khối đồng. “Chúng hoàn toàn không giống bất kỳ loại vật nào chúng ta thấy trong sách”.

“Chúng hoàn toàn lạ lùng đối với chúng ta ngày nay”, ông Mender đồng ý.

“Liệu chúng có giá trị gì không?” Bigelow hỏi.

“Đối với một người sưu tầm đồ cổ hoặc với một viện bảo tàng thì có đấy”, ông Mender trả lời. “Nhưng tôi thực sự không tin bất kỳ ai trong chúng ta có thể giàu có với những thứ này”. Ông dừng lại khi cầm lên một vật có hình dạng và kích thước giống như một xương sọ người màu đen, lấp lánh trong thứ ánh sáng lờ mờ. “Lạy Chúa, cái gì thế này?”

“Nó có vẻ đe dọa...”, Bigelow nói khẽ.

“Như thể nó được điêu khắc bởi bàn tay của quỉ Satan vậy”, một thủy thủ lắp bắp với vẻ sợ sệt.

Hoàn toàn bình thản, Rosanna nhận vật đó từ tay ông chồng và chăm chú nhìn vào hai hốc mắt trông rỗng của cái sọ. “Nó có vẻ được tạo ra từ thủy tinh đen. Nhìn con rồng ló ra giữa hai hàm răng nó xem”.

“Tôi đoán nó được làm từ đá dung nham”, ông Mender nói, vừa ngắm nghía cái sọ, “nhưng tôi không thể hiểu nó được chạm trổ bằng cách nào...”

Câu nói bị bỏ lửng vì một âm thanh răng rắc thật lớn khi khối băng quanh phần đuôi tàu trồi lên và vỡ ra.

Một trong các thủy thủ nhảy xuống từ cầu thang boong trên và hét lớn, giọng anh ta lanh lảnh rất khó nghe. “Thuyền trưởng, chúng ta phải rời tàu thật nhanh! Một vụ vỡ băng lớn đang lan rộng khắp khối băng và tạo ra nhiều hố nước! Tôi sợ nếu không thoát thật gấp, chúng ta sẽ bị kẹt tại đây!”

Ông Mender không phí thì giờ để hỏi thêm. “Trở lại tàu Paloverde ngay!” Ông ra lệnh. “Nhanh lên!”

Rosanna bọc cái sọ người vào khăn quàng của bà và kẹp nó dưới một cánh tay.

“Không còn thì giờ cho những vật kỷ niệm đâu”, ông Mender càu nhàu vợ. Nhưng bà phớt lờ ông chồng và không chịu bỏ cái xương sọ lại.

Đẩy Rosanna đi trước, nhóm đàn ông vội vã leo lên cầu thang dẫn tới boong chính rồi nhảy xuống khối băng. Họ hoảng hốt khi nhìn thấy cả một cánh đồng băng cứng rắn lúc này đã rạn nứt và vỡ thành như ao nước. Những vết nứt biến thành những dòng chảy ngoằn ngoèo và những sông nhỏ, khi nước biển tràn qua lớp băng trên những khối băng trôi. Không ai trong số họ có ý nghĩ khối băng lại có thể tan rã nhanh như vậy.

Chạy dọc theo mép những khối băng vỡ, một số cao tới bốn chục bộ, và nhảy qua những khe nứt trước khi chúng mở rộng đến mức độ không thể nhảy qua. Đoàn thủy thủ và Rosanna chạy như thể lũ quỉ đói ở địa ngục đang đuổi theo sau lưng họ. Những âm thanh rùng rợn không thể tả của những khối băng nghiến vào nhau làm tăng cảm giác khủng khiếp trong đầu họ. Sự di chuyển làm hao tổn rất nhiều sức lực. Mỗi bước chân họ đều ngập dưới lớp tuyết đến sáu inch cho tới khi bàn chân chạm lên khối băng bên dưới.

Gió bắt đầu nổi lên trở lại, và thật không ngờ, nó gây cảm giác ấm áp, thứ không khí ấm áp nhất họ được cảm nhận từ lúc chiếc tàu bị kẹt trong khối băng. Sau khi chạy được một dặm rưỡi, mọi người đã sẵn sàng sụp đổ vì kiệt sức. Những tiếng hét lớn của các thủy thủ trên tàu Paloverde nài nỉ họ nhanh hơn, thúc giục họ cố gắng nhiều hơn. Rồi, thật bất ngờ, có vẻ như sự phấn đấu của họ để về tới chiếc tàu cuối cùng đã trở nên vô ích. Sự rạn vỡ lần chót của khối băng trước khi họ được an toàn trên tàu Paloverde gần như đã đánh gục họ. Nó mở rộng đến hai mươi bộ, quá xa để họ có thể nhảy qua, và nó càng rộng thêm với tốc độ một bộ trong ba mươi giây.

