- 2 -
“Không, cảm ơn anh”, cô nói, mũi nhíu lại. “Bụng em hết chỗ chứa rồi”.
May mà những cái dĩa xem có vẻ lớn lại chứa một lượng thức ăn hợp lý và họ không có cảm giác no ứ khi dùng tráng miệng. Pitt gọi loại mận đỏ và trái mâm xôi nghiền nát. Sau đó, lúc dùng rượu Remy Martin, họ lại tiếp tục thảo luận.
“Chẳng có thứ gì anh thấy hoặc nghe được từ bọn Wolf tỏ ra có ý nghĩa”, Pitt nói. “Tại sao lại tích lũy một tài sản khổng lồ nếu chúng nghĩ đế quốc tài chánh của mình sẽ tiêu tan thành mây khói sau khi sao chổi va chạm?”
Loren xoay tròn thứ chất lỏng trong ly, nhìn bọt rượu màu vàng lấp lánh trước ánh sáng của những ngọn nến trên bàn. “Có lẽ họ đã nghĩ ra cách thoát khỏi thảm họa”.
“Anh có nghe điều đó từ cô ả Elsie Wolf và một trong những gã giết mướn của chúng tại Colorado”, Pitt nói. “Nhưng làm sao chúng có thể tránh được một thảm họa rộng khắp Trái Đất chứ?”
“Anh đọc hồ sơ số mười tám chưa?” Loren hỏi.
Pitt không trả lời ngay, anh lật những tờ giấy cho tới khi tìm thấy tập hồ sơ đánh số “18”. Anh mở nó ra và đọc. Sau hai ba phút gì đó, anh ngước lên và nhìn vào đôi mắt màu tím của Loren, “Cái này được thẩm tra rồi chứ?”
Cô gật đầu, “Kế hoạch này giống như truyền thuyết ông Noah và chiếc thuyền cứu nạn trong Kinh Thánh”.
“Bốn chiếc tàu khổng lồ”, Pitt nói thong thả. “Mỗi chiếc tàu, đúng hơn là một thành phố nổi với bề dài sáu ngàn bộ, rộng một ngàn năm trăm bộ, cao hai mươi tầng, với sức trọng tải lên tới ba triệu rưỡi tấn”. Anh nhìn lên, lông mày nhíu lại. “Một ý niệm kinh khủng, nhưng khó lòng thực hiện nổi”.
“Anh đọc nốt phần còn lại đi”, Loren nói. “Xem ra có vẻ tốt hơn”.
“Chiếc tàu vượt biển khổng lồ có một bệnh viện lớn, những trường học, những trung tâm giải trí, những công xưởng kỹ thuật cao cấp nhất. Một phi trường với đường băng dài trên boong cao nhất, với nhà chứa máy bay nhỏ cùng nhiều trực thăng, những khu sinh sống và những văn phòng làm việc. Tất cả những thứ đó để phục vụ năm ngàn khách và thủy thủ đoàn”. Pitt lắc đầu tỏ vẻ không tin., “Một chiếc tàu lớn cỡ đó có thể chứa ít nhất năm mươi ngàn người”.
“Thực sự thì có thể gấp đôi con số đó”.
“Để xem ba chiếc tàu kia như thế nào”. Pitt tiếp tục đọc. “Chúng cũng có những kích thước khủng khiếp như thế. Một chiếc dùng để chở hàng hóa và cung cấp những thứ cần cho đời sống. Với những cơ xưởng chế tạo đầy đủ máy móc và một lượng xe cộ vận chuyển, những vật liệu và máy móc cho việc xây dựng. Chiếc tàu thứ nhì sẽ là một sở thú thực sự...”.
“Thấy chưa”, Loren xen vào. “Đúng là một tàu cứu nạn?”
“Chiếc cuối cùng là một siêu thị với số lượng khổng lồ gồm xăng dầu, khí tự nhiên và những nhiên liệu khác”. Pitt xếp tập hồ sơ lại và nhìn Loren. “Dù sao, đây cũng chỉ là những thiết kế lý thuyết, nhưng anh tin không ai có thể thực hiện được, và Tập đoàn Vận Hội chắc chắn cũng không làm được”.
“Thân tàu được đóng từng phần rồi được kéo tới một xưởng đóng tàu của Tập đoàn Vận Hội trong một vịnh biệt lập nằm tại chóp phía nam Chi Lê. Tại đây, cấu trúc vỏ tàu và những ngăn bên trong thân tàu được hoàn thành. Sau đó, những thứ trang trí và đồ gia dụng được đưa lên tàu. Mọi hành khách và thủy thủ đoàn được cung cấp phương tiện sinh hoạt và thực phẩm đủ để họ duy trì cuộc sống trong hai mươi năm hoặc lâu hơn”.
“Không người ngoài nào được nhìn thấy những chiếc tàu đó? Không có bài viết nào của báo chí?”
“Anh hãy đọc phúc trình của CIA về xưởng đóng tàu”, Loren giải thích. “Khu vực đó được canh phòng và kiểm soát rất chặt chẽ bởi một toán an ninh được vũ trang. Không một người ngoài nào được phép vào ra. Những công nhân của xưởng đóng tàu và gia đình họ được dồn vào một khu riêng tại bờ vịnh và không được phép rời khỏi nơi đó. Vịnh này được bao bọc bởi rặng núi Andes với hàng trăm ngọn núi trong đất liền và hai bán đảo. Phương tiện duy nhất để ra vào vịnh là tàu bè hoặc máy bay”.
“Những điều tra của CIA xem ra chỉ có tính cách đại khái. Họ không chịu nghiên cứu sâu dự án của Tập đoàn Vận Hội”.
Loren uống cạn ngụm rượu cuối cùng. “Một nhân viên có nhiệm vụ thiết lập hồ sơ trong văn phòng của em cho biết CIA chưa bao giờ chỉ đạo cuộc điều tra nào ra trò vì họ cho rằng chẳng có dấu hiệu đe dọa nào đối với sự an ninh hoặc quyền lợi của Hoa Kỳ”.
Pitt nhìn ra xa khỏi những bức vách bằng kính của nhà hàng với dáng nghĩ ngợi. “Al Giordino và anh đã tới một vịnh của Chi Lê nhiều năm trước trong một vụ theo bám một đường dây không tặc do bọn khủng bố tổ chức. Bọn này giấu chiếc tàu gần một vùng băng trôi. Từ những gì anh còn nhớ về những hòn đảo và những đường đi lại của tàu bè về phía bắc eo biển Magellan thì không có con kênh nào rộng và sâu đủ cho những chiếc tàu to lớn như thế đi qua”.
“Có thể chúng không tính đến chuyện đi ra biển”, Loren gợi ý. “Có thể chúng chỉ cần những chiếc tàu đó nổi trên mặt nước khi xảy ra thảm họa được báo trước”.
“Có vẻ như vậy lắm”, Pitt nói, cố chấp nhận quan điểm của Loren. “Em phán đoán rất gần sự thật. Chắc chắn bọn Wolf đã tiêu tốn tiền tỉ cho vụ này”.
Anh bắt đầu trở nên trầm lặng và Loren dễ dàng nhận ra anh đang đắm mình trong suy nghĩ. Cô đứng lên và đi về phía phòng dành cho phụ nữ, để anh có thì giờ nghiền ngẫm những ý tưởng nảy ra trong đầu. Dù Pitt nhận thấy khó có thể chấp nhận sự việc nhưng anh đã bắt đầu thấy tại sao những thế hệ sau này của dòng họ Wolf được phối giống bằng cách tuyển chọn gen.
Những đảng viên Quốc xã cũ từng thống trị nước Đức đã chết từ lâu nhưng họ đã để lại một gia tộc gồm những người ưu tú sẽ đủ mạnh để sống sót sau thảm họa sắp đến, sau đó lợi dụng những gì còn lại từ một thế giới văn minh để tái lập một thế giới mới được kiểm soát và chỉ đạo dưới những tiêu chuẩn chính xác của sự ưu việt.
