Chiếc Tàu Cứu Nạn Thế Kỷ hai Mươi Mốt
Tháng Tư, 2001 Thành phố Buenos Aires, Argentina
Những nhà hát opera hàng đầu thế giới được đánh giá bởi các ca sĩ và nhạc sĩ về độ vang của âm trong các phòng trình diễn, và về phẩm chất của âm thanh được chuyển tải từ sân khấu đến các khu ghế lô rồi kéo dài tới những ban công trong hội trường dành cho khán giả. Đối với những người yêu opera phải mua vé, họ được xếp vào hàng ngũ những người được ngưỡng mộ hơn nữa, về sự thanh lịch và nhiệt tình của họ. Một số được lưu ý vì kiến trúc lòe loẹt, một số khác vì kiểu dáng phô trương, một số ít hơn nữa vì những vật trang trí và hoa lá trang trí. Nhưng không một nhà hát opera nào có được một hệ thống ánh sáng có thể sánh với Nhà hát Teatro Colon trên đại lộ de Julio trong thành phố Buenos Aires.
Được khởi công xây dựng năm 1840 và hoàn thành năm 1908, dưới thời Puccini trị vì, nhà hát Teatro Colon chiếm trọn bề dài của một khu phố thủ đô, từ vệ đường bên này đến vệ đường bên kia. Một sự pha trộn giữa nghệ thuật Pháp và ý thời phục hưng với Hy Lạp cổ điển làm cho sân khấu của nó tạo cảm giác như khi đứng dưới chân tượng đài Pavlova và Nijinsky. Toscanini đã điều khiển giàn nhạc giao hưởng ở đó. Và mỗi ca sĩ lừng danh, từ Caruso đến Callas đều đã trình diễn ở đó. Sân khấu đồ sộ hình móng ngựa được trang hoàng lộng lẫy trên một vành đai gộm nhiều nấc thang làm ngại ngùng những cặp mắt. Những đường gờ bằng đồng phức tạp đến độ khó tin bên trên những lan can ngăn cách những dày ghế bọc nhung mịn chạy dài phía trước tâm màn sân khấu bằng vải gấm chạy chỉ bằng vàng ròng giáp với trần nhà là một tác phẩm mỹ thuật bậc thầy. Vào những đêm có trình diễn, khi hệ thống ánh sáng lóe mắt bật lên, xã hội tinh hoa nhất của Argentina trải dài từ tiền sảnh nhà hát bằng đá cẩm thạch Italia với mái vòm bằng kính, màu sặc sỡ bên trên những cầu thang lộng lẫy sáng trưng cho tới những ghế ngồi trang trí thật xa hoa.
Sáu mươi giây trước khi mở màn, mọi chỗ ngồi đều được lấp kín, trừ lô ghế đặc biệt bên cánh phải sân khấu. Lúc này nơi đó vẫn còn trống. Vở nhạc kịch được trình diễn đêm nay là Lễ Đăng quang của Poppea do Claudio Monteverdi viết. Poppea là tình nhân của Hoàng đế La Mã trong thời kỳ La Mã vinh quang nhất. Tuy nhiên, các ca sĩ diễn viên lại mặc trang phục của thế kỷ XVII và xát muối lên những vết thương, tất cả đàn ông đều được phụ nữ ca ngợi. Đối với một số người ưa thích opera thì đây là một kiệt tác nghệ thuật chính thống. Đôi với những người khác thì nó là một vở nhạc kịch dài bốn giờ.
Vài giây trước khi ánh sáng nhà hát mờ đi, một nhóm người gồm một đàn ông và bốn phụ nữ nhẹ nhàng và kín đáo đi vào lô ghế còn trống và ngồi vào những chiếc ghế lót lông thú màu nâu. Đứng khuất sau tấm màn bên ngoài, hai gã vệ sĩ trong bộ lễ phục buổi tối hợp thời trang đứng gác với vẻ cảnh giác. Mọi cặp mắt trong nhà hát opera, mọi cặp ống dòm, mọi cặp kính để xem opera tự động hướng về và chú mục vào những người vừa bước vào lô ghế trống.
Những người phụ nữ đẹp choáng lộn, không những đẹp và khác thường, mà những mỹ nhân này còn có vẻ lung linh kỳ ảo, phảng phất vẻ cổ điển. Mái tóc màu hoàng kim nhạt của họ được cắt chải thành những lọn dài, chảy xuống đôi vai trần. Họ ngồi đường bệ như những bậc vua chúa, những bàn tay thon thả đặt trong lòng, nhìn xuống chỗ dàn nhạc qua những đôi mắt màu xanh xám giống hệt nhau, chiếu ra ánh sáng yếu ớt như ánh trăng đọng lại trên cánh một con quạ. Những đường nét trên gương mặt càng thanh tú hơn với hai gò má cao và nước da rám nắng có được nhờ những lần trượt tuyết trong rặng núi Andes hoặc tắm nắng trên một du thuyền thả trên mặt nước biển ngoài khơi Bahia Blanca. Rất dễ thấy bất kỳ người nào trong số họ đều có thể đã qua cái tuổi hai mươi lăm, dù thực sự tất cả đã trên ba mươi lăm. Không cần phải tưởng tượng để tin họ là chị em ruột, vì thực sự họ là bốn người trong nhóm chị em sinh sáu. Thân thể họ cân đối, mà quần áo không thể che giấu điều đó, chứng tỏ họ có một cuộc sống ngăn nắp và thường xuyên luyện tập những bài thể dục gian khổ.
Những bộ lễ phục dài bằng lụa sáng lung linh của họ giống hệt nhau về kiểu dáng, chỉ khác màu sắc. Ngồi thành nửa vòng tròn trong lô ghế đặc biệt, họ lóng lánh như những viên ngọc đủ màu sắc vàng, xanh, lục và đỏ. Đồ trang sức của họ là những chiếc vòng gắn những viên kim cương cùng một kích cỡ đeo ở cổ, vành tai và cổ tay. Vẻ đẹp toát ra từ những phụ nữ này có vẻ thanh thoát nhẹ nhàng, gợi cho người khác sự nể nang kính trọng, như thể họ là những thiên thần người ta không dám chạm tới. Có vẻ như người ta không thể nghĩ tới điều này, nhưng tất cả bọn họ đều đã lập gia đình, và mỗi người đều đã có năm đứa con. Những phụ nữ này tham dự đêm khai trương mùa nhạc kịch như một bổn phận của gia tộc. Họ duyên dáng gật đầu và mỉm cười với người đàn ông ngồi giữa bọn họ. Với dáng người cao lớn và thẳng, người đàn ông cũng có mái tóc và cặp mắt, giống hệt các em gái anh ta, ngoài ra họ không có điểm nào khác giống nhau. Anh ta đẹp trai đến độ làm người khác choáng váng chẳng khác các em gái mình, nhưng lại có vẻ rất nghiêm khắc. Với eo lưng nhỏ nhưng vai và mông lớn, chắc nịch, tay chân với cơ bắp cuồn cuộn, gương mặt vuông vức, cằm cũng vuông và lõm ở chính giữa như một lúm đồng tiền. Mũi hẹp và thẳng, mái tóc màu hoàng kim dày gợi cho phụ nữ ước muốn luồn những ngón tay vào. Anh ta cao đến sáu feet sáu inch cao như một tòa tháp, bên cạnh những em gái cao năm feet mười inch.
Khi quay lại và nói chuyện với các em gái, anh ta mỉm cười để lộ hai hàm răng trắng bóng được đóng khung bởi cái miệng đầy thiện cảm có lẽ chẳng quạu quọ bao giờ. Tuy nhiên, cặp mắt thật lạnh lùng. Chúng nhìn như thể một con báo đang rà soát trên đồng cỏ để tìm mồi.
