← Quay lại trang sách

ĐỀ TÀI

Đừng phá cửa - có thể mở nó nhẹ nhàng bằng chìa khóa.

Lời ghi trên cánh cửa

Đừng nói: “Trao cho tôi đề tài”

Hãy nói: “Trao cho tôi đôi mắt”.

Lời khuyên đối với các nhà văn trẻ.

“Các đồng chí thân mến, tôi có nguyện vọng lớn muốn viết. Nhưng không biết viết gì. Hãy gợi ý cho tôi một đề tài kịp thời, tôi sẽ viết được một cuốn rất hay”.

Không hiếm khi gặp những lời yêu cầu như vậy của những bạn trẻ được trình bày trong các bức thư gửi đến Hội nhà văn, đến tòa soạn các báo, các tạp chí và đến riêng các nhà văn. Tôi cũng từng nhận được những bức thư tương tự. Bố tôi cũng từng nhận được thư như thế. Nhận được thư kiểu đó, có lần bố tôi lắc đầu nói:

- Chàng trai trẻ muốn lấy vợ, nhưng thật bất hạnh vì anh ta không biết lấy ai. Không có cô gái nào thật đáng chú ý, không biết nhờ người mối lái đến gặp ai.

Hồi ức. Có lần Hội nhà văn Đaghextan nhận được thư của Abutalíp. Nhà thơ đề nghị cho đi thực tế sáng tác một tháng ở những làng xa trên núi cao. Tại hội nghị Ban Chấp hành người ta hỏi Abutalíp rằng ông muốn viết gì, về đề tài gì. Nhà thơ già nổi giận:

- Chẳng lẽ người thợ săn biết trước là anh sẽ gặp con thú gì ư – gặp thỏ, ngỗng trời, chó sói hay là cáo? Chăng lẽ người chiến sĩ biết trước rằng trong trận chiến đấu anh ta sẽ lập được chiến công gì sao?

Tôi có dự cuộc họp đó. Lời nói của Abutalíp đã ghi sâu vào lòng tôi.

Tôi rất kinh ngạc khi thấy có những người luôn quầy nhiễu nhà văn bằng cách bắt họ phải trình bày rõ kế hoạch sáng tác trong vài năm tới. Tất nhiên là nhà văn phải có hướng sáng tác trong đầu. Có thể đặt kế hoạch trước cho việc viết tiểu thuyết bộ ba, bộ tư, nhưng còn thơ... Thơ đến bất ngờ như tặng vật. Công việc bếp núc của nhà thơ không thể chịu theo kế hoạch gò bó được. Không thể đặt trước cho mình kế hoạch đại loại: hôm nay vào lúc 10 giờ sáng tôi sẽ yêu cô gái gặp ngoài đường, hay là 5 giờ chiều mai tôi sẽ căm thù một tên vô lại nào đó.

Thơ không phải là hoa trong chậu cảnh - ở đó tất cả đều hiện ra trước mắt anh, anh không cần phải tìm đâu thêm - thơ giống như hoa trên đồng nội, trên rặng núi Anpơ, nơi mỗi bước đi lại hứa hẹn thêm một bông hoa mới, diệu kỳ hơn.

Cảm xúc sinh ra âm nhạc, âm nhạc lại sinh ra cảm xúc. Vậy thì đặt cái nào lên trước? Cho đến giờ vẫn chưa giải quyết được vấn đề cái nào là đầu tiên, quả trứng hay là gà mái. Cũng hệt như vậy: nhà văn đẻ ra đề tài hay đề tài đẻ ra nhà văn? Đề tài là cả thế giới của nhà văn, đó là tất cả nhà văn. Không có đề tài thì không có nhà văn. Mỗi nhà văn đều có riêng đề tài của mình.

Ý nghĩ và cảm xúc lả những cánh chim, đề tài là khoảng không; ý nghĩ và cảm xúc là những con hươu, đề tài là cánh rừng; ý nghĩ và cảm xúc là những con sơn dương mà đề tài là núi; ý nghĩ và cảm xúc là những con đường và đề tài là thành phố mà những con đường sẽ dẫn đến và gặp nhau.

Đề tài của tôi là quê hương. Tôi không cần phải tìm đề tài, phải chọn lựa. Chúng ta không lựa chọn cho mình quê hương, nhưng quê hương thì ngay từ đầu đã chọn lựa chúng ta. Không thể có chim ưng mà không có bầu trời, không thể có dê rừng mà không có vách đá, không thể có cá hồi mà không có dòng sông trong chảy xiết, không thể có máy bay mà không có sân bay. Cũng vậy, không thể có nhà văn mà không có quê hương,

Chim ưng uể oải đi bên đàn gà trong sân, - không còn là chim ưng nữa. Dê rừng đi trong đàn súc vật của nông trường, - không còn là dê rừng. Cả hồi bơi trong bể kính, - không còn là cá hồi nữa. Máy bay đặt trong viện bảo tàng, - không còn là máy bay nữa.

Cũng hệt như vậy, không thể là chim họa mi nếu không biết hót những bài ca họa mi.

Nói thêm về đề tài, từ thuở nhỏ, phong cảnh quê hương đã in sâu vào lòng tôi. Chỉ cần mở cánh cửa sổ nhỏ ngôi nhà của bố tôi là đã có thể thấy một thảo nguyên xanh bát ngát như tấm thảm trải rộng ra từ ven làng. Chung quanh thảo nguyên là những vách đá. Những con đường mòn nhỏ chạy ngoằn ngoèo qua những vách đá trông như những con rắn dài, còn những lối vào hang trông như miệng thú há ra. Sau rặng núi này là một rặng núi khác nhô lên. Các quả núi trông tròn tròn, đen đen như có lông bao phủ, như lưng con lạc đà.