Những vách đá hoa cương màu xám của hẻm núi nhô lên như những cái bóng khổng lồ trước khi chúng bị hoen ố bởi bầu trời đêm. Phía dưới kia, khối băng màu xanh trắng của những tảng băng trôi lấp lánh dưới ánh sáng nhợt nhạt của mặt trăng chưa tròn lắm. Đỉnh núi Cerro Murallon cao mười một ngàn tám trăm bộ, tuyết phủ quanh năm sừng sững dưới bầu trời đầy sao và những đám mây lang thang - trên sườn dốc phía tây về phía nam dãy Andes trước khi đổ ra biển theo chiều dốc đứng, trong khi những đường nứt sâu của nó được phủ kín băng tuyết từ một quá khứ xa xăm. Đêm thật trong và sắc nét, bầu trời sáng vằng vặc. Dưới ánh sáng của dải Ngân hà, một chiếc xe nhỏ lao qua những vách của hẻm núi đầy đe dọa, như một con dơi bay qua một đường hầm để kiếm mồi.
Chiếc xe bay Moller M400 chẳng lớn hơn một chiếc jeep Chero Kee bao nhiêu, nhưng lúc bay, nó lại ổn định hơn một máy bay lớn hơn nó nhiều, và nó có thể đáp xuống những đường phố và đậu trong những ga ra của gia đình. Được thiết kế theo khí động lực học, mũi của nó có dáng một hình nón thoai thoải, tạo cho nó vừa giống chiếc xe hơi General Motors, vừa giống một tên lửa chiến đấu. Với hai chong chóng vừa nâng vừa đẩy, cho phép chiếc Moller bốc lên như một trực thăng và bay ngang như một máy bay qui ước, với vận tốc ba trăm dặm mỗi giờ và đạt độ cao tối đa, là ba chục ngàn feet. Dù một hoặc cả hai động cơ đều mất tác dụng, nó vẫn có thể đáp xuống an toàn và không gây khó chịu cho hành khách. Thậm chí ngay cả lúc bị rơi trong trường hợp bị tấn công thì chiếc dù đôi sẽ được triển khai để nó và những người bên trong nó xuống đất an toàn, không bị thương, không đau đớn.
Hệ thống bộ phận cảm biến và bảo đảm an toàn khi xảy ra sự cố, bảo vệ trước những sai sót trong lúc bay được điều khiển bằng máy vi tính. Bốn máy tính khác liên tục kiểm soát tất cả các hệ thống và duy trì việc tự động kiểm soát đường bay theo chỉ dẫn của những vệ tinh. Hệ thống định vị Địa cầu khi nó bay trên sông, núi và qua các thung lũng, hẻm núi với hệ thống hướng dẫn hiệu quả cao đã loại trừ được những tình thế khó khăn của một phi công.
Tầm nhìn của Pitt đối với quang cảnh bên ngoài kính chắn gió bị hạn chế. Anh hiếm khi nhìn ra ngoài cửa hai bên. Anh không quan tâm đến việc nhìn thấy bóng chiếc máy bay dưới ánh trăng yếu ớt, in hình trên những tảng đá bên dưới hoặc trượt qua những ngọn cây. Anh còn đặc biệt không quan tâm đến chuyện nhìn xem chiếc máy bay và bóng của nó hầu như chập lại làm một. Anh có thể quan sát đường bay qua địa hình thực sự, trong lúc thiết bị bay tự động điều khiển, máy bay theo đường bay được lập trình sẵn. Những sự cố bất thường lập tức được điều chỉnh bởi những van bên dưới các động cơ điều khiển bởi hệ thống ổn định tự động.
Pitt rất bực mình vì cứ phải ngồi khoanh tay trong lúc chiếc Moller bay qua hẻm núi trong hoàn cảnh nguy hiểm chết người mà hoàn toàn không nhờ đến sự trợ giúp của khối óc và hai bàn tay của con người. Anh không có lựa chọn nào khác ngoài việc đặt niềm tin của mình vào sự hướng dẫn của hệ thống máy điện toán và để chúng điều khiển việc bay. Nếu Giordino — đang ngồi bên anh - đã quá quan tâm đến những cái máy tính, lại thất bại trong việc giữ cho máy bay không đâm vào vách núi, thì Pitt cũng không đọc được dấu hiệu nào lộ ra trên gương mặt bạn mình. Giordino vẫn bình tĩnh đọc một cuốn tiểu thuyết phiêu lưu dưới ánh sáng trong phòng lái, trong lúc Pitt chuyển sự chú ý
của mình vào một tấm hải đồ về độ sâu dưới nước trong vịnh có xưởng đóng tàu của tập đoàn Wolf.
Không có kế hoạch bay ở những độ cao an toàn trên những đỉnh núi cao nhất. Đây là một nhiệm vụ lén lút. Máy bay của họ được vệ tinh hướng dẫn bay tới mục tiêu, vừa tránh sự phát hiện bằng rada và tia laser của địch.
Thân thể hai người ướt đẫm mồ hôi trong bộ áo liền quần DUI CF200 và lớp quần áo lót đặc biệt để ngăn bức xạ và nhiệt, nhưng không ai trong hai người than phiền điều đó. Họ đã mặc những quần áo chống nước lạnh này trước khi bay với mục đích tiết kiệm thời gian thay đổi quần áo sau khi hạ cánh.
Pitt nhấn một nút báo hiệu và đọc con số hiện ra. “Hai trăm mười hai dặm từ lúc chúng ta cất cánh khỏi chiếc tàu tại Punta Entrada ngoài khơi Santa Cruz”.
“Còn xa không?” Giordino hỏi, vẫn không rời mắt khỏi những trang giấy của cuốn tiểu thuyết.
“Còn gần năm mươi dặm. Trong mười lăm phút nữa, chúng ta sẽ tới những ngọn đồi bên trên xưởng đóng tàu của bọn Wolf”. Địa điểm hạ cánh chính xác đã được lập trình sẵn vào máy vi tính theo một tấm không ảnh do một vệ tinh dọ thám chụp được”.
“Đủ thì giờ đọc hết một chương nữa”.
“Có gì hấp dẫn đến nỗi cậu không rời mắt khỏi cuốn truyện thế?”
“Tôi đang đọc tới đoạn anh chàng sắp cứu được cô nàng vào những giây cuối, khi những tên khủng bố khốn kiếp muốn cưỡng bức cô nàng”.
“Tôi đã đọc cuốn truyện này”, Pitt nói, vẻ hời hợt. Anh lại chú tâm vào việc quan sát địa hình thực sự phía trước mặt qua cặp kính hồng ngoại dùng để nhìn xuyên màn đêm, gắn trên mũi chiếc M400, giống như trong trò chơi bắn mục tiêu bằng máy bắn đạn. Họ đang đến gần bãi đáp trên núi và vừa bay qua một vách đá tối tăm. Mặt đồng hồ báo hiệu hiện ra những chữ số màu đỏ và cam cho thấy vận tốc, độ cao, nhiên liệu và khoảng cách tới điểm hạ cánh. Pitt chợt nhớ lại việc anh ta đã sử dụng một hệ thống tương tự trên chiếc máy bay họ dùng để săn đuổi bọn cướp chiếc tàu du lịch trong những vịnh của Chi Lê cách nơi này không hơn một trăm dặm về phía nam.
Pitt nhìn xuống những khối băng trôi phía dưới kia. Anh thở ra nhẹ nhõm khi trông thấy những vách núi cuối cùng đã lùi về phía sau. Những tia sáng từ mặt trăng phản chiếu trên một tảng bằng phẳng và mịn có những khe nứt bất thường len lỏi trên bề mặt của nó cách đều nhau khoảng nửa dặm. Khối băng trải rộng hơn, như thể nó muốn vươn tới điểm hẹn của nó là vịnh nước trước khi tan chảy và biến mất vào biển cả.
Lúc này họ đã vượt qua nơi hiểm trở nhất của dãy núi và Pitt đã có thể nhận ra những chùm ánh sáng trên đường chân trời phía xa. Anh biết đó không phải là những ngôi sao vì chúng chụm lại với nhau và lấp lánh tại một độ cao quá thấp. Anh cũng biết điều đó vì bầu khí quyển đậm đặc làm cho ánh sáng có vẻ rất xa so với vị trí thật của chúng. Sau đó, rất chậm chạp hầu như không thể nhận ra, anh vẫn cảm biết được những chùm ánh sáng khác nổi lên giữa màn đêm. Năm phút sau, hoàn toàn không nhầm lẫn, Pitt nhìn thấy ánh sáng rực rỡ từ những chiếc tàu quái dị, khổng lồ, trông như những thành phố nhỏ trong bầu trời đêm.
