VỀ Ý NGHĨA CỦA CUỐN SÁCH NÀY VÀ TÊN GỌI CỦA NÓ
Chuông báo trước niềm vui khi hội hè
Nhưng ẩn bên trong cả từng hồi báo động.
Lời ghi trên chuông
Cha can đảm, cha tận cùng trung thực
Mang tên cha, con ngủ ở nôi này
Luỡi dao cha – đặt đầu nôi con đó
Chiến công cha - lời ru nựng con đây!
Lời ghi trên nôi
Có hai thứ người miền núi chúng tôi đặc biệt trân trọng giữ gìn: cái mũ của mình và cái tên của mình. Giữ gìn mũ là người có đầu dưới mũ. Giữ gìn tên là người trong tim có lửa.
Trên trần ngôi nhà nhỏ của chúng tôi có nhiều vết đạn. Bạn bè của bố tôi đã lấy súng lục nhắm bắn lên trần: những con chim ưng làm tổ trên các ngọn núi xung quanh cần phải biết rằng đứa em của chúng vừa mới ra đời, rằng ở Đaghextan có thêm một chim ưng nữa.
Tất nhiên đứa con trai không thế ra đời từ một viên đạn, từ một phát súng. Nhưng bao giờ cũng phải có một viên đạn nào đấy để ghi nhận sự ra đời của một chú bé trai.
Khi tôi ra đời và khi đặt tên cho tôi, bạn bố tôi đã hai lẩn nổ súng: vừa bắn lên trần vừa bắn xuống nền nhà.
Mẹ tôi kể lại mọi người đã đặt tên cho tôi như thế nào. Trong gia đình, tôi là đứa con trai thứ ba. Còn có một người con gái nữa, là chị tôi.
Tên đứa con trai đầu lòng cả làng đều biết từ trước khi nó ra đời, vì theo tục lệ, nó phải mang tên người ông đã quá cố. Mọi người dân trong làng đều nhớ đến điều đó và tất cả đều nói: sắp tới gia đình Gamzatốp sẽ có thêm cậu Mahômét.
Trong sân nhà ông tôi chưa từng bao giờ có con vật bốn chân bước vào, trừ chó và mèo. Không biết đã lần nào ông tôi ngủ trong chăn chưa, không chắc là ông tôi đã biết thế nào là quần áo lót. Chưa có vị bác sĩ nào trên thế giới này có thể khoe rằng đã được khám bệnh cho Mahômét, đã nhìn vào miệng ông, bắt mạch ông, bắt ông thở thật sâu, thật mạnh hay nói chung là nhìn thấy thân hỉnh ông. Không có ai trong làng tôi biết rõ được ngày sinh và ngày mất của ông. Nếu tin vào một lá đơn được viết ra để bôi nhọ bố tôi thì ông nội Mahômét có biết chút ít tiếng Ả Rập. Bố tôi đã lấy tên ông để đặt cho người con đầu lòng, người anh cả của tôi.
Bố tôi còn có một người chú chết ít lâu trước khi mẹ tôi sinh đứa con trai thứ hai. Chú tên là Akhintri.
- Đấy, Akhintri sống lại rồi! - dân làng sung sướng nói, khi cậu bé thứ hai sinh ra trong nhà tôi. - Akhintri của chúng ta đã sống lại. Nếu có con quạ nào đậu lên nóc nhà đơn sơ của ông thì đây sẽ là điềm lành, chứ không phải điềm dữ. Hãy cầu cho đứa bé này lớn lên cũng sẽ thành người tốt bụng như người nó đã mang tên.
Vào khoảng thời gian tôi sắp ra đời, bố tôi chẳng còn ai thân thích hay ruột thịt vừa mới chết hay mất tích ở xứ sở xa lạ để tên của người đó có thể được chuyển sang cho tôi, để tôi sẽ lại mang cái tên ấy trên đời một cách trung thực như vậy,
Khi tôi ra đời, bố tôi mời những người đáng kính nhất trong làng đến nhà để làm lễ đặt tên. Họ chậm rãi ngồi xuống trong nhà với đầy vẻ trịnh trọng, hệt như họ đang phải quyết định số phận của cả một nước. Trên tay mỗi người là một chiếc bình sứ miền Bankhar. Trong bình tất nhiên là rượu buza sủi bọt. Chỉ có một người cao tuổi nhất, râu tóc bạc trắng như tuyết, trông giống như một nhà tiên tri là không cầm gì trên tay.
