- 3 -
“Chúng tôi cũng kết luận như FBI”, ông Helm lên tiếng ủng hộ ông Little, “Chúng tôi đã hỏi các chuyên gia về phạm trù kỹ thuật nano, nhờ họ nhận xét về những chuyện này, và tất cả bọn họ đều đồng ý là bọn Wolf có đủ các nhà khoa học đủ khả năng để tạo ra một hành động không thể tưởng tượng như vậy”.
Tổng thống nhìn thẳng vào Tướng South trên màn hình, “Tôi vẫn nghĩ nên sử dụng tên lửa để ngăn chặn hành động điên rồ đó trước khi chúng tách rời khối băng”.
“Đó chỉ là giải pháp cuối cùng, thưa Tổng thống. Các vị Tham mưu trưởng Liên quân và tôi đều nghĩ kế sách đó là quá liều lĩnh”.
Đô đốc Morton Eldridge, Tham mưu trưởng Hải quân, tham gia tranh luận, “Một trong những máy bay của chúng ta được trang bị hệ thông rađa đã tới địa điểm. Họ thông báo trong khu khai thác mỏ của bọn Wolf có trang bị rađa cực mạnh có thể khám phá một tên lửa từ một máy bay hoặc một tàu ngầm bắn tới khi hỏa tiễn còn cách mục tiêu ba phút bay. Như thế, chúng có nhiều thì giờ để báo động và khiến chúng hoảng loạn, có thể thực hiện dự định tách rời khối băng của chúng sớm. Vả lại, liều lĩnh không phải là một hành động khôn ngoan”.
“Theo như ông bảo”, Tổng thống Wallace nói, “thì thiết bị rađa của chúng thuộc loại hiện đại nhất. Vậy, tại sao chúng không phát hiện máy bay của các ông và tín hiệu nó gởi đi”.
Đô đốc Eldridge và Đại tướng Coburn trao đổi ánh mắt bối rối với nhau trước khi ông Eldridge trả lời, “Bởi vì máy bay của chúng ta có hệ thống nhiễu sóng rađa và lúc người của chúng ta xâm nhập căn cứ của chúng tại Chi Lê, chúng ta thực sự không thể bị phát hiện. Máy bay ngăn chận rađa của chúng ta hoạt động thấp hơn đường chân rời. Chúng ta có thể bẻ cong tín hiệu để đọc tín hiệu của chúng nhưng chúng không thể phát hiện hoặc đọc được tín hiệu của chúng ta”.
“Nếu lực lượng đổ bộ của chúng ta không thể xâm nhập hệ thống phòng thủ an ninh của bọn Wolf”, Tướng South nói, “lúc đó mới dùng phương kế cuối cùng là sử dụng tên lửa từ tàu ngầm nguyên tử Tucson của ta”.
“Nó đã có mặt tại Nam Cực?” Tổng thống hỏi, ông có vẻ không tin.
“Vâng, thưa ngài”, Đô đốc Eldridge trả lời. “Một trùng hợp may mắn. Nó đang tuần tra để thu thập dữ liệu về băng tại khu vực đúng lúc một tàu ngầm của bọn Wolf tấn công chiếc tàu nghiên cứu Polar Storm của NUMA, và nó đã đánh đắm chiếc tàu ngầm kia. Đô đốc Sandecker đã báo động tôi đúng lúc để gởi nó tới vịnh Okuma”.
“Còn kế hoạch sử dụng máy bay?”
“Hai máy bay Steath ném bom đang bay trên bầu trời cách căn cứ của chúng chín mươi dặm và sẽ đến nơi trong một giờ mười phút nữa”, Đại tướng Coburn trả lời.
“Vậy là chúng ta đã sẵn sàng cả hai mặt, đường biển và trên không”, Tổng thống nói.
“Đúng vậy ạ”, Tướng South xác nhận.
“Thiếu tá Cleary và lực lượng của ông ta sẽ bắt đầu tấn công lúc nào?” Tổng thống hỏi tiếp.
Ông South liếc nhìn cái đồng hồ kỹ thuật số lớn trên một bức tường, “Tùy thuộc vào gió và điều kiện thời tiết, họ sẽ trượt qua mục tiêu và nhảy xuống trong vài phút nữa”.
“Chúng ta sẽ nhận được tin tức về diễn tiến trận tấn công chứ?”
“Chúng ta có thể liên lạc trực tiếp với Thiếu tá Cleary qua vệ tinh đang phục vụ những trạm băng tại Nam Cực và Hệ thống Truyền tin Mc Murdo. Nhưng vì Cleary và người của ông ta sẽ hoàn toàn bận rộn trong giờ sắp tới và có khả năng bị rơi vào vòng đai hỏa lực của bọn Wolf, nên chúng tôi nghĩ tốt nhất là không nên can thiệp hoặc làm gián đoạn phạm trù thông tin của họ”.
“Vậy là chúng ta chẳng có việc gì để làm ngoài chuyện đợi và chờ tin”, Tổng thống Wallace nói một cách máy móc.
Rồi tất cả rơi vào im lặng. Không ai khác trong phòng chiến tranh trả lời ông.
Sau một lúc lâu, Tổng thống thì thầm, “Lạy Chúa, tại sao chúng con phải sa vào chuyện rác rưởi này?”
Lao xuống với vận tốc lớn hơn một trăm hai mươi dặm—giờ, qua tầng sương mù và mây ở độ cao ba mươi lăm ngàn bộ, Thiếu tá Cleary duỗi thẳng hai cánh tay và đối mặt với thứ mà ông chỉ có thể xác nhận là mặt băng vì mây che phủ tất cả dấu vết đường chân trời. Đầu óc ông cố phớt lờ những cú đập của bầu không khí lạnh lẽo hơn là chấp nhận sự tấn công của nó, và ông tập trung ý nghĩ để giữ vị trí ổn định của cơ thể. Ông nhớ lại và thầm cám ơn Stafford đã giảm vận tốc máy bay lúc họ nhảy xuống. Hành động này đã giúp toán tấn công những điều kiện gần hoàn hảo để họ có thể qui tụ gần nhau và hoàn tất độ cao ổn định mà không bị phân tán mỏng có thể đến cả ngàn bộ lúc mới lao ra và khi đáp xuống có thể lạc nhau đến vài dặm, và trong trường hợp như vậy, họ không thể nào tập trung và phối hợp chiến đấu được.
Ông cử động cổ tay bên trái để điều chỉnh cặp kính râm bảo vệ đôi mắt, đồng thời để nhìn dụng cụ đo độ cao MA2-30 trên cổ tay. Ông đang nhanh chóng lao xuống ở độ cao ba mươi ba ngàn bộ. Không khí cô đặc ở độ cao này, và ông mong chóng thoát khỏi nó. Ông vượt qua tầng không khí dày đặc sương mù và cảm nhận được sự châm chích của không khí trên cơ thể phía trước ngực, trên mặt nạ và cặp kính bảo hộ. Cách xa về bên phải khoảng bốn mươi bộ, ông chỉ có thể nhìn thấy những ánh chớp của vô số tia sáng như đom đóm trong khoảng không gian màu xám.
Những đốm sáng này phát ra từ chóp những nón trùm đầu Gentex của mọi người và đều hướng về phía sau lưng họ. Chúng được bố trí theo hướng đó để cảnh báo người rơi xuống sau không rơi vào người khác lúc mở dù.
Ông thoáng tự hỏi nếu họ đã lao ra khỏi máy bay theo hướng sai lệch thì chuyện gì sẽ xảy ra? Chắc chắn sự việc đã khác nhiều. Hoặc họ sẽ bị gió đẩy dạt ra khỏi mục tiêu, hoặc cũng có thể không xảy ra chuyện đó. Tỷ lệ sẽ là năm mươi - năm mươi. Nhưng lúc này thì ông hoàn toàn tin tưởng khả năng bay của Stafford, và ông cảm thấy lạc quan.
Trong những giây giữa lúc Đại úy Sharpsburg bắt đầu lao ra khỏi cửa máy bay cho tới lúc ông Cleary theo sau, lúc này hoàn toàn bị mọi người lãng quên. Ông nhìn xuống khoảng không bên dưới mình chẳng thấy ai. Tiếp theo, ông kiểm tra độ cao của mình. Ông đang đến gần độ cao hăm tám ngàn bộ.
