VỀ HÌNH THỨC CUỐN SÁCH NÀY VIẾT NÓ NHƯ THẾ NÀO
Dao nếu mãi nằm yên trong vỏ - thì dao gỉ.
Tráng sĩ nếu suốt đời ở nhà - sẽ phát phì.
Lời khắc trên dao găm
Chỉ tôi đã luồn vào kim - nhưng chiếc áo khoác nào tôi sẽ may đây?
Đàn tôi đã lên dây, nhưng bài hát nào tôi sẽ hát?
Con ngựa nôn nóng, trung thành của tôi đã được đóng móng. Tôi tự nhấc từng chân nó lên xem để soát lại độ bền của móng. Tôi thắng yên và kéo dây chằng. Khó khăn lắm mới luồn được ngón tay vào dưới dây chằng. Ngựa đã được thắng yên một cách khéo léo.
Một ông già hơi giống bố tôi, cho tôi sợi dây cương. Một cô bé đôi mắt tinh nhanh đưa cho tôi cây roi. Người phụ nữ hàng xóm cố tình đi ngược lại phía tôi với bình nước đầy trên tay. Thế có nghĩa là chị muốn chúc tôi lên đường may mắn. Tôi dắt ngựa qua làng và mỗi người tôi gặp đều tránh đường cho tôi và nói: chúc anh lên đường may mắn!
Đến ngôi nhà đầu làng, một người phụ nữ trẻ đặt lên cửa sổ ngọn đèn sáng. Thế có nghĩa là chị muốn nói với tôi:
- Anh đừng quên khung cửa này, đừng quên ngọn đèn này. Nó sẽ còn sáng mãi chừng nào anh chưa trở về. Trên đường xa, trong những đêm mưa rét, nó sẽ rọi sáng cho anh qua năm tháng. Và khi đã mệt mỏi sau những ngày lãng du, anh bắt đầu quay về làng quê, ngọn đèn ấy sẽ đập vào mắt anh đầu tiên. Anh hãy nhớ khung cửa này, nhớ ngọn đèn này.
Tôi quay đầu lại nhìn làng quê thân yêu lần nữa. Tôi nhìn thấy mẹ tôi đứng trên mái nhà. Bà đứng một mình, không nhúc nhích. Trông bà mỗi lúc một bé dần, đến khi chỉ còn là một vạch thẳng nhỏ trên đường ngang của những mái nhà bằng. Cuối cùng, khi đường quành ra sau núi, quả núi che khuất làng tôi, tôi quay lại và không nhìn thấy gì nữa ngoài ngọn núi.
Phía trước tôi cũng nhìn thấy một ngọn núi. Nhưng tôi biết rằng, đằng sau núi là cả một thế giới bao la. Ở đây có cà những làng xóm, những thành phố to, những đại dương, những nhà ga, sân bay và các cuốn sách.
Móng ngựa gõ xuống con đường đá chạy trên miền Đaghextan quê hương tôi. Trên đầu là khoảng in hình những ngọn núi cao. Bầu trời khi thì chan chứa ánh mặt trời, khi chi chít những vì sao, khi bao phủ đầy mây đen và tuôn xuống đất những cơn mưa.
Đợi một chút, ngựa ta ơi, hãy đợi!
Ta còn chưa kịp ngoái lại đằng sau.
Phía sau đó - những gì ta để lại
Một làng quê - Nơi cắt rốn chôn rau.
Giờ hãy lao đi, lao như bay, ngựa hỡi!
Khỏi cần chi ngoái lại mãi đằng sau...
Làng phía trước, cũng làng quê chờ đợi
Đâu chẳng anh em thân thuộc, bạn bầu...
Tôi đang đi đâu? Làm sao tìm được đường đi đúng? Làm sao tôi viết được cuốn sách mới?
Rút trong sổ tay. Bây giờ ở Đaghextan thanh niên không mặc quần áo dân tộc nữa. Họ mặc quần âu phục, áo vestông, cài ca vát dưới cổ áo sơ mi - giống như ta vẫn thấy ở Matxcơva, Tbilixi, Taskent, Đusanbê, Minxk.
Chỉ còn những diễn viên của Đoàn ca múa là ăn vận quần áo dân tộc. Có thể gặp người mặc quần áo ngày xưa trong đám cưới. Thỉnh thoảng, nếu có ai đó muốn mặc thì mượn bạn bè, người quen, hay thuê lại. Anh ta không có quần áo riêng may theo kiểu đó nữa. Nói ngắn gọn tức là quần áo dân tộc đang mất dần đi, nếu không phải là mất hẳn.
Nhưng vấn đề ở chỗ cỏ một vài nhà thơ làm mất hình thức dân tộc trong sáng tác của mình, và thậm chí họ còn thấy tự hào về điều đó.
Tôi cũng mặc âu phục, mà không mặc áo dài như bố tôi nữa. Nhưng tôi không có ý định loại bỏ khỏi thơ tôi màu sắc dân tộc. Tôi muốn những bài thơ tôi vận bộ đồ dân tộc Đaghextan của chúng tôi.