Karl Wolf là một tay giàu sụ và đầy quyền lực. Anh ta quản lý một đế quốc tài chính gia đình khổng lồ trải dài từ Trung Hoa tới Ấn Độ, ngang qua Đại Tây Dương tới châu Âu, từ Gia Nã đại và Hoa Kỳ tới Mexico và Nam Mỹ. Đúng là một kẻ giàu khủng khiếp. Tài sản của anh ta ước tính có đến trên một trăm tỉ đô la. Liên hiệp công ty và xí nghiệp khổng lồ của Karl Wolf gồm vô số các dự án khoa học và kỹ thuật cao, được biết tới trong thế giới kinh doanh dưới cái tên Tổng công ty Trách nhiệm Hữu hạn Vận Hội. Không giống các em gái, Karl Wolf còn sống độc thân.
Wolf và những thành viên khác trong gia tộc dễ dàng xâm nhập vào xã hội danh vọng mới của Argentina. Anh ta sắc sảo, tự tin và thành đạt; tuy nhiên, cũng như các thành viên khác, anh ta sống tiết kiệm, quan tâm đến tài sản đồ sộ của mình. Nhưng triều đại gia tộc Wolf, thật khó tin, có đến hơn hai trăm thành viên, ít khi thấy xuất hiện trong những nhà hàng sang trọng hoặc những nơi giới thượng lưu thường lui tới. Những phụ nũ dòng họ Wolf hầu như chẳng bao giờ lui tới những cửa hàng thời trang cao cấp và những cửa hiệu xa hoa trong thành phố Duenos Aires. Trừ Karl là người thường xuất hiện do công việc đòi hỏi, những thành viên còn lại của gia tộc hầu như chỉ sống ẩn dật, và là bí ẩn lớn của người dân Argentina. Họ không kết bạn với người ngoài. Không ai, thậm chí cả những người nổi tiếng và viên chức cao cấp trong chính phủ, có thể phá vỡ lớp vỏ bọc của gia tộc Wolf. Đàn ông chỉ kết hôn với phụ nữ trong dòng họ chẳng ai biểt từ đâu đến và không có lý lịch, tung tích. Một điều kỳ lạ là tất cả những phụ nữ này đều mang họ của gia tộc. Mọi thành viên, từ những đứa bé mới sinh gần nhất đến những người mới kết hôn gần đây nhất đều mang họ Wolf, dù thành viên đó thuộc giới tính nào.
Khi Karl và bốn cô em gái xuất hiện tại nhà hát opera vào những đêm khai trương, thì đó là một sự kiện trọng đại để thiên hạ xì xào bàn tán. Chỉ đến lúc đoạn mở đầu chấm dứt và tấm màn bắt đầu kéo lên, khán giả mới miễn cưỡng chuyển sự chú ý của họ từ anh em nhà Wolf lộng lẫy và sang trọng trong lô ghế hạng nhất để quay sang nhìn những diễn viên trên sân khấu.
Wolf quay sang cô em gái Maria và mỉm cười, “Vì rằng, em gái yêu quí, nếu chúng ta không bạo dạn trước công chúng trong những dịp đặc biệt, chính phủ và dân chúng có thể bắt đầu nghĩ chúng ta đang âm mưu chuyện khủng khiếp gì đó. Tốt nhất, nên thỉnh thoảng xuất hiện một lần để họ hiểu là chúng ta không lén lút câu kết với người ngoại quốc nhằm bí mật kiểm soát đất nước này”.
“Chúng ta nên chờ đợi cho tới khi Heidi từ Nam Cực trở về”.
*Em đồng ý”, Geli, cô em gái bên phải Wolf nói khẽ. “Chị ấy sẽ là người duy nhất được hưởng niềm thích thú tuyên bố sự kiện trọng đại này”.
Wolf vỗ nhẹ bàn tay Geli. “Anh sẽ bù đắp công lao của cô ấy khi Đại hội La Traviata khai mạc tuần sau”.
Họ bất chấp ánh mắt của khán giả cứ đảo qua đảo lại giữa những nhân vật khó hiểu của dòng họ Wolf và những diễn viên trên sâu khấu. Tấm màn vừa được kéo lên để bắt đầu Hồi III thì một trong hai gã cận vệ từ phía sau bước vào và nói khẽ vào tai Wolf. Anh ta như đông cứng trong ghế ngồi, nụ cười biến mất và nét mặt trở nên trầm trọng. Anh ta cúi xuống, nói thật dịu dàng, “Các em gái quí mến, có chuyện khẩn cấp vừa mới xảy ra, anh phải đi. Các em cứ ở lại. Anh đã đặt một phòng riêng tại Plaza Grill cho bữa ăn tối nhỏ sau vở nhạc kịch. Các em hãy tới đó. Và anh sẽ đến sau”.
Cả bốn người phụ nữ đều rời mắt khỏi sân khấu và nhìn anh ta với vẻ bối rối. “Anh có thể cho chúng em biết đó là chuyện gì không?” Geli hỏi.
“Chúng em muốn biết”, Maria nói.
“Chừng nào anh biết, các em sẽ biết”, anh ta hứa. “Giờ thì cứ vui vẻ đi nào”.
Wolf đứng lên và rời khỏi lô ghế, được một trong hai gã vệ sĩ hộ tống, trong lúc gã kia ở lại bên ngoài khu ghế lô. Anh ta vội vã đi ra một cửa hông và chui vào một chiếc limousine đợi sẵn - một chiếc Mercedes-Benz 600 sản xuất năm 1969, loại xe sau bốn mươi năm vẫn tồn tại và nổi tiếng là một chiếc limousine sang trọng nhất thế giới. Dòng xe cộ đông nghẹt. Không giờ giấc nào trong đêm lượng xe cộ trong thủ đô Buenos Aires lại tỏ ra thông thoáng. Đường phố bận rộn liên tục từ lúc tắt nắng đến bình minh. Gã tài xế lái chiếc Mercedes to kềnh vào đường Recoleta nằm giữa hai công viên cây cối um tùm Plaza Francia và Plaza Intendente Alvear. Tại Argentina, nơi này được xem như đại lộ Michigan ở Chicago và đường Rodeo Drive tại Beverly Hills, với những hàng cây cao phủ bóng mát lên những cửa hiệu sang trọng, những khách sạn lộng lẫy và những ngôi nhà đồ sộ.
Chiếc xe đi qua nghĩa trang Recoleta với những lối đi hẹp lót đá nằm giữa bảy ngàn ngôi mộ và công trình kỷ niệm được trang trí cầu kỳ với những pho tượng thiên thần đang nhìn xuống các cư dân. Tượng đài Eva Peron do dòng họ Duarte xây dựng là một công trình khiến du khách thường kinh ngạc khi đọc thấy trên tấm bia gắn ở cổng vào với dòng chữ “Argentina, đừng khóc vì tôi. Tôi luôn ở gần bạn”.
Người tài xế lại vòng qua những cánh cổng có người gác, vượt qua một hàng rào song sắt và lên một lối đi hình tròn rồi dừng lại tại cánh cổng một tòa dinh thự đồ sộ có kiến trúc của thế kỷ mười chín với những hàng cột lớn và những bức tường cao phủ đầy dây thường xuân, ngày xưa từng là Tòa Đại sứ Đức cho đến Thế Chiến Hai. Bốn năm sau chiến tranh, chính phủ Đức dời trụ sở ngoại giao của họ đến khu Palermo Chico, vùng đất của Argentina thuộc về nước Đức. Từ đó, tòa dinh thự được sử dụng như tổng hành dinh của Công ty Trách nhiệm Hữu hạn Vận Hội.
Wolf rời khỏi xe và đi vào tòa nhà. Nội thất bên trong tòa dinh thự cực kỳ lộng lẫy. Sàn nhà và cột bằng đá cẩm thạch, những bức tường lát gỗ, trần nhà khảm xà cừ là những gì còn sót lại của quá khứ, nhưng những đồ đạc trong nhà lại rất ít và không có dấu hiệu nào của sự trang trí đòi hỏi nhiều công phu. Chỉ có một cầu thang bằng đá cẩm thạch trắng dẫn lên những văn phòng ở tầng trên, nhưng Wolf bước vào một thang máy nhỏ tại một góc tường. Thang máy im lặng bốc lên và mở ra một phòng họp rộng thênh thang, tại đây mười thành viên gia tộc Wolf, gồm bốn phụ nữ và sáu đàn ông, đang ngồi chờ quanh một cái bàn họp bằng gỗ tếch dài ba mươi bộ.