Theo kế hoạch, mọi người sẽ rơi tự do cho đến lúc họ ở độ cao hăm lăm ngàn bộ, mở dù và tập trung lại trên không và hướng về khu vực đáp. Khi gần đạt độ cao này, mọi người phải nhớ nằm lòng chuỗi động tác tiếp theo của mình. Đó là nơi quan sát không gian chung quanh và cong người càng hoàn chỉnh càng tốt.
Sau đó, chăm chú theo dõi bằng mắt vào sợi dây kéo để bung dù phía bên phải ngay bên ngoài bộ đai mang dù. Bước tiếp theo là nắm chặt và giật sợi dây bung dù, rồi kiểm tra qua vai phải để biết chắc chắn dù đã bung và hoạt động tốt.
Sau đó, họ phải tiếp tục quan sát những đốm sáng để tránh vướng vào nhau. Tầng mây mỏng dần và họ có thể thấy nhau rõ dần lên khi càng xuống thấp. Độ cao của Thiếu tá Cleary bây giờ là hăm sáu ngàn bộ. Mọi ý nghĩ dừng lại và những năm tháng huấn luyện bắt đầu tác động. Không chút ngần ngại, ông Cleary phản ứng thật chính xác, im lặng lặp lại những động tác trở nên rất quen thuộc. Cong người, quan sát, duỗi tay, kéo, kiểm tra, kiểm tra và kiểm tra.
Chiếc dù MT-Iz của ông Cleary bung ra hầu như ở độ cao chính xác và trải rộng trên đầu ông, mềm mại, phẳng phiu và ông đang rơi với vận tốc một trăm năm mươi dặm-giờ bỗng chốc như dừng lại gần số không. Lúc này ông bị treo lơ lửng bên dưới cơn gió làm căng phồng chiếc dù, và trôi theo nó như một con rối đang mê man.
Như thể cặp loa khuếch đại âm thanh stereo đột ngột tắt ngõm, những tiếng gào rú của gió trượt qua tai ông chợt ngưng bặt. Cặp tai nghe trong cái nón trùm đầu Gentex của ông vang lên những âm thanh lộp bộp như bầu khí quyển bị nhiễu. Và lần đầu tiên từ lúc bước ra khỏi cửa máy bay, ông Cleary mới nghe rõ ràng âm thanh hơi thở của mình qua cái mặt nạ dưỡng khí. Ông bất chợt nhìn lên và đặc biệt quan tâm đến từng inch vuông trên cái dù của mình để xem có lỗ rách nào không, kể cả những nếp gấp đáng ngờ.
“Phù thủy, đây là Người Thiếc, yêu cầu kiểm tra chung, hết”.
Giọng nói của Trung úy Garnet vọng ra từ cặp tai nghe. Mọi người thông tin với nhau qua một microphone nhỏ vô tuyến Motorola gắn trong nón trùm đầu.
Ông Cleary trả lời, khởi đầu cho sự kiểm tra bằng thông tin, “Gọi cả toán, đây là Phù thủy, theo trình tự hãy báo cáo tình trang của các bạn, hết. Vì không thể nhìn được, ông Cleary không thấy được toàn nhóm. Ông phải nhờ những chỉ huy của từng nhóm nhỏ báo cáo chi tiết.
Đại úy Sharpsburg trả lời đầu tiên, “Phù thủy, đây là Sư tử. Tôi đang ở điểm hăm ba ngàn bộ. Tôi cũng không nhìn thấy hết người của mình, trừ hai người. Sẽ đứng bên cạnh để hướng dẫn con bọ que vào mục tiêu”.
Con bọ que là tiếng lóng chỉ một nhóm người nhảy xuống cùng một hàng.
“Nghe rõ cậu, Sư tử”, ông Cleary nói.
“Phù thủy, đây là Bù nhìn”, Jacobs của Thủy quân Lục chiến nói. “Đang ở tại hăm bốn ngàn bộ và mọi người của tôi đều thấy nhau rõ. Hết”.
Tiếp theo là Garnet của Lực lượng Hải quân, “Phù thủy, đây là Người Thiếc. Tôi nhìn rõ mọi người của mình, trừ một người”.
“Nghe rõ, Người Thiếc”, ông Cleary trả lời.
Ông Cleary điều chỉnh những dây dù bên trái và bên phải cho chiếc dù căng phồng. Ông cảm thấy nó tăng tốc lướt tới. Cặp tai nghe của ông vo ve những âm thanh của các thành viên đang báo cáo với chỉ huy đáng kính của họ. Ông lại kiểm tra trong đầu những diễn tiến đang chờ đợi trước mắt. Nếu toán tấn công đã thư giãn vì họ phối hợp đúng, họ sẽ đáp xuống giữa một khoảnh băng rộng gần bờ rào an ninh của khu khai thác mỏ. Khoảng cách này sẽ che giấu họ, và họ có thể tập trung lại trước khi tấn công.
Ông có thể cảm nhận cơn gió ào ào qua khi chiếc dù của ông đón nhận nó. Ở độ cao mười chín ngàn bộ, những tầng mây đã mở rộng, để lộ ra màu trắng trơ trụi trải rộng của vùng băng Nam Cực. Những chiếc dù bung rộng, uốn éo phía dưới trước mắt ông với những đốm sáng trông như những bóng đèn trên cây giáng sinh khổng lồ bên trên đường chân trời trống rỗng.
Bất chợt, giọng nói của Gamet gọi ông, “Phù thủy, đây là Người Thiếc. Tôi thiếu một người, nhắc lại, nhắc lại, thiếu một người, hết”.
Mẹ kiếp, ông Cleary nghĩ, ông không hỏi tên người bị mất tích. Điều đó không cần thiết. Nếu anh ta có một hành động sai chức năng, hoặc chiếc dù chính của anh ta không bung, anh ta sẽ ở một nơi nào đó bên dưới những chiếc dù dẫn đầu đang hướng về khu vực tập trung và được treo bên dưới cái dù dự phòng. Ông không hề có ý nghĩ anh ta rơi xuống và chết. Điều đó rất hiếm xảy ra. Một khi đã xuống tới mặt đất, người bị lạc sẽ dựa vào những kỹ năng của mình để sống sót cho tới khi một đội tìm kiếm có thể được phái đi, sau khi việc tấn công kết thúc thắng lợi.
Ông Cleary chỉ liên lạc với toán của kẻ bị lạc, “Người Thiếc, đây là Phù thủy. Anh ta mang theo những gì?”
“Phù thủy, chúng tôi mất toàn bộ một trang bị dùng để phá hủy và hai Law, hết”.
Không khá. Law là một vũ khí nhẹ dùng để chống xe bọc thép, một dụng cụ công phá rất mạnh, chỉ bắn một lần rồi ném bỏ. Nó có thể phá hủy hoàn toàn một xe bọc thép. Còn trang bị dùng để phá hủy là một khối chất nổ C-4 bằng plastic, nặng ba mươi cân Anh, ngòi nổ và đồng hồ định giờ. Họ rất cần loại dụng cụ công phá này khi phải đương đầu với những chướng ngại vật hoặc những công sự.
“Phù thủy gọi tất cả các thành viên. Mục tiêu còn cách tám dặm. Hãy tắt tất cả những đốm sáng và cố duy trì im lặng tối đa các phương tiện thông tin vô tuyến. Áp cận mục tiêu càng gần càng tốt. Hết”.
Trong mười lăm phút nữa, họ sẽ đáp xuống bãi đáp định sẵn. Ông Cleary nhìn đồng hồ đeo tay. Họ vẫn còn chạy đua với thời gian, và thời gian còn lại không nhiều. Ông hy vọng kẻ bị mất tích không phải là một điềm xấu. Vô số chuyện có thể xảy ra trong nửa giờ sắp tới. Họ không thể bị lạc thêm một người nào nữa với những vật dụng của anh ta. Đuôi gió đẩy họ tới thật êm. Ông Cleary nhìn về phía trước và phía dưới, hài lòng vì đội hình rất sát sao và những chiếc dù đúng như mong đợi, chúng rất ổn định. Theo kế hoạch, họ đang cách bãi đáp ở độ cao tám ngàn bộ.