“Đối tượng của chúng ta kia rồi”, anh thản nhiên nói, không lộ ra chút cảm xúc nào.
“Mẹ kiếp!” Giordino lẩm bẩm. “Đúng lúc tôi đọc tới chỗ hấp dẫn nhất”. '
“Thư giãn đi. Cậu còn những mười phút nữa để đọc xong đoạn đó mà. Hơn nữa, tôi còn biết câu chuyện kết thúc như thế nào”.
Giordino nhìn lên, “Cậu biết?”
Pitt nghiêm chỉnh gật đầu, “Tên người hầu giữ hầm rượu đã làm chuyện đó”.
Giordino ném cho Pitt một ánh mắt đầy đe dọa rồi quay lại với cuốn sách của mình.
Chiếc Moller M400 không bay thẳng bên trên vùng ánh sáng của xưởng đóng tàu và những chiếc tàu đồ sộ nằm trong vịnh. Thay vì thế, như thể nó có một bộ óc riêng của mình - như nó đã chứng tỏ điều đó - nó đảo một vòng về hướng tây nam. Pitt chẳng thể làm gì hơn ngoài việc nhìn những ánh sáng lấp lánh hiện ra bên hông máy bay.
“Chấm dứt!” Giordino thở phào. “Cậu chỉ giỏi phịa, gã hầu giữ hầm rượu đâu có giết đến mười ngàn người, đó là một nhà khoa học nửa khùng nửa điên”. Anh ta nhìn ra ngoài, nơi có hàng ngàn chùm ánh sáng. “Liệu hệ thống báo động của chúng có phát hiện chúng ta không?”
“Dễ gì. Chiếc Moller M400 nhỏ là thế, trừ rađa rất tinh vi của quân đội, không phương tiện nào khác có thể phát hiện nó”.
“Hy vọng cậu nói đúng”, Giordino nói vẻ căng thẳng. “Tôi rất khiêm tốn khi được các ủy ban đón tiếp”.
Pitt chiếu cây đèn bấm nhỏ như một cây bút lên tấm bản đồ của anh. “Tại điểm này, máy điện toán cho chúng ta sự lựa chọn giữa việc lặn dưới nước suốt hai dặm hoặc đi bộ bốn dặm qua một khối băng để tới xưởng đóng tàu”
“Đi bộ qua một khối băng trôi trong đêm tôi nghe chẳng khoái chút nào”. Giordino nói. “Chuyện gì sẽ xảy ra nếu gã nhóc con của Bà Giordino rơi xuống một khe nứt và đến một ngàn năm sau vẫn chưa được tìm thấy?”
“Tôi không sao hình dung được cảnh cậu nằm trong cái hòm kính trưng bày tại một nhà bảo tàng và có hàng ngàn người luôn chiêm ngưỡng cậu”.
“Tôi chẳng thấy có gì lạ lùng nếu tôi là một ngôi sao cuốn hút thiên hạ vào một lúc nào đó trong tương lai,” Giordino nói, làm bộ cao ngạo.
“Có bao giờ xảy ra cảnh người ta chiêm ngưỡng cậu nằm trần truồng không nhỉ? Cậu mà trở thành một người mẫu trong thế kỷ hai mươi mốt này mới là chuyện lạ”.
“Tôi sẽ chứng tỏ cho cậu thấy tôi có thể là một trong những người mẫu bảnh nhất”.
Câu chuyện vớ vẩn của họ chấm dứt lúc chiếc Moller chuyển về vận tốc hạ cánh và nó bắt đầu xuống thấp. Pitt quyết định họ sẽ lặn dưới nước và anh lập trình máy điện toán, ra lệnh cho máy bay đáp xuống tại một khu vực đã định sẵn gần bờ biển được CIA chọn theo sự phân tích những tấm không ảnh do vệ tinh cung cấp. Mấy phút sau, hệ thông van dẫn của những động cơ chiếc M400 tống lực đẩy của chúng qua những ống thoát và chiếc máy bay hoàn toàn dừng lại. Nó đứng yên một chỗ trên không trong tư thế sẵn sàng đáp xuống. Những gì Pitt có thể thấy trong bóng đêm là họ đang ở trên một hẻm núi hẹp, cách mặt đất khoảng ba chục bộ. Sau đó, chiếc Moller hạ thấp xuống và nhẹ nhàng chạm mặt đất đầy những tảng đá cứng. Mấy giây sau, các động cơ ngừng hẳn và mọi hệ thống chấm dứt hoạt động. Tại trung tâm theo dõi, tín hiệu báo cho Đô đốc Sandecker biết họ đáp xuống an toàn và cách điểm lập trình chỉ bốn inch.
“Chưa bao giờ trong đời, tôi cảm thấy mình vô dụng như lần này,” Pitt nói.
“Người ta hay có khuynh hướng cảm thấy mình là kẻ thừa thải mà,” Giordino nói thêm lúc anh ta nhìn qua cửa hông máy bay. “Chúng ta đang ở đâu?”.
“Trong một hẻm núi cách vịnh khoảng năm chục mét”.
Pitt mở chốt mái vòm chiếc xe bay, nâng nó lên và bước ra ngoài trên nền đất cứng. Đêm không yên tĩnh chút nào. Những tiếng động của máy móc làm việc từ xưởng đóng tàu vọng tới thật rõ trên mặt nước. Anh mở bộ phận chứa hàng phía sau, đưa bộ đồ lặn cho Giordino gồm dụng cụ làm thăng bằng và bình dưỡng khí, đai lưng, chân vịt và sau cùng là mặt nạ lặn. Cả hai mang ủng và đội nón trùm đầu. Sau đó, đeo dụng cụ thăng bằng và bình dưỡng khí kép cho nhau. Trước ngực là một cái túi chứa súng lục, đèn bấm, và Pitt còn mang thêm cái máy truyền tin Globalstar cực nhạy. Vật cuối cùng họ lấy từ chiếc M400 là hai ống phóng ngư lôi vận hành bằng pin dành cho thợ lặn trông như những tên lửa nhỏ. Vận tốc tối đa của chúng dưới nước là bốn dặm rưỡi mỗi giờ và thời gian lao tới là một giờ.
Pitt còn mang theo một máy vi tính định hướng nhỏ, tương tự như loại anh đã dùng trong khu mỏ Pandora tại Colorado trên cánh tay trái và nối mạch của nó với những vệ tinh hướng dẫn. Sau đó anh đặt mã số cho máy vi tính dịch các dữ liệu lên màn hình kiểm soát cho biết vị trí chính xác của họ đối với xưởng đóng tàu và con kênh dẫn vào vịnh.
Giordino điều chỉnh một đèn chiếu quang phổ trên mặt nạ lặn của anh rồi bật công tắc. Quang cảnh đột ngột hiện ra trước mắt, hơi mờ nhưng đủ để nhận thấy những hòn sỏi nhỏ đường kính nửa inch trên mặt đất. Giordino quay sang Pitt.
“Tới giờ chưa?”
Pitt gật đầu. “Vì cậu có thể nhìn thấy lối đi của chúng ta trên mặt đất nên cậu đi trước, tôi sẽ bắt kịp lúc chúng ta tới mép nước”.
Giordino chỉ gật nhẹ đầu, không nói gì. Cho tới lúc họ đã an toàn xâm nhập mạng lưới an ninh quanh xưởng đóng tàu, cũng chẳng có gì phải trao đổi với nhau. Pitt không cần phải có quyền năng thần giao cách cảm để hiểu điều gì đang diễn ra trong đầu Giordino. Chắc chắn lúc này anh chàng người Ý cũng có cùng cảm giác như Pitt thôi.
Họ đang cách xa văn phòng Đô đốc Sandecker tại Tổng hành dinh NUMA sáu ngàn dặm và hai mươi bốn giờ bay, và đang trên đường xâm nhập vào một mưu đồ khủng khiếp phát sinh từ một nhóm những kẻ điên rồ.