Tất cả đứng lên để chào đón Karl. Dù chỉ mới ba mươi tám tuổi, lại là kẻ sắc sảo và nhạy bén nhất, nên anh ta được chấp nhận và kính trọng như cố vấn trưởng và lãnh tụ của gia tộc.
“Xin tha lỗi vì tôi đến trễ, các anh chị em của tôi, nhưng tôi đã đến ngay, sau khi nhận được tin báo thảm kịch”. Rồi anh ta bước thẳng tới chỗ một người đàn ông tóc bạc và ôm hôn ông này. “Có đúng vậy không, thưa cha, chiếc U-2015 đã bị đánh đắm cùng với em Heidi?”
Ông già Max Wolf buồn bã gật đầu. “Đó là sự thật. Em gái anh, cùng với thằng Eric, con trai của Kurt và toàn bộ thủy thủ đoàn lúc này đang nằm dưới đáy biển ngoài khơi Nam Cực”.
“Eric?” Karl Wolf nói. “Tại nhà hát, con không được báo cho biết chú ấy cũng đã chết. Con không biết chú ấy cũng có mặt trên tàu ngầm. Cha biết chắc chắn điều này chứ?”
“Chúng tôi nghe được tin tức của NUMA gởi về Washington qua vệ tinh”, một người đàn ông cao lớn - Bruno Wolf - trông giống Karl như anh em sinh đôi - nói với vẻ giận dữ. “Thông tin đó cho biết câu chuyện. Trong lúc thực hiện kế hoạch tom góp tất cả chứng cứ của chúng ta về các cổ vật, khi chiếc tàu ngầm U-2015 đang bắn vào chiếc tàu nghiên cứu của NUMA, thì một tàu ngầm nguyên tử của Hải quân Hoa Kỳ tới và bắn một tên lửa phá hủy chiếc U-2015 của chúng ta và giết chết mọi người trên tàu. Không nghe chúng nói có ai sống sót?”
“Một mất mát khủng khiếp”, Karl nói khẽ, giọng trầm trọng. “Những thành viên của hai gia đình và chiếc tàu cũ U-2015 đáng kính. Chúng ta chớ quên rằng nó đã đưa tổ tiên chúng ta và những gì cốt lõi của đế quốc chúng ta từ Đức tới đây sau chiến tranh”.
“Cũng chớ quên giá trị phục vụ nó đã cống hiến trong thời gian lâu như thế”, Otto Wolf - một trong tám bác sĩ của gia tộc - nói thêm. “Nó phải được nhớ tiếc với tất cả nỗi đau của chúng ta”.
Mọi người quanh bàn họp im thin thít. Rõ ràng đây là một nhóm người chưa hề nếm mùi thất bại. Trong suốt năm mươi lăm năm, từ lúc khởi đầu, Công ty Trách nhiệm Hữu hạn Vận Hội chỉ gặt hái hết thành công này đến thành công khác. Mỗi dự án, mỗi chiến dịch đều được hoạch định với những nguyên tắc chi tiết. Không có tình huống nào bị bỏ sót. Mọi vấn đề đều được dự trù và xử lý. Sự sơ xuất và ấu trĩ không được tồn tại. Gia tộc Wolf đã ngự trị tuyệt đối cho tới ngày nay. Họ hầu như không bao giờ chấp nhận những đảo lộn vượt quá sự kiểm soát của họ.
Karl ngồi xuống một cái ghế tại đầu bàn họp. “Những mất mát về người trong gia tộc và nhân viên thuê bên ngoài trong hơn hai tuần qua như thế nào?”
Bruno Wolf, chồng cô em gái Geli của Karl, mở một hồ sơ và nhìn vào một cột gồm những con số. “Bảy nhân viên tại Colorado, bảy trên đảo St. Paul kể cả cậu em họ Fritz, chỉ huy chiến dịch từ trên chiếc trực thăng, bốn mươi bảy thủy thủ trên tàu ngầm U-2015 cộng với Heidi và Eric”.
“Sáu mươi bảy người ưu tú nhất của chúng ta và ba thuộc về gia tộc chúng ta trong vòng không đầy mười ngày”, Elsie Wolf nói. “Điều này thật vô lý”.
“Càng vô lý khi những người có trách nhiệm lại là một nhóm những nhà hải dương học giỏi nhất và hiền lành như những con sứa không có chất độc”, Otto gầm gừ đầy giận dữ.
Karl mệt mỏi dụi mắt. “Tôi xin nhắc chú, Otto, hãy nhớ rằng những con sứa không có nọc độc đó đã giết chết mười hai nhân viên giỏi nhất của chúng ta, không kể hai gã chúng ta buộc phải loại trừ để chúng khỏi bép xép”.
“Những nhà khoa học hàng hải và những kỹ sư không phải là những kẻ giết mướn chuyên nghiệp”, Elsie nói. “Nhân viên của chúng ta bí mật làm việc trong NUMA tại Washington có gởi cho tôi hồ sơ của những kẻ phải chịu trách nhiệm về cái chết của những nhân viên của chúng ta tại Colorado và trên đảo St. Paul. Chúng không phải là những tên tầm thường. Những kỳ công của chúng tại NUMA giống như một bộ tiểu thuyết phiêu lưu”. Elsie dừng lại và chuyển nhiều tấm ảnh quanh cái bàn. “Gương mặt đầu tiên các vị thấy là Đô đốc James Sandecker, chỉ huy trưởng NUMA. Sandecker rất được kính trọng trong giới tinh hoa có quyền lực chính trị của chính phủ Hoa Kỳ. Sau những thành tích đáng ganh tị của ông ta trong chiến đấu, ông ta được chọn để tổ chức và lãnh đạo cơ quan này. Ông ta cũng có sức nặng rất lớn trong Quốc hội Hoa Kỳ”.
“Tôi đã gặp ông ta một lần trong cuộc hội thảo về khoa học biển tại Marseilles”, Karl nói. “Ông ta không phải là một địch thủ để chúng ta đánh giá thấp”.
“Tấm ảnh tiếp theo là của Rudolph Gunn, chỉ huy phó NUMA”.
“Một gã bé loắt choắt trông chẳng mùi mẽ gì”, Felix Wolf, một trong những luật sư của gia tộc, nhận xét. “Chắc chắn hắn không đủ sức để trở thành một kẻ giết người”.
“Hắn không biết sử dụng hai bàn tay để giết đối phương”, Elsie nói. “Nhưng chúng ta có thể bảo hắn mới là nhân vật chính đã gây ra cái chết của toán tìm kiếm trên đảo St.Paul. Tốt nghiệp đại học tại Học viện Hàng hải Quốc gia Hoa Kỳ, hắn từng là một sĩ quan sáng giá trong hải quân trước khi gia nhập NUMA và trở thành cánh tay phải của Đô đốc Sandecker”.
Bruno cầm tấm ảnh thứ ba lên. “Đây, gã này trông giống như một kẻ có khả năng mổ bụng đối phương trong một chớp mắt”.
“Hắn là Alberto Giordino, phụ tá giám đốc dự án đặc biệt của NUMA”, Elsie giải thích. “Tốt nghiệp sĩ quan Học viện Không lực Hoa Kỳ. Hắn cũng đã từng phục vụ chiến đấu. Bruno nói đúng, gã Giordino được xem là một kẻ rất thô bạo. Thành tích của hắn tại NUMA rất đáng nể. Hồ sơ về những dự án do hắn chỉ huy thành công rất dày. Hắn được biết tới như một tay giết người chuyên nghiệp, và từ những thông tin chúng ta có được thì hắn cùng với Gunn là hai gã đã tiêu diệt bảy người của chúng ta trên đảo St. Paul”.
“Còn cái ảnh sau cùng?” Otto nhẹ nhàng hối thúc.
