← Quay lại trang sách

Cứ Đến gần Địa Ngục Nếu Bạn Có Thể

Ngày 22 Tháng Ba, 2001

Thị trấn Pandora, bang Colorado

Những ngôi sao yếu ớt trong bầu trời lúc sáng sớm giống như một cái lều lớn dùng làm rạp hát được nhìn từ độ cao chín ngàn bộ so với mặt biển. Nhưng chỉ có mặt trăng ngắm nhìn quang cảnh đó lúc ông Luis Marquez bước ra khỏi căn nhà nhỏ bằng gỗ của mình. Quanh mặt trăng xuất hiện một vòng tròn lạ lùng mà ông chưa bao giờ trông thấy trước đây. Marquez ngắm hiện tượng kỳ lạ đó một lúc trước khi đi qua sân đến cái xe tải nhỏ không mui hiệu Chevy Cheyenne 4x4 của mình.

Ông ta mặc bộ quần áo làm việc và im lặng ra khỏi nhà để không làm bà vợ và hai cô con gái thức giấc. Vợ ông, Lisa, cảm thấy vui thích khi dậy sớm để chuẩn bị bữa ăn sáng cho chồng và làm sẵn bánh mì sandwich cho bữa ăn trưa của ông. Nhưng Marquez bảo, bốn giờ sáng là quá sớm với bất kỳ ai phải thức dậy lo chuyện ăn uống.

Ông Marquez và gia đình sống rất giản dị. Với hai bàn tay, ông đã sửa sang lại căn nhà được xây dựng từ năm 1882. Các con ông học tại trường Telluride gần nhà, và những gì ông và Lisa không thể mua được tại thị trấn nghỉ dưỡng và trượt tuyết trù phú, họ sẽ mang về nhà từ những lần đi mua sắm hàng tháng tại Montrose, một cộng đồng lớn hơn cách đó sáu mươi bảy dặm về hướng bắc.

Thói quen hằng ngày của ông không bao giờ chấm dứt cho tới lúc ông nấn ná ngồi uống cà phê ngoài quán và nhìn quanh quất ngắm mọi thứ đang diễn ra như những hình ảnh ma quái. Dưới ánh sáng quang phổ của quầng mặt trăng, những tòa nhà cao tầng lẻ loi đứng lặng lẽ trông chẳng khác gì những nấm mộ trong một nghĩa địa.

Sau khi phát hiện những khối đá có mạch vàng từ năm 1874, những người thợ mỏ đổ về Thung lũng San Miguel và xây dựng thị trấn mà họ gọi là Pandora, dựa theo huyền thoại về một cô gái xinh đẹp và cái hộp của cô chứa đầy những linh hồn bí ẩn. Một ngân hàng tại Boston đã mua lại quyền khai thác mỏ, cấp vốn cho việc khai mỏ và xây dựng một nhà máy lọc quặng to lớn cách thị trấn mỏ nổi tiếng Telluride hai dặm.

Họ gọi nơi này là mỏ Paradise (Vườn Địa đàng), và chẳng mấy chốc, Pandora trở thành một thị trấn nhỏ gồm hai trăm công dân với trạm bưu điện của nó. Mọi căn nhà đều được sơn phết, với những bãi cỏ cắt xén gọn ghẽ và những hàng rào gỗ sơn trắng. Và dù Pandora được dựng lên trong một hẻm núi chỉ có một con đường duy nhất để ra vào, nó vẫn không bị cô lập. Con đường dẫn tới Telluride được bảo vệ tốt và Công ty Đường sắt phía nam Rio Grande đã thành lập một đường nhánh dẫn vào thị trấn để chở hành khách và các thiết bị cho khu mỏ và chở quặng đã tinh lọc qua vùng Continental pide để tới Denver.

Có người bảo khu mỏ đã bị nguyền rủa. Cái giá sinh mạng con người phải trả để có được năm mươi triệu đô la từ số vàng khai thác được trong thời gian hơn bốn mươi năm là quá cao. Tổng cộng có hai mươi tám thợ mỏ kiên cường đã chết trong những hầm mỏ tối tăm - mười bốn người trong một thảm họa duy nhất - và gần một trăm người bị thương tật suốt đời vì những tai nạn bất thường và những vụ sập hầm.

Trước khi những người ngày xưa tạo ra con đường và đến định cư tại Telluride chết, họ tuyên bố là họ có thể nghe tiếng rên rĩ của hồn ma một người thợ mỏ đã chết vang xa đến mười dặm trong những hầm mỏ bỏ trống chằng chịt như tổ ong trải dài gần mười ba ngàn bộ đến tận Colorado.

Cho đến năm 1931, tất cả số vàng có thể tạo lợi nhuận từ quặng mỏ đã cạn kiệt. Vì vậy mỏ Paradise ngưng hoạt động. Hơn sáu mươi lăm năm sau, nó chỉ còn là một ký ức và là một vết sẹo đã lành một cách chậm chạp trong toàn khu vực. Và mãi tới năm 1996, những đường hầm và hầm mỏ hoang phế của nó mới được nghe lại tiếng bước chân và tiếng cuốc chim lanh lảnh.

Ông Marquez đưa mắt nhìn lên những ngọn núi. Trận bão kéo dài bốn ngày đã đến rồi đi trong tuần lễ trước, tăng thêm bốn bộ trên lớp tuyết đã bao phủ những sườn núi. Hiện tượng nhiệt độ không khí tăng lên trong mùa xuân biến đổi tuyết thành một thứ bùn lỏng giống như bột khoai tây hầm nhừ. Đây là thời điểm khởi đầu mùa tuyết lở. Tại những vùng cao, việc di chuyển trở thành hành động liều lĩnh và những người trượt tuyết được cảnh báo chớ đi lang thang bên ngoài những đường băng đã được thành lập. Theo chỗ ông Marquez biết, chưa có vụ tuyết lở nào xâm phạm tới thị trấn Pandora. Ông an tâm khi biết gia đình vẫn bình yên, nhưng lại phớt lờ chuyện an nguy bản thân mỗi lần ông lái xe lên con đường dốc phủ tuyết trong mùa đông và làm việc một mình trong những hang sâu trong lòng núi. Cùng với những ngày ấm áp bắt đầu, một vụ tuyết lở là một sự kiện người ta chờ đợi sẽ xảy ra.

Ông Marquez đã một lần thấy cảnh tuyết lở trong những năm ông ở trên núi. Sức mạnh và vẻ đẹp thực sự lớn lao của nó chính là lúc nó quét sạch những tảng đá, cây cối và tuyết xuống thung lũng, cùng với những thứ đó là âm thanh ầm ĩ của sấm, là một thứ gì đó ông không bao giờ quên được.

Sau cùng, ông đội cái nón cứng lên đầu, ngồi vào sau tay lái của chiếc xe tải không mui Chevy và khởi động máy, để máy nổ khoảng hai phút chờ động cơ nóng lên. Rồi ông bắt đầu thận trọng lái xe lên con đường hẹp không có lề đường, dẫn tới khu mỏ đã có lần là nơi sản xuất dẫn đầu về số vàng của bang Colorado. Những vỏ bánh xe tạo những đường rãnh sâu trên lớp tuyết sau cơn bão vừa qua. Ông càng thận trọng lái khi con đường ngoằn ngoèo cao hơn về phía đỉnh núi. Tuyết lở thật nhanh dọc theo mép đường kéo dài vài trăm bộ đến chân núi. Một vụ tuyết lở không kiểm soát được và những nhân viên cứu hộ có thể sẽ tìm thấy thân thể ông Marquez dập nát vì những mảnh kim loại của chiếc xe tải trên đống đá lởm chởm nằm tít dưới kia.

Những người dân địa phương nghĩ ông đã điên khùng khi mua lại khu mỏ Paradise. Còn chút vàng nào đáng công khai thác thì cũng đã cạn sạch từ lâu. Và, ngoại trừ một chủ nhà hàng tại Telluride, không ai có thể mơ tưởng hành động đầu tư của ông Marquez đã đem lại sự giàu có cho ông. Lợi tức từ khu mỏ nói lên sự đầu tư khôn ngoan vào các bất động sản tại địa phương. Và với sự bùng nổ của khu nghỉ mát và trượt tuyết, ông đã kiếm được gần hai triệu đô la.