“Có chuyện không hay rồi,” ông Đô đốc nói với vẻ nghiêm trọng. “Tiến sĩ O’Connell mất tích”.
“Tôi tưởng cô ấy đang được các nhân viên an ninh không rời mắt suốt ngày đêm chứ”. Pitt nói, vừa nhìn ông Ken Helm.
“Mọi người đều biết bà ấy lái xe đưa con gái đi ăn kem. Trong lúc những nhân viên bảo vệ ngồi đợi trong xe của họ, Tiến sĩ O’Connell và con gái đi vào hiệu kem và không trở ra nữa. Không thể chỉ trong một thời gian ngắn không chuẩn bị trước mà bọn bắt cóc lại biết được hành động của bà O’Connell”.
“Lại bọn Wolf rồi”. Pitt đấm nắm tay xuống mặt bàn. “Tại sao chúng ta cứ đánh giá thấp bọn chúng chứ?”
“Tôi nghĩ thậm chí cậu còn thất vọng hơn khi nghe phần còn lại của sự việc”, ông Sandecker nói với vẻ ảm đạm.
Pitt nhìn ông già, trên mặt anh lộ vẻ lo lắng. “Để tôi đoán xem. Elsie Wolf không đi qua cửa trước dưỡng đường với cái xác cô chị họ Heidi trên vai chứ?”
Ông Sandecker nguệch ngoạc một dấu hiệu không rõ ràng trên mặt bàn họp bóng loáng. “Hãy tin tôi, cô ta đâu có phải là một nhà ảo thuật”, ông Ken Helm, nhân viên FBI nói. “Dưỡng đường đó được trang bị những phương tiện an ninh với kỹ thuật hiện đại nhất”.
“Các camera quan sát của ông không phát hiện việc cô ta bỏ trốn à?” Pitt có vẻ cáu. “Rõ ràng Elsie không đi qua cửa trước với cái xác chị họ trên vai cô ta”.
Ông Helm chỉ hất nhẹ đầu. “Mọi camera đều hoạt động và những thiết bị kiểm soát làm việc không hề gián đoạn. Tôi rất tiếc, không, rất xấu hổ phải nói rằng chúng tôi không phát hiện ra một dấu vết nào về chuyện cô ta trốn thoát”.
“Đám này phải có khả năng lách qua mọi kẽ hở”, Giordino nói, anh ta ngồi cuối bàn, đối diện với ông Đô đốc. “Hoặc chúng đã chế tạo được loại thuốc uống để trở thành vô hình”.
“Chúng cóc có gì cả”, Pitt nói. “Chúng thông minh hơn chúng ta”.
“Tất cả những gì chúng tôi có thể suy đoán”, ông Helm thú nhận, “là một máy bay phản lực hành động của Tập đoàn Vận Hội đã cất cánh từ một phi trường gần Baltimore và hướng về...”
“Argentina”, Pitt kết thúc câu nói của ông Helm.
“Còn nơi nào khác hơn chứ?” Giordino góp thêm. “Đừng nghĩ chúng giữ cô ả tại Hoa Kỳ là nơi chúng có rất ít hoặc hoàn toàn chẳng có cơ hội trốn khỏi những cơ quan điều tra của chính phủ”.
Ông Ron Little của CIA hắng giọng. “Câu hỏi là tại sao? Đã có lúc chúng ta buộc phải tin là chúng muốn trừ khử ông Pitt, ông Giordino và Tiến sĩ O'Connell, vì họ đã phát hiện căn hầm tại Colorado và những chữ khắc ở đó. Nhưng bây giờ, có quá nhiều người biết về những thông điệp do những người cổ đại để lại. Vì vậy, nỗ lực cố giữ bí mật trở nên vô ích”.
“Câu trả lời thực tế duy nhất là chúng cần đến khả năng chuyên môn của bà tiến sĩ”, ông Helm gợi ý.
“Lúc tôi hỏi Elsie Wolf là người Amenes đã xây dựng bao nhiêu căn hầm, cô ta bảo có sáu căn hầm tất cả”, Pitt nói. “Chúng ta tìm được hai, và chúng tìm được một. Về những căn hầm khác, hai bị phá hủy vì những nguyên nhân tự nhiên. Chỉ còn lại một chưa được phát hiện, và cô ta bảo nó nằm tại đâu đó trong dãy núi Andes của Peru, nhưng không xác định hướng nào. Tôi dám cá là bất chấp tất cả mọi chuyên gia phần mềm máy vi tính của chúng, chúng cũng không thể tìm ra mã số cho phép chúng tìm ra căn hầm còn lại”.
“Vì vậy chúng đã tìm mọi cách cứu Elsie, hy vọng cô ta sẽ khám phá mã số đó”, ông Sandecker nói.
“Ngài nói có lý”, ông Helm chậm rãi nói.
Giordino chồm qua bàn, “Dù chỉ biết Pat trong một thời gian ngắn, tôi vẫn tin chắc chắn cô ấy sẽ không hợp tác với chúng”
Ông Little cười nhẹ. “Nhưng chúng có cả cô con gái mười bốn tuổi của tiến sĩ O’Connell. Tất cả những gì bọn Wolf phải làm là đe dọa làm hại cô bé”.
“Bà ấy sẽ phải hợp tác thôi”, ông Helm nói, giọng trầm trọng. “Bà ấy không còn lựa chọn nào khác”.
“Vì vậy, chúng ta phải giải thoát mẹ con cô ấy”, Pitt nói.
Ông Little nhìn anh với vẻ ngờ vực. “Chúng ta đâu biết chính xác nơi chúng giam giữ bà ấy”.
“Trong xưởng đóng tàu của chúng tại Chi Lê. Bọn Wolf rất cuồng tín về vụ một ngày đen tối sắp xảy ra, và tôi chắc chắn chúng đã họp mặt trên những chiếc tàu để chuẩn bị cho vụ đại hồng thủy”.
“Tôi có thể cung cấp cho quí ông những tấm không ảnh về những chiếc tàu của chúng chụp từ vệ tinh”, ông Little nói. “Nhưng tôi phải báo cho quí ông biết, những nhà phân tích của chúng tôi tin hệ thống an ninh của chúng không cho phép bất kỳ kẻ lạ nào tiếp cận những chiếc tàu đó, dù bằng đường bộ, đường biển hoặc trên không”.
“Nếu vậy, chúng tôi sẽ xâm nhập bằng con đường lặn dưới nước”.
“Chúng tôi sẽ có cách”.
“Tôi không đồng ý giải pháp này”, ông Sandecker điềm tĩnh nói. “Đó là một công việc vượt quá khả năng của NUMA. Đây là việc của Lực lượng Hành động Đặc biệt hoặc của Thủy quân Lục chiến”.
“Tìm và giải cứu Pat O’Connell và con gái cô ấy chỉ là một phần kế họach của chúng ta”, Pitt giải thích. “Không ai tốt hơn Al và tôi trong việc điều tra dự án đóng tàu khổng lồ của Tập đoàn Vận hội. Gần một năm trước, chúng tôi thực hiện một vụ tìm kiếm bí mật về một chiếc tàu trước kia của Hoa Kỳ, và chúng tôi phải lặn trong một xưởng đóng tàu tại Hồng Kông. Trong trường hợp này, chúng ta phải đối phó với một dự án điên rồ tốn hằng tỉ đô la của dòng họ Wolf để đóng những chiếc tàu không thể ra biển”.
“FBI không thể giúp gì quí ông trong vụ này”, ông Helm nói. “Cả một nửa thế giới nằm ngoài lãnh thổ của chúng ta”.
Ông Little mở rồi nắm bàn tay nhiều lần, vẻ căng thẳng. “Ngoài việc cung cấp thông tin, tôi e rằng chúng tôi cũng bó tay thôi”.
Pitt nhìn ông Sandecker và mỉm cười. “Có vẻ như chúng tôi đã thắng cử”.
Ông Đô đốc không cười đáp trả. “Cậu tin chắc phải xâm nhập ngay vào vùng cấm địa của dòng họ Wolf à?”