Bản thân tôi thì không sao! Tôi được trời phú cho sống vài chục năm. Những năm này rơi vào lúc mọi người đều mặc âu phục, đi giày da. Thơ cũng có cuộc sống riêng. Nó có thời gian sinh ra và chết đi. Tôi không nói gì đến thơ tôi, có thể là nó sẽ không sống lâu hơn tôi.
Ở Matxcơva tôi nhìn thấy một cây sồi cổ kính. Người ta nói rằng Ivan Hung bạo đã trồng nó. Có nghĩa là khi cây sồi lớn lên, thì mới đầu người ta mặc quần áo kiểu quý tộc, sau đó người ta mặc áo khoác ngoài cộc tay và đeo tóc giả, rồi đến đội mũ chỏm cao vành hẹp và áo đuôi tôm, sau đó thì đội mũ kỵ binh Buđiônưi và mặc áo bluzông bằng da, tiếp đây người ta mặc vestông đơn giản và quần ống rộng, rồi quần ống hẹp... Còn cây sồi thì như muốn nói: các người dưới đó cứ chạy đi, cứ thay đổi kiểu mặc đi, nếu không còn việc gì khác hơn. Ta có một sứ mạng riêng - thu bắt những tia sáng mặt trời, biến chúng thành gỗ chắc, thành những hạt sồi mà từ đó sẽ nảy nở cũng những cây cao lớn như thế.
Ở miền núi người ta thường nói rằng quần áo làm nên con người, ngựa làm nên kỵ sĩ dũng cảm. Câu tục ngữ này nghe kêu đấy, nhưng tôi cảm thấy nó không đúng. Người anh hùng không nhất thiêt phải mặc áo khoác bằng da hổ. Đôi khi đằng sau tấm áo giáp thép lại ẩn náu trái tim của một tên nhát gan.
Bởi vì: Nhiều lần tôi đã phải gãi gáy khi thấy quả dưa hấu mình chọn có vẻ ngoài đẹp thế mà bên trong lại trắng bệch và nhạt thếch.
Bởi vì: Có lần, chàng trai trẻ trùm áo choàng lên người yêu và mang cô ta đi, thế rồi khi lật tấm áo đó lên thì chỉ thấy bà lão móm sều của cô gái.
Bởi vì: Abutalíp kể lại với tôi rằng có lần ông được mời dự đám cưới ở một làng xa và thổi kèn zurna ở đó. Đám cưới thật linh đình. Trên bãi rộng ven rừng đầu làng, ba ngày liền sáo thổi, ba ngày liền trồng gõ, đàn kêu, người hát. Như ở Đaghextan người ta thường nói, vừa có “đam - đam”, vừa có “tram - tram”, tức là vừa được nghe vừa được ăn. Cả làng tham dự đám cưới, mọi người từ bé đến lớn đều nhảy múa ít nhiều.
Đến ngày thứ ba, theo lệnh của chủ trò, một người lớn tiếng báo rằng lát nữa chú rể và cô dâu sẽ bước vào vòng nhảy. Chú rể thì mọi người đã thấy trong ba ngày qua, còn cô dâu thì suốt thời gian ấy chỉ ngồi với tâm khăn voan che mặt. Ba ngày liền Abutalíp ngắm nhìn trang phục của cô ta. Quần áo sặc sỡ có thể ví như tấm bìa đẹp của bộ Tuyển tập thơ miền Kapkazơ.
Khi cô dâu đứng lên và bước vào vòng nhảy, Abutalíp hơi nghi ngại trước dáng vẻ của cô ta. Nhìn vóc người đẫy đà, ục ịch của cô ta, có thể so sánh cô với bộ trường ca “Manax” của Kirghizi do Nhà xuất bản Văn học quốc gia xuất bản. Cô dâu sửa soạn bỏ tấm khăn che mặt. Mọi người lặng đi, và Abutalíp cũng nín thở. Đây rồi, cô dâu đã nhấc tấm khăn lên - khoảnh khắc mà bao người đã chờ đợi từ ba ngày nay...
Một mắt cô dâu nhìn về làng Khunzắc, mắt kia lại nhìn về làng Bôtlic. Giữa hai con mắt hằm hằm tránh xa nhau ấy nổi lên một cách vụng về cái mũi dài ngoẵng...
Abutalíp bỗng cảm thấy buồn rầu. Ông không thể thổi sáo, không thể ăn được nữa. Và đành phải bỏ dở đám cưới ra về.
Tôi nghĩ rằng, Abutalíp đã hơi phóng đại khi kể lại câu chuyện này.
Tuy nhiên, sự trình bày đẹp không thể cứu vãn được cuốn sách tồi. Để có thể đánh giá nó chính xác, cần phải vứt bỏ tấm vỏ che.
Bởi vì, có năm, người ta đã đặc biệt chú ý, “hết sức coi trọng” vấn đề địa vị của người phụ nữ miền núi và thái độ của nam giới đối với họ.