Ông Marquez không quan tâm đến vàng. Suốt mười năm, ông đã lang bạt khắp nơi để tìm kiếm đá quí. Tại các bang Montana, Nevada và Colorado, ông đã tìm kiếm những mỏ vàng và bạc bị bỏ phế để gom góp các tinh thể khoáng sản có thể cắt thành những viên đá quí. Trong đường hầm của khu mỏ Paradise, ông phát hiện một mạch tinh thể hồng ngọc tại những nơi mà các thợ mỏ xưa kia đã xem là loại đá không có giá trị. Thứ đá quí này đang trong tình trạng tự nhiên của nó, ông Marquez biết rõ điều đó, là một tinh thể đẹp mắt được tìm thấy tại nhiều nơi trên thế giới trong dạng màu hồng và đỏ sậm.

Loại đá quí này ít khi được thấy bị cắt hoặc mài thành nhiều mặt. Những tinh thể lớn được những nhà sưu tập rất ưa chuộng, và họ không muốn thấy chúng bị cắt thành từng mẫu nhỏ. Những viên đá sáng và tinh khiết được khai thác từ mỏ Paradise đã được cắt thành những viên ngọc không tì vết nặng đến mười tám ca ra đều có giá rất cao. Ông Marquez biết đã tới lúc ông có thể rút lui và dành quãng đời còn lại cho cuộc sống mẫu mực, nhưng chừng nào mạch máu còn tiếp tục chảy, ông quyết định vẫn góp nhặt những quặng đá quí từ loài đá granite cho đến lúc chúng cạn kiệt.

Ông đậu chiếc xe tải cũ với những thanh cản trầy trụa và móp mép, bước xuống xe, đến một cánh cửa sắt lớn rỉ sét có bốn sợi xích gắn liền với bốn ổ khóa khác nhau. Với những chìa khóa lớn cỡ lòng bàn tay, ông mở các ổ khóa và tháo những sợi dây xích. Rồi ông dùng cả hai bàn tay đẩy cánh cửa đồ sộ mở ra. Những tia sáng từ mặt trăng, tràn qua một khoảng trống ngắn, đổ xuống một hầm mỏ thoai thoải làm lộ ra hai đường ray nằm song song chạy sâu vào trong bóng tối.

Ông khởi động cái máy phát điện xách tay rồi kéo cái cần gạt trên hộp phát điện. Hầm mỏ bất chợt sáng lên dưới một dãy những bóng đèn, xuyên qua căn hầm đến cả trăm mét trước khi thu hẹp lại dần cho đến lúc chúng chỉ còn là một chùm sáng nhỏ. Một cái xe chở quặng nằm trên hai đường ray được buộc dính vào một sợi cáp dẫn tới một trục cuộn. Chiếc xe được lắp đặt để sử dụng lâu dài, chỉ có một dấu hiệu khó sử dụng đó là cái thùng chứa của nó đã rỉ sét nhiều.

Ông Marquez leo vào bên trong cái thùng chứa rồi bấm một cái nút trên bộ điều khiển từ xa. Cái trục cuộn bắt đầu kêu vo ve và nhả sợi cáp ra, cho phép chiếc xe chở quặng chạy xuống dưới sâu trên hai đường ray; nó chuyến động chỉ nhờ vào sức hút của trọng lực, không do một lực nào khác. Đi xuống lòng đất không phải là một công việc dành cho những ai nhát gan hoặc yếu tim, hoặc bị ám ảnh bởi nỗi sợ hãi nào đó. Căn hầm hạn chế, chỉ đủ chỗ trống cho chiếc xe chở quặng hoạt động. Những thanh xà rầm bằng gỗ và các thanh, chống gạn kết nhau giống như những khung cửa, được sắp đặt cách nhau vài feet để chống đỡ mái hầm tránh sụp lở. Nhiều thanh gỗ đã mục nát, nhưng những thanh khác vẫn còn chắc chắn và có âm thanh giống như ngày chúng được những người thợ mỏ đặt vào chỗ, và những thợ mỏ đó đều đã chết từ lâu. Chiếc xe đi xuống đường hầm dốc thoai thoải với một tốc độ nhanh, tới một nơi sâu đến một ngàn hai trăm bộ thì dừng lại. Ở độ cao này lúc nào cũng có nước chảy nhỏ giọt từ mái đường hầm xuống.

Lấy một cái túi đeo lưng và một cái xô, ông Marquez leo ra khỏi chiếc xe và đi vào một đường hầm khác rất dốc dẫn xuống những khoang rộng hơn phía dưới khu mỏ Paradise cho tới khi nó đạt tới độ sâu hai ngàn hai trăm bộ. Tại đây, lộ trình chính và nơi những đường hầm gặp nhau, mở rộng vào lớp đá granite trông như những nan hoa trên một bánh xe. Theo những ghi chép cũ và những bản đồ dưới lòng đất, hầu như có đến một trăm dặm đường hầm bên dưới và quanh thị trấn Pandora.

Ông Marquez thả một hòn đá xuống bóng tối tỏa rộng. Hai giây sau, một tiếng động do va chạm vọng lại.

Ngay sau khi khu mỏ đóng cửa và những cái bơm từ trạm bơm dưới chân núi được tháo ra, những độ cao bên dưới đều ngập nước. Theo thời gian, nước dâng cao tới mười lăm bộ tại độ cao một ngàn hai trăm bộ. Ông Marquez làm việc tại độ cao ướt át này. Mực nước dâng chậm, và không khí quá ẩm ướt cho ông biết chỉ còn vài tuần lễ nữa, mực nước sẽ dâng tới nóc căn hầm cũ này rồi bắt đầu tràn vào đường hầm chính và chấm dứt chương trình khai thác mỏ đá quí của ông.

Ông Marquez đổ hết tâm trí vào việc góp nhặt tối đa những viên đá trong thời gian ngắn còn lại dành cho ông. Những ngày của ông trở nên dài hơn trong lúc ông phấn đấu khai thác những tinh thể đó chỉ với cây cuốc chim của thợ mỏ và một cái xe cút- kít để chở quặng tới cái thùng chứa đặt trên chiếc xe chở quặng rồi dùng trục cuộn kéo nó lên và đưa tới tận lối vào mỏ.

Lúc vượt qua đường hầm, ông đi quanh những chiếc xe chở quặng rỉ sét và những máy khoan do các thợ mỏ bỏ lại khi họ rời khỏi khu mỏ. Không thấy có chuyện mang đi những thiết bị còn lại, vì những khu mỏ sát nhau này nối nhau đóng cửa trong cùng một thời gian. Vì vậy, người ta chỉ việc vứt bỏ tất cả những thứ đã dùng sang một bên rồi bỏ đi.

Vượt qua được khoảng bảy chục mét trong đường hầm, ông tới một khe nứt hẹp trên vách đá, vừa đủ chỗ cho ông lách qua. Cách chỗ đó gần hai chục bộ là nơi ông đang khai thác mỏ. Một bóng đèn đã đứt dây tóc còn lủng lẳng từ trên nóc khe hở được ông thay thế bằng một bóng đèn khác lấy từ cái túi đeo lưng. Rồi ông cầm cái cuốc chim lên và bắt đầu tấn công mạch quặng có đá quí. Trong trạng thái tự nhiên, những tinh thể đá có màu đỏ mờ đục, trông giống những trái dâu khô trên cái bánh xốp.

Một khối đá nằm lơ lửng ngay trên đỉnh khe nứt có vẻ rất nguy hiểm. Nếu muốn tiếp tục làm việc an toàn không bị đá rơi trúng, ông Marquez không còn lựa chọn nào khác ngoài việc phải tống khứ nó đi nơi khác. Dùng một cái máy khoan bằng khí nén xách tay, ông khoét một cái lỗ vào lớp đá. Sau đó ông chèn một lượng nhỏ thuốc nổ vào lỗ khoan, nối bằng dây dẫn điện tới một kíp nổ. Sau khi đi quanh góc khe nứt vào trong đường hầm chính để ẩn nấp, ông bấm nút kích hoạt kíp nổ. Một tiếng nổ trầm đục dội lại qua đường hầm, theo sau là tiếng đá rơi và một màn bụi cuốn vào đường hầm chính.