Mẹ tôi từ một phòng khác bước ra và trao tôi cho ông già đó. Tôi quẫy đạp trên tay ông già, lúc ấy mẹ tôi nói:
Cụ đã hát trong đám cưới của cháu, lúc thỉ gảy đàn, lúc thì rung trống, Những bài hát của cụ rất hay. Bây giờ cụ sẽ hát bài gì, khi cụ bế trên tay đứa bé của cháu?
- Hỡi thiếu phụ! Cô là mẹ nó, cô sẽ đưa nôi và hát cho nó nghe. Rồi sau đó chim chóc và các dòng sông sẽ hát cho nó. Những thanh kiếm và viên đạn cũng sẽ hát cho nó. Bài hát hay nhất nó được nghe sẽ là bài hát từ miệng người con gái sau này nó yêu.
- Vậy thì cụ hãy đặt tên cho nó đi. Hãy để cho cháu, là mẹ nó, để cho cả làng này và cả Đaghextan nghe thấy cái tên cụ đặt cho nó.
Ông lão nâng bổng tôi lên phía trần nhà và dõng dạc nói:
- Tên con gái cần phải giống ánh sáng các vì sao hay giống bông hoa mềm mại. Tên con trai cần phải chung đúc âm thanh của những thanh kiếm và sự uyên thâm của các cuốn sách. Khi đọc các sách ta đã biết nhiều tên, ta đã nghe thấy nhiều tên trong âm thanh của kiếm. Những cuốn sách của ta và thanh kiếm của ta thì thào mách bảo ta rằng tên gọi đó là RAXUN.
Ông lão trông giống nhà tiên tri ấy ghé sát một bên tai tôi và thì thầm: “Raxun”. Sau đó, cụ ghé sát xuống tai kia và kêu to: “Raxun!” Tiếp đấy cụ trao lại tôi đang khóc cho mẹ, và hướng về phía mẹ, hướng về mọi người ngồi trong nhà, cụ nói:
- Đây, Raxun đây!
Những người ngồi trong nhà im lặng đồng ý tên đặt cho tôi. Các ông già nghiêng bình rót rượu, đưa tay vuốt ria mép, vui vẻ cười ha há.
Có hai thứ người dân miền núi cần giữ gìn: đó là cái mũ và cái tên. Có thể có cái mũ rất nặng. Cái tên cũng vậy. Hóa ra là cụ già râu tóc bạc phơ kia, người đọc nhiều sách và đi khắp thề gian, đã đem lại ý nghĩa và sứ mạng cho tên tôi.
Raxun trong tiếng Ả Rập có nghĩa là “sứ giả”, hay đúng hơn là “người đại diện”. Vậy thì tôi là sứ giả của ai, là đại diện cho ai?
Rút trong sổ tay. Nước Bỉ. Tôi tham dự cuộc gặp gỡ các nhà thơ thế giới, đại diện nhiều nước, nhiều dân tộc. Mỗi người đều lên diễn đàn và nói về nhân dân mình, về văn hóa, thơ ca, về số phận của đất nước mình. Cũng có những đại biểu như thế này: người Hunggari ở Luân Đôn, người Extônia từ Pari, người Balan ở Xan - Frăngxixkô... Biết làm thế nào được, số phận đã ném họ đi khắp các nước, qua những biển rộng và núi cao, cách thật xa quê hương.
Tôi ngạc nhiên hơn cả khi nghe một thi sĩ phát biểu: - Thưa các ngài, các ngài từ nhiều nước khác nhau đến đây. Các ngài là đại diện nhiều dân tộc khác nhau. Chỉ có tôi ở đây là không đại diện cho một dân tộc nào, một nước nào cả. Tôi là đại biểu của tất cả các dân tộc, của tất cả các nước, tôi là đại diện của thơ ca. Vâng, tôi - là thơ ca. Tôi - là mặt trời chiếu rọi cả hành tinh này, tôi - là cơn mưa tưới nhuần mặt đất mà không hề nghĩ đến nguồn gồc dân tộc của mình, tôi - là cái cây nở hoa như nhau trên khắp mọi miền của trái đất này.