Nhận thấy tình huống khó khăn của họ, viên sĩ quan thứ hai của tàu Paloverde, Asa Knight, ra lệnh những thủy thủ trên tàu hạ thủy một chiếc xuồng dùng để gom cá voi săn được, về một bên hông tàu và họ chèo bằng tay vượt qua chỗ nứt lúc này đã rộng tới gần ba chục bộ. Tận lực chèo chiếc xuồng nặng nề, nhóm thủy thủ tranh đấu để cứu sống vị thuyền trưởng, vợ ông ta và những đồng nghiệp của họ trước khi quá trễ. Sau một nỗ lực hết sức vất vả, họ tới được mép bên kia của đường rãnh. Cho tới lúc đó, ông Mender, Rosanna và những người khác đang đứng trong nước sâu đến đầu gối do nước biển trào lên khối băng.

Chiếc xuồng nhanh chóng được đẩy ra ngoài, và những người đàn ông chèo nó vượt qua con sông đang nhanh chóng mở rộng.

Rosanna được kéo lên qua lan can tàu đầu tiên, tiếp theo là những thủy thủ và ông Mender lên sau cùng.

“Chúng tôi nợ cậu rất nhiều, Asa”, ông Mender nói, vừa bắt tay người sĩ quan thứ hai của ông ta. “Cậu dám táo bạo cứu sống chúng tôi. Tôi đặc biệt cám ơn cậu, nhân danh vợ tôi”.

“Nhân danh đứa bé nữa chứ”, Rosanna thêm vào, trong lúc hai thủy thủ bọc bà trong một cái chăn.

Ông nhìn bà. “Con của chúng ta đang an toàn trên tàu mà”.

“Em đâu có nói về bé Samuel”, bà nói qua hai hàm răng đang run cầm cập.

Ông Mender nhìn bà chăm chú hơn. “Em sắp nói với anh là em lại sắp có con à, cô vợ yêu quí?”

“Em nghĩ có lẽ khoảng hai tháng”.

Ông Mender thật sự bị sốc. “Em ra ngoài trên khối băng trong một cơn bão khi biết mình đang mang thai?”

“Lúc em ra ngoài đâu có bão”, bà nói và cười gượng gạo.

“Lạy Chúa”, ông thở dài, “anh phải làm gì với em đây?”

“Nếu ông không cần bà ấy, thưa Thuyền trưởng”, Bigelow vui vẻ nói, “tôi sẽ rất hạnh phúc được nhận bà”.

Bất chấp sự kiện đang buốt thấu xương, ông Mender phì cười và ôm siết bà vợ, chặt đến nỗi bà gần tắt thở. “Chớ có xúi dại, Bigelow, chớ xúi dại tôi”.

Nửa giờ sau khi lên tàu Paloverde, trong những trang phục khô ráo, Rosanna ngồi trước cái lò sưởi lớn xây băng gạch và kim loại dùng để thắng mỡ cá voi. Chồng bà và đoàn thủy thủ không phí chút thì giờ nào dành cho những tiện nghi đối với bản thân họ. Những lá buồm nhanh chóng được đem ra khỏi kho chứa, nơi chúng được xếp đặt gọn ghẽ và nhanh chóng được buộc vào dây kéo buồm. Sau khi buồm được giương, những chiếc neo cũng được kéo từ đáy biển lên, và, với ông Mender đứng trước bánh lái, chiếc tàu Paloverde bắt đầu mở đường xuyên qua vùng nước biển vừa tan giữa những khối băng trôi khổng lồ, hướng về phía đại dương mênh mông.

Sau khi phải chịu đựng sáu tháng lạnh lẽo và suýt bị chết đói, ông thuyền trưởng và đoàn thủy thủ thoát khỏi những khối băng và hướng về nhà, nhưng trước khi đó, họ đã chứa đầy một ngàn tám trăm cái thùng lớn của họ với dầu cá voi.

Cái xương sọ lạ lùng bằng đá dung nham bà Rosanna đã lấy từ chiếc tàu bị đông cứng Madras được đặt trên mặt lò sưởi của gia đình tại San Fancisco. Ông Mender bận rộn giao dịch thư từ với những chủ nhân lúc đó của Công ty Thương mại Skylar Croft tại Liverpool được điều hành dưới một cái tên mới, và ông gởi cuốn nhật ký của tàu Madras cho họ, thông báo vị trí nơi ông tìm thấy chiếc tàu vô chủ trên bờ biển Dellingshausen.

Di tích chết chóc và khủng khiếp của quá khứ còn lại trong sự cô độc lạnh lẽo. Một cuộc thám hiểm với hai chiếc tàu đã lên đường từ Liverpool năm 1862 để thu hồi chiếc tàu chở hàng Madras, nhưng chẳng ai trông thấy chiếc tàu nào trở lại, và người ta cho rằng chúng đã bị lạc trong vùng băng trôi khổng lồ quanh Nam Cực.

Một trăm bốn mươi bốn năm nữa trôi qua trước khi có những người lại phát hiện một lần nữa chiếc tàu Madras và đặt chân lên những boong của nó.