Vào năm đó, các ông chồng đã không dám nói nặng lời với vợ. Vì cãi cọ bình thường với vợ có thể bị gọi lên huyện ủy cánh cáo. Để khỏi có những lời eo xèo, đầu tiên người ta cảnh cáo suốt lượt các cán bộ ở huyện ủy. Vào năm đó, người ta tổ chức những hội nghị phụ nữ mà tại đó các đại biểu đã nói những lời mà ở tất cả các hội nghị khác, qua mọi thời kỳ chưa từng ai được nghe.
Vào năm đó, trong phiên chợ ngày chủ nhật, ta thấy xuất hiện một người đàn bà cao lớn chuyên mua bán những mặt hàng cấm. Đồng chí công an coi chợ đã không dám động đến bà ta, để khỏi vi phạm quyền bình đẳng của phụ nữ dân tộc. Tuy vậy, đến chủ nhật thứ ba, anh vẫn rụt rè nhắc nhở bà ta, và đến chủ nhật thứ năm, anh đánh liều bắt mụ ta dẫn vào đồn.
Khi anh dẫn mụ ta đi ngoài đường, mọi người đều chỉ trỏ và ngạc nhiên không hiểu hà cớ gì mà anh lại dám bắt một người phụ nữ dân tộc đã được quyền làm chủ?
Ngoài chợ, nơi mọi người chen chúc, anh khó quan sát kỹ mụ phe, và bây giờ anh mới có thể chú ý đến một vài chi tiết chẳng hạn như đôi ủng to quá khổ, lộ ra dưới vảy.
“Suối này chẳng phải chảy từ nguồn ra!” - đồng chí công an nghĩ vậy và cởi tấm khăn trùm trên mặt mụ ta. Một khuôn mặt đàn ông to bè bè hiện ra với đôi mắt lồi, ria mép mọc lởm chởm như cây mận gai trên vách đá.
Một số nghệ sĩ không đủ tài năng, lòng kiên nhẫn, và lòng tự trọng, cũng đã cố tiêu thụ sản phẩm của mình bằng cách khoác tấm áo của người khác, hy vọng lấy vẻ ngoài hào nhoáng để che giấu những ý nghĩ nghèo nàn. Nhưng nếu bên trong rỗng tuếch thì có nghĩa gì?
Cũng vậy, dù dao găm làm bằng gỗ có đẹp đến đâu, nó cũng không thể cắt được ngay cả cái cổ gà con. Có chăng, nó chỉ cắt được làn mưa đang rơi.
Cũng vậy, những đứa trẻ không thể sinh ra từ đám cưới búp bê.
Cũng vậy, khi muốn cắt bao quy đầu cho chú bé người ta chỉ cho nó cái lông ngỗng. Nhưng làm thế chỉ cốt đánh lừa. Không thể dùng lông ngỗng mà cắt được, cần phải có dao sắc.
Nhưng độc giả không phải là con trẻ mà có thể đánh lừa, an ủi, và tôi cũng không phải diễn viên đeo dao bằng bìa, cho dù chiếc bao đó là thật, được mạ vàng hẳn hoi.
Tất nhiên, cần có cả bao nữa - không có bao thì dao sẽ gỉ. Và nếu có bao đẹp thì cũng tốt;
Tất nhiên, khi chàng kỵ sĩ trở về với vật quý thì vợ anh ta sẽ choàng lên cổ ngựa tấm khăn lụa;
Tất nhiên, đối với ý nghĩ sắc sảo nhất thì ngôn ngữ cùn mòn chẳng khác gì chó sói với cừu non;
Tất nhiên, ngay cả cỗ xe tốt nhất cũng có thể bị long ra trên đường xấu, và thậm chí có thể đổ kềnh xuống vực;
Tất nhiên, không thể làm đẹp con ngựa bằng cách đặt lên lưng nó giá ngồi của con lừa, còn lừa thì không thể thích họp với bộ yên cương của con tuấn mã.
Đến đây, tôi xin kể cho các bạn nghe câu chuyện về một người Bankhar và con ngựa xoàng của anh ta.
Câu chuyện về một người Bankhar và con ngựa xoàng của anh ta. Một người Bankhar đặt lên lưng con ngựa khốn khổ của mình đủ các thứ lọ, bình, bát đĩa và đi bán rong khắp các làng.
Hôm ấy, ở một làng người Avar có tổ chức hội đua ngựa. Các chàng kỵ sĩ hăng máu đem tới đây những con tuấn mã còn hăng máu hơn, Các kỵ sĩ đều lừng danh, ngựa cũng lừng danh. Các kỵ sĩ trông rất đẹp và cân đối, và ngựa của họ còn đẹp và cân đối hơn. Đôi mất các kỵ sĩ lộ đầy vẻ dũng cảm, hăng hái, mắt ngựa thì tỏ ra nôn nóng.
Các chàng kỵ sĩ bắt đầu xếp thành hàng thì bất chợt có anh lái buôn hiền lành cưỡi con ngựa xoàng xĩnh đi vào bãi rộng, vẻ mặt người Bankhar trông ngái ngủ, còn ngựa của anh thì dường như vừa đi vừa ngủ. Đám kỵ sĩ trẻ tuổi cười phá lên, trêu chọc anh lái buôn.