Khu khai mỏ càng trở nên gần hơn. Có thể nhận ra chi tiết những toà nhà qua những chỗ hở của những đám mây. Lúc này, khi đang ở độ cao tám ngàn bộ và trong giai đoạn dễ bị tấn công nhất trước khi họ an toàn đáp xuống mặt băng.
Ở độ cao bảy ngàn bộ, Thiếu tá Cleary cảm thấy có điều gì đó không ổn. Ông đang lệch với tốc độ gió. Chiếc dù của ông bắt đầu giật và một cơn gió ập tới. Bằng trực giác, ông đưa bàn tay tìm những cái chốt cài nằm bên hông phía sau đai đeo dù. Đó là những dụng cụ để điều chỉnh sự thăng bằng của chiếc dù, làm tăng góc tiếp xúc với gió đổi chiều.
“Phù Thủy, đây là Sư tử. Chúng tôi bị gió xoay chiều tấn công”.
“Hiểu rồi, Sư tử. Tôi cũng bị, dù đang ở độ cao khác các cậu. Mọi người hãy chỉnh những chốt cài và giữ yên hướng lao xuống”.
Ông Cleary nhìn xuống dưới và nhận ra rằng mặt băng đang lướt qua dưới chân, ở độ cao hai ngàn bộ, đuôi gió lại nâng họ lên và không còn gió đổi chiều nữa. Ông quét đôi mắt khắp khu vực khai mỏ để tìm kiếm những di chuyển và hành động bên dưới. Mọi thứ trên mặt băng vẫn có vẻ bình thường. Những cuộn hơi nước màu trắng hiện ra tại những nơi không khí ấm và mệt mỏi thoát ra khỏi những toà nhà. Không một dấu hiệu bình yên lừa đảo nào.
Sau cùng, ông Cleary đã nghe được điều ông vẫn đợi.
“Phù thủy, đây là Sư tử. Tôi đã trông thấy bờ rào an ninh và nhận ra khu vực đáp. Hầu như chúng tôi đã về nhà”.
“Nghe rõ rồi, Sư tử”, ông Cleary trả lời, nhẹ nhõm.
Ông quan sát bộ phận tiền tiêu đang nhẹ nhàng hướng về phía bên phải và chuẩn bị đáp xuống. Những chiếc dù khác ngay tức khắc bám theo sau.
“Phù thủy”, Sư tử báo cáo mà không xưng mật danh, “năm trăm bộ và chuẩn bị đáp”.
Ông Cleary không trả lời. Không cần làm chuyện đó. Ông ngắm chiếc dù đầu tiên đáp xuống bãi và tháo dù. Tiếp theo là chiếc dù thứ hai rồi thứ ba. Lúc những người lính chạm mặt băng, họ nhanh chóng tháo bỏ những thứ vướng víu, càng nhiều càng tốt, rồi nhanh chóng tạo một vành đai phòng ngự.
Lúc này, ở độ cao năm trăm bộ, ông Cleary quan sát toán thủy quân Lục chiến trong Lực lượng Delta của Trung úy Jacobs đáp xuống và sau đó là toán lính Hải quân của Trung úy Garnet. Lúc này đã vào đúng điểm đổi hướng, ông kéo mạnh chốt cài bên trái và xoay một góc chín mươi độ lao tới, khoảng một trăm mét, lặp lại động tác cho tới khi ông đối mặt với cơn gió. Ông cảm thấy nó đẩy vào cơ thể, làm chậm lại hướng lao tới của chiếc dù. Sau đó, ông đưa cả hai chốt cài vào điểm giữa rồi nhìn mặt băng và dụng cụ đo độ cao.
Ông nhanh chóng đạt độ cao hai trăm bộ. Mặt băng nhanh chóng trồi lên đón ông. Đến độ cao một trăm bộ, ông thả lỏng những chốt cài, hoàn toàn để rơi tự do. Sau đó, dựa vào sự khéo léo và kinh nghiệm bản thân, ông Cleary kéo những chốt cài xuống cho tới lúc chúng hết tầm, và chân ông chạm mặt băng Nam Cực, nhẹ nhàng như thế ông rời khỏi bàn đạp bộ yên ngựa.
Ông nhanh chóng tháo bỏ bộ dây đai và ném xuống băng toàn bộ hệ thống chiếc dù đã mang ông an toàn tới điểm đến. Rồi ông quì xuống, chuẩn bị khẩu tiểu liên spartan Q-99 Eradicartor để có thể sử dụng ngay.
Gamet, Sharpsburg, Jacobs đã có mặt bên cạnh ông chỉ trong vòng ba mươi giây. Họ thảo luận thật nhanh, xác định vị trí của mình và chuẩn bị lần cuối cùng cho việc họ sẽ di chuyển về phía trung tâm kiểm soát của khu khai mỏ. Sau khi chỉ thị lần chót cho Đại úy Sharpsburg, người sẽ đảm trách nhiệm vụ chỉ huy tấn công thay thế ông Cleary trong trường hợp ông này chết hoặc bị thương trầm trọng, ông nhìn về hướng khu khai mỏ qua cặp ông dòm. Không thấy bất kỳ dấu hiệu phòng ngự nào, ông Cleary ra lệnh cho các toán di chuyển không cần theo chiến thuật và ông giữ vị trí trung ương để kiểm soát các mặt.
Không muốn chết, từng cơn gió vùng vẫy để sống sót cho đến khi không còn chút sức lực nào tồn tại bên trong nó. Rồi nó lặng mất, để lại mặt trời làm biến dạng những tinh thể băng bị gió thổi dạt thành những cụm bụi sáng lóng lánh. Ánh sáng màu xám ảm đạm lại biến thành màu xanh và bầu trời trở nên trong vắt lúc chiếc xe trượt băng khổng lồ Snow Cruiser lù lù bò qua cánh đồng băng. Cỗ máy đồ sộ này đã chứng tỏ nó là một khách hàng thô lỗ. Những động cơ hoạt động không chút lỗi lầm, những bánh xe càn lướt qua mọi địa hình tuyết và băng. Nó không hề ngúc ngắc hay loạng choạng suốt trên bão tuyết quỉ quyệt, Nhưng những âm thanh bị bóp nghẹt từ ống thoát khí của nó đã phá tan bầu không khí yên tĩnh trên miền băng giá lẻ loi này.
Sau khi được nhiệt lượng từ các động cơ sưởi ấm, Pitt cảm thấy đã sẵn sàng đối mặt trở lại với thực tế. Anh nhận tay lái từ Giordino. Anh này tìm thấy một cây chổi trong phòng máy và dùng nó để quét lớp tuyết đọng trên mặt kính chắn gió. Không còn bị những lớp tuyết ngăn cản, những thanh quạt nước hoạt động trở lại và quét sạch những kính chắn gió. Rặng núi Rockefeller hiện ra từ xa và nhô lên khỏi mũi chiếc xe. Họ đã tới gần đích lắm rồi.
Pitt đưa tay chỉ về phía những đốm đen nổi bật trên nền tuyết trắng của đường chân trời phía bên trái anh, “Những cơ xưởng của bọn Wolf nằm ở đó”.
“Chúng ta đã làm tốt đấy chứ”, Giordino nói. “Chúng ta đã không bị lệch hướng quá một dặm suốt thời gian xảy ra trận bão tuyết”.
“Còn phải vượt một chặng khoảng ba hoặc bốn dặm. Chúng ta sẽ tới nơi trong hai mươi phút nữa”.
“Cậu định phá tan bữa tiệc mà không báo trước à?”
“Thật chẳng khôn ngoan chút nào nếu đâm đầu vào một toán an ninh đã được chuẩn bị của chúng”, Pitt trả lời. “Cậu nhìn thấy chỗ đá nhô ra từ khối băng thẳng góc với chân dãy núi chứ?”
“Tôi thấy”.
“Chúng ta có thể chạy dọc bờ vào mà không bị phát hiện, ta lợi dụng nơi đó để ẩn nấp trong lúc tiến gần lại trong hai dặm cuối cùng”.