Ông Marquez đợi vài phút cho bụi lắng lại trước khi thận trọng đi vào khe nứt tự nhiên. Khối đá lơ lửng đã biến mất. Trên mặt sàn chật hẹp là một đống đất đá ngổn ngang. Ông sửa chữa lại cái trục cuộn và bắt đầu chuyển đống đố nát ra ngoài đường hầm chỉ cách đó một quãng. Khi khe nứt đã quang đãng, ông ngước nhìn lên để tin chắc không sự đe dọa nào còn sót lại.

Ông ngạc nhiên nhìn chăm chú vào một lỗ thủng bất chợt mới hiện ra trên mái khe nứt. Ông hướng chùm tia sáng trên cái nón bảo hộ của mình về phía lỗ thủng. Chùm ánh sáng tiếp tục lọt qua cái lỗ vào nơi có vẻ là một hang động. Thật đột ngột, bị thôi thúc vì tò mò, ông Marquez chạy trở lại đường hầm chính khoảng năm mươi mét, tại đây ông tìm thấy một cái thang sắt rỉ sét dài khoảng sáu bộ còn sót lại trong đám những thứ trang bị. Quay lại chỗ khe nứt, ông dựng cái thang và leo lên, rồi moi những viên đá từ mép lỗ thủng cho tới khi cái lỗ đủ rộng để ông chui qua. Ông chui nửa thân trên qua lỗ thủng rồi quay đầu từ vai này sang vai kia, quét chùm tia sáng từ cái nón bảo hộ trên đầu vào bóng tối trong hang.

Ông Marquez nhận ra mình đang quan sát một căn phòng được khoét sâu vào trong đá. Căn phòng có vẻ là một khối hình hộp, đáy vuông vức hoàn chỉnh, mỗi bề xấp xỉ mười lăm bộ, chiều cao từ sàn lên trần căn phòng cũng chừng đó. Những dấu hiệu được khắc sâu vào các vách đá thẳng đứng, trơn láng. Đây rõ ràng không phải là công việc của những thợ mỏ trong thế kỷ mười chín. Và, thật đột ngột, chùm tia sáng trên cái nón bảo hộ của ông chiếu lên một cái bệ bằng đá và soi sáng món đồ vật được cái bệ nâng đỡ.

Ông Marquez đông cứng vì sửng sốt trước hình ảnh khủng khiếp của một cái xương sọ màu đen, hai hốc mắt sâu hoắm, trống rỗng đang trừng trừng chiếu thẳng vào ông.

Viên phi công nghiêng cánh chiếc máy bay hai động cơ Beechcraft của hãng Hàng Không Hoa Kỳ quanh hai đám mây trắng nõn như bống và bắt đầu chuẩn bị đáp xuống đường bay ngắn trên một sườn dốc phía thượng nguồn sông San Miguel. Dù đã bay vào và ra phi trường nhỏ Telluride hàng trăm lần, nhưng anh ta vẫn hết sức tập trung lúc hạ cánh chiếc máy bay để không đáp nhầm chỗ trên rặng núi tuyết phủ San Juan. Vẻ đẹp sắc sảo của những ngọn núi và sườn núi, lởm chởm như răng cưa, bị tuyết phủ kín dưới bầu trời xanh ngắt sống động, làm người ta nghẹt thở.

Lúc chiếc máy bay xuống thấp hơn về phía thung lũng, những sườn núi, về cả hai mặt, trồi lên thật đường bệ. Chúng có vẻ gần đến nỗi hành khách có cảm giác như thể cánh máy bay chạm vào những cây phi lao mọc trên vách núi. Rồi những càng đáp hạ xuống, và một phút sau, các bánh xe ló ra và rít lên khi chúng chạm đường băng hẹp trải nhựa.

Chiếc Beechcraft chỉ chở mười chín hành khách, và họ nhanh chóng rời khỏi máy bay. Patricia O’Connell là người cuối cùng đặt chân lên nền đất. Tuân thủ lời khuyên của bạn bè đà từng bay đến thị trấn nghĩ dưỡng để trượt tuyết, cô đã yêu cầu được ngồi tại dãy ghế sau đuôi máy bay để có thể hứng thú ngắm nhìn cảnh đẹp mà không bị cản trở tầm mắt bởi một trong hai cánh máy bay.

Ở độ cao chín ngàn bộ, không khí trở nên loãng nhưng tinh khiết và mát mẻ đến độ khó tin. Patricia hít vào thật sâu khi cô đi từ máy bay đến tòa nhà đón đưa hành khách. Lúc cô bước qua cánh cửa, một người đàn ông - thấp, to bè, râu cằm cạo sạch sẽ, chỉ còn hàng ria mép màu nâu sẫm — đi thẳng tới chỗ cô.

“Tiến sĩ Patricia O’Connell?”

“Vui lòng gọi tôi là Pat”, cô trả lời. “Chắc ông là Tiến sĩ Thomas Ambrose”.

“Xin gọi tôi là Tom”, ông ta nói với một nụ cười ấm áp. “Chuyến bay từ Denver tốt đẹp chứ?”

“Rất tuyệt. Những ngọn núi có vẻ hơi hỗn độn, nhưng quang cảnh xinh đẹp dễ dàng bù lại bất kỳ sự thiếu tiện nghi nào”.

“Thị trấn Telluride là một địa phương đáng yêu”, ông ta nói với vẻ tiếc rẻ. “Nhiều lần tôi đã có ý định sẽ sống tại đây”.

“Tôi không tưởng tượng được là có nhiều khu khảo cổ để cho một người giàu kinh nghiệm như ông nghiên cứu”.

“Trên độ cao này không có đâu”, ông ta nói. “Những di tích đổ nát của người Da đỏ Indian nằm tại những cao độ thấp hơn nhiều”.

Tiến sĩ Thomas Ambrose có thể không hợp với khuôn mẫu một nhà nhân loại học lỗi lạc, nhưng ông ta là một trong những người được kính trọng nhất trong phạm trù này. Một giáo sư đã về hưu tại đại học Arizona State, là một nhà nghiên cứu có kỹ năng, rất quan tâm đến những phúc trình viết tay về những nghiên cứu của Tiến sĩ Ambrose. Lúc này, vào lứa tuổi gần năm mươi - Pat đoán ông ta trẻ hơn mười tuổi - ông ta có thể tự hào về ba mươi năm dành cho việc theo đuổi dấu vết những người cổ đại và nền văn hóa của họ trải rộng khắp miền Tây Nam Hoa Kỳ.

“Tiến sĩ Kidd tỏ ra rất bí ẩn trên điện thoại. Hầu như ông ta chẳng tiết lộ thông tin nào về chuyện phát hiện”.

“Và tôi cũng sẽ như thế”, Ambrose nói. “Tốt nhất là bà nên đích thân chờ xem”.

“Bằng cách nào ông dính vào việc phát hiện này?” Cô hỏi.

“Chỉ là do đúng nơi và đúng lúc. Trong khi tôi đang nghỉ ngơi và trượt tuyết với một cô bạn gái cũ thì nhận được một cú điện thoại từ một đồng nghiệp tại Đại học Colorado, yêu cầu tôi xem qua những cổ vật nhân tạo được một thợ mỏ tìm thấy. Sau khi khảo sát nhanh tại chỗ, tôi nhận ra những thứ đó vượt khỏi chuyên môn của mình”.

“Tôi không tin một chuyên gia tên tuổi như ông lại cảm thấy khó khăn trong chuyện này”.

“Thật không may, phạm trù chuyên môn của tôi không bao gồm Khoa nghiên cứu chữ chạm khắc. Và thế là bà phải tới đây. Người duy nhất tôi biết, với tư cách cá nhân, có chuyên môn đặc biệt trong việc giải mã những chữ chạm khắc cổ là Tiến sĩ Jerry Kidd tại Stanford. Không phải bất tài, nhưng ông ấy đã hết lòng đề nghị bà thế chỗ ông ấy”.