- Vào đây thi với chúng tôi nào!
- Chúng tôi ghi ngựa của anh vào danh sách ngựa đua nhé!
- Sao lại không cho nó chạy đua với ngựa chúng tôi?
- Cùng đua với chúng tôi nhé, nêu không chẳng có ai nhặt móng sắt cho ngựa chúng tôi.
Đáp lại những lời diễu cợt ấy, anh chàng Bankhar lặng lẽ tháo dỡ khỏi ngựa của mình đủ thứ lọ, bình, bát đĩa, Anh bình thản xếp hàng lại một đống, bình thản ngồi lên ngựa và chiếm một chỗ bên cạnh các chàng kỵ sĩ kia.
Những con tuấn mã của các chàng kỵ sĩ kia lấy móng hất tung đất lên, hai chân trước giơ cao, toàn thân như dựng đứng, trong khi đó con ngựa của anh chàng Bankhar vẫn cúi đầu, thiu thiu ngủ.
Thế rồi cuộc đua bắt đầu. Những con tuấn mã hăng máu kia lao lên ào ào như gió cuốn. Một đám bụi mù bốc lên, và trong đám bụi đó, ở tận cuối cùng, là con ngựa của anh chàng Bankhar. Vòng đua đầu tiên kết thúc, rồi tới vòng thứ hai, thứ ba. Mọi người đều thấy rõ những con ngựa đua kia đã thấm mệt, mồ hôi đầm đìa, chúng sùi bọt mép ra, bọt rỏ xuống giữa đám bụi mù. Vó ngựa phi yếu dần, chúng chạy chậm lại. Dù các kỵ sĩ có thúc ngựa, quất roi vào chúng thế nào cũng không sao bắt được chúng phi nhanh hơn. Chi có chú ngựa của anh lái buôn nọ vẫn phi như lúc đầu, không yếu đi, không chậm hơn. Mới đầu nó đuối kịp tốp sau, rồi tiếp đó nó phi tới ngang tốp đầu, và đến vòng cuối, vòng đua thứ mười, thì nó vượt lên trên.
Người ta đã phải quấn vòng khăn giải thưởng đầy hãnh diện lên cổ con ngựa xoàng của chàng Bankhar. Anh ta bình thản dắt ngựa của mình đến chỗ để hàng, chât hàng lên rôi lại tiếp tục đi.
Những trường hợp tương tự như vậy có lẽ còn thường gặp trong văn học hơn là trong các cuộc đua ngựa.
Rút trong sổ tay. Những bài thơ viết dễ dàng, có khi lại rất khó đọc. Những bài thơ viết ra một cách khó nhọc, có khi lại dễ dọc. Hình thức và nội dung - dường như là quần áo và con người. Nếu con người tốt đẹp, thông minh, cao thượng thì việc gì lại không mặc quần áo tương xứng. Nếu con người có gương mặt đẹp, sao lại không có những ý nghĩ đẹp?
Ta thường thấy điều này, nhiều phụ nữ đẹp lại không thông minh, hoặc là rất thông minh thì lại không đẹp. Trong nghệ thuật cũng thường xảy ra như vậy.
Nhưng có những người phụ nữ may mắn, vừa thông minh vừa đẹp. Cũng có thể nói như vậy về những tác phẩm của các nhà thơ thật sự có tài.
Một người miền Maalia nói: “Người đến làng tôi chỉ vừa mới lộ ra trên đèo, tôi đã có thể biết ngay người đó là tốt hay xấu”.
Một người miền Kubatri nói: “Vàng hay bạc tự nó chưa nghĩa lý gì. Cần phải có đôi tay vàng của người thợ nữa”.
Những chiếc bình đẹp nhất
Nặn từ đất bình thường
Như câu thơ đẹp nhất
Từ những chữ bình thường.
Lòi ghi trên bình
Tôi đã sống trên đời này hơn 15 nghìn ngày. Tôi đã đi qua rất nhiều con đường trên mặt đất này. Tôi đã gặp hàng nghìn người trên trái đất này. Ấn tượng trong tôi nhiều vô kể, nhiều như những con suối trên núi lúc trời mưa hay lúc tuyết tan. Nhưng làm thế nào để kết các ấn tượng đó lại thành một cuốn sách? Viết được nó khác nào như đào được giữa thung lũng một con kênh vừa rộng, vừa sâu. Nhưng đó chỉ là một nửa nhiệm vụ. Cần phải làm sao cho những con suối trên núi kia gặp nhau và chảy vào dòng kênh đó. Bằng cách nào tôi có thể làm được việc đó? Tôi cần phải có thêm những hiểu biết gì, ngoài sự hiểu biết cuộc sông? Lý luận văn học ư? Phải chăng không thể nghĩ thêm về điều làm thơ thế nào thay vì việc làm hẳn bài thơ.
Tôi muốn nói rằng tôi không yêu thích một trường phái, một trào lưu văn học nào. Tôi chỉ có những nhà văn, nhà nghệ sĩ mà tôi yêu thích.