“Hoàn toàn có thể làm điều đó”, Giordino nói, “nếu chúng không phát hiện khói xả từ chiếc xe Snow Cruiser”.
“Thì cậu bịt mấy cái ống xả lại”, Pitt ngoác miệng cười.
Họ vượt khỏi mặt băng mênh mông của khối băng Ross Ice Shelf và đi vòng theo chỗ đá nhô ra từ chân rặng núi như một cái lưỡi khổng lồ thè ra, cố ôm sát chân núi để không bị phát hiện khi họ đến gần vòng rào khu khai mỏ. Chẳng mấy chốc, họ đã lái xe chạy dọc dưới những vách đá dựng đứng màu xám như những ngọn tháp với những nhũ băng treo lơ lửng từ những chóp đá trông như những thác nước đã đông cứng, lấp lánh những màu lục và xanh dưới tia nắng mặt trời. Lối đi họ chọn dọc theo chân núi không bằng phẳng mà nhấp nhô dợn sóng.
Pitt đổi sang số hai để cho chiếc Cruiser bò lên một dãy những gò thấp và thung lũng. Chiếc xe khổng lồ ngốn những
bước dài qua mặt băng lồi lõm, những bánh xe rộng lớn của nó lên xuống những gò băng chẳng một chút mệt nhọc. Đôi mắt Pitt quét qua bảng kiểm soát hàng chục lần. Những dụng cụ báo nhiệt độ cho thấy nhiệt độ động cơ đã tăng trở lại, nhưng lần này họ có thể để cửa xe mở mà không phải chịu đựng sự hành hạ của trận bão tuyết.
Họ đang băng qua một miệng hẻm núi hẹp thì Pitt đột ngột dừng chiếc xe lại.
“Cái gì thế?” Giordino nhìn Pitt hỏi. "Cậu phát hiện điều gì hả?”
Pitt chỉ xuống qua kính chắn gió, “Có những vết bánh xe dẫn vào hẻm núi. Những dấu vết này chỉ có thể là vết bánh xe trượt băng”.
Đôi mắt Giordino theo dõi ngón tay chỉ của Pitt. “Những dấu vết này còn rõ, chứng tỏ chiếc xe chỉ mới đi qua sau khi trận bão tuyết chấm dứt”.
“Tại sao một chiếc xe trượt băng lại lang thang tới một hẻm núi xa lắc chứ?”
“Một lối vào khác của khu khai mỏ?”
“Có thể lắm”.
“Chúng ta sẽ theo dấu chúng?”
Giordino phì cười, “Tôi chết vì tò mò mất”.
Pitt xoay tay lái cho tới lúc nó hết vòng quay, và chiếc Cruiser bẻ ngoặc về phía dẫn vào hẻm núi. Những vách đá dựng nhô lên một cách nham hiểm bên trên hẻm núi, chiều cao của chúng tăng dần lên cho tới khi ánh sáng mặt trời trở nên nhợt nhạt khi họ tiến sâu hơn vào trong núi. May mắn là những chỗ ngoằn ngoèo và những khúc quanh không khắc nghiệt lắm, và chiếc Cruiser có thể len lỏi qua được. Mối lo duy nhất của Pitt là họ chẳng thấy gì khác ngoài một vách đá và phải lộn lại qua hẻm núi vì họ không có đủ khoảng trống để trở đầu xe. Khi còn cách miệng hẻm núi chừng một phần tư dặm, Pitt dừng xe lại trước một vách băng vững chắc.
Lối đi kết thúc ở đó, Ảo tưởng tan vỡ xâm chiếm đầu óc họ.
Cả hai bước ra khỏi chiếc Snow Cruiser và nhìn lên vách đá dựng đứng. Pitt cúi xuống quan sát những vết bánh xe dẫn vào hẻm núi và chấm dứt tại vách đá. “Lớp tuyết dày lên. Chiếc xe trượt băng không thể quay đầu ở đây”.
“Chắc chắn như thế, vì không có dấu vết bánh xe chứng tỏ điều đó", Giordino nhận xét.
Pitt bước tới cho tới khi mặt anh chỉ còn cách vách đá phủ bàng vài inch, khum hai bàn tay quanh mắt để ngăn ánh sáng làm chói mắt, và chăm chú quan sát. Anh chợt nhìn thấy vài đường nét lờ mờ sau lớp băng. “Có cái gì đó ở đây", anh nói.
Giordino cũng nhìn vào lớp băng và gật đầu, “Có phải đây là nơi người ta đọc câu thần chú
“Tất nhiên không phải câu thần chú đó rồi”, Pitt nói, giọng thâm trầm.
“Có lẽ nó phải dày tới ba bộ”.
“Cậu cũng suy nghĩ điều tôi suy nghĩ à?”
Giordino gật đầu, “Tôi sẽ ở lại bên ngoài để yểm trợ cho cậu với khẩu Bushmaster của tôi”.
Pitt lại mò vào trong chiếc Cruiser, cài số lui. Chiếc xe lùi lại khoảng năm chục bộ, giữ cho những bánh xe song song với những vết bánh xe do chiếc xe trượt tuyết để lại. Anh dừng xe, hai bàn tay ghì chặt tay lái, dán cứng thân mình vào ghế ngồi, đề phòng trường hợp kính chắn gió bị vỡ và băng va vào. Sau đó, anh cài số một và đạp hết chân ga. Với một tiếng gầm dội ra từ ống xả khí, cỗ máy khổng lồ chồm tới, tăng tốc rồi đâm sầm vào bức tường băng, làm rung chuyển mặt đất dưới chân Giordino.
Băng vỡ toang và văng tung tóe thành hàng ngàn mảnh từ trên cao rơi xuống như một vòi sen phủ chụp lên chiếc Snow Cruiser màu đỏ trông giống một chùm đèn treo bằng thủy tinh đổ ập xuống. Âm thanh của sự va chạm vang lên như tiếng nghiến răng của một con quỉ khổng lồ. Lúc đầu, Giordino nghĩ có lẽ chiếc xe phải tấn công bức tường băng vững chải này nhiều lần mới có thể xuyên qua nó, nhưng hầu như anh ta đã bị bỏ lại phía sau khi nó đâm thủng chướng ngại vật chỉ với đợt tấn công đầu tiên và biến mất về phía bên kia. Anh chàng người Ý vội vã chạy theo, khẩu súng trong hai cánh tay, giống như một lính thiết giáp chạy theo một chiếc xe bọc thép lúc tấn công.
Khi đã qua khỏi vách băng, Pitt dừng xe lại và phủi sạch những mảnh kính vỡ trên mặt và trước ngực. Một mảnh băng lớn lọt qua giữa tấm kính chắn gió, trượt qua sát thân mình anh trước khi rơi xuống sàn xe và văng tứ phía. Một gò má và trán Pitt bị kính vỡ cắt rách. Nhưng không có vết thương nào đủ sâu để phải khâu lại, tuy nhiên, máu từ những vết thương chảy ra khiến anh trông như có vẻ bị thương nặng. Anh quẹt dòng máu che hai con mắt với ống tay áo rồi nhìn xem tình trạng chiếc xe.
Nó đang dừng lại trong một đường hầm khá rộng, hai bánh xe trước đâm dính vào một vách băng đối diện với lối vào đã bị phá vỡ. Về cả hai hướng ngược nhau của đường hầm hoàn toàn vắng vẻ. Không thấy dấu hiệu thù địch nào. Giordino lao vào chiếc Cruiser và leo lên cái thang dẫn tới buồng lái. Anh nhìn thấy Pitt đang mỉm cười như một con quỉ với gương mặt bê bết máu.
“Trông cậu thảm hại quá”, anh ta nói, cố tìm cách đỡ Pitt ra khỏi chỗ ngồi dành cho người lái.
Pitt nhẹ nhàng đẩy bạn mình ra, “Chỉ trông có vẻ thế thôi. Chúng ta cũng không có thì giờ để băng bó vết thương. Cậu chỉ cần dán lên chỗ rách phía trên mắt với một miếng băng sơ cứu trong tủ thuốc trên xe. Trong lúc đó, tôi quyết định chúng ta sẽ tiếp tục đi về phía trái đường hầm. Trừ phi tôi đoán sai, hướng đó sẽ đưa ta tới vùng rào khu khai mỏ”.