Anh ta nói như vậy rồi rời khỏi diễn đàn. Có nhiều người vỗ tay. Và tôi nghĩ rằng: anh ta nói có phần đúng, tất nhiên, - chúng tôi, những nhà thơ, có trách nhiệm với cả thế giới, - nhưng kẻ nào không gắn bó với một mánh đất quê hương thỉ không thể đại diện cho cả hành tinh này được. Đối với tôi, anh ta giống như một người rời bỏ quê hương, lấy vợ ở một miền xa và gọi bà nhạc là mẹ đẻ. Tôi không ghét bỏ gì các bà nhạc, nhưng ngoài mẹ ra, không có ai khác là mẹ đẻ được.
Khi người ta hỏi anh rằng anh là người thế nào, thì anh có thể chìa chứng minh thư, tấm hộ chiếu ra, trong đó ghi mọi điều cần thiết.
Nếu khi có ai hỏi một dân tộc xem dân tộc đó là thế nào, thì dân tộc đó sẽ đưa ra “giấy tờ” của mình là các nhà bác học, nhà văn, nhà họa sĩ, nhạc sĩ, nhà hoạt động chính trị, các vị tướng lãnh.
Từng người một, từ khi còn trẻ, cần phải hiểu rằng mình ra đời trên trái đất này là để đại diện cho nhân dân mình, và cần phải sẵn sàng đón nhận vai trò đó.
Con người được đặt tên, được đội mũ và đeo vũ khí, con người được học những bài hát thân yêu ngay từ lúc nằm trong nôi.
Cho dù số phận làm tôi phiêu dạt đến thế nào, ở đâu tôi cũng sẽ cám thấy mình là đại diện của miền đất ấy, của những rặng núi ấy, của cái làng - nơi tôi đã biết cách thắng yên cương. Ở đâu tôi cũng tự coi mình là phóng viên thường trú của Đaghextan quê tôi.
Nhưng tôi lại trở về Đaghextan với tư cách là một phóng viên của nền văn hóa chung nhân loại, là đại diện của cả đất nước chúng ta và thậm chí của cả thế giới.
Đất quê tôi, làm sao tôi kể nổi
Cho cả trăm miền bát ngát dưới trăng sao.
Giống như tôi đeo đầy mình báu vật
Nhưng tháo cởi ra thì không biết cách nào!
Đến một bài ca ngân vang trong tiếng mẹ
Tôi cũng không sao biết hát ở trăm miền!
Như trên vai, gánh hòm rương quý giá
Gánh mà không thể mở để ai xem!
Ngồi trên sân mái nhà, những người đổng hương của tôi bắt đầu hỏi tôi tới tấp:
- Ở những nơi xa ấy anh có gặp người mình không?
- Trên trái đất không đâu có núi như núi quê ta chứ?
- Ở nước ngoài anh có thằy buồn không, anh có nhớ làng ta không?
- Ở các nước khác người ta có biết đến chúng ta không, có biết rằng chúng ta cũng cùng sống trên trái đất này?
Tôi trả lời:
Làm sao mà họ biết chúng ta được, trong khi chúng ta cũng chưa tự biết mình đến nơi đến chốn. Chúng ta có một triệu người. Chúng ta sống bên những vách đá của miền núi Đaghextan. Một triệu người và bốn mươi thứ tiếng khác nhau...
- Thì anh hãy kể lại cho họ nghe về chúng ta - cho bản thân chúng ta và cho những người cùng sốngchung trên trái đất này. Đã hàng thế kỷ nay, kiếm và đao găm đã viết nên lịch sứ của chúng ta. Anh hãy dịch ra tiếng nước khác những cuốn sách đó. Nếu một người sinh ra ở làng Xađa như anh không làm chuyện đó, thì sẽ không có ai thay anh làm việc đó được.