“Tôi tin như thế”, Pitt nghiêm chỉnh trả lời. “Tôi còn tin - nhưng tôi không thể nói tại sao - là còn có một mục đích khác thâm độc hơn nằm đằng sau những hành động của bọn chúng. Một mục đích với những hậu quả thật khủng khiếp”.
Hẻm núi hẹp quanh co khoảng một trăm mét trước khi mở rộng ra vùng nước của vịnh. Bờ biển phía tây thoai thoải dốc dẫn lên một bán đảo mang cái tên lạ lùng là Miệng Cũ. Bờ vịnh phía đông bị cắt ngang bởi những kênh đào bằng cách phá những tảng băng trôi. Những bóng đèn sáng trưng từ xưởng đóng tàu và trên bốn thành phố nổi của gia tộc Wolf phản chiếu qua mặt nước trên phần cuối vịnh về phía bắc.
Giordino dừng lại và ra hiệu cho Pitt đứng im trong bóng tối của một tảng đá lớn. Hai chiếc xuồng tuần tiễu đang chạy song song tại những bờ đối diện của con kênh đào trên mặt nước đen đúa, quét đèn qua lại trên bờ và trên mặt kênh. Giordino quan sát đội tuần tra qua máy cảm biến bằng tia hồng ngoại của anh, nó có tác dụng biến bóng tối thành ánh sáng mờ. “Cậu là chuyên gia về tàu bè”, Pitt nói. “Cậu có thể phân biệt chúng chứ?”
“Đó là loại xuồng ba mươi tám bộ của Công ty Dvichak”, Giordino trả lời dễ dàng. “Thường được đóng với mục đích giải quyết chuyện tràn dầu. Nhưng trong trường hợp này, chúng lại được trang bị súng ống. Đúng là một loại xuồng vững chải, mạnh và đáng tin cậy. Không nhanh, chỉ khoảng mười tám nút, nhưng động cơ ba trăm mã lực cho phép chúng có thể đẩy hoặc kéo những tàu chở hàng lớn. Được dùng vào công việc tuần tra và chiến đấu là đúng sở trường của chúng”.
“Cậu nhận ra loại súng gì chứ?”
“Hai khẩu tự động, nòng lớn, gắn ở đầu và đuôi xuồng”, Giordino trả lời. “Tôi chỉ có thể thấy chừng đó”.
“Vận tốc?”
“Có vẻ đang ở vận tốc bốn nút, chạy chậm để phát hiện những kẻ xâm nhập”.
“Đủ chậm để những quả ngư lôi 2000S của chúng ta đuổi kịp”.
“Thứ quỉ gì đang xảy ra trong đầu cậu thế?” Giordino hỏi.
“Chúng ta đợi dưới nước cho đến khi chúng quay lại để trở về xưởng đóng tàu”, Pitt trả lời. “Sau đó, khi chiếc xuồng vừa đi qua, chúng ta bám theo đuôi đường rẽ nước của nó. Chuyển động của nước sẽ che giấu sự có mặt của chúng ta khỏi sự phát hiện của những máy cảm biến dưới nước của chúng”.
“Nói nghe hay gớm”.
Khi những chiếc xuồng tuần tra tiếp tục quét về phía sau, Pitt và Giordino kiểm tra lại các trang bị của họ lần chót trước khi đội nón trùm đầu và đeo găng tay. Tiếp theo, họ gắn chân vịt lặn vào đôi giày bộ đồ lặn. Những mặt nạ lặn có gắn bộ phận truyền tin dưới nước được trùm lên nón trùm đầu. Sau cùng, mỗi người buộc một đầu sợi dây nhỏ vào đai thắt lưng. Sợi dây này nối hai người với nhau để giữ họ không bị tách rời và lạc nhau trong màn nước tối tăm.
Sau khi tống hết không khí ra khỏi bộ quần áo khô, Giordino đưa ngón tay cái lên báo hiệu anh đã sẵn sàng. Pitt vẫy tay đáp trả và đi vào trong nước. Đáy biển gần bờ có nhiều đá và trơn trợt vì nhiều rong rêu. Những thiết bị lặn trì kéo thân thể xuống, họ phải thận trọng bước để giữ thăng bằng cho tới lúc nước ngập đến ngực, và họ có thể ngã người về phía trước và bơi ngay dưới mặt nước. Đáy biển nhanh chóng tụt xuống, và Pitt đã ở độ sâu mười bộ. Tại đây, anh dừng một lúc để tống hết chỗ không khí còn lại ra khỏi bộ quần áo lặn. Anh thở ngắn hơi, và được kéo xuống theo đà lực quán tính cho tới khi sức ép của nước nén chặt bộ áo lặn và anh tăng thêm một lượng nhỏ không khí để giữ quân bình bộ đồ nổi cho phép anh có thể dừng lại một chỗ, không cử động.
Sau khi ra khỏi bờ khoảng năm chục mét, Pitt trồi lên và nhìn về phía nam. Hai chiếc xuồng tuần tra đã tới cuối đường và đang quay đầu để trở về. “Chúng đang tiến về phía chúng ta”, anh nói qua bộ phận truyền tin. “Tôi hy vọng cậu nói đúng là chúng đang di chuyển với vận tốc bốn nút. Như thế, dụng cụ đẩy có thể đưa chúng ta theo kịp chúng”.
Cái đầu của Giordino trồi lên cạnh Pitt. “Chúng sẽ tới gần, nhưng tôi nghĩ chúng ta nên giữ một khoảng cách vừa phải với chúng. Hy vọng chúng không trang bị camera dưới nước”.
“Vịnh này rộng ít nhất nửa dặm - quá lớn để có thể phủ kín camera có hiệu quả.” Pitt xoay quanh và nhìn về phía có ánh sáng tại mặt bắc. “Với ba ca làm việc suốt hăm bốn giờ, bọn Wolf phải có cả một kho tàng để trả lương”.
“Cậu cá gì nếu tôi bảo là bọn chúng không ưu đãi công nhân?”
“Cậu hình dung xem đáy những chiếc xuồng này cách mặt nước bao xa?”
“Không tới hai bộ, nhưng với sức nặng mọi thứ trên xuồng, có lẽ đáy xuồng phải cách mặt nước đến ba bộ”.
Họ quan sát khi chiếc xuồng bên phía bờ vịnh đến gần. Ước tính đường đi của nó, họ bơi ra xa khoảng mười mét rồi vòng lại và lặn xuống chừng mười hai bộ, trước khi đèn chiếu của những chiếc xuồng quét qua đầu họ. Ở dưới nước, động cơ chiếc xuồng và cánh quạt phát ra tiếng động lớn gấp bốn lần trong không khí. Họ lật mình nằm ngửa và chờ đợi. Từ dưới nước, họ nhìn lên mặt vịnh, quan sát những chùm ánh sáng đến gần và nhảy múa trên mặt nước lạnh lẽo.
Sau đó, cái bóng đen đúa của chiếc xuồng quét qua đầu họ, cái chân vịt khổng lồ quạt nước sủi bọt trắng xóa. Hầu như ngay tức khắc, Pitt và Giordino nhấn nút vận hành của dụng cụ đẩy rồi lao vào giữa đường rẽ nước sôi sục phía sau chiếc xuồng tuần tra.
Ở vận tốc bốn nút, cánh quạt chỉ hoạt động một phần ba số vòng quay khi nó đạt tốc độ tối đa. Họ dễ dàng duy trì sự ổn định phía sau chiếc xuồng, không bị nhồi lắc hoặc va chạm, tình trạng rắc rối nhất họ phải chịu đựng là hầu như họ bất lực không thể thấy nơi họ đang đắm mình trong nước. Cũng may mà qua màn nước dao động và sủi bọt, Pitt vẫn nhìn thấy được chùm ánh sáng nhỏ sau đuôi chiếc xuồng. Vì vậy anh cố không rời mắt khỏi nó, hai bàn tay bấu chặt dụng cụ đẩy tới trong lúc vẫn hướng mũi quả tên lửa theo hướng chiếc xuồng qua màn nước sôi sục.