Giordino hiểu việc tranh cãi về giải pháp của Pitt lúc này thật vô nghĩa. Anh lao vội xuống cabin dành cho thủy thủ rồi quay lại với những dụng cụ sơ cứu trong một cái hộp cứu thương chưa được mở ra từ năm 1940. Anh lau sạch vết máu đã đông trên mặt Pitt rồi thuốc sát trùng lên những vết cắt, và sau cùng băng những vết thương lại. “Một sinh mạng được cứu sống bởi hai bàn tay khéo léo của bác sĩ Giordino, chuyên gia phẫu thuật của Nam Cực”.
Pitt nhìn vào gương mặt anh phản chiếu trong tấm gương soi. Đủ mọi loại vải băng vết thương quấn chằng chịt quanh hộp sọ của anh.
“Cậu làm cái quái gì thế này?” Anh hỏi với vẻ đau khổ, “Trông tôi chẳng khác gì một xác ướp”.
Giordino vờ lúng túng, “Khoa thẩm mỹ không phải là một trong những điểm mạnh của tôi mà”.
“Về thuốc men thì cậu cũng chẳng hơn gì”.
Pitt lại khởi động động cơ và điều khiển chiếc xe lùi và tới cho đến khi anh có thể cho nó chạy thẳng dọc theo đường hầm. Lần đầu tiên, anh hạ kính cửa sổ xe xuống để quan sát độ rộng của đường hầm. Anh hình dung khoảng cách giữa hai vách đường hầm và hai trục bánh xe không lớn hơn mười tám inch. Rồi anh dồn sự chú ý vào một ống dẫn tròn lớn chạy dọc sát vách đường hầm với những ống dẫn nhỏ hơn thẳng đứng từ lõi cái ống dẫn lớn và mất hút trên trần đường hầm.
“Cậu sẽ làm gì với cái đó?” Anh hỏi, vừa chỉ vào cái ống dẫn.
Giordino bước xuống khỏi chiếc xe, len vào giữa một bánh xe trước và ống dẫn rồi đặt hai bàn tay lên nó, “Không phải là vật dẫn dây điện”, anh nói. “Nó phải được dùng vào một mục đích khác?”
“Nếu đúng như tôi nghĩ thì nó là.”, giọng Pitt bất chợt nghẹn lại.
“Một bộ phận của hệ thống làm tách rời khối băng”, Giordino nói, chấm dứt dòng suy nghĩ của bạn mình.
Pitt thò đầu ra ngoài cửa sổ và nhìn lui vào đường hầm kéo dài đến mút tầm mắt, “Nó phải trải dài một ngàn bốn trăm dặm từ vòng rào khu mỏ cho tới đầu mút đối diện của khối băng”.
“Không thể tin được bọn chúng có đủ kỹ thuật đào một đường hầm bằng khoảng cách giữa San Francisco với Phoenix”.
“Dù tưởng tượng được hay không”, Pitt nói, “thì bọn Wolf cũng đã làm chuyện đó. Cậu phải nhớ là đào một đường hầm xuyên qua băng thì dễ hơn qua đá cứng nhiều”.
“Chuyện gì sẽ xảy ra nếu chúng ta cắt một lỗ thủng trên tuyến dẫn này và ngăn chận bất kỳ hệ thống kích hoạt nào chúng đã tạo ra để thực hiện việc tách rời khối băng?” Giordino hỏi.
“Một sự rạn nứt có thể làm cho điều đó xảy ra sớm hơn”, Pitt trả lời. “Chúng ta không thể may mắn, trừ phi tìm ra một giải pháp khác. Chỉ tới lúc đó ta mới có thể liều lĩnh phá vỡ hệ thống ống dẫn này”.
Đuờng hầm trông giống một cái miệng khổng lồ đen ngòm. Ngoại trừ thứ ánh sáng lờ mờ của mặt trời xuyên qua lớp băng dày, không còn thứ ánh sáng nào khác. Một hệ thống soi sáng với những bóng đèn cao áp nằm rải rác cách đều nhau hai mươi bộ chạy dọc suốt trần đường hầm nhưng vẫn không đủ soi sáng mọi nơi. Pitt cài số, chiếc xe bắt đầu tăng tốc chạy dọc theo đường hầm cho tới lúc họ đạt vận tốc hai lăm dặm-giờ. Dù đó mới chỉ là vận tốc của một vận động viên xe đạp, nhưng có vẻ như nó sẽ làm gãy cổ như chơi trong đường hầm chật hẹp này.
Trong lúc Pitt chăm chú giữ cho chiếc Snow Cruiser không va quẹt vào vách băng vô tình, Giordino ngồi trên ghế dành cho hành khách, khẩu súng tiểu liên đặt trên đùi, quan sát phía trước cho đến hết tầm nhìn, cố nhận ra một dấu hiệu di chuyển hoặc bất kỳ sự cố nào khác trên ống dẫn chính và những ống dẫn phụ từ trên trần đâm xuống và biến mất dưới sàn.
Tình trạng vắng vẻ bất thường trong đường hầm gợi cho Pitt ý nghĩ bọn Wolf và những công nhân của chúng đang rời bỏ khu khai mỏ để chuẩn bị trốn lên những chiếc tàu cứu nạn khổng lồ. Anh lao chiếc xe tới với vận tốc nhanh nhất có thể, thỉnh thoảng, trục các bánh xe va quẹt vào hai vách băng hai bên tạo nên những đường rãnh trước khi chạy thẳng lại. Anh bắt đầu cảm thấy lo sợ. Họ đã mất quá nhiều thì giờ trong đường hầm này. Thời biểu gã Karl Wolf báo cho anh biết lúc gặp hắn tại Buenos Aires là bốn ngày và mười giờ.
Đã qua bốn ngày tám giờ và bốn mươi phút, anh chỉ còn một giờ và hai mươi phút là thời khắc Karl Wolf rẽ bấm nút để tách rời khối băng.
Pitt phỏng đoán còn khoảng một dặm hoặc một dặm rưỡi nữa mới tới trung tâm khu khai mỏ. Anh và Giordino không có những bản đồ khu vực này do vệ tinh cung cấp, vì vậy, một khi họ đã lọt vào khu trung tâm, có thể họ vẫn không biết và tất cả chỉ là suy đoán. Câu hỏi cứ lảng vảng trong óc anh là có thể toán những Lực lượng đặc biệt đã tới nơi và đã thành công trong việc loại bỏ bọn giết mướn của Karl Wolf. Bọn chúng đã chiến đấu một cách vô ích... vì gia đình Wolf đã hứa chắc chắn sẽ cứu chúng và gia đình thoát khỏi thảm họa diệt vong. Bất cứ suy nghĩ cách nào về điều đó, anh vẫn không sao hình dung được một bức tranh sáng sủa.
Mười tám phút trôi qua sau khi im lặng vượt qua đường hầm, Giordino hất đầu và chỉ tay về phía trước, “Chúng ta sắp tới một giao lộ”.
Pitt cho chiếc Snow Cruiser chậm lại trong lúc họ đến gần một giao điểm có năm đường hầm toả ra các hướng khác nhau. Tình trạng tiến thoái lưỡng nan làm họ điên đầu. Thời gian không cho phép họ chọn lựa sai lầm. Anh lại chồm ra ngoài qua cửa sổ bên hông và quan sát mặt sàn đường hầm. Những vết bánh xe dẫn vào cả mọi hướng, nhưng những vết sâu nhất có vẻ như dẫn vào một đường hầm về phía bên phải. “Đường hầm bên phải có vẻ như được sử dụng nhiều hơn cả”.
Giordino nhảy xuống xe và biến mất trong đường hầm. Vài phút sau, anh quay lại. “Cách nơi này khoảng hai trăm mét, hình như đường hầm mở rộng vào một hang động lớn hơn”.