Anh hãy tập hợp ý nghĩ của mình thành những đàn ngựa quý, không con nào thua kém con nào. Anh hãy thả đàn ngựa ấy lên cánh đồng cỏ của những trang giấy trắng. Hãy để cho ý nghĩ của anh phi trên trang giấy như những con ngựa cuống quít, như đàn dê rừng.
Đừng giấu những ý nghĩ của mình. Nếu giấu đi thi rồi anh sẽ quên mất đã để ở đâu. Giống như kẻ hà tiện đôi khi quên mất nơi giấu tiền, và cuối cùng bị mất tiền chính vì sự keo kiệt của mình.
Nhưng cũng đừng trao ý nghĩ của mình cho người khác. Không thể đưa nhạc cụ quý cho trẻ con thay đồ chơi. Đứa trẻ hoặc sẽ làm gãy hỏng, hoặc sẽ đánh mất, hoặc sẽ bị đứt tay vì thứ nhạc cụ đó.
Không ai biết tính nết ngựa cùa anh rõ hơn chính bản thân anh,
Câu chuyện về con đường mòn của bố tôi. Từ làng Xađa nhỏ bé của chúng tôi đến làng lớn Khunzắc, có một con đường ô tô đi. Huyện lỵ đóng ở Khunzắc. Mỗi lẩn đến Khunzắc, bố tôi không bao giờ đi đường chung mà đi bằng con đường mòn nhỏ của riêng mình. Ông đã vạch ra con đường đó, đã tạo thành lối mòn, đã đi trên đấy mỗi buổi sáng và buổi chiều.
Trên con đường nhỏ ấy bố tôi đã tìm ra được những bông hoa tuyệt đẹp. Ông hái chúng và kết lại thành những bó hoa còn tuyệt vời hơn.
Mùa đông, ông lấy tuyết nặn những hình người, hình ngựa, kỵ sĩ nho nhỏ dọc hai bên đường. Dân làng Xađa và dân làng Khunzắc đã đến ngắm nghía những hình tuyết ấy.
Những bó hoa ấy đã khô héo từ lâu, những hình tuyết kia đã tan từ lâu. Nhưng những bông hoa Đaghextan, những hình ảnh người dân miền núi còn sống trong những bài thơ của bố tôi.
Khi tôi mới là một thiếu niên và bố tôi còn sống, có lẩn tôi phải đến làng Khunzắc. Tôi rời khỏi đường cái lớn, và muốn đi bằng con đường mòn nhỏ mà bố tôi đã đi. Một ông già trông thấy thế, bảo tôi dừng lại và nói:
- Đường của bố, cháu hãy để nguyên cho bố. Cháu hãy tìm một lối đi khác, tìm con đường riêng của mình.
Tôi nghe lời cụ già và đi tìm con đường mới. Con đường thơ ca của tôi thật dài và gồ ghề, nhung tôi đã đi trên đó, hái những bông hoa của tôi, ghép lại thành bó hoa của tôi.
Chính trên con đường ấy, lần đầu tiên tôi nghĩ đến cuốn sách này.
Bắt đầu nghĩ - cũng thể như hoài thai. Đứa trẻ nhất định ra đời, chỉ cần nuôi dưỡng nó, như người đàn bà đã mang nặng cái thai trong bụng để rồi sau đó đẻ nó ra, nhễ nhại mồ hôi, vật vã đau đớn. Nói sang chuyện sách - thì đó là viết.
Nhưng tên đứa trẻ thì có thể chọn trước khi nó ra đời. Vậy thì tôi sẽ gọi tên Cuốn sách của tôi thế nào? Liệu tôi có đem tên hoa mà đặt cho nó được chăng? Hay là lấy tên một vì sao? Hay là đi tỉm trong những cuốn sách uyên thâm?
Không, tôi sẽ không đặt yên cương của người khác lên con ngựa của mình. Tên chọn từ đâu khác chỉ có thể là tên tục, tên lóng chứ không thể là tên.
Tất cả là thế. Nhưng nếu đi tìm đầu đề thì anh cần xuât phát từ nội dung mà anh muõn đặt vào trong cuốn sách, cần xuất phát từ mục tiêu mà anh đã tự đặt cho mình, Hãy chọn mũ theo đầu, chứ không phải làm ngược lại. Chiều dài của sợi dây đàn tùy thuộc vào chiểu dài cây đàn.