Ambrose quay lại khi những cánh cửa bên ngoài dẫn tới khu nhận hành lý mở ra và những nhân viên giao hành lý bắt đầu đưa những chiếc va ly lên đường băng dốc bằng kim loại. “Cái va ly lớn màu xanh lục là của tôi”, Pat nói với người đàn ông khuân vác. Anh ta nhấc lên vai cái va ly nặng năm mươi cân Anh chứa toàn những sách tham khảo.

Ambrose lẩm bẩm gì đó nhưng không nói gì khi nhận cái va ly nặng từ người phu khuân vác và đi về phía chiếc xe jeep hiệu Chero Kee của ông ta tại bãi đậu xe bên ngoài phòng hành khách. Pat có vẻ chần chừ trước khi vào chiếc xe để dành thì giờ ngắm những rừng thông và phi lao chạy dài xuống sườn núi Wilson và Sunshine xuyên qua thung lũng. Trong lúc Pat đứng và bị mê hoặc trước cảnh đẹp hùng vĩ, Ambrose nhân cơ hội đó ngắm nhìn cô.

Mái tóc Pat màu đỏ sáng và buông thõng xuống tận eo lưng. Đôi mắt cô màu xanh lục với nét tinh tế, sắc sảo. Cô đứng như một pho tượng được điêu khắc bởi một nghệ nhân tài hoa, trọng lượng thân thể dồn lên chân bên phải trong lúc đầu gối chân trái hơi xoay vào phía trong. Hai vai và cánh tay gợi cảm giác về một thân hình có nhiều cơ bắp săn chắc hơn phần đông các phụ nữ khác, chứng tỏ Pat đã dành nhiều giờ dài để luyện tập tại một phòng thể dục thẩm mỹ. Ambrose đoán cô phải cao tới năm feet tám inch và cân nặng cỡ một trăm ba mươi lăm cân Anh. Pat là một phụ nữ xinh đẹp, không sôi nổi và kích thích, nhưng ông ta tưởng tượng cô trông rất gợi cảm khi mặc những trang phục quyến rũ hơn những quần jean và áo khoác da này.

Tiến sĩ Kidd tuyên bố không có nhân vật nào tuyệt hơn Patricia O’Connell để giải mã những loại chữ viết cổ. Ông ta đã gởi fax về tiểu sử của cô, và Ambrose bị gây ấn tượng mạnh mẽ. Ba mươi lăm tuổi, với một bằng tiến sĩ về các ngôn ngữ cổ đại tại Đại học Pennsylvania. Pat đã viết ba cuốn sách rất được hâm mộ về những loại chữ viết cô đã giải mã trên đá được tìm thấy tại nhiều địa điểm khác nhau trên thế giới. Kết hôn với một luật sư rồi ly dị, cô lãnh phần nuôi dưỡng đứa con gái của họ, mười bốn tuổi. Là một người kiên định, cô chấp nhận lý thuyết cho rằng các nền văn hóa lan truyền từ nền văn hóa này đến nền văn hóa khác không phát sinh một cách lệ thuộc; cô cũng kiên trì tin rằng những người đi biển đã viếng thăm các bờ biển của châu Mỹ nhiều trăm năm trước Columbus.

“Tôi sẽ đưa bà đến một chỗ trọ tốt trong thị trấn”, Ambrose nói. “Nếu bà muốn, tôi sẽ đợi một giờ hoặc hơn để bà săn sóc bản thân”.

“Không, cám ơn ông”, Pat nói và mỉm cười. “Nếu ông không ngại, tôi thích đi thẳng tới nơi đó”.

Ambrose gật đầu, rút cái điện thoại cầm tay từ túi áo khoác ra và bấm số. “Tôi sẽ báo cho ông Luis marquez, chủ nhân khu mỏ và cũng là người đã phát hiện căn phòng đó, là chúng ta đang tới”.

Họ im lặng trong lúc lái xe qua trung tâm thị trấn Telluride. Pat đưa mắt nhìn lên sườn núi phủ tuyết của ngọn Mountain Village chạy dài về phía nam và trông thấy những người trượt tuyết đang lao xuống đường băng rất dốc dẫn xuống vành đai thị trấn. Họ đi qua những tòa nhà cổ được bảo quản suốt thế kỷ trước, được tu sửa và nay là các cửa hiệu bán lẻ thay vì là những quán rượu. Ambrose chỉ về phía một tòa nhà bên trái ông ta. “Đó là noi Butch Cassidy cướp ngân hàng đầu tiên của hắn”.

“Thị trấn Telluride chắc hẳn phải có một lịch sử rất phong phú*.

“Đúng vậy”, Ambrose trả lời. “Ngay trước mặt khách sạn Sheridan là nơi William Jennings Bryan đã phát biểu bài diễn thuyết “thánh giá vàng” nổi tiếng của ông ta. Và xa hơn về phía Thung lũng South Fork là nhà máy phát điện đầu tiên của thế giới để cung cấp luân phiên các dòng điện cho những khu mỏ. Những thiết bị của nhà máy được Nikola Tesla thiết kế”.

Ambrose tiếp tục lái xe qua Thị trấn Telluride lúc nào cũng bận rộn với sự xâm lược của những người trượt tuyết, rồi hướng về hẻm núi nơi có con đường có vỉa hè, kết thúc tại khu mỏ Pandora. Pat tò mò ngắm những vách đá dựng đứng bao quanh thị trấn mỏ cổ, tạo nên những thác nước Bridal Veil với dòng chảy từ lượng nước do tuyết tan, khởi đầu một mùa xuân ấm áp.

Họ đến một con đường nhánh dẫn tới nơi đổ nát của nhiều tòa nhà cũ. Một chiếc xe van và một xe jeep sơn màu ngọc lam đậu gần đó. Hai người đàn ông mặc những quần áo ướt đẫm và đang cởi lớp áo - mà theo Pat - là thứ trang bị dành cho thợ lặn. “Những thợ lặn thì có chuyện gì để làm tại nơi trung tâm những rặng núi của bang Colorado nhỉ?” Cô hỏi vu vơ.

“Tôi đã dừng lại và nói chuyện với họ hôm qua”, Ambrose trả lời. “Họ là những người của NUMA, Bộ phận Hàng hải và Hoạt động Dưới Nước của Quốc gia”.

“Từ biển tới đây quá xa, phải không?”.

“Tôi được họ báo cho biết là họ đang thám hiểm một hệ thống đường thủy cũ phức tạp đã có lần lấy nước từ sườn phía tây của rặng núi San Juan. Có một mê cung gồm những hang động lớn nối liền với những đường hầm trong khu mỏ cũ”.

Lúc con đường dẫn lên cao chừng nửa dặm, Ambrose đi qua một vỉa quặng khổng lồ bị bỏ hoang, tại đây một xe tải và một xe rơmoóc đậu bên bờ sông San Miguel, dưới miệng một hầm mỏ cũ bỏ hoang khác. Những căn lều đã được dựng lều quanh những chiếc xe, và họ có thể trông thấy nhiều đàn ông đang đi đạo quanh đó. Hai bên hông xe rơmoóc được sơn những chữ quảng cáo cho Tổ hợp Khoa học Địa lý Dưới Mặt Đất, có văn phòng đặt tại Phoenix, bang Arizona.

“Đó là một nhóm những nhà khoa học khác”, Ambrose giải thích, không cần được hỏi. “Một đội các nhà địa lý học địa chất, nghiên cứu khắp những hầm mỏ với những thiết bị hiệu quả để xâm nhập lòng đất nhằm phát hiện bất cứ mạch vàng nào bị những thợ mỏ trước kia bỏ sót”.

“Họ sẽ tìm thấy cái gì chứ?” Pat hỏi.

Ambrose nhún vai. “Tôi không tin. Những núi này đã bị đào bới kỹ lắm rồi”.

Một lúc sau, Ambrose đến trước một ngôi nhà nhỏ xinh xắn và đậu xe cạnh một xe tải nhỏ không mui. Ông Marquez và vợ, Lisa, được báo cho biết họ đã tới, bước ra chào đón họ và được Ambrose giới thiệu với Pat.

“Tôi ganh tị với ông bà đấy”, Pat nói. “Hai người sống trong một khung cảnh quá đẹp như thế này mà”.

“Tôi rất buồn nói rằng”, Lisa trả lời, “chỉ sau một năm cô sẽ không quan tâm tới nó nữa”.