Pitt khẽ gật đầu rồi quay đầu xe đi vào đường hầm bên phải. Những kiến trúc lạ lùng bắt đầu hiện ra và gắn liền với những bức tường băng, nửa ẩn nửa hiện nhưng nằm thẳng hàng cho thấy chúng do bàn tay con người tạo thành hơn là những cấu trúc thiên nhiên. Trong lúc Giordino cố nhận xét, đường hầm nhanh chóng mở rộng, dẫn vào một hang động mênh mông có cái mái vòm với vô số nhũ băng treo lơ lửng như cái vòi bạch tuộc. Ánh sáng hắt xuống từ nhiều lỗ trống trên mái vòm soi sáng trong hang. Quang cảnh trông như một nơi nào không thuộc về Trái Đất mà thuộc về một thế giới huyền bí, không có thời gian. Bị cảnh tượng mê hoặc, Pitt chậm rãi cho chiếc Cruiser dừng lại.
Cả hai người đàn ông lặng đi trong ngạc nhiên.
Họ nhận ra mình đang đứng tại một nơi đã từng là một khu vực rộng lớn được vây bọc bởi những toà nhà làm từ băng của một thành phố cổ đại.
Không còn được che giấu bởi tấm màn an toàn của cơn bão tuyết, những cơn gió cũng yếu đi, chỉ còn năm dặm mỗi giờ, Thiếu tá Cleary cảm thấy trần trụi, trong lúc toán quân áo trắng của ông dàn ra và bắt đầu tiến lại gần khu khai mỏ. Họ lợi dụng ưu thế của những chỗ băng lồi lên như những bướu lưng lạc đà để ẩn nấp cho tới khi đến bờ rào cao chạy tư chân núi tới vách băng trên bờ biển và bao quanh vành đai khu khai mỏ chính.
Thiếu tá Cleary không nhận được tin tức tình báo nào về lực lượng của đối phương, những kẻ mà người của ông phải đương đầu. Đơn giản chỉ vì CIA chưa bao giờ xem bọn người này là mối đe dọa cho nền an ninh của Hoa Kỳ. Và khi phát hiện sự thật khủng khiếp vào giờ phút chót thì họ không còn bao nhiêu thời gian để chuẩn bị cho việc xâm nhập, ngay cả trong chiến thuật nấp và chạy lúc này. Đây là một chiến dịch tạm thời, không phức tạp, đòi hỏi kết thúc nhanh chóng. Lệnh bảo họ phải làm tê liệt khu khai mỏ và ngăn cản hành động tách rời khối băng trước khi một toán lực lượng Đặc biệt khác gồm hai trăm người sẽ đến chỉ trong một giờ nữa.
Tất cả những gì ông Cleary được thông báo là lực lượng an ninh của bọn Wolf đều là những tên giết mướn chuyên nghiệp được tuyển lựa từ những đơn vị tác chiến tinh nhuệ trên khắp thế giới. Đó là thông tin do cơ quan Hàng hải và Hoạt động Dưới nước của Hoa Kỳ (NUMA) cung cấp và NUMA không phải là một tổ chức tình báo, ông Cleary kết luận. Nhưng ông lại tin tưởng những người lính ưu tú của mình có thể đối phó mọi kẻ thù họ phải đương đầu.
Có điều ông không rõ là nhóm nhỏ của ông sẽ phải chiến đấu với tỉ lệ một chống ba.
Di chuyển theo hai hàng dọc, họ áp sát được điểm lúc đầu trông có vẻ như một bờ rào đơn giản, nhưng nó lại là hai lớp rào với một đường mương nằm giữa. Hình như nó được xây dựng từ nhiều thập niên trước. Một tấm bảng nước sơn đã bay màu nhưng vẫn có thể đọc được hàng chữ “Cấm vượt qua”, viết bằng tiếng Đức. Được treo bằng một sợi xích, bên trên tấm bảng là những hàng dây thép gai và những ngạnh gai đã trở nên vô hại từ lâu vì lớp băng dày bọc kín chúng. Trước kia, đường dây thép gai trên cùng có thể cao hơn mặt băng nhiều bộ, nhưng những lớp băng chồng chất nhau cao dần lên, nên giờ đây người ta có thể dễ dàng bỏ một chân qua nó và vượt qua. Đường mương giữa hai lớp rào cũng đã bị lấp đầy băng, trở nên nhỏ hơn một luống cày, thấp và tròn. Lớp rào thứ nhì cao hơn và vẫn còn nhô lên khoảng bảy bộ trên mặt băng nhưng không phải là một chướng
ngại nghiêm trọng. Họ mất những phút quí giá để cắt đứt những chướng ngại cho đến khi có thể xâm nhập vào bên trong hàng rào. Ông Cleary xem đây là một triệu chứng tốt vì họ đã xâm nhập vào vòng ngoài vành đai mà không bị phát giác.
Khi đã lọt vào bên trong, việc di chuyển của họ bị ngăn chận bởi một dãy những tòa nhà không có cửa sổ. Ông Cleary ra lệnh dừng lại. Ông nghiên cứu một tấm không ảnh chụp khu vực này cỡ 15 X 18 inch. Dù đã nhớ kỹ từng lối đi, từng cấu trúc trong lúc bay từ Cape Town cũng như Sharpsburg, Jacobs và Gamet, ông vẫn muốn so sánh từng dấu hiệu trên bản đồ với thực tế họ đã trải qua. Và ông vui thích khi thấy chỉ còn năm mươi bộ nữa họ sẽ tới đúng điểm chọn. Lần đầu tiên từ khi đáp xuống, lập lại đội hình và đi tới qua mặt băng, ông mới nói vào máy vô tuyến truyền tin Motorola.
“Người Thiếc?”
“Tôi nghe rõ, Phù thủy”, giọng của Trung úy Warren Gamet trả lời.
“Tới đây chúng ta phải chia nhau ra”, ông Cleary nói. “Cậu đã biết điều gì đang đợi nhóm Hải quân của cậu. Chúc may mắn”.
“Chúng tôi đi ngay, Phù thủy”, Garnet tỏ ra biết phải làm gì. Nhiệm vụ của ông ta - như đã được phân công cho toán Hải quân - là mở đường và tiến vào trung tâm khu khai mỏ.
“Bù nhìn?”.
Trung úy Miles Jacobs của Thủy quân Lục chiến trả lời ngay, “Tôi nghe rõ, Phù thủy”, Jacobs và người của ông ta có nhiệm vụ bao vây và tấn công trung tâm kiểm soát từ phía ngó ra biển.
“Cậu phải di chuyển xa nhất đấy, Bù nhìn. Tốt nhất khởi hành ngay đi”.
“Chúng đã đi được nửa đường tới đó”, Jacobs trả lời, giọng tự tin, trong lúc ông ta và toán Thủy quân Lục chiến di chuyển xuống một lối đi bên hông dẫn tới khu trung tâm kiểm soát.
“Sư tử?”
“Sẵn sàng càn quét”, Đại úy Sharpsburg của Lực lượng Delta vui vẻ trả lời.
“Tôi sẽ hộ tống cậu”.
“Rất hân hạnh có một tay lão luyện bên cạnh”.
“Chúng ta đi thôi”.
Không chỉnh đồng hồ để thống nhất giờ giấc, không trao đổi gì thêm qua máy bộ đàm, toán tấn công chia nhánh và mở đường tiến về những mục tiêu dành cho họ. Tất cả đều hiểu họ phải làm gì. Bất cứ hành động thừa thải nào làm lãng phí thời gian cũng có thể khiến họ thất bại. Ông Cleary không nghi ngờ gì về việc người của ông sẽ chiến đấu như những kẻ độc ác hoặc sẽ chết không chút ngại ngần để ngăn cản bọn Wolf trong việc thực hiện tội ác của chúng.
Họ di chuyển nhẹ nhàng như một dòng nước chảy lặng lẽ, đúng theo đội hình tấn công, hai người cách nhau mười mét về mỗi bên, và hai người tiếp theo hướng về phía sau. Cứ mỗi năm chục mét, họ dừng lại, nằm phục xuống mặt băng hoặc nấp vào bất kỳ thứ gì có thể che giấu sự có mặt của họ, trong lúc Thiêu tá Cleary nghiên cứu địa hình và kiểm tra hai toán Hải quân và Thủy quân Lục chiến qua máy bộ đàm.
“Người Thiếc, báo cáo đi”.
“Đường sạch sẽ. Còn cách mục tiêu chưa đầy ba trăm mét.
“Bù nhìn, có khó khăn gì không?”