“Tên hắn là Dirk Pitt. Được xem là một huyền thoại trong giới hải dương học. Là giám đốc dự án đặc biệt của NUMA, hắn được biết tới như một tính cách thuộc thời kỳ phục hưng. Còn độc thân, hắn sưu tập những xe hơi cổ. Cũng tốt nghiệp Học viện Không lực Hoa Kỳ, được thưởng nhiều huy chương. Những thành tựu của hắn khiến người ta đọc phát mệt. Chính hắn đã phá hỏng kế hoạch của chúng ta tại Colorado. Hắn cũng có mặt tại Nam Cực trong lúc chiếc U-2015 bị chiếc tàu ngầm nguyên tử đánh đắm”.
“Thật đáng tiếc”, Otto nói trong cơn giận cố nén. Anh ta nhìn từng gương mặt trong phòng họp. “Sai lầm là ta đã sử dụng nó thay vì một chiếc tàu hiện đại bình thường”.
“Một nỗ lực sai lầm của chúng ta nhằm làm rối trí kẻ thù”, Karl nói.
Bruno đập nắm đấm lên mặt bàn, “Chúng ta phải trả thù những tên này. Bọn chúng phải chết”.
“Chú đã ra lệnh tìm cách ám sát Pitt mà không có sự đồng ý của những người còn lại trong chúng ta”, Karl nói, giọng sắc bén. “Một nỗ lực thất bại, tôi phải nói như thế. Chúng ta không được trả thù một cách hoang phí. Chúng ta có một thời biểu phải tuân thủ, và tôi không muốn mọi quan tâm của chúng ta bị lạm dụng sai trong chuyện trả thù vặt vãnh”.
“Tôi thấy chẳng có gì vặt vãnh trong chuyện này”, Bruno cãi; “Bốn gã đàn ông này phải trực tiếp chịu trách nhiệm về những cái chết của anh chị em chúng ta. Chúng không thể không bị trừng phạt”.
Karl nhìn Bruno với ánh mắt lạnh như băng giá. “Vậy, chú em thân mến, chú không nhận ra khi Dự án Vận Hội Mới đạt tới cao điểm của nó, thì tất cả bọn chúng đều phải chết thảm khốc sao?”
“Karl nói đúng”, Elsie nói. “Chúng ta không thể xao lãng mục đích thực sự của mình và vô tâm với thảm kịch đã xảy ra cho gia tộc”.
“Vấn đề đã giải quyết xong”, Karl nói dứt khoát. “Chúng ta hãy tập trung vào công việc trước mắt và chấp nhận nỗi đau như một phần của cái giá phải trả”.
“Bây giờ thì những căn hầm tại Colorado và trên đảo St.Paul đã bị người ngoài phát hiện”, Otto nói. “Tôi thấy sẽ chẳng được gì nếu tiếp tục lãng phí thì giờ, tiền bạc và sinh mạng nhiều người trong việc giấu giếm sự tồn tại về nguồn gốc tổ tiên ngày xưa của chúng ta”.
“Tôi đồng ý”, Bruno nói. “Với những chữ khắc lúc này đang ở trong tay những viên chức chính phủ Hoa Kỳ, chúng ta nên nấp trong bóng tối trong lúc họ giải mã thông điệp và tuyên bố lời cảnh báo của người Amenes về thảm họa qua hệ thống thông tin quốc tế, như thế chúng ta khỏi tốn công”.
Karl nhìn lên mặt bàn với vẻ thâm trầm. “Mối lo đáng kể nhất của chúng ta là chuyện này bị lộ ra quá sớm trước khi Dự án Vận Hội Mới tiến hành và chúng ta có quá ít thông tin”.
“Vậy chúng ta phải làm cho mọi chuyện rối tung lên trước khi các nhà khoa học điều tra ra âm mưu của chúng ta”.
“Vì sự can thiệp của những thằng khốn trong NUMA, thế giới sẽ nghiền nát chúng ta trong hai tuần lễ sắp tới”. Bruno nhìn Karl qua cái bàn. “Liệu có cơ hội nào, thưa anh, để người của chúng ta tại Valhalla có thể thay đổi thời gian biểu không?”
“Có thể, nếu tôi giải thích tình hình khẩn cấp và nhắc họ lưu ý đến những nguy hiểm đang bủa vây chúng ta. Tôi tin là tôi có thể thuyết phục họ dời ngày tiến hành thêm mười ngày kể từ hôm nay”.
“Mười ngày”, Elsie nóng nảy lặp lại. “Chỉ mười ngày trước khi thế giới cũ bị hủy diệt và Đệ Tứ Đế quốc nổi dậy từ đống tro tàn”.
Karl trang trọng gật đầu, “Nếu tất cả tiến hành theo những kế hoạch đã được trù liệu kỹ lưỡng của gia tộc chúng ta từ năm 1945, chúng ta sẽ làm biến đổi toàn diện nhân loại trong suốt mười ngàn năm nữa”.
Sau khi được máy bay bốc tới một trạm nghiên cứu băng và bay qua miền cực tây Ấn Độ Dương đến Cape Town, Pitt hội ngộ với Pat O’Connell từ Washington tới. Cô được Tiến sĩ Bradford Hatheld tháp tùng, ông ta là một nhà bệnh lý học kiêm khảo cổ học có biệt tài về việc nghiên cứu những xác ướp cổ. Họ cùng bay tới đảo St. Paul trên một máy bay cánh quạt có những đặc tính của một trực thăng. Một trận mưa phùn nặng nề kèm theo những cơn gió mạnh đập vào những gương mặt không được che kín của họ như những cú roi quất. Ba người được một toán lính thủy đánh bộ thiện chiến của Hải quân Hoa Kỳ tiếp đón. Đó là những người đàn ông cao lớn và điềm tĩnh trong những bộ quân phục được ngụy trang với cành lá cho phù hợp với địa hình hòn đảo núi lửa St.Paul.
“Chào mừng đã tới mảnh đất Địa ngục bị quên lãng”, một người đàn ông cao lớn nói với một nụ cười thân thiện, trên vai lủng lẳng một vũ khí lớn vừa giống một khẩu tiểu liên tự động, vừa giống một súng phóng hỏa tiễn. “Tôi là Trung úy Miles Jacobs, có nhiệm vụ dẫn đường cho các vị”.
“Đô đốc Sandecker không nói gì đến chuyện bọn khủng bố có thể quay lại mà”, Pitt nói lúc bắt tay Jacobs.
“Ông ấy có thể sắp được về hưu”, Jacobs nói, “nhưng ông ấy vẫn có ảnh hưởng rất lớn đối với những nhân vật cao cấp. Tôi được lệnh phải bảo vệ những thành viên NUMA các vị, chúng tôi do ngài Bộ trưởng Hải quân phái tới”.
Không trao đổi gì thêm, Jacobs và bốn người của anh ta, hai đi trước dẫn đường, hai người còn lại đi sau cùng, đưa Pitt và hai nhà khoa học lên sườn núi theo lối mòn dẫn tới đường hầm. Pat gần như ướt đẫm nửa người dưới chiếc áo mưa và có vẻ không thể chịu đựng lâu hơn nữa. Đúng lúc đó, họ tới miệng đường hầm hình mái vòm. Và Giordino bước ra đón họ. Trông anh có vẻ mỏi mệt nhưng vẫn nghênh ngang như đội trưởng một đội bóng đá vừa mới thắng trận.
Pat thực sự ngạc nhiên khi trông thấy một gã đàn ông thô kệch, hồn nhiên lại chào đón người này, người kia với những cái ôm chặt và vỗ lưng nồng nhiệt như vậy. Tình cảm bộc lộ rõ rệt trong đôi mắt, cô thề là hầu như họ đều sắp chảy nước mắt.
“Thật khoái chí khi thấy cậu còn sống, anh bạn già”, Pitt nói với vẻ hạnh phúc.
“Cậu cũng vừa thoát chết mà, thú vị thật”, Giordino trả lời với miệng cười toe toét. “Tôi nghe nói cậu có ném mấy quả bóng tuyết vào chiếc tàu ngầm phải không?”