“Tôi không nghĩ một ngày nào đó tôi sẽ dửng dưng với quang cảnh ở đây”.

“Tôi có thể mời hai vị uống cái gì nhĩ? Một tách cà phê hoặc một vại bia?”

“Không ạ”, Pat trả lời. “Tôi muốn xem phát hiện của ông Marquez càng sớm càng tốt”.

“Không thành vấn đề”, ông Marquez nói. “Chúng ta còn những năm tiếng đồng hồ trước khi mặt trời lặn. Quá đủ thời gian để cô đến xem căn phòng đó và trở về trước lúc sập tối”.

“Tôi sẽ chờ các vị về dùng bữa tối”, Lisa nói. “Tôi nghĩ các vị sẽ thích thú với món thịt nai nướng”.

“Nghe có vẻ tuyệt lắm”, Pat trầm trồ với cảm giác đói bụng.

Ông Marquez gật đầu về phía chiếc xe tải cũ. “Có lẽ chúng ta sẽ dễ dàng hơn nếu lên khu mỏ với chiếc xe jeep của ông, thưa tiến sĩ”.

Mười lăm phút sau, họ đã ngồi trong cái xe chở quặng bắt đầu đi xuống cửa hầm dẫn vào khu mỏ Paradise. Đây là một kinh nghiệm mới dành cho Pat. Cô chưa bao giờ đặt chân vào một hầm mỏ.

“Trong này ấm hơn nhiều”, ông Marquez nói, “nhiệt độ tăng lên năm độ mỗi khi ta xuống sâu hơn một trăm bộ. Tại những cao độ thấp hơn trong khi mỏ hiện đang ngập nước, nhiệt độ đã có lúc lên tới trên một trăm độ”.

Chiếc xe chở quặng đến một chỗ dừng. Ông Marquez bò ra và lục lọi trong một cái rương gỗ chứa dụng cụ. Ông trao cho Pat và Ambrose mỗi người một cái nón bảo hộ.

“Để phòng vệ đá rơi?” Pat hỏi.

Ông Marquez phì cười. “Hầu như để bảo vệ đầu cô khi va đụng những cột gỗ chống sụp hầm”.

Những bóng đèn sáng tù mù gắn trên những thanh xà rầm trên đầu, lúc họ đi qua đường hầm ẩm thấp với ông Marquez dẫn đầu. Khi một người nào đó trong nhóm nói, giọng nói dội vào những chỗ lõm trên các vách đá đường hầm. Hơn một lần, Pat vấp chân trên những thanh tà vẹt nối hai đường ray rỉ sét của chiếc xe chở quặng, nhưng cô giữ thăng bằng lại được. Cô đã không nhận ra, lúc thay đổi y phục sáng sớm hôm nay trước khi bay tới Telluride, cô đã khôn ngoan quyết định mang một đôi giày loại dùng để đi dã ngoại. Sau một lúc tưởng như một giờ nhưng thực ra chỉ mười phút, họ tới một khe nứt dẫn vào căn phòng, và theo sau ông Marquez đi qua cái hành lang hẹp.

Ông ta dừng lại chỗ cái thang rồi leo lên tới chỗ cái bóng đèn sáng lờ mờ gắn trên trần hầm trống. “Tôi đã kéo dây điện tới đây sau khi ông đến vào hôm qua. Những vách tường nhẵn thín hoạt động chẳng khác gì những gương phản xạ, vì vậy các vị sẽ không gặp trở ngại khi khảo sát những chữ khắc”. Rồi ông đứng sang một bên và giúp Pat leo lên thang.

Không được báo trước sẽ gặp điều gì nên Pat thực sự choáng váng. Cô có cảm giác giống như Howard Carter khi lần đầu tiên ông trông thấy ngôi mộ của Vua Tuts. Ngay lập tức, đôi mắt cô dán chặt vào cái sọ người màu đen, và cô cung kính đến gần cái bệ đặt nó, chăm chú nhìn bề mặt bóng loáng của nó lấp lánh dưới ánh sáng đèn.

“Nó đẹp sắc sảo lạ lùng”, cô thầm thì nói với giọng ngưỡng mộ trong lúc Ambrose vừa lọt vào căn phòng và đứng bên cạnh cô.

“Một tác phẩm bậc thầy”, ông ta nói, “được điêu khắc từ nham thạch”.

“Tôi đã thấy cái sọ người bằng đá của người Maya được tìm thấy ở Belize. Nhưng cái sọ này thú vị hơn nhiều. Cái kia quá thô nếu so sánh với nó. Họ bảo cái xương sọ Maya tỏa ra một vầng hào quang, và người ta nghe những âm thanh lạ từ vật đó phát ra”.

“Tôi chẳng có cảm giác gì lúc khảo sát nó”, Pat nói, và mỉm cười. “Nó chỉ ngồi im và trừng mắt nhìn”.

“Tôi không thể tưởng tượng sau bao nhiêu năm - hầu như bao nhiêu thế hệ, hoàn toàn không có những dụng cụ hiện đại - để đánh bóng một tác phẩm mỹ thuật như thế từ một khoáng sản rất dễ vỡ. Chỉ với một cái gõ nhẹ bằng búa, nó có thể bị vỡ vụn thành hàng ngàn mảnh”.

“Bề mặt của nó rất mịn, và nó không có một tì vết nào”, Pat nhẹ nhàng nói.

Ambrose quét một bàn tay quanh phòng. “Toàn bộ căn phòng này cũng thật lạ lùng. Những chữ viết trên các bức tường và trần phòng đòi hỏi ít nhất phải có năm người dành trọn cả đời để khắc chúng lên đá, chưa nói đến những nỗ lực phi thường được dùng để đánh bóng các mặt tường và trên trần. Chỉ căn phòng thôi cũng phải mất nhiều năm để đục và chuyển loại đá granit quá cứng ở đây đến nơi khác tại một độ sâu như nơi này. Tôi đã đo căn phòng. Bốn vách tường, trần và sàn phòng là một khối vuông vức hoàn hảo. Nếu các mặt bên trong không thẳng hàng và lệch đường dây dọi, thì sự chênh lệch đó cũng ít hơn một milimét. Giống như trong tiểu thuyết huyền bí cổ xưa, chúng ta cũng có một sự kiện đầy kịch tính diễn ra trong một căn phòng không có cửa và cửa sổ”.

“Vậy chỗ mở ra trên sàn phòng?” Pat hỏi.

“Được ông Luis Marquez khai thông trong thời gian tìm kiếm đá quí”, Ambrose trả lời.

“Vậy bằng cách nào họ đã tạo ra căn phòng này nếu không có cửa để ra vào?”

Ambrose chỉ lên trần.

“Gợi ý duy nhất tôi có thể tìm thấy là một vết nứt rất nhỏ quanh các mép trên trần. Tôi chỉ có thể thú nhận là bất cứ ai đã dựng nên căn phòng hình khối vuông vức này cũng đã đào từ trên cao xuống rồi sau đó khắc chữ lên đá”.

“Vì mục đích gì?”

Ambrose mỉm cười. “Đó là lý do tại sao bà có mặt tại đây để tìm ra câu trả lời”.

Pat lấy một sổ ghi chép, một cây cọ nhỏ và một kính phóng đại từ cái túi đeo ngang thắt lưng. Cô bước lại gần một bức tường, nhẹ nhàng quét sạch lớp bụi phủ trên vách đá qua nhiều thế kỷ, và chăm chú nhìn những chữ khắc qua cái kính lúp. Cô miệt mài khảo sát những chữ chạm khắc khá lâu trước khi ngước lên nhìn trần phòng. Rồi cô quay lại nhìn Ambrose, trên nét mặt không biểu lộ dấu hiệu gì. “Hình ảnh trên trần có vẻ là một bản đồ vị trí các ngôi sao. Những biểu tượng...”, cô ngần ngừ rồi dửng dưng nhìn Ambrose. “Đây chắc hẳn là một sự lừa đảo do những thợ mỏ đã đào đường hầm tạo ra”.

“Điều gì khiến bà nghĩ như vậy?” Ambrose hỏi.

“Những biểu tượng này không có dấu hiệu gì trông giống bất kỳ thứ chữ viết cổ nào tôi từng nghiên cứu”.