Rút trong sổ tay. Tại trường Đại học văn học, trong một kỳ thi, một sinh viên người Avar được hỏi: chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa lãng mạn khác nhau thế nào? Anh sinh viên người Avar đó chắc là không đọc những cuốn sách vê vấn đề ấy, thề mà lại phải trả lời. Suy nghĩ một lát, anh trả lời vị giáo sư:
Chù nghĩa hiện thực là khi ta gọi chim ưng là chim ưng, còn chủ nghĩa lãng mạn là khi ta gọi con gà trống là chim ưng.
Vị giáo sư cười phá lên và ký sổ kiểm tra cho anh bạn đổng hương của tôi.
Về phẩn tôi, ngay từ đầu tôi đã cô gắng gọi ngựa là ngựa, lừa là lừa, gà trống là gà trống và đàn ông là đàn ông.
Rút trong sổ tay. Nhà thơ danh tiếng Rabinđranát Tagor có một người em trai cũng là nhà văn. Người này là môn đồ của trường phái Bengan trong văn học Ấn Độ. Còn Rabinđranát thì bản thân ông đã là một trường phái, là cả một trào lưu, chính chỗ này là điểm khác nhau giữa hai anh em.
Trong tâm hồn của Rabinđranát có một con chim, không giống những loài chim khác, xưa nay chưa từng thấy. Ông đã thả con chim ấy vào trong nghệ thuật, và mọi người đều thấy đó là con chim của Tagor.
Nêu nhà nghệ sĩ thả con chim của mình ra, mà nó lại lẫn vào cả đàn chim khác giống nhau như tạc thì có nghĩa là anh ta không phải nghệ sĩ. Có nghĩa là anh đã không có được con chim riêng của mình, khác thường, kỳ lạ, anh chỉ có một con chim sẻ bình thường và bây giờ không ai phân biệt được con chim sẻ của anh với cả đàn chim cho dù rất dễ thương nhung vẫn là chim sẻ.
Mỗi người cần có riêng bếp lò của mình để tự mình nhóm lên ngọn lửa. Kẻ ngồi nhờ ngựa mượn người khác sớm muộn cũng phải xuống và trả ngựa lại cho chủ. Hãy đừng thắng yên cương lên những ý nghĩ của người khác, hãy tìm cho ra những ý nghĩ của chính mình.
Tôi dám ví văn học với cây đàn panđur, còn các nhà văn thì tôi ví với sợi dây căng trên cây đàn đó. Từng dây một có cung bậc riêng, âm điệu riêng, nhưng hợp lại với nhau, chúng làm nên một hòa âm.
Cây đàn panđur của dân tộc Avar chỉ có hai dây. Người ta nói rằng bố tôi đã căng thêm sợi dây thứ ba trên cây đàn panđur của văn học Avar.
May mắn bao nhiêu nếu tôi cũng đạt được một âm điệu khác mọi người. May mắn bao nhiêu nêu tôi được trở thành sợi dây thứ tư trên cây đàn dân tộc cổ kính của chúng tôi.
Tôi không muốn giống như mấy nhà thợ săn mua hươu ngoài chợ rõi về nhà nói dối rằng tự họ bắn được.
Hay có khi thế này: Có tin đồn rằng một người thợ săn đã bắn được con dê rừng rất to trong một hẻm núi, và thế là tất cả thợ săn đã chạy hết cả về cái hẻm núi may mắn đó. Cùng lúc ấy, người thợ săn đầu tiên lại bắn được ở nơi khác một con gấu to. Đám thợ săn lại lao cả về phía đó, trong khi ấy thì nhà thiện xạ kia lại đang rình ở một hẻm núi khác một con báo... Thử hỏi ai là người thợ săn chân chính? Là người tự mình đi tìm mồi hay là bọn người chuyên chạy theo đuôi? Những kẻ chuyên chạy theo như vậy chắc không ngượng ngùng gì khi bắt thú rừng trong bẫy của người khác.
Họ làm tôi nhớ đến một số nhà văn. Không thể hành động như một người tôi quen đã hành động. Người này sau khi làm quen với Komây Ivanôvích Trukốpxki, liền giả tảng như là không biết Abutalíp.
Con suối nhỏ chảy ra tới biển, nhìn thấy trước mình là khoảng không xanh thẳm bao la và hòa mình vào khối nước màu xanh vĩ đại ấy, chớ nên quên nguồn nước nhỏ trên núi cao mà từ đó con suối đã bắt đầu, chớ nên quên con đường nhỏ dài, gập ghềnh sỏi đá mà nó đã phải đi qua.
Phải rồi, tôi là con suối núi. Tôi yêu ngọn nguồn của tôi, yêu con đường gồ ghề sỏi đá mà tôi đã đi qua. Tôi yêu những hẻm núi hoàng hôn chập choạng mà dòng nước của tôi đã chảy qua, yêu những vách đá từ đó nó đổ xuống tung bọt trắng ngần, yêu những lúc nó dường như dừng lại, êm đềm lắng sâu, thu vào mình bóng hình của núi, trời, sao. Và rồi lại từ từ chảy tiếp, mỗi lúc một thêm hối hả.