“Nếu không tin chắc, tôi sẽ bảo nơi này hoàn toàn bị bỏ hoang”, Jacobs trả lời.
Ông Cleary không nói gì, nhổm lên từ chỗ nấp, trong lúc Sharpsburg di chuyển toán Sư tử của ông ta về phía trước.
Trước mặt cánh quân này, khu cơ xưởng có vẻ giống như một nơi hoang phế lâu ngày. Ông Cleary không thấy có dấu hiệu gì đặc biệt ở đó. Cả khu vực hoàn toàn trống trải. Không bóng dáng một công nhân nào. Không có xe cộ qua lại. Tất cả yên tĩnh một cách kỳ lạ. Toàn khu bên trong vòng rào bao trùm một không khí im lặng lạnh lẽo và quái dị.
Karl Wolf chăm chú quan sát những màn hình trong phòng chỉ huy của bộ phận an ninh nằm trong tầng bên dưới trung tâm kiểm soát chính. Hắn thích thú ngắm cảnh ông Cleary và người của ông tìm cách băng qua những lối đi của khu trung tâm.
“Chú có vấn đề gì không, khi ngăn chận chúng cản trở việc tách rời khối băng của chúng ta?” Hắn hỏi Hugo đang đứng bên cạnh.
“Không ạ”, Hugo trấn an ông anh họ. “Chúng tôi đã tập dượt công việc này nhiều lần rồi. Các cộng sự của chúng ta đều sẵn sàng, những thanh chắn đã nâng lên và những chiếc xe trượt băng của chúng ta chỉ chờ lệnh là tham gia trận đánh”.
Karl gật đầu hài lòng, “Chú làm việc rất tốt. Tuy nhiên đây là những đơn vị thiện chiến của lực lượng chiến đấu Hoa Kỳ”.
“Đừng lo, thưa anh. Người của tôi cũng được huấn luyện tốt không kém bọn Mỹ. Chúng ta lại đông hơn chúng nhiều và có ưư thế là chiến đấu trên địa phận của mình. Yếu tố bất ngờ thuộc về chúng ta, không thuộc về chúng. Chúng hoàn toàn không ngờ là chúng đang bước vào một cái bẫy. Và chúng ta có thể di chuyển qua những đường hầm của những cơ xưởng ngầm dưới đất, rồi trồi lên bên trong những toà nhà và tấn công bên sườn và phía sau lưng chúng trước khi chúng biết chuyện gì xảy ra”.
“Chiến thuật tổng thể của chú thế nào?” Karl hỏi.
“Tuần tự lùa chúng vào một cái túi phía trước trung tâm kiểm soát. Ở đó chúng ta sẽ hủy diệt chúng dễ như bỡn”.
“Tổ tiên chúng ta đã từng chiến đấu bao nhiêu trận trước quân Đồng minh sẽ hãnh diện về chú”.
Rõ ràng thích thú lời khen của gã anh họ, Hugo đập gót giày và cúi đầu thật thấp, “Tôi rất vinh hạnh được phục vụ Đệ tứ Đế quốc”. Rồi hắn ngước lên nhìn những màn hình, quan sát diễn tiến của các cánh quân chiến đấu Hoa Kỳ. “Tôi phải đi ngay bây giờ, thưa anh, để chỉ huy những lực lượng phòng ngự của chúng ta”.
“Chú phỏng định phải mất bao lâu người của chúng ta sẽ làm chúng tê liệt”.
“Ba mươi, phút, chắc chắn không hơn”.
“Nếu vậy, chú và người của chú không còn nhiều thì giờ để lên máy bay. Chớ trễ nãi, Hugo. Tôi thực sự không muốn bỏ chú và người của chú lại sau lưng”.
“Và làm hỏng giấc mơ trở nên những người sáng lập một thế giới hùng mạnh mới”. Hugo say sưa nói. “Tôi không tin có chuyện đó”.
Karl đi về phía chiếc đồng hồ kỹ thuật số treo tường nằm giữa những màn hình, “Còn hai lăm phút nữa kể từ bây giờ, chúng ta sẽ khởi động các hệ thống tự động tách rời khối băng. Sau đó, mọi người trong trung tâm kiểm soát sẽ rời khỏi nơi này theo những đường hầm dưới lòng đất dẫn tới khu phòng ngự tập thể an toàn vì cách xa bãi chiến trường. Từ nơi này chúng ta sẽ sử dụng những xe điện để tới nhà chứa máy bay”.
“Chúng ta sẽ không thất bại”, Hugo nói với niềm tin sắt đá.
“Vậy chúc chú may mắn”, Karl nói. Hắn nghiêm chỉnh bắt tay Hugo trước khi xoay người bước vào thang máy sẽ đưa hắn tới phòng kiểm soát ở tầng trên.
***
Thiếu tá Cleary và toán Sư tử chỉ còn cách lối vào trung tâm kiểm soát một trăm năm chục mét thì giọng nói của Garnet vọng ra từ máy bộ đàm, “Phù thủy, đây là Người Thiếc. Ở đây có trục trặc...”
Đúng lúc đó, ông Cleary nhìn thấy phía sau thanh chắn trên lối đi trước mặt trung tầm kiểm soát những họng súng đen ngòm chĩa về phía họ. Ông há miệng để quát lớn nhưng đã quá trễ. Một loạt đạn làm điếc tai từ những khẩu súng của bọn nhân viên an ninh từ mọi hướng đổ dồn về phía Lực lượng Delta. Những đầu đạn từ hai trăm khẩu súng gieo như vãi trấu, xé rách những bức tường của những tòa nhà, rít qua bầu không khí lạnh buốt với những âm thanh chết chóc.
Gamet và toán lính Hải quân của ông ta bị tấn công lúc họ đang ở giữa một khoảng trống, nhưng họ cũng kịp nằm rạp xuống để tránh tầm đạn và ẩn nấp sau bất cứ vật gì họ nhìn thấy dọc theo dãy nhà. Bất chấp loạt đận vô tình, họ tiếp tục lao về phía trạm phát điện cho đến khi ông Gamet nhận ra một chướng ngại vật hầu như không thể nhận ra vì nó lẫn lộn với mặt băng trắng xóa mãi đến khi còn cách nó gần một trăm mét ông ta mới phát hiện. Người của Garnet bắt đầu nổ súng chống trả. Những khẩu súng phóng tên lửa Eradicator tống những đầu đạn về phía những tên an ninh nấp sau các chướng ngại vật.
Phía trước trung tâm kiểm soát, hầu như đúng lúc đó, ông Cleary cũng nhận ra mình đang đối mặt với những bức tường băng và những loạt đạn tương tự như hoàn cảnh của Garnet. Trước loạt đạn dày đặc, người dẫn đầu bên sườn trái của Lực lượng Delta nhận mấy viên đạn vào một đầu gối và bắp đùi và ngã xuống. Bò sát mặt đất, Đại úy Sharpsburg chộp bàn chân mang bốt của người bị thương và kéo anh ta vào một góc tòa cao ốc.
Ông Cleary chui vào dưới một cầu thang dẫn vào một phòng chứa hàng nhỏ. Những mảnh băng từ những trụ băng trên mái rơi như mưa xuống vai ông. Rồi một đầu đạn đập vào áo giáp trên người ông ngay bên trên trái tim, đẩy ông lảo đảo bật ngửa về phía sau, tuy không chết nhưng ngực ông đau buốt như bị nện bằng búa. Trung sĩ Carlos Mendoza, xạ thủ cừ nhất của toán tấn công, nâng khẩu súng Eradicator lên, hướng họng súng về phía gã nhân viên an ninh của bọn Wolf đã bắn ông Cleary và siết cò. Một bóng đen nảy lên khỏi mép chướng ngại vật trước khi rơi xuống lại và biến mất. Viên trung sĩ lại chọn mục tiêu khác và nổ súng.
Thêm vài loạt đạn đập vào mái nhà bên trên ông Cleary làm những mảnh băng văng đủ mọi hướng. Khi ông biết bọn Wolf đã chuẩn bị sẵn và chờ đợi họ thì đã quá trễ. Các công sự đã được bố trí cho một cuộc tấn công như thế. Và ông đau đớn nhận ra sự thiếu thông tin tình báo đang giết chết bọn ông. Ông cũng bắt đầu nhận ra toán tấn công của mình quá ít so với lực lượng phòng thủ quá đông đảo.