Pitt bật cười. “Họ phóng đại ghê quá. Tất cả những gì chúng tôi có thể làm là chửi rủa bọn chúng cho tới khi một chiếc tàu hải quân tới”.
“Tiến sĩ O’Connell”, Giordino cúi đầu rất sâu và hôn bàn tay mang găng của Pat. “Chúng tôi cần một người như cô để soi sáng nơi tối tăm này”.
Pat mỉm cười và nhún đầu gối để chào, “Thật vinh hạnh, thưa ông”.
Pitt quay lại và giới thiệu nhà khảo cổ học. “Al Giordino, Tiến sĩ Brad Hatheld. Tiến sĩ Brad tới đây để nghiên cứu những xác ướp mà cậu và ông Rudi đã phát hiện”.
“Tôi được thông báo ông và ông chỉ huy phó Gunn đã phát hiện một kho tàng cổ vật”, ông Hatfieid nói. Ông ta cao và gầy với đôi mắt màu nâu rất sáng, một gương mặt hẹp và mịn màng với giọng nói dịu nhẹ. Ông ta cúi xuống lúc nói và nhìn qua cặp kính gọng tròn như thể chúng được chế tạo từ những năm 1920.
“Xin mời vào để tránh mưa và đích thân ông sẽ nhìn thấy".
Giordino dẫn đường vào căn phòng bên ngoài. Từ khoảng cách năm mươi bộ, một mùi thịt cháy hôi thối không thể chịu được cùng với khói xộc vào mũi họ. Một máy phát điện đã được mang tới để hút khói ra ngoài theo một ống dẫn đặt từ trong căn phòng chạy dài tới miệng đường hầm. Ngoài ra nó còn cung cấp điện cho một số bóng đèn. Chẳng ai mong đợi sẽ chứng kiến một cảnh đổ nát đáng sợ như trong căn hầm lúc này. Toàn bộ căn hầm trở nên đen ngòm vì ám khói và bồ hóng do tên lửa gây ra. Một số vật dụng trong căn hầm trước khi vụ nổ xảy ra lúc này cũng đã biến mất.
“Thứ gì đã phá hủy ở đây khủng khiếp như vậy?” Pitt ngạc nhiên hỏi.
“Gã phi công của chiếc trực thăng tấn công cho rằng hắn có thể gởi một tên lửa mang đầu đạn qua đường hầm ấy mà”, Giordino giải thích trơn tru như thể anh đang mô tả phải ăn một quả táo như thế nào.
“Cậu và ông Rudi làm sao có thể có mặt ở đây vào lúc đó chứ?”
Giordino ngoác miệng cười. “Tất nhiên rồi. Có một đường hầm dẫn vào một cái hang khác phía sau cái hang này. Chúng tôi được một đống đá do một vụ sập hầm che khuất, ông Rudi và tôi sẽ không nghe được tiếng động nhỏ trong vài tuần lễ nữa vì tiếng nổ làm điếc tai, và phổi chúng tôi bị tắt nghẽn, nhưng cả hai đều sống sót”.
“Đúng là có phép lạ nên các cậu mới không bị nướng như những ông bạn kia”, Pitt nói và nhìn xuống những mảnh xương thịt đã cháy thành than còn sót lại của những kẻ tấn công.
“Lính thủy đánh bộ đã dọn dẹp những đổ nát và mang những cái xác về Mỹ để tìm hiểu lý lịch”.
“Kinh khủng quá”, Pat thì thầm, mặt cô trắng bệch. Nhưng cung cách chuyên nghiệp của cô nhanh chóng hồi phục và cô bắt đầu rà những ngón tay lên những gì còn sót lại của những chữ khắc trên vách đá. Cô nhìn với ánh mắt tiếc rẻ vào những viên đá bị vỡ nằm rải rác khắp nơi. “Họ đã phá hủy nó, cô nói như một hơi thở yếu ớt. “Họ đã xóa sạch nó. Những gì còn lại không đủ để giải mã”.
“Sự mất mát không lớn lắm đâu”, Giordino điềm tĩnh nói. “Tình trạng căn hầm trong kia vẫn còn nguyên. Những xác ướp chỉ bị phủ một lớp bụi, ngoài ra chúng vẫn ngồi đúng chỗ cũ, như lúc chúng tôi chưa bị tấn công”.
“Vẫn ngồi đúng chỗ cũ?” ông Hatheld lặp lại. “Nghĩa là những xác ướp không được đặt nằm trong những cỗ quan tài?”
“Không, họ được đặt ngồi trên những ghế đá”.
“Họ được bọc bằng vải?”
“Cũng không”, Giordino trả lời. “Họ ngồi đó như thể họ đang tham dự một cuộc họp hội đồng, tất cả đều mặc áo dài, đội nón và mang hia”.
Ông Hatheld lắc đầu với vẻ thắc mắc. “Tôi từng thấy những cách chôn cất cổ xưa, theo đó, những xác chết được bó chặt bằng the rất mỏng và được đặt vào những quan tài với những tư thế đẹp mắt trong những hòm bằng sứ, nằm sấp hoặc nằm ngửa, có cả tư thế đứng nữa. Nhưng tôi chưa bao giờ nghe nói có những xác ướp ngồi lộ thiên”.
“Tôi đã lắp đặt đủ ánh sáng trong đó để các vị có thể quan sát họ và những cổ vật khác”.
Trong thời gian Giordino chờ đợi Pitt và Pat O’Connell tới, anh đã nhờ những người lính thủy đánh bộ dọn dẹp những chỗ đá rơi, mang những tảng đá ra ngoài và ném xuống sườn núi. Nên lúc này đường hầm dẫn vào hang bên trong đã quang đãng và họ có thể đi thẳng người, không phải bò trườn trên những đống đổ nát. Những bóng đèn soi sáng căn hầm thậm chí còn rõ hơn ánh sáng mặt trời, làm lộ ra trọn vẹn những xác ướp và quần áo nhiều màu sắc của họ.
Ông Hatheld vội vã tiến thẳng lại và bắt đầu quan sát gương mặt xác ướp đầu tiên, gần đến nỗi hầu như mũi họ suýt đụng nhau. Ông ta trông giống một người bị lạc vào Vườn Địa đàng, đi từ xác ướp này đến xác ướp khác, quan sát lớp da, tai, mũi và môi họ. Ông ta mở một va li bằng da gấp lại và lấy ra một cái vòng kim loại dùng để đeo quanh đầu nhà phẫu thuật, có gắn đèn chiếu và hai lăng kính phía trước cặp mắt. Sau khi đeo cái vòng lên đầu, bật sáng bóng đèn và điều chỉnh tiêu cự cặp lăng kính, ông ta nhẹ nhàng phủi sạch lớp bụi trên mí mắt một xác ướp với một cây cọ mềm, loại các họa sĩ thường dùng. Những người khác im lặng nhìn cho đến khi ông ta quay đầu lại, tháo cái vòng kim loại quanh đầu ra, và nói.
Giọng nói của ông ta như thể một lời rao giảng trong giáo đường. “Sau tất cả những năm nghiên cứu các xác ướp cổ”, ông nhẹ giọng nói, “tôi chưa bao giờ nhìn thấy những cái xác được bảo quản tốt như thế. Thậm chí những nhãn cầu có vẻ như còn nguyên vẹn đủ để nói cho chúng ta biết màu sắc nguyên thủy của tròng mắt”.
“Có lẽ những xác ướp này mới được khoảng một trăm tuổi hoặc ít hơn”, Giordino nói.
“Tôi không nghĩ thế, chất liệu vải của quần áo, kiểu dáng những đôi hia, việc may cắt và kiểu dáng những khăn trùm đầu và nón cùng quần áo của họ trông khác hẳn bất kỳ thứ gì tôi từng trông thấy và hoàn toàn không giống những ghi chép trong lịch sử. Dù phương pháp ướp xác của họ như thế nào, kỹ thuật của những người này vượt xa kỹ thuật ướp xác tôi nghiên cứu được từ Ai Cập. Người Ai Cập mổ xẻ những xác chết để lấy hết các cơ quan nội tạng, lấy hết bộ óc qua hai lỗ mũi. Còn những xác ướp này không có dấu hiệu nào như thế, cả bên ngoài lẫn bên trong. Không có dấu hiệu nào của việc phẫu thuật”.