Nhưng tôi không nói rằng tôi chỉ cần những hẻm núi. Tôi trôi đi - có nghĩa là phía trước có mục tiêu. Không phải tôi chỉ linh cảm, mà tôi còn nhìn thấy, biết trước khoảng rộng mênh mông của biển.
Và không phải chỉ có tôi. Đúng hơn là cả tôi nữa, bởi tầm mắt của Đaghextan đã vươn xa. Qua những tháng năm ấy, không phải chỉ có những ranh giới những nghĩa địa được mở rộng ra mà ranh giới những cảm quan của chúng ta về cuộc sống, về thế giới cũng mở rộng thêm nhiều.
Tôi là một nhà thơ Avar. Nhưng từ đáy lòng mình, tôi cảm thấy trách nhiệm người công dân không phải chỉ với miền Avarixtan, không phải chỉ với cả xứ Đaghextan, không phải chỉ với đất nước Liên Xô bao la mà với cả hành tinh này, thế kỷ hai mươi này. Không thể sống khác.
Nguời ta kể cho tôi. Sau khi tôi ra đời ít lâu, bố tôi phải chuyển công tác đến làng Arađêrích một thời gian. Bố tôi buộc bên cạnh yên hai cái túi lớn. Một túi chất đầy đồ đạc cần dùng: quần áo, bột mì, bột yến mạch rang, mỡ lợn, sách vở. Một túi nữa để đầu tôi thò ra.
Sau chuyến đi, mẹ tôi bị ốm nặng. Trong làng chúng tôi mới chuyển đến, có một người đàn bà cô đơn bất hạnh vừa mới chết con. Người đàn bà ở làng Arađêrích ấy bèn bắt đầu nuôi tôi bằng dòng sữa của mình. Bà trở thành người mẹ thứ hai của tôi.
Vậy là trên trái đất này có hai người phụ nữ tôi đã chịu ơn. Dù tôi có sống lâu đến đâu, dù tôi làm được gì cho hai người phụ nữ đó, cũng không bao giờ tôi trả được ơn. Lòng biết ơn của một người con không bao giờ có tận cùng.
Hai người phụ nữ đó: - một người là mẹ tôi, người sinh ra tôi, người đầu tiên đưa nôi cho tôi và hát cho tôi bài hát ru đầu tiên; một người nữa... cũng là mẹ tôi, người đã đem dòng sữa đến cho tôi khi tôi bị cái chết đe dọa, người đã đem cho tôi sinh khí ấm áp, và từ con đường chết nhỏ hẹp tôi đã rẽ ngoặt sang con đường sống thênh thang.
Nhân dân chúng tôi, đất nước nhỏ bé của tôi, mỗi cuốn sách của tôi cũng đều có hai người mẹ.
Người mẹ thứ nhất là miền Đaghextan thân yêu. Nơi đây tôi đã sinh ra, nơi đây lần đầu tiên tôi đã nghe thấy tiếng nói quê hương, đã học nói thứ tiếng ấy và tiếng nói ấy đã thấm vào máu thịt tôi. Nơi đây lần đầu tiên tôi được nghe những bài ca quê hương và lần đầu tiên tôi cất tiếng hát. Nơi đây lần đầu tiên tôi cảm được mùi vị của nước và bánh mỉ. Đã bao lần hồi bé tôi bị đá sắc cứa vào da thịt, nhưng rồi nước và cỏ cây của miền quê đã làm liền lại các vết thương của tôi. Người miền núi nói: không có bệnh nào mà ở miền núi chúng tôi không tìm được cây thuốc chữa.
Người mẹ thứ hai của tôi là nước Nga vĩ đại, người mẹ thứ hai của tôi là Matxcơva. Người đã dạy dỗ tôi, chắp cánh cho tôi, đưa tôi lên con đường lớn, chỉ cho tôi những chân trời bao la, chỉ cho tôi cả thế giới.
Tôi mang nặng lòng biết ơn của một người con trước hai người mẹ ấy. Hai tấm thảm, hai tấm chân dung Makhơmút và Puskin được treo trên tường nhà tôi. Trong những tập thơ Blốc còn mát rượi những đêm trắng Pêterbua, tôi đã để vào đầy những bông hoa núi thắm đỏ miền Avar.
Hai người mẹ như đôi cánh, như hai bàn tay, hai con mắt, hai bài ca. Bàn tay hai người mẹ đã xoa đầu tôi, và beo tai tôi, những khi cần thiết. Hai người mẹ đã lên dây cho cây đàn panđur của tôi. Mỗi người lên một dây. Hai người mẹ đã nâng tôi lên cao, và từ trên vai mẹ tôi đã nhìn thấy nhiều điều trên thế giới mà tôi sẽ không bao giờ nhìn thấy nếu không được nâng lên cao. Như con chim ưng khi bay, làm sao biết được cảnh nào cần hơn, quý hơn với nó, tôi cũng không biết được người mẹ nào thân thiết với tôi hơn.