Họ bám dính chiếc xuồng suốt hai dặm sau đó, cách mặt nước băng giá trong vịnh khoảng sáu bộ và giữ khoảng cách với chiếc xuồng. Những bình điện của họ nhanh chóng hao hụt. Pitt chỉ có thể hy vọng họ có đủ nhiên liệu để trở lại hẻm núi với cái xe bay. Niềm an ủi duy nhất của anh là Giordino và anh không dễ dàng bị phát hiện dưới những chùm ánh sáng chói lọi từ xưởng đóng tàu. Dù họ được che khuất bởi những đường rẽ nước và bộ đồ lặn màu đen trong lúc trầm mình dưới nước, nhưng một thủy thủ với cặp mắt sắc bén vẫn có thể nhận ra dấu vết của một sự kiện bất thường đáng ngờ. Nhưng không xảy ra chuyện gì. Pitt thấy rõ nhóm thủy thủ trên xuồng chỉ chăm chú theo dõi chùm ánh sáng quét qua quét lại trước mặt chúng.
“Cậu nghe tôi rõ chứ*?” Pitt hỏi qua dụng cụ truyền tin gắn trong mặt nạ lặn.
“Rõ từng tiếng”. Giordino trả lời.
“Máy theo dõi của tôi cho biết chúng ta đã được che giấu khoảng hai dặm. Chiếc xuồng đang sẵn sàng bắt đầu vòng tuần tra tiếp theo trong vịnh. Vào lúc chúng ta cảm nhận đường rẽ nước lệch sang trái hoặc sang phải, chúng ta lặn xuống ngay đến độ sâu an toàn trước khi trồi lên để quan sát”.
“Tôi sẽ bám sát cậu”, Giordino nói, bình thản như thể anh chàng đang đợi chuyến xe buýt đang tới từ góc phố.
Chưa đầy ba phút sau, chiếc xuồng tuần tra bắt đầu quành một góc một trăm tám mươi độ. Cảm thấy đường rẽ nước bắt đầu lệch sang một bên, Pitt và Giordino lặn xuống hai mươi bộ và thả lỏng thân mình trong nước cho tới lúc ánh đèn tuần tra mờ hẳn đằng xa và không còn nhìn thấy từ dưới nước. Rất chậm rãi và thận trọng họ quật chân vịt lặn và bơi lên, không biết chắc chắn nơi họ sẽ nổi trên mặt nước.
Hai cái đầu chỉ ló khỏi mặt nước vài inch. Hai cặp mắt rà quét chung quanh. Họ nhận ra họ đến gần khu đóng tàu đầu tiên trong bốn khu đóng tàu khổng lồ trải dài cả một dặm trong vịnh. Một thành phố nổi đồ sộ được neo dọc theo xưởng đóng tàu gần nhất trong lúc ba chiếc tàu khổng lồ kia được neo song song tại ba xưởng khác nằm dọc một hàng. Họ bị lóe mắt trước một cảnh tượng rực rỡ dưới bầu trời đêm. Đối với Pitt và Giordino, từ dưới nước nhìn lên, quang cảnh quá đỗi hoành tráng. Những gì bày ra trước mắt họ thật không thể tưởng tượng được. Họ không hình dung nổi cái khối khổng lồ kia, không chỉ nổi trên mặt nước mà nó còn có thể đi khắp thế giới bằng chính quyền lực của nó.
“Có thể đây là sự thật sao?” Giordino thì thầm trong sự ngỡ ngàng.
“Thật kì diệu”, Pitt trầm trồ, nhẹ như một hơi thở.
“Chúng ta bắt đầu từ đâu?”
“Lúc này hãy tạm quên những chiếc tàu. Chúng ta phải tìm ra một nơi nào đó để giấu những thiết bị lặn trước khi lùng sục các văn phòng của khu đóng tàu”.
“Cậu nghĩ Pat bị giam giữ ở đó?”
“Tôi không biết, nhưng những nơi đó có lẽ là điểm khởi đầu hợp lý nhất”.
Chúng ta có thể di chuyển bên dưới xưởng đóng tàu cho tới lúc đến một khu vực có đá trên bờ”, Giordino nói, đưa một bàn tay lên để phác một cử chỉ về phía mặt nước giữa những giàn đèn kếch sù. “Có vài khe nứt trong bóng tối về phía bên phải. Hy vọng chúng ta có thể vào đó để thay đổi y phục làm việc”.
Màu áo làm việc của họ màu cam, tương tự đồng phục của tù nhân tại Hoa Kỳ, được may theo mẫu những ảnh chụp lén các công nhân làm việc ở đây. Những tấm ảnh đó do vệ tinh do thám ghi được và gởi cho Đô đốc Sandecker, cùng với những bản đồ chi tiết về khu đóng tàu và một phúc trình phân tích những cao ốc trong khu vực này.
Pitt bấm nút ghi hình trên dụng cụ kiểm soát của anh và gắn nó lên mặt nạ lặn rồi nhìn về phía giàn đèn của xưởng đóng tàu. Quang cảnh hiện ra rõ mồn một, như thể anh đang đứng trên mặt đất dưới ánh sáng mặt trời. Anh có cảm giác như đang bơi trong một hành lang dưới nước qua màn ánh sáng lung linh từ trên lọc xuống.
Họ di chuyển trên những ống dẫn lớn và những dây cáp điện dẫn từ bờ tới khu đóng tàu. Tầm nhìn tăng lên hơn một trăm bộ dưới hàng ngàn chùm ánh sáng như thể họ đang ở trong thành phố Las Vegas.
Pitt tiếp tục bơi, Giordino bên cạnh và hơi lùi về phía sau. Đáy biển lởm chởm đá trơ láng và cao dần lên cho đến lúc hai người thợ lặn có thể đứng dậy. Họ lên bờ, nằm nghỉ trong bóng tối nhìn những vách đá nhô lên từ một bến tàu nhỏ cách những giàn đèn xưởng đóng tàu không xa. Một chùm ánh sáng lẻ loi trên bến tàu trông thật khiêm tốn trước một giải Ngân hà ánh sáng rực rỡ, lấp lánh từ khu đóng tàu, soi sáng mặt tiền những tòa cao ốc nhỏ Pitt đã thấy trong tấm không ảnh do vệ tinh cung cấp. Chỉ những bức tường bên hông tòa nhà mới chìm trong bóng tối.
“Quang cảnh trông thế nào?” Giordino hỏi.
“Vắng vẻ”, Pitt trả lời. “Nhưng cũng không thể nói liệu có ai đó ẩn mặt trong bóng tối không”. Anh vừa dứt lời thì Giordino đã đưa cái kính quang phổ lên mắt, nhìn dọc theo dãy nhà gần nhất. Anh chộp vai Pitt như một dấu hiệu cảnh báo đúng lúc một tên gác mặc đồng phục với khẩu súng tự động lủng lẳng một bên vai, hiện ra trong vòm ánh sáng. Họ nằm bất động, hơi thu người lại, ẩn mình sau những tảng đá.
Đúng như Pitt trông đợi, tên gác có vẻ chán nản vì chẳng nhìn thấy kẻ lạ nào tìm cách lẻn vào khu đóng tàu. Không một tên trộm, cũng chẳng có kẻ cướp hoặc kẻ phá bỉnh nào lại nhọc công mò tới một cơ xưởng cách thành phố gần nhất cả trăm dặm và đặc biệt tại một nơi mà phía bên kia của nó là vô số tảng băng trôi và dãy núi Andes hiểm trở. Hắn nhanh chóng quay lại và đi vào bóng tối dọc dãy nhà.
Thậm chí trước khi tên gác lẩn vào bóng đêm, Pitt và Giordino đã có mặt tại bến tàu, chân vịt trong lòng bàn tay, dụng cụ đẩy nước dưới cánh tay, len lỏi theo dốc đá và nhanh chóng ẩn vào những chỗ có ít ánh sáng. Cánh cửa dẫn vào nhà xưởng đầu tiên không khóa và họ mừng rỡ bước vào bên trong. Pitt khép cánh cửa lại.
“Cuối cùng cũng tới nhà” Giordino vui vẻ nói.