Làng của tôi, những rặng núi của tôi, Đaghextan của tôi, đó là tổ ấm, những ý nghĩ của tôi, tình cảm và khát vọng của tôi. Từ cái tổ ấy tôi đã bay lên như một con chim nhỏ đủ lông đủ cánh. Những bài ca của tôi đều bắt nguồn từ đấy. Đaghextan - là tổ ấm của tôi. Đaghextan - là cái nôi của tôi.
Vậy thì việc gì phải nghĩ ngợi lâu nữa? Ở miền núi, người ta thường lấy tên ông nội để đặt cho con trai đầu lòng. Cuốn sách sẽ là con của anh, còn anh lại là con của Đaghextan. Vậy thì tên nó sẽ là “ĐAGHEXTAN”. Mà làm sao có được tên nào khác, chính xác hơn, thích hợp hơn, đẹp đẽ hơn.
Ngưừi ta nhận ra nước mà ngài đại sứ đại diện, qua cây cờ nhỏ cắm trên xe ông ta. Cuốn sách của tôi là đất nước của tôi. Tên gọi của nó là cây cờ nhỏ ấy.
Ở người đang viết, các ý nghĩ luôn tranh cãi với nhau trên từng trang, từng dòng, từng chữ một, Và những ý nghĩ của tôi cũng lao vào cuộc tranh luận về tên gọi cuốn sách - như các vị bộ trưởng ở một hội nghị quốc tế nào lao vào cãi vã nhau ngay từ lúc tháo luận chương trình nghị sự.
Thề là có một vị “bộ trưởng” đưa ra đề nghị gọi cuốn sách tương lai là “Đaghextan”. Vị “bộ trưởng” thứ hai lại không thích thú cái tên đó. Đặt tập giấy xuống trước mặt, vị này bắt đầu phản đối:
- Không được. Không thích hợp. Sao lại lấy tên của cả một nước mà đặt cho một cuốn sách nhỏ? Không thế lấy mũ của bố đặt lên đầu được - đầu đứa trẻ sẽ lọt thỏm trong đó.
Sao lại không thích hợp? - Vị “bộ trưởng” nêu ra đề nghị cãi lại. - Khi trăng trôi trên nền trời và in hình xuống mặt biển, mặt sông, thì chúng ta cũng sẽ tiếp tục gọi bóng hình dưới nước là trăng chứ không thể là gì khác. Chẳng lẽ cần phải nghĩ ra một cái tên khác đế gọi bóng hình ấy sao? Thật ra thì trong một chuyện cổ tích có con cáo chỉ cho con sói thấy bóng trăng dưới nước và bảo rằng đó là một miềng mỡ lợn, con sói ngu xuẩn liền nhảy xuống sông. Nhưng mọi người đều biết cáo là con vật lừa đảo, giả dối.
Không được. Không thích hợp, - vị “bộ trưởng” kia khăng khăng nói. - Đaghextan trước hết là một khái niệm địa lý. Núi, sông, hang hốc, nguồn nước, thậm chí cả biển nữa. Khi người ta nói với tôi “Đaghextan”, thì trước tiên tôi hình dung ra một cái bản đồ.
Ồ, không phải thế! - tôi chen vào. - Trái tim tôi chứa đầy Đaghextan, nhưng trái tim tôi vẫn không phải là tẫm bản đồ địa lý. Đaghextan của tôi hoàn toàn không có những ranh giới địa lý hay ranh giới gì khác. Đaghextan của tôi cũng không có một tiến trình lịch sử nhịp nhàng liên tục qua nhiều thế kỷ. Cuốn sách của tôi, nêu tôi viết được nó ra, sẽ không giống một Cuốn sách giáo khoa về Đaghextan. Tôi xáo trộn các thế kỷ, sau đó tôi chọn ra thực chất của các sự kiện lịch sử, thực chất của nhân dân, thực chất của từ “Đaghextan”.