Trước đây người miền núi chữa tất cả các bệnh chỉ toàn bằng cỏ cây và nước. Họ tin vào các ông lang. Thật ra đã có những chuyện ông lang đến giờ nhân dân vẫn còn kể lại. Mấy ông lang này khi chữa bệnh đau đầu, đã bắt gia đình phải mổ một con cừu đen.
Mọi người Avar đều biết rằng thịt cừu đen thơm hơn, ngọt hơn thịt cừu xám hay cừu trắng. Thầy lang bảo bệnh nhân chui đầu vào trong tấm da cừu mới lột và bắt ngồi như thế rất lâu. Còn thịt thì thầy đem về nhà mình.
Bây giờ thì chúng ta sẽ không nói đến những thầy lang như thế nữa. Nhưng trên thực tế cũng còn có những lương y giỏi và những vị thuốc dân gian rất quý.
Cỏ lẩn bố tôi nằm chữa bệnh ở Matxcơva, tại bệnh viện Kremli. Tại đấy ông nhớ đến cỏ cây và nước miền Đaghextan, ông lại bảo các con mang tới cho ông thứ nước lấy từ nguồn mạch nhỏ trên rặng Buxrakhơ.
Đối với các con, lời của bố là đạo luật. Chúng tôi trở về Đaghextan, trèo lên rặng núi Buxrakhơ, tìm được nguồn mạch ở đó và lấy nước từ đây đem tới cho bố chúng tôi, một nhà thơ Avar đang nằm ở bệnh viện Kremli.
Bố tôi uống thứ nước ấy và ông cảm thấy nhẹ mình. Sau đó thậm chí ông đã khỏi hẳn. Ông không hay biết rằng, cũng từ ngày hôm ấy, người ta đã bắt đầu tiêm cho ông một thứ thuốc mới của nước ngoài.
Có lẽ ông đã không khỏi bệnh nếu chi nhờ mỗi thứ thuốc do khoa học tạo ra kia. Có lẽ ông đã không khỏi bệnh nếu chỉ nhờ uống thứ nước lấy ở miền quê ấy, như những người Avar đã uống. Đúng hơn là ông đã khỏi bệnh nhờ cả hai thứ thuốc.
Trong văn học cũng như thế. Ngọn nguồn của nó là quê hương, là nhân dân nước mình, là tiếng mẹ đẻ. Nhưng nhận thức của nhà văn chân chính hôm nay còn vươn xa ra ngoài giới hạn đất nước mình. Tất cả những cái gì có quan hệ đến con người, đến thế giới đều có thể xúc động trái tim, khối óc nhà văn.
Người bộ hành lên đường
Anh mang theo gì đó?
Rượu vang, bánh mì chăng?
Nhưng, khách ơi, hãy nhớ:
Anh cần chi hành lý
Có dân núi đón rồi!
Cô gái thì nướng bánh
Chàng trai rót rượu mời.
Người bộ hành lên đường
Anh mang theo gì đó?
Con dao mài sắc chăng?
Nhưng khách ơi, hãy nhớ:
Nếu kẻ thù lẩn quất
Khi anh được mời chào.
Chúng tôi sẵn gươm dao
Che chở anh yên ổn.
Người bộ hành lên đường
Anh mang theo gì đỏ?
Anh mang theo bài hát,
Ôi, người bạn thân yêu!
Bải hát lạ bao nhiêu
Rừng núi này chẳng có?
Nhưng nó không nặng gì
Anh cứ mang dự trữ!
Vậy là nếu nhà văn muốn hành động giống như vị bác sĩ chữa cho bố tôi, anh ta cần phải biết sử dụng một cách khéo léo cả những phương tiện dân tộc truyền thống từ ngàn xưa và cả những thành tựu mới nhất trên thế giới.
Còn nếu nhà văn muốn giống như khách lãng du kia, thì khi đến thăm một dân tộc khác, anh cần phải mang theo những bài ca quê hương, nhưng anh cũng cần phải để dành chỗ trong trái tim mình cho những bài ca mà anh sẽ được nghe.
Dân tộc này tiễn anh đi, dân tộc kia lại đón anh, mà bài ca thì dân tộc nào cũng có.
Dạo trước, khi các báo cáo viên, các diễn giả đến miền chúng tôi nói chuyện, có nơi như ở làng Kêlép, phụ nữ ngồi quay lưng lại diễn giả để khỏi bị nhìn thấy mặt. Nhưng khi diễn giả nói chuyện xong và ca sĩ bước ra sân khấu hát, vì tôn trọng các bài ca mà các thính giả phụ nữ đã vượt qua được định kiến, quay mặt về phía ca sĩ; hơn thế nữa, họ còn tự cho phép mình bỏ tấm khăn che mặt.
Không một ngày nào, không giờ phút nào trong tôi không vang lên bài ca mẹ tôi đã hát ru bên nôi. Bài ca ấy là cái nôi của tất cả các bài ca của tôi. Nó là tấm gối mà tôi ngả mái đầu mệt mỏi của mình xuống, nó là con ngựa đưa tôi đi khắp thế gian này. Nó là ngọn nguồn mà tôi ghé môi xuống uống những lúc khô khát. Nó là bếp lửa sưởi ấm người tôi, hơi ấm của nó tôi đã mang theo trong suốt cuộc đời.