Pitt tìm thấy một tấm vải, loại các họa sĩ căng để vẽ, và anh treo nó lên che cái cửa sổ duy nhất, nhét những mép vải vào bất kì kẽ hở nào. Rồi anh bật công tắc ngọn đèn lặn và chiếu ngọn đèn khắp nhà xưởng. Căn phòng lớn chất đầy những dụng cụ kim loại trong ngành hàng hải - những cái thùng lớn chồng lên nhau, chất đầy những đai ốc, bù long, con tán bằng đồng và crôm, những giá và kệ với những trang bị điện được sắp xếp ngăn nắp gồm cả những cuộn và kiện dây kim loại, những tủ chứa đầy lon và thùng sơn dùng cho tàu bè. Tất cả đều được bài trí gọn gàng và được dán nhãn.
“Rõ ràng bọn này rất kĩ lưỡng và ngăn nắp”.
“Đặc tính đó do tổ tiên người Đức của họ truyền lại”.
Họ nhanh chóng cởi những trang bị và quần áo lặn. Bộ đồng phục màu cam được lấy ra từ cái túi trước ngực và họ mặc bên ngoài quần áo lót. Tiếp theo, họ tháo ủng và thay thế bằng giày đế mềm.
“Tôi chợt có một ý nghĩ”, Giordino nói.
“Sao?”
“Liệu bọn Đức có in tên riêng hoặc một thứ gì đó trên quần áo, mà trong tấm không ảnh của vệ tinh không ghi lại được?”
“Đó chỉ mới là rắc rối một nửa”.
“Còn có thứ khác tệ hơn à?”
“Chúng ta đang ở Nam Mỹ”, Pitt bình thản nói. “Không người nào trong chúng ta có thể nói tiếng Tây Ban Nha đủ để hỏi đường tới nhà vệ sinh”.
“Tôi nói không trôi chảy, nhưng cũng đủ xoay sở”.
“Tốt. Cậu lo chuyện nói năng với chúng còn tôi thì vờ bị lãng tai”.
Trong lúc Giordino nghiên cứu tấm bản đồ khu đóng tàu, cố hình dung lối đi ngắn nhất dẫn tới những văn phòng làm việc của bọn Wolf, Pitt bấm số điện thọai Globalstar của anh.
Bầu không khí bên trong căn hộ của ông Sandecker tại khách sạn Watergate thật nặng nề. Ánh lửa leo lét trong lò sưởi, một thứ lửa ấm và yên tĩnh trông thật an nhàn dù nó không hắt ra một đợt sóng nhiệt. Ba người đàn ông ngồi trên những chiếc trường kỉ đặt đối diện nhau hai bên một cái bàn thấp, trên mặt bàn là một cái khay với những cái tách và một bình cà phê đã vơi phân nửa. Đô đốc Sandecker và ông Ron Little nhìn như bị mê hoặc vào một người đàn ông luống tuổi, khoảng tám muơi lăm, với mái tóc bạc trắng như tuyết, đang thuật lại một câu chuyện chưa hề được tiết lộ trước đây.
Cựu Hạm trưởng Christain Hozafel là một sĩ quan cao cấp trước kia thuộc Hải quân Đức trong Thế Chiến II. Ông ta phục vụ với vai trò Hạm trưởng tàu ngầm từ Tháng Sáu 1942 cho tới tháng bảy 1945 thì chính thức đầu hàng cùng chiếc tàu tại Veracrug, Mexico. Sau chiến tranh, Hozafel mua một chiếc tàu Liberty từ chính phủ Hoa Kỳ trong kế hoạch Marshal và điều hành nó trên bốn mươi năm sau đó và rất thành công trong số những tàu thương mại. Sau cùng, ông bán tàu và công việc làm ăn, và nghỉ hưu lúc số tàu bè của Công ty Hàng hải Hozafel đã lên tới ba mươi bảy chiếc. Ông ta trở thành một công dân Mỹ và hiện đang sống tại Seatle bang Washington, trong một bất động sản trên đảo Whidbey, tại đây, ông giữ lại một du thuyền dài hai trăm bộ để ông và bà vợ dong ruổi khắp thế giới.
“Những gì ông nói”, ông Little lên tiếng, “là người Nga đã không tìm thấy những phần bị cháy xém còn sót lại từ thi thể của Hitler và Eva Braun bị cháy suốt năm giờ liền. Nhiều ga lông xăng được dẫn tới qua ống dẫn từ những chiếc xe bị hỏng chung quanh trụ sở Đệ Tam Đế chế Đức đều được dùng để dội lên những cái xác được đặt nằm trong một cái hố hình phễu bên ngoài lô cốt do trái phá của Liên Xô tạo ra. Lửa được duy trì cho tới lúc chỉ còn lại tro và vài mẩu xương vụn. Những sĩ quan SS trung thành đã đựng tro và xương trong một cái hộp bằng đồng. Không còn gì lưu lại cả. Mỗi một nhúm tro và mỗi mẩu xương đều được thận trọng gom lại và cho vào hộp. Sau đó các sĩ quan SS đặt vào cái hố đó những cái xác cháy không còn nhận dạng được của một người đàn ông và một phụ nữ đã bị giết trong một vụ ném bom, rồi họ thiêu hai cái xác này cùng với con chó Blondi của Hitler sau khi nó bị dùng để thí nghiệm những viên cyanide mà Hitler và Eva Braun cũng dùng sau đó để tự sát”.
Đôi mắt ông Sandecker dán chặt vào gương mặt ông Hozafel, “Những cái xác đó được người Nga tìm thấy”, ông Sandecker nói.
Người chỉ huy của chiếc tàu ngầm gật đầu, “Về sau, họ tuyên bố rằng những báo cáo về răng đã xác định chắc chắn đó là Hitler và Eva Braun, nhưng họ biết rõ hơn. Suốt năm mươi năm, người Nga vẫn giấu kín chuyện này, trong lúc Stalin và những viên chức cao cấp Xô Viết vẫn nghĩ Hitler đã trốn thoát sang Tây Ban Nha hoặc Argentina”.
“Tro của họ sau đó thế nào?”ông Little hỏi.
“Một máy bay nhỏ đáp xuống gần lô cốt giữa đám lửa và những đầu đạn trái phá của Xô Viết vẫn tiếp tục rơi xuống trong lúc quân Nga tiến sát vào trung tâm thành phố. Trong giây phút lúc viên phi công tìm cách cho chiếc máy bay cất cánh thì các sĩ quan SS chạy vội tới và đặt cái hộp đựng tro vào khoang chứa hàng. Không trao đổi một lời nào, viên phi công lao chiếc máy bay trên đường băng và nhanh chóng mất dạng trong màn khói bao trùm thành phố. Máy bay được tiếp nhiên liệu tại Đan Mạch và bay qua Biển Bắc đến thành phố Bergen, Na Uy. Tại đây, máy bay đáp xuống và chuyển cái hộp tro cho Hạm trưởng Edmund Manet, đến phiên ông này lại mang cái hộp lên chiếc tàu ngầm U-621. Có rất nhiều thùng gỗ và hộp kim loại chứa những đồ vật quí của Quốc xã Đức, kể cả Ngọn Giáo Thiêng và Lá Cờ Máu bất khả xâm phạm, và vô số bảo vật mỹ thuật khác của Đệ Tam Đế chế, tất cả đều được đưa lên một tàu ngầm khác, chiếc U-2015, dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng Eudolph Harger”.
“Đây là toàn bộ kế họach do Martin Bormann vạch ra mật danh là Vận Hội Mới”, Đô đốc Sandecker nói.
Ông Hozafel nhìn ông Đô đốc với ánh mắt khâm phục, “?Ngài được thông tin rất chính xác, thưa Đô đốc”.
“Ngọn Giáo Thiêng và Lá Cờ Máu”, ông Sandecker nhấn mạnh, “nằm chung với những hàng hóa của tàu ngầm U-2015 phải không?”
“Ngài biết rõ Ngọn Giáo à?”, ông Hozafel hỏi vặn.