Có cảm tưởng như lả chỉ có một Đaghextan duy nhất cho mọi người Đaghextan. Tuy nhiên, mỗi người Đaghextan đều có riêng một Đaghextan của mình.
Tôi cũng có riêng Đaghextan của tôi. Chỉ có tôi nhìn thấy nó như thế, chỉ có tôi biết nó như thế. Từ tất cả những gì tôi đã thấy ở Đaghextan, từ những gì tôi đã nếm trải, từ những gì mọi người Đaghextan sống trước tôi và cùng tôi đã nếm trải, từ những bài ca và những dòng sông, những tục ngữ và những vách đá, những con chim ưng và những móng ngựa, từ những con đường mòn nhỏ trên núi và thậm chí cả từ tiếng vọng trên vách núi mà một Đaghextan của riêng tôi đã dần dần kết lại.
Rút trong sổ tay: Kixlôvốtxk. Trong căn phòng có hai chúng tôi. Tôi và một người Uzbếch. Vào lúc chiều hôm và ban mai, qua khung cứa số, chúng tôi nhìn thấy cả hai ngọn núi Enbrux.
Tôi nghĩ rằng hai ngọn núi này giống như hai cái đầu cạo trọc, nham nhở vết thương của hai người bạn, hai chiến sĩ dũng cảm của vua Samin.
Vào đúng phút ấy, anh bạn tôi nói:
- Quả núi hai ngọn này tôi trông như một ông già bạc đầu miền Bukhara, hai tay cầm hai bát cơm lớn rồi bất chợt dừng lại và chết lặng đi trước vẻ đẹp của thung lũng sớm mai.
Rút trong sổ tay. Ở Canquytta, trong nhà của Rabinđranát Tagor vĩ đại, tôi nhìn thấy bức về một con chim. Trên trái đất này chưa từng bao giờ có một con chim như vậy. Nó xuất hiện và sống trong tâm hồn của Tagor, nó là kết quả trí tưỏng tượng của ông. Nhưng tất nhiên, nêu Rabinđranát không nhìn thấy những con chim thật trên trái đất thỉ ông cũng không thể sáng tạo ra hinh ánh con chim kỳ lạ của mình.
Tôi cũng có một con chim kỳ lạ như vậy - đó là Đaghextan của tôi. Bởi vậy để cho tên cuốn sách chính xác hơn, tôi cần gọi nó là “ĐAGHEXTAN CỦA TÔI”. Không phải vỉ Đaghextan là sở hữu của tôi, mà là vì hình dung của tôi về Đaghextan không giống hình dung của người khác.
Thế là quyết định xong. Trên bìa cuốn sách sẽ đề: “Đaghextan của tôi”.
Người ta thường đeo lên ngực đứa trẻ mới sinh một lá bùa, để cẩu cho đời nó sung sướng, không bị ốm đau, không phải buồn khổ. Khoan hãy bàn đến chuyện lá bùa ấy trên thực tề có giúp ích gì không, ta hãy chú ý đến một điều là người ta đeo lá bùa cho trẻ dưới lớp áo chứ không đeo lồ lộ ra ngoài.
Mỗi cuốn sách đều phải có một lá bùa như vậy, lá bùa mà tác giả đã biết, độc giả đoán ra, nhưng lại ẩn đằng sau lớp áo.
Hay là, khi làm rượu urbet, người ta pha vào đó một chút mật ong. Mật ong tan đi trong rượu thơm thơm, ngòn ngọt, nhưng không thể trông thấy nó và sờ vào nó được.
Hay là, ở Bombay có một vườn hoa bốn mùa tươi tốt. Nó không bao giờ tàn héo, dầu chung quanh khô cằn nóng bức. Hóa ra là phía dưới vườn hoa có một cái hồ nước chảy ngầm đem nguồn nước mát tới nuôi sống cây cối,
Tư tưởng không phải là dòng nước đổ ẩm ầm xuống qua các tảng đá, chỉ tung bọt trắng xóa, mà là mạch nước ngầm thấm nhuần lòng đất và nuôi sống muôn cây.