“Những chữ khắc chúng tôi tìm thấy trong dãy núi tại Colorado được xác định xuất hiện vào năm bảy ngàn trước Công nguyên”, Pat nói. “Có thể những người này và những cổ vật của họ cùng xuất hiện trong thiên nhiên kỷ đó chăng?”
“Tôi không thể nói gì khi chưa sử dụng kỹ thuật xác định thời gian”, ông Hatheld nói. “Xác định thời gian không phải sở trường của tôi. Nhưng tôi sẵn sàng, bằng cả uy tín của mình, nói rằng những người này đến từ một nền văn hóa cổ mà lịch sử con người hoàn toàn không biết gì”.
“Có lẽ họ là những người đi biển đầu tiên đã tìm thấy hòn đảo này và sử dụng nó để chôn cất những lãnh tụ của họ”, Pitt nhận xét.
“Tại sao lại chọn nơi này chứ?” Giordino vặn lại. “Tại sao họ không chôn những người chết của mình tại một nơi tiện nghi hơn dọc theo bờ biển một lục địa nào đó?”
“Giải đáp duy nhất là vì họ không muốn bị phát hiện”, Pat trả lời.
Pitt nhìn những xác ướp với dáng nghĩ ngợi. “Tôi không tin chắc vào điều đó. Tôi nghĩ, cuối cùng thì họ muốn những cái này được phát hiện. Họ đã để lại những thông tin khắc trên vách đá trong những căn hầm dưới lòng đất cách đây hàng ngàn dặm. Từ những gì tôi hiểu, cô và Hiram Yaeger đã xác định rằng những chữ khắc tại Colorado không phải là những thông điệp dành cho các thần thánh cai trị vùng đất của những kẻ quá cố”.
“Cho tới nay, điều đó đúng. Nhưng chúng tôi đã mất nhiều thì giờ để giải mã tất cả những ký hiệu và ý nghĩa của chúng. Và cho tới nay, sự hiểu biết ít ỏi của chúng tôi chỉ là những chữ khắc đó không phải là một sự chôn cất tự nhiên, nhưng đúng hơn, đó là một lời cảnh báo về một thảm họa tương lai”.
“Tương lai của ai chứ?” Giordino hỏi, “Có thể trong thời gian chín ngàn năm qua, thảm họa đó đã xảy ra rồi”.
“Chúng tôi chưa xác định thời điểm đó”, Pat trả lời. “Hiram và cái máy điện toán Max vẫn đang tiếp tục làm sáng tỏ chuyện này”. Cô bước lại một vách đá và phủi sạch lớp bụi che phủ những gì trông giống những hình chữ khắc trên đá. Đôi mắt Pat mở lớn vì kích động. “Những thứ này không giống những mẫu ký hiệu chúng tôi tìm thấy ở Colorado. Đây chỉ là hình tượng mô tả người và thú”.
Họ nhanh chóng quét dọn bụi bặm cho tới khi những hình chạm khắc lộ ra đầy đủ những chi tiết dưới ánh sáng những bóng đèn.
“Các vị thấy gì từ những thứ này?” Giordino hỏi, không đặc biệt nhắm vào ai.
“Rõ ràng là một nơi để tàu nấp bão hoặc một hải cảng”. Pitt điềm tĩnh nói. “Cậu có thể thấy cả một đội những chiếc thuyền cổ với buồm và mái chèo được che chở bởi đê chắn sóng, hai đầu có những tháp rất cao, có lẽ là một loại đèn hiệu hoặc hải đăng”.
“Đúng thế”, ông Hatheld đồng ý. “Tôi có thể dễ dàng phân biệt những công trình kiến trúc quanh khu đóng tàu, nơi có những chiếc tàu được neo buộc”.
“Những chiếc tàu này có vẻ như đang ăn hàng hoặc dỡ hàng”, Pat nói, cô đang nhìn vách đá với cái kính phóng đại. “Những hình người được chạm khắc kỹ từng chi tiết, cho thấy họ mặc cùng một loại y phục như những xác ướp. Một chiếc tàu trông giống như đang dỡ hàng là một bầy gia súc”.
Giordino đến gần bên Pat và nhìn kỹ những con thú. “Ngựa một sừng”, anh kêu lên. “Đây là loại ngựa một sừng. Nhìn xem, chúng chỉ có một sừng duy nhất mọc từ đỉnh đầu”.
“Thật khác thường”, ông Hatheld lẩm bẩm. “Lạ lùng chẳng khác gì những điêu khắc về những tượng thần vô nghĩa của người Hy Lạp”.
“Làm sao ông biết?” Pitt khích ông ta. “Có lẽ loài ngựa một sừng thực sự đã có mặt trên Trái Đất vào chín ngàn năm trước, trước khi chúng bị tuyệt chủng cùng với loài voi ma mút có lông và loài cọp răng kiếm”.
“Vâng, và cùng với chủng người Medusas quấn những con rắn trên đầu như tóc, và những người độc nhãn Cyclops chỉ có một con mắt trước trán”.
“Đừng quên có cả loài mãng xà và loài rồng”, Giordino chêm vào.
“Cho đến chừng nào xương và các hóa thạch được tìm thấy chứng tỏ chúng từng tồn tại”, ông Hatheld nói, “thì chúng vẫn còn là chuyện hoang đường của quá khứ”.
Pitt không tranh cãi với ông Hatheld nữa. Anh quay lại và bước tới sau những chiếc ghế đá có những xác ướp ngồi và chăm chú nhìn một bức rèm lớn thêu hình những tấm da thú phủ kín vách đá phía xa. Thật nhẹ nhàng, anh nhấc một góc bức rèm lên và nhìn vào bên dưới nó. Nét mặt anh lộ vẻ khó hiểu.
“Cẩn thận”, ông Hatheld cảnh báo. “Nó rất dễ rách”.
Pitt bất cần lời nhắc nhở của ông ta, anh nâng tấm rèm lên bằng cả hai tay cho tới khi nó cong lại trên đầu anh.
“Ông không nên chạm tay vào thứ đó”, ông Hatheld có vẻ cáu. “Nó là một di vật vô giá và có thể bị vỡ vụn thành từng mảnh. Nó phải được xử sự nhẹ nhàng cho đến khi được người ta bảo quản”.
“Những gì bên dưới nó thậm chí còn vô giá hơn”, Pitt bình tĩnh nói. Anh gật đầu với Giordino. “Cậu lấy hai trong những cây giáo này và chống tấm rèm lên”.
Gương mặt ông Hatheld trở nên đỏ bừng, cố ngăn Giordino, nhưng ông chỉ tốn công vô ích trong việc ngăn cản cái xe ủi đất đó. Giordino bế ông ta đặt sang một bên, lấy hai cây giáo bằng nham thạch, chống hai mũi giáo xuống nền căn hầm và dùng hai chóp cán giáo nâng tấm rèm lên. Sau đó, Pitt kéo hai bóng đèn lại cho đến khi ánh sáng của chúng soi rõ cả vách đá.
Pat nín thở nhìn bốn hình tròn khắc trên vách đá nhẵn thín, với những biểu đồ lạ lùng bên trong những đường tròn đó. “Đây là một dạng chạm khắc gì?” cô nói với giọng trầm trọng.
“Trông giống những bản đồ”, Giordino góp ý.
“Bản đồ của cái gì?”
Một nụ cười thích thú hiện ra trên môi Pitt. “Bốn hình chiếu khác nhau của Trái Đất”.
Ông Hatheld nhìn qua cặp kính dày qua vai Pat. “Buồn cười. Những hình chạm này không giống bất kỳ bản đồ cổ nào tôi từng thấy. Chúng rất chi tiết, và theo như chỗ tôi hiểu, chắc chắn chúng không giống một bản đồ địa lý”.