“Bà có thể giải mã ký hiệu nào trong những chữ viết này không?”

“Tất cả những gì tôi có thể nói với ông là ở đây không có chữ tượng hình hoặc những ký hiệu tốc ký diễn tả ngôn ngữ con người. Cũng chẳng có ký hiệu nào gợi ý ngôn ngữ hoặc âm tiết do lời nói thốt ra. Có vẻ như đây chỉ là những chứ cái”.

“Vậy thì chúng là một kết hợp những âm thanh đơn độc”, Ambrose gợi ý.

Pat gật đầu đồng ý. “Đây có thể là một loại mật mã viết tay hoặc một hệ thống chữ viết của một nền văn minh rất cao”.

Ambrose nhìn cô chăm chú. “Tại sao bà nghĩ tất cả những thứ này là một trò lừa đảo?”

“Những chữ viết không khớp với bất kỳ mô hình nào đã được con người biết tới và truyền lại qua lịch sử”, Pat nói với giọng bình tĩnh và đầy uy lực.

“Bà vừa nói đến một nền văn minh rất cao”.

Pat đưa cho Ambrose cái kính phóng đại. “Ông tự tìm hiểu xem. Những biểu tượng ở đây có vẻ đơn giản rất đáng lưu ý. Việc sử dụng những hình ảnh có tính hình học trong sự so sánh với những đường nét đơn độc là một hệ thống rất hiệu quả của sự thông tin bằng chữ viết. Điều đó giải thích tại sao tôi không thể tin bất kỳ cái gì ở đây đến từ một nền văn hóa cổ đại”.

“Có thể mã hóa các biểu tượng này không?”

“Tôi đã biết sau khi tôi sao chép chúng và xử lý qua phòng thí nghiệm vi tính tại đại học. Hầu hết những chữ viết cổ hầu như không rõ ràng và khác biệt như những thứ ở đây. Những biểu tượng có vẻ có một cấu trúc được xác định rõ mục đích. Vấn đề chính là chúng ta không có một địa điểm có chữ khắc tương ứng tại một nơi nào khác trên thế giới để hướng dẫn chúng ta hành động. Tôi đang giẫm chân trên một vũng nước xa lạ cho đến khi máy tính có thể tạo ra sự đột phá”.

“Các vị đang làm gì trên đó?” ông Marquez hỏi lớn từ kẽ nứt bên dưới.

“Đã xem tất cả”, Pat trả lời. “Trong thị trấn có cửa hàng văn phòng phẩm nào không?”

“Có hai cửa hàng”.

“Tốt. Tôi cần mua một ram giấy mờ đục để đồ lại những chữ viết này và một cuộn băng giấy...”. Cô chợt im lặng khi một tiếng động ì ầm từ đường hầm yếu ớt vọng lại, và sàn hầm vuông vức rung nhẹ dưới chân họ.

“Một vụ động đất?” Pat gọi xuống ông Marquez.

“Không”, ông ta trả lời qua lỗ trống. “Tôi đoán là một vụ tuyết lở ở đâu đó trên núi. Bà và tiến sĩ Ambrose cứ tiếp tục công việc của mình. Tôi sẽ chạy lên trên đó kiểm tra xem”.

Lại một chấn động nữa làm rung chuyển căn hầm với cường độ lớn hơn lần trước.

“Có lẽ chúng tôi nên đi với ông”, Pat nói với vẻ lo lắng.

“Những thanh gỗ chống đỡ trong đường hầm đã quá cũ và đa số đã mục”, ông Marquez cảnh báo. “Chuyển động quá mạnh của đá có thể làm gãy những thanh gỗ và làm sập hầm. Sẽ an toàn hơn nếu hai vị đợi ở đây”.

“Đừng đi lâu đấy”, Pat nói. “Tôi sợ bị nhốt ở đây lắm”.

“Tôi sẽ quay lại trong mười phút”, ông Marquez trấn an cô.

Ngay sau khi tiếng bước chân của ông Marquez lặng bặt từ căn hầm bên dưới, Pat quay sang Ambrose. “Ông đã không cho tôi biết sự đánh giá của ông về cái xương sọ. Ông nghĩ nó là một cổ vật hoặc vật mới được làm ra?”

Ambrose chăm chú nhìn cái hộp sọ, một tia nhìn mơ hồ hiện ra trong mắt ông ta. “Phải cần đến phòng thí nghiệm để xác định xem nó được điêu khắc và đánh bóng bằng tay hoặc bằng những dụng cụ hiện đại. Sự kiện duy nhất chúng ta biết chắc chắn là căn phòng này không được khai quật và tạo ra bởi các thợ mỏ. Phải có một giải thích nào đó về một dự án lớn như thế này chứ. Ông Marquez bảo đảm với tôi rằng những phúc trình về khu mỏ Paradise và những bản đồ đường hầm chẳng cho thấy đỉều gì cho biết có một đường hầm thẳng đứng dẫn xuống một căn phòng dưới lòng đất trong khu vực đặc biệt này. Vì vậy, chắc chắn nó phải được tạo ra trước năm 1850”.

“Hoặc trễ hơn nhiều”.

Ambrose nhún vai. “Tất cả những vụ khai thác mỏ đều chấm dứt trong năm 1931. Một chiến dịch khai thác quan trọng như khu mỏ này không thể kết thúc mà không gây chú ý từ lúc đó. Tôi rất không muốn đặt tiếng tăm của mình lên vụ này, nhưng tôi sẽ tuyên bố không chút ngần ngại rằng tôi thực sự tin căn phòng này và cái hộp sọ kia đã có trên một ngàn tuổi, có thể còn lâu hơn”.

“Có lẽ những người Indian có liên quan”, Pat tỏ ra kiên trì.

Ambrose lắc đầu. “Không thể. Nhưng những người Mỹ sơ khai đã xây dựng một số công trình kiến trúc phức tạp bằng đá, nhưng một công việc khó khăn có tầm vóc lớn như thế này thì vượt quá khả năng của họ. Và còn những chữ khắc dành cho bà nữa. Đó là một công việc hết sức khó khăn đối với những người không có một ngôn ngữ viết”.

“Chắc chắn đây là bằng chứng xác nhận về một trình độ vãn minh cực cao”, cô dịu dàng nói, mấy đầu ngón tay vuốt nhẹ lên những biểu tượng trên mặt đá granit.

Với Ambrose bên cạnh, Pat bắt đầu sao chép những ký hiệu bất thường vào một cuốn sổ ghi chép nhỏ cho đến khi cô có thể đếm tất cả là bốn mươi hai ký hiệu. Sau đó, cô đo chiều sâu của những chữ khắc và khoảng cách giữa những hàng với các ký hiệu. Càng quan sát những chữ khắc, cô càng thấy rối óc. Có một logic bí ẩn về những chữ viết mà chỉ có sự phiên dịch tỉ mỉ mới có thể giải quyết được. Cô đang bận bịu với việc chụp ảnh bằng flash những ký hiệu chữ viết và ngôi sao trên trần thì ông Marquez bò vào qua lỗ hổng trên sàn.

“Có vẻ như chúng ta phải ở đây một lúc”, ông ta thông báo.

“Một vụ tuyết lở đã lấp lối vào khu mỏ”.

“Ô, lạy Chúa”, Pat lắp bắp.

“Xin đừng quá lo lắng”, ông Marquez nói với một nụ cười gượng gạo. “Trước đây vợ tôi đã đi qua nơi này. Cô ấy sẽ rõ tình huống khó khăn của chúng ta và sẽ kêu gọi sự giúp đỡ. Một toán cứu hộ từ thị trấn sẽ sớm lên đường với những trang bị nặng để đưa chúng ta ra ngoài”.

“Chúng ta sẽ kẹt ở đây bao lâu?” Ambrose hỏi.

“Khó nói, nếu không biết khối tuyết lấp miệng hầm nhiều hay ít. Có thể chỉ vài giờ. Có thể phải mất một ngày. Nhưng họ sẽ làm việc cật lực cho tới khi dọn sạch tuyết. Ông có thể cá điều đó”.