Như mọi người đều biết, cả dải đất bao la của chúng ta bắt đầu từ điện Kremli. Và tôi cũng nghĩ như vậy. Nhưng đối với tôi, ngoài điều đó ra, thế giới còn bắt đầu từ làng quê thân yêu, từ ngưỡng cửa ngôi nhà mình. Điện Kremli và làng quê, tư tưởng cộng sản chủ nghĩa và tình cảm quê hương, - đó là đôi cánh của một con chim, là hai sợi dây trên cây đàn panđur của tôi.
- Nhưng nếu vậy thì việc gì phải đi khập khiễng? Nếu nghĩ thêm một cái tên nữa cho cuốn sách, cái tên thể hiện được thực chất bên trong của nó.
Tôí đã tỉm cái tên ấy mọi nơi, mọi lúc. Tôi đã nghĩ về Đaghextan khi chu du Ấn Độ. Trong nền văn hóa lâu đời của đất nước này, trong triết học của đất nước ấy, tôi như nghe được âm thanh vọng lại của một tiếng nói nào bí ẩn. Còn tiếng nói của Đaghextan của tôi thì cụ thể đối với tôi, tiếng nói đó nghe được rất xa trên mặt đất này. Có một thời, khi cất tên gọi “Đaghextan”, ta chỉ nghe thấy tiếng vọng của những khe núi hoang vắng và vách đá trơ trọi. Nhưng bây giờ nó vang xa khắp đất nước ta, khắp thế giới này và được hàng triệu, triệu trái tim đáp lại.
Tôi đã nghĩ về Đaghextan cả trong những ngôi đền thờ Phật ở Nêpan, nơi chảy ra hai mươi hai dòng nước chữa bệnh. Nhưng Nêpan chưa phải là viên kim cương đã được mài, và tôi không thể đem nó so với Đaghextan của tôi được, bởi vi kim cương Đaghextan nhiều lần đã được dùng cắt kính.
Tôi đã nghĩ tới Đaghextan cả ở châu Phi. Châu Phi làm tôi nhớ đến con dao găm chỉ mới rút ra khỏi bao một phần tư. Và cả ở nhiều nước khác - ở Canađa, Anh, Tây Ban Nha, Ai Cập, Nhật Bản - tôi cũng nghĩ về Đaghextan, tìm ra ở đó những điểm giống nhau hoặc khác biệt với quê chúng tôi.
Có một lần, trong chuyến đi thăm Nam Tư, tôi được đến thành phố Đubrôpnic tuyệt vời nằm trên bờ biển Adriatic. Ở thành phố này, nhà cửa, phố xá trông giống như những hẻm núi và vách đá, giống như tảng đá lớn có nhiều bậc thang. Lối vào các ngôi nhà đôi khi trông giống như lối vào hang động xẻ ra trong vách đá. Nhưng gần đấy là những ngôi nhà cao tầng hiện đại vươn cao, đứng bên cạnh những kiến trúc trung cổ và trước đó nữa.
Chung quanh thành phố có một bức tường dài bao bọc giống như thành phố Đerbent của chúng ta. Theo những đường phố nhỏ dốc dần lên như những cầu thang bằng đá, tôi leo lên bức tường thành. Dọc theo bức tường thành, cứ sau từng khoảng cách nhất định, lại có những tháp canh bằng đá nhô cao. Mỗi tháp có hai lỗ châu mai trông như hai con mắt dữ tợn. Những ngọn tháp canh này trông như những hiệp sĩ của đức giáo chủ đạo Hồi, những người suốt đời tận tụy, trung thành với chủ.
Leo đến tường thành, tôi muốn đứng trong tháp canh nhìn qua lỗ châu mai. Tôi muốn được nhìn ngay, nhưng ở đây đang có rất nhiều khách du lịch nên tôi không thể đến gần đó được. Qua lỗ châu mai từ xa tôi chỉ nhìn thấy những vệt gì xanh xanh nhỏ bé. Những vệt xanh ấy vừa bằng lỗ châu mai, và lỗ châu mai thì bằng bàn tay.