“Đó là vì đầu óc nông cạn của ông không thể hình dung được những lục địa và bờ biển trên Trái Đất vào chín ngàn năm trước”.
“Tôi phải đồng ý với Tiến sĩ Hatheld”, Pat nói. “Tất cả những gì tôi thấy là một chuỗi những hình dáng có thể là những hòn đảo lớn nhỏ với những bờ biển lồi lõm bao bọc bởi những hình ảnh như những ngọn sóng tượng trưng cho một đại dương”.
“Theo tôi thì đây là một bức tranh vẽ bằng mực hình một con bướm bị súng phòng không bắn trúng”, Giordino châm chọc.
“Ý kiến của ai cũng có phần đúng”, Pitt nói. “Tôi nghĩ nếu gom tất cả các ý tưởng của quí vị lại thì có thể giải quyết vấn đề “.
“Ông thấy gì?” Pat hỏi Pitt.
“Tôi thấy bốn hướng nhìn khác nhau của thế giới được quan sát từ lục địa Nam Cực vào chín ngàn năm trước”.
“Không nói đùa nữa”, Giordino nói. “Cậu có lý”.
Pat đứng lùi lại để có thể nhìn bao quát bức vách. “Vâng, bây giờ thì tôi đã có thể bắt đầu phân biệt những lục địa khác nhau, như thể Trái Đất bị lệch nghiêng vậy”.
“Tôi chịu, không thể thấy bằng cách nào Nam Cực lại thích hợp trong bức tranh này”, ông Hatheld khẩn khoản.
“Nó nằm ngay trước mắt ông đó thôi”.
“Do đâu ông tin chắc chắn như vậy?”
“Tôi thực sự muốn biết bằng cách nào ông kết luận như thế”, ông Hatheld chế nhạo.
Pitt nhìn Pat. “Cô có mẩu phấn nào trong cái túi mà cô vẫn dùng để làm nổi bật những chữ khắc trên đá không?”
Cô mỉm cười. “Phấn lỗi thời rồi. Giờ đây người ta thích dùng bột talc hơn”.
“Okay, ta dùng thứ đó và son môi Kleenex. Mọi phụ nữ đều dùng Kleenex mà”.
Pat mò trong túi xách và đưa cho anh một túi vải nhỏ. Rồi cô lục tìm trong cái bao lớn chứa những cuốn sổ ghi chép, máy ảnh và các phụ tùng và những dụng cụ dùng để khảo sát những ký hiệu cổ trên đá cho đến khi tìm thấy một cái hộp đựng phấn talc.
Trong thời gian chờ đợi ngắn ngủi, Pitt thấm ướt cái túi vải với nước lấy từ một cái can và dập lên những hình chạm khắc trên vách đá để bột talc dính chặt lên mặt đá. Rồi Pat chuyển bột talc khô cho anh và anh bắt đầu vỗ nhẹ nó lên mặt đá láng mịn. Khoảng ba phút sau, anh đứng lùi lại và ngắm nghía thành quả của mình.
“Thưa quí cô và quí ông, tôi tặng Nam Cực cho các vị”.
Cả ba người chăm chú nhìn vào lớp phấn trắng thô thiển Pitt đã tạo ra trên vách đá và lau sạch sau đó để lộ ra những đường chạm khắc. Lúc này trên vách đá hiện ra một hình ảnh rõ ràng và rất giống lục địa Nam Cực trên bản đồ”.
“Tất cả chuyện này ngụ ý gì?” Pat hỏi, cô vẫn tỏ ra bối rối.
“Những gì nó ngụ ý”, Pitt nói, vừa chỉ về phía những xác ướp ngồi yên lặng trên những ghế ngai của họ, “là những người cổ đại này đã đặt chân lên lục địa Nam Cực từ nhiều ngàn năm trước người hiện đại. Họ dong buồm chung quanh và vẽ bản đồ vùng này trước khi nó bị băng và tuyết phủ kín”.
“Vô lý!” ông Hatheld càu nhàu. “Khoa học đã chứng minh phải mất hàng triệu năm lục địa này mới bị một lớp băng mỏng phủ lên”.
Pitt không nói gì trong vài giây. Anh nhìn những xác ướp như thể họ vẫn còn sống. Cặp mắt anh chuyển từ gương mặt xác ướp này sang xác ướp khác như thể anh muốn giao tiếp với họ. Sau cùng, anh huơ tay về phía những cái xác câm lặng. “Những câu trả lời”, anh nói một cách quả quyết, “sẽ đến từ họ”.
Hiram Yaeger trở lại với cái máy điện toán rắc rối của anh ta sau bữa ăn trưa, mang theo một cái hộp lớn bằng giấy bìa cứng đựng một con chó nhỏ anh đã cứu thoát khỏi trung tâm giam giữ thú đi lạc của thành phố vài giờ trước khi tới giờ ngủ của nó. Từ khi con chó thuộc loài chó săn biết đem con mồi về cho chủ của anh chết vì tuổi già, Yaeger thề không nuôi chó nữa. Nhưng hai cô con gái tuổi “tin” của anh đã van nài và thuyết phục anh nuôi một con chó khác, và thậm chí còn dọa anh là chúng sẽ không tới trường nếu con chó săn của chúng không được thay thế bằng một con chó khác. Yaeger chỉ biết tự an ủi rằng mình không phải là ông bố đầu tiên bị con cái áp lực phải đem một con thú nuôi về nhà.
Anh đã có ý định sẽ tìm một con chó săn lông vàng, nhưng khi nhìn vào cặp mắt tròn như những cái tách uống cà phê rất linh động nhưng buồn bã của con chó nhỏ này, và trông thấy cái thân hình còm cõi vụng về của nó với những cẳng chân ngắn ngủn và bàn chân to bè bè, hai vành tai xụ xuống chấm đất của con vật, anh không nỡ rời nó. Anh trải những tờ báo chung quanh bàn làm việc và cho phép con chó nhỏ tha hồ đi lang thang, nhưng nó lại tỏ ra thích nằm yên trên chiếc khăn lông đặt trong cái hộp mở nắp và đưa mắt ngắm Yaeger, khiến anh - một lần nữa — không thể nào không quan tâm đến cặp mắt buồn rầu của nó.
Sau cùng, anh quyết tâm chăm chú vào công việc, và anh gọi Max. Cô ta hiện ra trên màn hình và quắc mắt nhìn anh. “Tại sao ông cứ bắt tôi phải chờ đợi chứ?”
Anh cúi xuống và bế con chó con lên cho Max nhìn thấy. “Tôi phải ra ngoài và mang con cún này về cho các con gái tôi”.
Nét mặt Max nhanh chóng dịu lại. “Trông nó đáng yêu quá nhỉ. Mấy cô bé của ông tha hồ mà thích”.
“Bạn có tiến triển thêm chút nào trong việc giải mã những chữ khắc không?” anh hỏi.
“Tiến triển khá về việc giải mã những ký hiệu, nhưng sẽ phải mất rất nhiều công sức để kết nối chúng với những từ ngữ có thể diễn dịch sang tiếng Anh”.
“Hãy cho tôi biết bạn đã tiến triển tới đâu?”
“Rất nhiều thực đấy”, Max hãnh diện nói.
“Tôi nghe đây”.
“Vào lúc nào đó trong năm bảy ngàn trước công nguyên, thế giới đã phải chịu đựng một thảm họa lớn”.
“Bạn có ý kiến gì về chuyện đó không?” Yaeger hỏi vặn.
“Có đấy. Vụ đó được mô tả trong bản đồ vị trí những ngôi sao trên trần hầm tại Colorado”, Max giải thích. “Tôi chưa giải mã toàn bộ mô tả đó, nhưng có vẻ như không phải chỉ một thảm họa, mà có đến hai sao chổi quét qua bên ngoài hệ thống mặt trời và gây ra thảm họa trên khắp Trái Đất”.
“Bạn chắc chắn chúng không phải là tiểu hành tinh chứ?” Tôi không phải là một nhà thiên văn học, nhưng tôi chưa bao giờ nghe nói có hai sao chổi di chuyển trong hai quĩ đạo song song”.