Ông Cleary tự nguyền rủa mình vì đã hoàn toàn tin cậy vào những nguồn tin không được kiểm chứng. Ông nguyền rủa Lầu Năm Góc và cơ quan tình báo Trung ương CIA đã ước đoán lực lượng an ninh của bọn Wolf chỉ khoảng từ hai chục đến hai lăm tên và không nhiều hơn. Ông nguyền rủa sự phán đoán bằng trực giác thiển cận của mình, và trong thời khắc nóng bỏng này, ông nguyền rủa mình đã phạm sai lầm trầm trọng nhất trong cuộc đời binh nghiệp của ông. Đó là ông đã đánh giá kẻ thù quá thấp.
“Người Thiếc”, ông hét qua máy bộ đàm, “Báo cáo tình trạng của cậu!”
“Tôi đếm có sáu mươi tên địch đã chốt lối đi phía trước mặt chúng tôi”, giọng Garnet trả lời đều đặn và ổn định như thể ông ta đang đếm một bầy cừu trên cánh đồng. “Chúng tôi đang chịu áp lực rất nặng”.
“Cậu có thể tháo lui để bảo toàn lực lượng không?”
“Chúng tôi không thể tới lui trong lằn đạn chính xác của chúng. Kẻ thù không phải là những tên giữ vườn tầm thường. Chúng biết những gì chúng đang làm. Ông có thể tăng cường cho tôi một toán để giảm bớt sức ép không, phù thủy? Nếu chúng tôi được tiếp viện một bên sườn, tôi nghĩ chúng tôi có thể chiếm được chướng ngại vật trước mặt”.
“Tôi bất lực rồi, Người thiếc”, ông Cleary trả lời. Ông biết rõ lực lượng lính Hải quân của Trung úy Garnet là một đơn vị tinh nhuệ. Nếu họ không thể tiến tới thì không ai có thể. “Chúng tôi cũng bị chận đứng vì hỏa lực của ít nhất tám mươi tên địch nên không thể gửi viện binh cho cậu. Tôi lặp lại, tôi không thể chia người để yểm trợ cậu. Cố tìm mọi cách để thoát ra và phối hợp với Sư tử”.
“Hiểu, Phù thủy. Chúng tôi rút đây”.
Với toán lính Hải quân đang phơi mình chịu trận giữa một nơi trống trải, Trung úy Garnet tuyệt vọng khi nhận ra ông không thể chờ đợi cứu viện mà ông phải tháo lui và tìm tới toán Lực lượng Delta của các ông Cleary và Sharpsburg qua cái mê cung chằng chịt những lối đi ngang dọc trong khu khai mỏ. Ông không phí phạm thì giờ để tính toán có nên cãi lệnh và có nên tiếp tục tấn công hay không. Phải đối phó với một chướng ngại vật được bao vệ bởi một toán những kẻ giết mướn đông gấp ba lần quân số của mình bằng cách xông qua một lối đi trống trải là một hành động tự sát và sẽ chẳng được gì ngoài sự hy sinh vô ích. Ông không còn chọn lựa nào khác ngoài việc bắt đầu một cuộc tháo lui có trật tự, và mang theo những người bị thương.
Đã vượt được hơn nửa chặng đường tới trung tâm kiểm soát, Trung úy Jacobs và toán Thủy quân Lục chiến của ông bị chận lại đột ngột vì những loạt đạn sấm sét và vì những lời trao đổi giữa các ông Cleary và Gamet. Ông thúc người của mình lao nhanh tới với hy vọng chiếm được phía sau trung tâm kiểm soát và giảm bớt gánh năng cho những cánh quân của Người Thiếc và Sư tử. Toán Thủy quân Lục chiến chỉ còn cách toà nhà trung tâm kiểm soát một trăm mét khi hai chiếc xe trượt băng bọc thép xuất hiện ở góc tòa nhà trước mặt và nổ súng vào họ.
Jacobs tuyệt vọng nhìn hai người của ông đổ xuống. Như một gã điên, ông siết cò khẩu tiểu liên Eradicator cho đến khi viên đạn cuối cùng rời khỏi băng đạn. Đúng lúc đó, viên trung sĩ của ông nắm cổ cái áo chống lạnh và kéo ông vào sau một cái thùng chứa rác trước khi một loạt đạn khác có thể hạ gục ông. Một loạt tên lửa của toán Thủy quân Lục chiến tạm thời chận đứng hai chiếc xe trượt băng, nhưng chúng lại tiếp tục lao tới.
Toán Thủy quân Lục chiến cầm cự dai dẳng trong lúc tìm cách thối lui trên lối đi, lợi dụng bất kỳ chướng ngại vật nào họ có thể nhìn thấy. Nhưng, không hề chờ đợi, hai chiếc xe trượt băng khác xuất hiện đột ngột phía sau họ và ồ ạt nổ súng. Jacobs cảm thấy dạ dày co thắt mạnh. Ông và toán người của ông không còn nơi nào để bấu víu, ngoại trừ một lối đi hẹp bên hông. Ông cầu mong họ không bị rơi vào một ổ phục kích, nhưng lối đi trông có vẻ sáng sủa ít nhất khoảng bảy chục mét.
Trong lúc chạy phía sau những người của mình và hy vọng họ có thể tới nơi trú ẩn trước khi những chiếc xe trượt băng vòng qua góc tòa nhà để bắn thẳng vào họ. Ông báo cáo cho thiếu tá Cleary, “Phù thủy, đây là Bù nhìn. Chúng tôi đang bị bốn xe trượt băng của chúng tấn công”.
“Bù nhìn, chúng có mang vũ khí nặng không?”
“Không thấy lộ ra. Trên mọi chiếc xe có bốn kẻ thù và vũ khí tự động. Những tên lửa tấn công của chúng tôi tỏ ra không hiệu quả đối với bọn này”.
Ông Cleary nằm dài dưới một cầu thang, lợi dụng nó như một lá chắn, và nghiên cứu tấm bản đồ khu khai mỏ. “Hãy cho tôi biết vị trí của cậu, Bù nhìn”.
“Chúng tôi đang di chuyển xuống một lối đi hẹp về phía biển sau cái gì đó trông rất giống một dãy nhà kho cách trung tâm kiểm soát chừng một trăm năm chục mét”.
“Bù nhìn, tiến thêm năm chục mét nữa, sau đó quẹo phải rồi tiếp tục đi tới giữa một dãy bồn chứa nhiên liệu. Nếu thế, cậu sẽ đến gần trung tâm kiểm soát từ một lối đi bên hông, tại đây cậu có thể tấn công bên sườn những kẻ thù đang ghìm cứng chúng tôi”.
“Đã hiểu, Phù thủy. Chúng tôi làm ngay”. Rồi sau khi suy nghĩ, Jacobs hỏi, “Chúng tôi phải làm gì để ngăn chận những xe trượt băng bọc thép?”
“Người Thiếc có hai tên lửa công phá”.
“Chúng tôi phải cần đến bốn”.
“Người mang hai hỏa tiễn kia đã mất tích lúc nhảy”.
“Người Thiếc đang ở trạm biến điện”, Jacobs nói với vẻ tuyệt vọng. “Anh ta không phải đương đầu với những xe bọc thép mà là chúng tôi”.
“Tôi đã lệnh cho cậu ta tháo lui khỏi đối tượng vì hỏa lực của địch quá mạnh. Cậu ta sẽ nhanh chóng phối hợp với Sư Tử”.
“Xin báo cho anh ta tiếp viện chúng tôi nhanh lên, vì bốn chiếc xe khó ưa này sẽ tấn công thẳng vào sau lưng khi chúng tôi tràn vào khoảng trống trước mặt ông”.
Jacobs và toán thủy quân Lục chiến nhanh chóng bọc quanh những bồn chứa nhiên liệu mà không chạm trán kẻ địch. Sau cùng, khi nhìn vào tấm bản đồ khu khai mỏ, ông ta dẫn cánh quân của mình tiến dọc theo một bức tư?