Khi tôi đến gần lỗ châu mai và ghé mắt vào, tôi rất kinh ngạc: tôi đã nhìn thấy biển mênh mông trải ra dưới ánh mặt trời tháng giêng, mặt biển hiền hòa vì đây là biển miền Nam Ađriatíc, vả có vẻ khắc nghiệt vì lúc này đang là tháng giêng. Màu biển không thuần một màu xanh mà đa sắc. Sóng biển trào lên đập ào ào vào những vách đá rồi lại lùi ra phía xa. Ngoài khơi là những con tàu lớn, mỗi con tàu rộng bằng cả làng tôi.
Vào lúc ấy, thoạt đầu tôi đứng sau lưng đoàn khách du lịch mà rướn người nhìn ra khoảng trời rộng và sau đó đến được gần ghé mẳt nhìn, tôi lại nhớ về miền Đaghextan của tôi.
Miền đất này trước đây cũng đứng ở phía sau cố chờ đến lượt mình, cũng rướn mình lên nhưng vẫn bị lưng của những người may mắn đứng trước che khuất. Và bây giờ dường như nó mới được nhìn thấy cả thế giới qua khung cửa sổ nhỏ của bức tường thành lũy. Bây giờ thì nó đã hòa nhập vào thế giới bao la chung quanh, đem tới đấy những phong tục, tập quán, những bài ca và phẩm giá của mình.
Ở những thời đại khác nhau, nhiều nhà thơ đã tìm kiếm những hình tượng khác nhau để đặt vào đó ý niệm của mình về Đaghextan. Nhà thơ buồn Makhơmút đã ví các dân tộc ở Đaghextan như những khe suối trên núi lúc nào cũng muốn nhập chung dòng, nhưng vẫn không thể nhập hòa và vẫn chảy từng dòng riêng lẻ. Ông còn nói rằng các dân tộc ở Đaghextan giống như những bông hoa mọc hai bên hẻm núi, ngả vào nhau mà không sao kết lại được. Nhưng bây giờ lẽ nào các dân tộc Đaghextan lại chưa hòa nhập thành một dòng, chưa kết lại thành một bó hoa duy nhất?
Batưrai đã nóí: giống như một người nghèo vứt vào xó tối chiếc áo rách của mình, Đaghextan đã từng bị vo viên lại và quẳng vào những hẻm núi.
Đọc xong lịch sử xứ Đaghextan, bố tôi đã so sánh nó với chiếc sừng đựng rượu mà mấy người say chuyền tay nhau trong bữa tiệc.
Tôi biết ví Người với ai, hỡi Đaghextan của tôi? Tôi sẽ tìm hình ảnh nào để nói lên ý niệm của tôi về số phận, về lịch sử của Người? Có thể rằng sau này tôi sẽ tìm được những từ chính xác hơn, xứng đáng hơn, nhưng hôm nay thì tôi muốn nói: “Khung cửa nhỏ mở ra đại dương thế giới”. Hay ngắn gọn hơn: “Khung cửa nhỏ nhìn ra đại dương”.
Đó, các đồng chí “bộ trưỏng” ạ, đấy là tên gọi thứ hai của Cuốn sách mà tôi đang định viết. Tôi hiếu rằng, nhiều nước láng giềng của Đaghextan cũng có thể tự gọi mình như vậy. Không sao cả, hãy để cho Đaghextan có những nước gọi trùng tên.
Thế đấy, thưa bạn, cái mũ là “Đaghextan của tôi” và ngôi sao đính trên mũ là “Khung cửa nhỏ nhìn ra đại dương”.
Giống như người sắp chơi đàn, tôi lên dây cây đàn panđur của tòi. Giống như người sửa soạn khâu vá, tôi xâu chỉ vào kim.
Các vị “bộ trưỏng” của tôi đã quyết định xong tên gọi cuốn sách như các bộ trưởng tại một hội nghị quốc tế nào đấy cuối cùng cũng thông qua được chương trình nghị sự.
Có khi, hai anh em thuận hòa ngồi chung một ngựa. Có khi một chàng kỵ sĩ dẫn một lúc hai ngựa xuống uống nước.
Abutalíp nói: Anh ta mua một chiếc mũ giống như của Lép Tônxtôi, nhưng mua ở đâu được một cái đầu giống ông?
Người ta cũng nói: Tên cậu bé đặt hay đấy, không biết lớn lên nó thành người thế nào.