Yaeger hạ thấp bàn tay xuống, vuốt ve con chó nhỏ, vừa nói “Hai sao chổi cùng va chạm một lúc vào Trái Đất, tùy theo kích cỡ, chúng phải tạo ra những chấn động khủng khiếp”.
“Rất tiếc, Hiram”, Max nói. “Tôi không cố ý hướng dẫn làm ông bị lệch lạc. Chỉ có một sao chổi va chạm Trái Đất thôi. Sao chổi kia trượt khỏi Trái Đất, bay vòng qua mặt trời và mất hút vào không gian sâu thẳm”.
“Bản đồ vị trí những ngôi sao có cho biết vị trí điểm rơi của sao chổi không?”
Max lắc đầu. “Theo mô tả thì sự va đụng xảy ra trong địa phận Canada, có thể tại một nơi nào đó trong khu vực vịnh Hudson”.
“Tôi rất hãnh diện vì bạn, Max”, Yaeger đã bế con chó nhỏ đặt vào lòng, và nó nhanh chóng ngủ thiếp đi. “Bạn là một thám tử về thời cổ đại rất cừ”.
“Chuyện giải quyết một tội ác của người bình thường đối với tôi chỉ là trò trẻ”, Max kiêu ngạo nói.
“Được rồi, chúng ta có một sao chổi đâm vào Trái Đất tại Canada khoảng 7.000 năm trước công nguyên và gây ra sự phá hủy khủng khiếp khắp nơi”.
“Đó mới chỉ là sự va chạm đầu tiên. Trọng tâm nằm trong phần tiếp theo sau đó, với những mô tả của những người và nền văn minh của họ, đã tồn tại trước biến cố và hậu quả của nó. Hầu như tất cả đều bị hủy diệt. Chỉ một số ít những kẻ đáng thương còn sống sót. Họ trở nên quá yếu ớt để xây dựng lại đế quốc của mình, họ xem như số phận buộc họ phải lang thang khắp nơi để dạy dỗ những cư dân còn trong thời kỳ đồ đá nguyên thủy trong những miền xa xôi hẻo lánh còn tồn tại và xây dựng những công trình cảnh báo thảm họa tiếp theo sẽ xảy ra”.
“Tại sao họ chờ đợi một thảm họa khác từ không gian chứ?”
“Từ những gì tôi có thể góp nhặt được thì họ đã thấy trước sự trở lại của sao chổi thứ nhì để chấm dứt công việc hủy diệt toàn bộ của nó”.
Hầu như Yaeger không còn gì để nói. “Max, những gì bạn nói tới là thực sự có một nền văn minh mang tên Atlantis?”
“Tôi không nói như thế”, Max nổi cáu. “Tôi không xác nhận những người cổ đại tự gọi họ là gì. Tôi biết rõ họ chỉ gần giống như câu chuyện được truyền lại từ Plato, nhà hiền triết Hy Lạp nổi tiếng. Ghi chép của Plato về một cuộc đàm thoại đã xảy ra hai trăm năm trước thời đại của ông ta, giữa tổ tiên của ông ta là Solon — một chính trị gia lớn - và một giáo sĩ người Ai Cập về một châu lục tên là Atlantis”.
“Ai cũng biết giai thoại đó mà”, Yaeger nói, anh như chìm vào câu chuyện. “Ông giáo sĩ nói về một hòn đảo lục địa lớn hơn châu Úc ngày nay đã nổi lên giữa Đại Tây Dương, về phía tây những Cột Chống Trời của Herculer hoặc eo biển Gibralta, như chúng ta biết ngày nay. Nhiều ngàn năm trước, nó bị hủy diệt và chìm xuống biển sau một trận động đất dữ dội và biến mất. Đó là một bài toán nát óc làm điên đầu những tín đồ tôn giáo, nhưng các nhà sử học lại nhạo báng đến tận ngày nay. Về phần mình, tôi có khuynh hướng đồng ý với các sử gia, rằng câu chuyện Atlantis không gì khác hơn là một câu chuyện khoa học giả tưởng”.
“Sau cùng, có lẽ đó không hoàn toàn là một câu chuyện bịa đặt đâu”.
Yaeger chăm chú nhìn Max, cặp lông mày anh nhíu lại. “Tuyệt đối không có một nền tảng địa chất nào nói về một lục địa lẻ loi đã mất tích giữa Đại Tây Dương vào chín ngàn năm trước. Nó chưa bao giờ tồn tại. Chắc chắn không nằm giữa Bắc phi và vùng biển Caribbe. Ngày nay, nói chung, người ta chấp nhận huyền thoại đó có liên quan tới một vụ động đất khủng khiếp và lụt lội gây ra do một vụ núi lửa phun tại đảo Thera hoặc Santorini như người ta biết ngày nay, và nó đã quét sạch nền văn minh Minoan tại vùng Crete”.
“Vậy ông nghĩ những mô tả của Plato về châu lục Atlantis trong những tác phẩm Critias và Timaeus là chuyện bịa đặt sao?”
“Không phải mô tả, Max”, Yaeger càu nhàu cái máy điện toán. “Ông ta kể lại câu chuyện bằng giọng văn đối thoại, một thể loại rất phổ biến trong văn học cổ Hy Lạp. Câu chuyện không quan hệ tới nhân vật thứ ba là tác giả, nhưng lại giới thiệu với độc giả qua hai hoặc nhiều người thuật chuyện, một người hỏi người kia. Và, vâng, tôi tin Plato đã bịa ra câu chuyện Atlantis, ông ta khoái trá biết rằng những thế hệ tương lai sẽ ngấu nghiến câu chuyện bịa đặt, sẽ viết hàng ngàn cuốn sách về đề tài này rồi tranh luận với nhau không bao giờ dứt”.
“Ông là một người trơ cứng, Yaeger”, Max nói. “Tôi thấy rõ là ông không tin những tiên đoán của Edgar Cayce, một nhà ngoại cảm nổi tiếng”.
Yaeger chậm rãi gật đầu. “Cayce tuyên bố ông ta chứng kiến châu Atlantis chìm xuống và trồi lên trong vùng biển Caribbe. Nếu nơi đó từng có một nền văn minh ưu việt, thì hàng trăm hòn đảo chắc chắn sẽ lộ ra những đầu mối. Nhưng cho tới nay chẳng ai tìm thấy có nền văn minh cổ nào ở đó cả”.
“Vậy những tảng đá khổng lồ tạo nên con đường dưới đáy biển ngoài khơi Bimini?”
“Chỉ là sự cấu tạo địa lý có thể tìm thấy tại nhiều nơi khác dưới biển”.
“Và những trụ đá dưới đáy biển ngoài khơi Jamaica?”
“Người ta đã chứng minh đó là những cái thùng chứa bê tông khô đã đông cứng trong nước biển sau khi chiếc tàu chở chúng bị đắm, và những mảnh ván vỏ thùng rơi ra và trôi giạt khỏi nơi đó. Hãy đối diện sự thật, Max. Châu lục Atlantis chỉ là một huyền thoại”.
“Ông là một con lừa già, Hiram. Ông biết điều đó chứ?”
“Chỉ nên nói cái gì đúng như nó là”, Yaeger nổi cáu. “Tôi không thích tin vào nền văn minh ưu việt cổ đại mà vài kẻ mơ mộng tin tưởng và thêu dệt đủ thứ chuyện”.
“A”, Max nói sắc sảo, “thấy rõ rồi nhé. Atlantis đâu phải là một đô thị khổng lồ do Leonardo da Vinci và Thomas Edison đem dân tới đó định cư, và được bao bọc bởi những kênh đào trên một hòn đảo lục địa, như Plato đã mô tả nó. Theo những gì tôi đã khám phá, dân chúng thời cổ đại này là một nhóm nhỏ những quốc gia đã lang thang trên biển và vẽ bản đồ toàn thế giới khoảng bốn ngàn năm trước khi người Ai Cập xây kim tự tháp. Họ chinh phục biển c