Một cảm giác nhẹ nhõm xâm chiếm Pat. “Tốt, vậy thì chừng nào những bóng đèn còn hoạt động, tôi đề nghị tiến sĩ Ambrose và tôi dùng thời gian để ghi lại những chữ viết này”.

Những tiếng nói vừa rời khỏi môi Pat thì một chuỗi tiếng động khủng khiếp dội lại từ một nơi nào đó rất sâu phía dưới căn phòng. Kế đó là âm thanh răng rắc của những thanh gỗ chống bị gãy, và tiếp theo là những tiếng thình thịch của những tảng đá rơi dội lại từ đường hầm. Một luồng không khí hung dữ với những âm thanh gầm rú tràn qua đường hầm vào căn phòng đẩy cả bọn họ lăn xuống sàn.

Rồi tất cả những bóng đèn tắt ngấm.

Những âm thanh đỗ vỡ trong núi vọng tới chỗ họ như báo hiệu những bất trắc. Chúng lan khắp những đường hầm rồi yếu dần và sau cùng dứt hẳn, trong lúc từ những nơi tối tăm không thấy được, bụi bặm do vụ sụp đất đá khuấy động tràn qua đường hầm, qua khe nứt rồi lọt vào căn phòng qua lỗ trống như được dẫn dắt bởi một bàn tay vô hình. Tiếp theo là những tiếng ho sặc sụa do bụi lọt vào mũi và miệng; đất, cát nhanh chóng bám vào răng và lưỡi họ.

Ambrose là người đầu tiên thốt ra một câu mạch lạc. “Nhân danh Chúa, cái gì đã xảy ra thế này?”

“Hầm mỏ bị sập”, ông Marquez trả lời. “Mái đường hầm đổ xuống”.

“Pat!” Ambrose hét lớn, quờ quạng trong bóng tôi. “Bà bị thương phải không?”

“Không”, cô cố dằn lại giữa hai cơn ho, “tôi chỉ khó thở, nhưng không sao cả”.

Ông ta chạm được bàn tay Pat và giúp cô đứng lên. “Đây, bà hãy dùng khăn tay của tôi che mặt”.

Pat đứng im lặng cố lấy lại một hơi thở trong lành. “Tôi có cảm giác như thể quả đất nổ tung dưới chân”.

“Tại sao bỗng nhiên đá lại rơi?” Ông tiến sĩ hỏi ông Marquez dù không nhìn thấy ông này.

“Tôi cũng không biết, nhưng tôi nghe hình như có tiếng mìn nổ”.

“Không phải đây là dư hưởng của vụ tuyết lở làm sập hầm mỏ chứ?” Ambrose lại hỏi.

“Thề có Chúa, đúng là chất nổ”, ông Marquez nói: “Tôi biết rõ chuyện đó. Tôi đã dùng chất nổ trong nhiều năm đủ để nhận ra âm thanh. Tôi luôn luôn dùng chất nổ có dây dẫn cháy chậm để giảm tối đa hiện tượng nền đất bị rung chuyển mạnh. Có ai đó đã dùng chất nổ để phá sập một trong những đường hầm dưới căn phòng này, nếu phán đoán theo những gì vừa xảy ra”.

“Nhưng khu mỏ này đã bị bỏ hoang mà”.

“Đúng thế. Trừ vợ tôi và tôi, không ai khác đặt chân vào đây từ nhiều năm nay”.

“Nhưng bằng cách nào..”

“Không phải bằng cách nào, mà tại sao?” Ông Marquez chạm phải cẳng chân nhà nhân loại học lúc ông bò bốn chân để tìm cáỉ nón bảo hộ của mình.

“Ông bảo có kẻ nào đó đã dùng chất nổ với mục đích phá sập hầm mỏ à?” Pat hỏi, không giấu được sự bàng hoàng qua giọng nói.

“Chắc chắn tôi sẽ tìm ra nơi đó nếu chúng ta thoát khỏi nơi này”, ông Marquez đã tìm thấy cái nón, đội lên mái tóc phủ đầy bụi rồi bật sáng cái bóng đèn nhỏ trên nón. “Đấy, có vẻ khá hơn rồi”.

Chùm ánh sáng nhỏ chỉ làm căn hầm đủ sáng tù mù. Bụi còn chưa lắng xuống, tạo cho căn hầm như chìm trong một màn sương mù. Mọi người trông chẳng khác gì những pho tượng bị phủ bụi, mặt mũi quần áo họ trở nên xám xịt như màu đá granit.

“Tôi không quan tâm cái lối nói “nếu” của ông”.

“Tùy thuộc vào sự việc đường hầm bị sập ở mặt nào. Nếu nó nghiêng về phía trong mỏ, chúng ta sẽ thoát ra dễ dàng. Nhưng nếu mái đường hầm rơi xuống tại một nơi nào đó giữa khu này và đường hầm dẫn ra ngoài là chúng ta có vấn đề đấy. Để tôi đi xem thử”.

Trước khi Pat có thể nói thêm, ông thợ mỏ đã chui qua lỗ trống, và căn hầm lại trở nên hoàn toàn tối tăm. Ambrose và Pat đứng im lặng trong bóng tối, những cảm giác ban đầu về sự khủng khiếp và kinh hoàng đang thấm vào đầu óc họ. Không đầy năm phút sau thì ông Marquez quay lại. Họ không thể nhìn thấy gương mặt ông ta vì ánh sáng từ cái nón của ông này làm chói mắt họ, nhưng họ cảm nhận được ông ta vừa nhìn thấy và chạm phải sự chết chóc.

“Tôi e rằng mọi tin tức đều rất xấu”, ông Marquez chậm rãi nói. “Vụ tuyết lở chỉ xảy ra tại một khoảng cách ngắn dưới đường hầm về phía lò mỏ. Tôi phán đoán vụ tuyết lở chỉ xảy ra trong một chiều dài chừng ba chục mét hoặc hơn chút đỉnh. Phải mất nhiều ngày, có thể vài tuần để những người cứu họ dọn sạch những thứ đổ nát”.

Ambrose nhìn người thợ mỏ chăm chú, cố tìm một tia hy vọng. Khi chẳng thấy gì, ông ta nói, “Nhưng họ sẽ đưa chúng ta ra ngoài trước khi chúng ta chết đói chứ?”.

“Vấn đề của chúng ta không phải là chuyện chết đói”, ông Marquez nói, giọng ông không giấu được sự thất vọng sâu sắc. “Nước đang dâng lên trong đường hầm. Nó đã bị ngập đến ba bộ rồi”.

Pat nhìn thấy ống quần ông Marquez bị ướt đẫm tới đầu gối. “Vậy chúng ta bị nhốt trong cái địa ngục này không có đường ra?”

“Tôi không nói thế!” người thợ mỏ nhấn mạnh. “Có thể có một may mắn là nước sẽ đổ vào một đường hầm khác tại nơi những đường hầm gặp nhau trước khi nước tràn vào căn phòng này”.

“Nhưng ông không tin chắc chắn mà”, Ambrose nói.

“Chúng ta sẽ biết rõ trong vài giờ nữa”, ông Marquez thoái thác trả lời.

Gương mặt Pat trắng bệch và hơi thở trở nên chậm lại qua cặp môi đầy bụi. Cô trở nên bị vây phủ bởi cảm giác sợ hãi lạnh lẽo khi nghe những âm thanh đầu tiên của nước xoáy tròn bên ngoài căn hầm. Lúc đầu tiếng động không lớn, nhưng nó tăng lên nhanh chóng. Đôi mắt cô bắt gặp tia nhìn của Ambrose. Ông ta cũng không thể che giấu sự sợ hãi hiện rõ trên nét mặt.

“Tôi có cảm giác”, cô thì thầm, “như bị nhận nước”.

Những phút trôi qua như những năm, và hai giờ đồng hồ sau đó bò chậm như hàng thế kỷ trước khi nước dâng lên cho đến lúc nó trào lên qua lỗ trống chảy vào căn hầm và đọng lại quanh chân họ. Tê liệt vì khủng khiếp, Pat đứng dựa lưng và vai vào bức tường, cố gắng một cách vô ích như muốn làm chậm lại sự công phá khắc nghiệt của nước. Cô im lặng cầu mong có một phép lạ làm mực nước dừng lại trước khi nó bò lên quá vai họ.