Nhưng đồng thời tôi cũng không muốn giống như anh chàng Sukum: dù đã lớn thành một chàng trai khỏe mạnh, anh ta vẫn không bỏ được thói quen bú sữa mẹ. Người ta thường nói về những kẻ như vậy thế này: “To như con bò đực mà trí khôn lại của bê”.
Ở thời đại này, chúng ta đã quen trả lời đủ thứ thăm dò ý kiến. Trong đời tôi, tôi đã bao lần phải làm việc đó! Không có một bản thăm dò ý kiến nào tôi thấy đề ra câu hỏi về tình yêu quê hương, nhưng điều đó không có nghĩa trong lòng người trên trái đất này không tổn tại một tình yêu như thế.
Mặt khác, khi trả lời bản thăm dò, chỉ viết là “công dân Liên Xô” chưa đủ - cần phải làm một người công dân như vậy; chỉ viết là “Đảng viên Đảng cộng sản Liên Xô” chưa đủ - cần phải làm một người như thế; chỉ viết “tiếng mẹ đẻ là Avar” chưa đủ - cần phải làm sao cho tiếng nói đó thật sự là thân thiết, làm sao đủ dũng cảm không phản bội lại nó.
Hỡi các vị khách thập phương, hãy đến với tôi, hãy đem lại cho tôi những bài ca khác nhau! Hãy đến như những người anh em, chị em, tôi sẽ tiếp đãi tất cả các bạn, trái tim tôi sẽ cùng chia sẻ với các bạn mọi niềm vui, nỗi buồn!
Nếu chàng trai trẻ miền núi, khi trở về làng Khunzắc đã mang theo trên yên ngựa mình một phụ nữ thuộc dân tộc khác, thì mọi người nhìn anh ta trách móc, hành động của anh ta không được những người già cả trong làng ủng hộ. Nhưng bây giờ thì cả trẻ lẫn già đều đã quen với chuyện đó. Cuộc hôn nhân giữa chàng trai Avar và người phụ nữ dân tộc khác không còn bị coi là đáng xấu hổ. Chỉ còn một thứ hôn nhân bị lên án ở vùng núi - đó là hôn nhân không tình yêu.
Lẽ nào không phải là hoa càng nhiều loại thì bó hoa do đó lại càng đẹp hơn. Trên trời càng nhiều sao bầu trời sẽ càng sáng hơn. Cẩu vồng sở dĩ đẹp vì nó mang tất cả sắc màu.
Ở châu Phi, tôi đã được xem một bông hoa kỳ lạ, dị thường. Mỗi một cánh hoa của nó đều mang màu riêng. Mỗi một cánh hoa có riêng tên gọi, có riêng hương thơm. Nói ngắn gọn là trên một bông hoa là cả một bó hoa kết sẵn, nhung đổng thời đó vẫn chỉ là một bông hoa.
Tôi ao ước sao cho cuốn sách viết bằng tiếng Avar này của tôi sẽ giống như bông hoa châu Phi huyền diệu, sao cho mỗi người sẽ tìm thấy trong đó những gì thân thuộc, gần gũi.
Đấy, tôi đã bày ra tất cả những gì có thể tạo thành cuốn sách của tôi. Giõng như người thợ lành nghề miền Kubatri, mọi thứ đều đã có trong tay. Anh đã có vàng bạc, dao cắt, búa gõ, đục đẽo, con dấu, tranh vẽ. Còn tôi thì có tiếng mẹ đẻ, vốn sống, chân dung nhiều kiểu người, tính cách của họ, âm điệu các bài ca, cảm giác về lịch sử, cảm giác về công lý, tình yêu thiên nhiên, quê hương, hồi ức về người cha, quá khứ và tương lai của dân tộc tôi... Tôi đã có trong tay những thỏi vàng. Nhưng liệu tôi có đôi tay vàng không? Tôi cỏ đủ tài năng, có đủ tài nghệ không?
Bằng cách nào tôi có thể chuyền vào tay các bạn bài ca của tôi như một chú chim nhỏ run rẩy, để bài ca của tôi ngập tràn trái tim các bạn như bỗng nhiên tình yêu đã đến?
Tôi lại cầm lên lần nữa những gì tôi có trong tay trên bàn làm việc...
Người ta nói: Hãy để cho vợ bỏ chàng kỵ sĩ nào không có ngựa.
Người ta còn nói: Hãy để cho vợ bỏ cả chàng kỵ sĩ nào ngựa không có yên cương, không có roi quất ngựa.
Người ta nói: Đừng cho chim ưng ăn rơm và cho lừa ăn thịt.
Người ta nói: Ngay cả ngôi nhà đẹp cũng có thể đổ nếu các bức tường xây dối.
Người ta nói: Gà mái mơ thấy mình là chim ưng, nó bay khỏi vách đá và ngã gãy cánh.
Con suối nhỏ mơ thấy mình là dòng sông lớn, nó tràn vào bãi cát và lập tức bị hút khô.