“Tôi đã nghiên cứu và viết về Ngọn Giáo như một dự án huấn luyện tại Annapolis”, ông Sandecker trả lời. “Những huyền thoại được truyền lại trong kinh Thánh có nói đến một thợ luyện kim tên là Tubal Cain, là hậu duệ trực tiếp của Cain, con trai Adam, đã rèn Ngọn giáo từ loại sắt được tìm thấy trong một khối thiên thạch do Đức Chúa Trời ban xuống. Thời gian này vào khoảng ba ngàn năm trước Công nguyên; Ngọn Giáo Thiêng được truyền từ Tubal xuống Saul rồi tới David và Solomon và những vị vua khác của xứ Judea. Sau cùng nó rơi vào tay của kẻ chinh phục người La Mã là Julius Ceasar, luôn mang theo nó trong những chiến trận của ông ta với các kẻ thù. Trước khi Ceasar bị ám sát, ông ta trao nó lại cho một viên bách phu trưởng, kẻ đã cứu ông ta thoát chết trong trận đánh với người Gauls. Con trai của người bách phu trưởng trao nó lại cho con trai mình, người này lại truyền xuống cho con trai, cũng phục vụ trong quân đội La Mã với cương vị bách phu trưởng. Chính người đàn ông này đã đứng trên đồi và quan sát lúc Đức Chúa Christ bị đóng đinh trên thập tự giá. Luật pháp tại đây đòi hỏi tất cả những tội phạm bị đóng đinh phải được xác nhận đã chết trước lúc mặt trời lặn để họ không làm ô uế Ngày Chủ Nhật kế đó, vì Chủ Nhật là ngày của Chúa. Hai tên cướp trên hai cây thập tự kế bên cạnh Chúa Giêsu bị đập nát hai cẳng chân để được chết nhanh hơn. Nhưng khi đến phiên Chúa Giêsu, người ta nhận ra Ngài đã chết. Viên bách phu trưởng vì có nhiệm vụ lo chôn cất, đã đâm mũi ngọn giáo vào sườn Chúa Giêsu, tạo ra một dòng máu và nước không thể giải thích được. Lúc dòng máu thiêng trào ra, ngọn giáo đẫm máu lập tức trở nên báu vật Tối Thiêng đối với người Cơ đốc giáo, bên cạnh Thánh Giá Thật và Bộ Ly Chén Thiêng trong bữa ăn cuối cùng của Chúa”.
“Ngọn Giáo Thiêng, như nó được quan niệm, được truyền tới hoàng đế Charlemagne và được thừa kế qua mỗi đời hoàng đế La Mã kế tiếp nhau trên một ngàn năm sau đó trước khi kết thúc trong tay những hoàng đế của dòng họ Hapsburg, và được trưng bày trong hoàng cung tại thủ đô Vienna, nước Áo”.
“Ngài cũng biết truyền thuyết đằng sau quyền lực của ngọn giáo”, ông Hozafel nói, “truyền thuyết cho rằng Hitler đã sở hữu nó?”
“Bất kỳ kẻ nào có trong tay Ngọn Giáo Thiêng này và biết được uy lực của nó, là hắn đã nắm vận mệnh của thế giới trong tay, cả điều tốt lẫn điều xấu”, ông Sandecker trích dẫn. “Đó là lý do Hitler đã lấy cắp ngọn giáo từ nước Áo và giữ nó cho tới ngày ông ta chết. Ông ta tin tưởng nó sẽ cho mình quyền bá chủ thế giới. Nếu Hitler không nghe biết truyền thuyết ngọn giáo, chắc hẳn ông ta sẽ không tìm kiếm con đường quyền lực bằng cách thống trị thế giới”.
“Ông đã nói đến Lá Cờ Máu”, ông Little nói. “Tôi không biết gì về món cổ vật này”.
“Năm 1923”, ông Hozafel giải thích, “Hitler đã toan lật đổ chính phủ Đức tại Munich. Đó là một thảm họa. Quân đội xả súng vào đám đông và nhiều người bị giết chết. Hitler thoát nhưng sau đó bị bắt giam. Trong tù ông ta dành chín tháng để viết tác phẩm Mein Kampf. Vụ đó mãi mãi được xem là vụ đảo chính Munich. Một trong những lá cờ chữ Vạn buổi đầu của Đảng Quốc xã Đức được một trong những người làm cách mạng sáng tạo. Ông này bị bắn và lá cờ đẫm máu ông ta. Sau đó, nó trở thành biểu tượng đẫm máu cho những kẻ chịu đọa đày vì Đức Quốc xã. Lá Cờ Máu từ đó được dùng trong những dịp tưởng niệm để thần thánh hóa những lá cờ Đức Quốc xã và được xem như vật thiêng liêng”.
“Và thế là những kho tàng của Đức Quốc xã được tẩu tán khắp nơi khỏi nước Đức, và không bao giờ thấy xuất hiện nữa”, ông Little nói với vẻ trầm ngâm. “Trong những phúc trình còn lưu lại của CIA trước kia, không có dấu vết nào về ngọn giáo và những vật quí giá khác của Đức Quốc xã, kể cả những kho tàng nghệ thuật và những vật quí đánh cắp được từ những ngân khố và kho tàng các quốc gia bị tấn công”.
“Chiếc tàu ngầm của ông mang số U-699?” Sau cùng, ông Sandecker hỏi.
“Vâng, tôi là Hạm trưởng”, ông cựu sĩ quan Đức Quốc xã Hozafel thừa nhận. “Sau đó không lâu, một số sĩ quan quân đội Đức Quốc xã quan trọng, những đảng viên cao cấp và tro của Hitler được an toàn lên tàu. Tôi khởi hành từ Bergen, bám sát sau tàu ngầm U-2015. Cho đến nay, sự mất tích của Hitler vẫn là một bí ẩn. Sỡ dĩ tôi kể chuyện này cho ngài là vì sự thuyết phục của ông Little, và vì trách nhiệm. Theo tôi biết thì thế giới sẽ biến động sau vụ va đụng của một sao chổi sắp xảy ra. Nếu đó là sự thật thì lời thề giữ kín bí mật của tôi không còn thích hợp nữa”.
“Chúng ta chưa đến lúc khóc vì sự tiêu diệt”, ông Sandecker nói. “Những gì chúng ta muốn biết là gia tộc Wolf có thực sự tiêu tốn những món tiền kếch sù để đóng những chiếc tàu cứu nạn khổng lồ trong sự cuồng tín về một thảm họa sẽ hủy diệt Trái Đất và mọi sinh vật trên nó... hoặc nếu chúng có một động cơ nào khác”.
“Đó là một dòng họ nổi tiếng, gia tộc Wolf”, ông Hozafel nói một cách thâm trầm. ‘‘Đại tá Ulrich Wolf là một trong những người thân tín lớn nhất trong những thuộc hạ của Hitler. Ông ta xem những mệnh lệnh vô lý và những ý thích giản dị nhất của Hitler cần phải được thực hiện. Ông đại tá cũng là lãnh tụ của một nhóm Đảng viên Quốc xã tận tụy đã thành lập một toán sĩ quan SS tinh hoa sẵn sàng cống hiến để bảo vệ niềm tin của họ. Họ tự mệnh danh là Nhóm Bảo vệ. Hầu hết bọn họ đã chết trong lúc chiến đấu vào những ngày cuối cùng của cuộc chiến... tất cả. Chỉ còn lại Đại tá Wolf và ba người nữa. Ông ta cùng toàn bộ gia đình, bà vợ, bốn con trai, ba con gái và ba chị em gái cùng gia đình của họ đều lên tàu ngầm U-2015. Tôi được một đồng sự cũ trong hải quân vẫn còn sống cho biết Đại tá Wolf là người cuối cùng trong số vài người trong Nhóm Bảo vệ đã tạo ra một loại đẳng cấp gọi là Vận Hội Mới”.
“Đúng thế. Họ điều hành một liên hiệp xí nghiệp khổng lồ được biết dưới cái tên Tập đoàn Vận Hội”, ông Sandecker tiết lộ với ông Hozafel.
Người Hạm trưởng già mỉm cười. “Vậy là họ bỏ rơi những bộ đồng phục và niềm tin của mình để theo đuổi những công việc kinh doanh và những bản kê khai lời lỗ”.
“Không còn tự gọi là Đảng viên Đức Quốc xã, họ đã hiện đại hóa tuyên ngôn của mình”, ông Little n