Nỗi khủng khiếp sẽ chết trong lòng đất sâu hàng ngàn bộ, ngạt thở trong bóng tối phiền muộn, là một cơn ác mộng quá rùng rợn không thể chấp nhận. Cô nhớ đã đọc những mô tả về những thân thể của những người thợ lặn bị lạc trong các hang động ngập nước được tìm thấy với những ngón tay mất hết thịt, lòi xương vì họ đã cào cấu vào lớp đá cứng rắn để tìm đường thoát ra.

Hai người đàn ông đứng im lặng với tâm trạng u ám vì bị chôn vùi trong đơn độc. Ông Marquez không thể tin có một nhóm vô danh nào đó đã tìm cách giết họ. Không có lý do gì để gây ra hành động đó, cũng không có động cơ nào. Những ý nghĩ đen tối về sự đau khổ chẳng bao lâu nữa sẽ chụp xuống gia đình ông.

Pat nghĩ đến con gái và cảm nhận được ý nghĩa sâu sắc của sự cô độc, biết rằng cô sẽ không có mặt ở đó để nhìn thấy đứa con duy nhất của mình khôn lớn và trưởng thành. Thật không công bằng chút nào nếu cô phải chết ở dưới sâu, trong lòng đất tại căn hầm lạnh lẽo, ma quái này, sẽ không bao giờ thân xác cô được tìm thấy. Cô muốn khóc, nhưng nước mắt không chịu trào ra.

Mọi trao đổi bằng lời nói chấm dứt khi nước lên tới đầu gối họ. Nó tiếp tục dâng cao cho đến hông. Nước lạnh cóng và châm chích da thịt họ như hàng ngàn móng vuốt nhỏ. Pat bắt đầu rùng mình, hai hàm răng liên tục va đập nhau không sao kiểm soát được. Ambrose cảm nhận thân nhiệt của cô có dấu hiệu giảm xuống nên choàng hai cánh tay quanh người cô. Đó là một hành động đầy thiện chí và có suy nghĩ, và cô cảm thấy được an ủi. Cô nhìn trừng trừng trong cơn kinh hãi vào làn nước đen ngòm gớm ghiếc đang quay cuồng dưới chùm ánh sáng vàng ệch từ cây đèn của ông Marquez hắt ra, phản chiếu lại trên mặt nước lạnh lẽo tối tăm. Nhưng bất chợt Pat nghĩ cô đã nhìn thấy một thứ gì đó, rõ ràng nó hoạt động. “Tắt đèn đi”, cô nói khẽ với ông Marquez.

“Cái gì?”

“Tắt đèn đi. Tôi nghĩ có cái gì đó dưới nước”.

Hai người đàn ông tin rằng sự sợ hãi đã gây ra ảo giác nơi cô, nhưng ông Marquez vẫn gật đầu và tắt ngọn đèn trên cái nón bảo hộ. Ngay lập tức căn phòng chìm trong bóng tối ma quái.

“Bà nghĩ bà đã nhìn thấy gì?” Ambrose nhẹ nhàng hỏi.

“Một ánh sáng đỏ”, cô thều thào.

“Tôi chẳng thấy gì cả”, ông Marquez nói.

“Ông phải thấy chứ”, cô có vẻ kích động. “Một ánh sáng đỏ yếu ớt trong nước”.

Tiến sĩ Ambrose và ông Marquez nhìn chăm chú vào khối nước đang dâng lên nhưng chẳng thấy gì ngoài một màu đen mê muội. “Tôi đã thấy nó. Thề có Chúa, tôi đã thấy ánh sáng lóe lên trong lỗ hổng dưới hầm”.

Ambrose giữ cô chặt hơn. “Chỉ có chúng ta thôi”, ông ta nói yếu ớt. “Có ai khác đâu”.

“Kìa!” cô hổn hển. “Các ông không thấy sao?”

Ông Marquez úp mặt xuống dưới mặt nước và mở mắt ra. Và rồi, ông cũng thấy nó. Một ánh sáng đỏ yếu ớt từ hướng đường hầm chiếu lại. Lúc ông nín hơi chăm chú nhìn, nó bắt đầu sáng lên như thể nó đang tới gần ông hơn. Ông ngóc đầu lên khỏi mặt nước và hét lớn, giọng ông có pha lẫn sự khủng khiếp. “Có cái gì dưới đó. Con ma. Nó chỉ có thể là con ma người ta đã nói nó đi lang thang trong các hầm mỏ. Không một người nào có thể di chuyển qua một đường hầm ngập nước”.

Chút sức mạnh còn lại trong người họ chợt tan biến. Họ kinh hoàng nhìn xuống trong lúc thứ ánh sáng đó hình như trồi cao lên qua lỗ trống dẫn vào căn hầm. Ông Marquez lại bật sáng bóng đèn trên nón bảo hộ trong lúc họ đứng như đông cứng, đôi mắt trừng trừng nhìn con ma chập chờn trồi lên khỏi mặt nước, đội một cái nón trùm đầu màu đen.

Rồi một bàn tay từ dưới nước ló lên, tháo cái khóa điều chỉnh không khí rồi đẩy cái mặt nạ thợ lặn lên trán. Một cặp mắt màu xanh lục sinh động lóng lánh lộ ra dưới ánh sáng đèn của người thợ mỏ, trong lúc đôi môi mở rộng thành một nụ cười tươi tắn để lộ hai hàm răng trắng bóng.

“Có vẻ như”, một giọng nói thân mật thốt lên, “tôi đã đến đúng lúc”.

Pat không thể không tự hỏi liệu đầu óc cô, đã tê cóng vì sợ hãi và sự đau đớn thể xác vì thứ nước giá buốt, có lừa dối cô không. Tiến sĩ Ambrose và ông Marquez chỉ trơ mắt nhìn, không thể nói gì. Cơn sốc của họ dần dà được thay thế bởi một cảm giác tin tưởng đầy thuyết phục bất chợt xâm chiếm họ, và cùng lúc, họ hiểu kẻ xa lạ mới đến là gạch nối giữa họ và thế giới trên kia. Cơn sợ hãi lạnh buốt bỗng chốc tan biến, thay vào đó là niềm hy vọng đầy phấn khởi.

“Nhân danh Chúa, ông đến từ đâu thế?” ông Marquez phấn khích thốt lên.

“Từ khu mỏ Buccaneer bên cạnh”, người lạ trả lời, chiếu cây đèn lặn của anh lên các bức tường căn phòng trước khi hướng chùm ánh sáng lên cái hộp sọ bằng nham thạch. “Nơi này là gì thế, một lăng tẩm à?”

“Không”, Pat trả lời, “một nơi bí ẩn”.

“Tôi nhận ra ông”, Tiến sĩ Ambrose nói. “Chúng ta đã nói chuyện với nhau sáng sớm hôm nay. Ông là người của NUMA”.

“Tiến sĩ Ambrose phải không? Tôi muốn nói thật thích thú lại được gặp ông”. Người lạ nhìn ông thợ mỏ. “Chắc đây là ông Luis Marquez, chủ nhân khu mỏ. Tôi đã hứa với bà nhà sẽ trả ông về cho bà ấy đúng lúc ăn tối”. Rồi nhìn Pat, anh ngoác miệng cười ranh mãnh. “Và phu nhân lộng lẫy này là Tiến sĩ O’Connell phải không?”

“Ông biết tên tôi?”

“Bà Mary có nói về cô”, người thợ lặn chỉ nói đơn giản.

“Bằng cách ma quỉ nào ông đã đến đây thế?” Pat hỏi, vẫn còn bàng hoàng.

“Sau khi được ông Cảnh sát trưởng thị trấn báo lối vào khu mỏ của quí vị bị tuyết lở bao phủ, đội các kỹ sư NUMA của tôi quyết định tìm cách đến chỗ các vị qua một trong các đường hầm dẫn từ khu mỏ Buccaneer đến khu mỏ Paradise. Chúng tôi chỉ mới vượt qua vài trăm mét thì một tiếng nổ làm rung chuyển hòn núi. Khi thấy mực nước dâng lên trong các hầm và ngập cả hai khu mỏ, chúng tôi biết chỉ còn mộ