Bây giờ thì tôi đã biết là ở Thụy Sỹ hay ở Naplơ còn có những nơi đẹp hơn, nhưng dù cho tôi đã đến tận đâu, dù đôi mắt tôi có nhìn thấy những cảnh đẹp đến thế nào trên trái đất, tôi vẫn thầm so sánh những gì đã thấy với bức tranh xa xôi của tuổi thơ tôi, bức tranh hiện ra qua khung cửa nhỏ ngôi nhà của bố, và trước bức tranh ấy mọi cảnh đẹp của thế giới đều trở nên mờ nhạt. Nếu vì lý do nào đó mà tôi không có làng quê và những vùng xung quanh ấy, nếu những cảnh vật đó không sống trong lòng tôi thì cả thế giới với tôi sẽ là một bộ ngực không tim, một cái miệng không lưỡi, một đôi mắt không có con ngươi, một tổ chim không có chim.

Điều này hoàn toàn không có nghĩa tôi giam hãm đề tài của tôi trong những giới hạn chật hẹp của ngôi nhà và làng quê tôi, điều này không có nghĩa tôi đã dựng lên một bức tường kiên cố chung quanh đề tài thân thiết của tôi.

Có những cánh đồng sau khi cày lật lớp đất dày ở trên thì lộ ra ở dưới một lớp đất mềm. Có những cánh đồng sau khi cày lật lớp đất mỏng ở trên thì lộ ra toàn sỏi đá. Có những cánh đồng chưa cần cày xới gì cả đã trông thấy lổn nhổn sỏi đá. Tôi không có ý định cày bừa gì ở thửa đất như thế vì tôi biết rằng không thể thu hoạch được gì kha khá ở đó cả.

Tôi không muốn trói buộc tình yêu quê hương của tôi như trói buộc con ngựa đã một thời tung hoành ngang dọc và bây giờ phải chậm chạp gặm cỏ trên đồng. Tôi tháo dây buộc ngựa, vỗ vào cổ ấm áp của nó và nói: ăn đi nhé, tích cho nhiều sức lực. Trong tình cảm quê hương của tôi có cái gì bình thản yên lành giống như con ngựa đang thong thả gặm cỏ mả không bị trói buộc gì.

Tôi không muốn tìm mọi hiện tượng trên thế giới này trong ngôi nhà của tôi, trong lảng tôi, trong Đaghextan của tôi, trong tình cảm của tôi với quê hương. Ngược lại, tình cảm quê hương tôi tìm thấy trong mọi hiện tượng bên ngoài thế giới, ở mọi nơi trên trái đất này. Với ý nghĩa đó, đề tài của tôi là cả thế giới.

Tôi còn nhớ ở thành phố Xanchiagô huyền diệu, xa xôi, tôi bị đánh thức dậy bởi tiếng gà gáy. Tôi tỉnh đậy và trong giây lát tôi có cảm giác rằng tôi đang ở một làng nhỏ Đaghextan. Những con gà trống Xanchiagô đã trở thành đề tài của tôi như vậy.

Ở Nhật Bản, trong thành phố Kamacura có phần còn huyền diệu hơn nữa, tôi đã đến dự hội thi hoa hậu. Các cô gái đẹp Nhật Bản lần lượt đi qua trước mắt chúng tôi. Bất giác tôi thầm so các cô gái đó với bà hoàng duy nhất của tôi nơi núi rừng Avaria và không tìm được trong các cô gái ấy những gì đã có nơi hoa hậu của tôi. Các cô gái đẹp Nhật Bản và cả hoa hậu của Nhật Bản đã trở thành đề tài của tôi như vậy.

Ở Nêpan, sau khi nhìn ngắm no nê các đền thờ Phật, các cung điện nhà vua, hai mươi hai nguồn nước trị bách bệnh, xua tan mọi phù phép và nói chung mọi điều ác trên đời, cuối cùng tôi đã trèo lên sườn núi dốc ngược của rặng núi Katamanđ. Và những ngọn núi này đã gợi cho tôi nhớ đến Đaghextan thân yêu, trái tim tôi bỗng trở nên ấm dịu không như lúc đứng trước những đền đài, cung điện nguy nga. Những ngọn núi bình thường với tôi thân thiết, gần gũi hơn là những công trình kiến trúc tráng lệ. Lúc đó tôi nghĩ rằng không phải những nguồn nước kỳ diệu kia mà chính những ngọn núi này đã chữa được moi thứ bệnh và xua đuổi khỏi trái tim những gì độc ác. Những ngôi đền và những ngọn núi ở Nêpan đã trở thành đề tài của tôi như vậy,

Sau khi thăm những thành phố lớn ồn ào ở Ấn Độ, tôi được dẫn đến một làng nhỏ gần Canquytta. Trên một sân kho rộng người ta đang lấy hạt ra khỏi bông lúa bằng cách cho cả đàn bò đực lớn đi vòng tròn dẫm lên những bó lúa vàng. Không một viện bảo tàng nào, không một nhà hát nào trên thế giới lại đem lại cho trái tim tôi nhiều niềm vui đến thế hơn là những chú bò đang chậm chạp dẫm lên những bó lúa vàng. Hệt như tôi được trở về làng quê thân yêu thời thơ ấu. Cái làng nhỏ Ấn Độ gần Canquytta đã trở thành đề tài của tôi như vậy.

Tôi nhìn thấy: ở rừng núi Inđônêxia người ta đánh trống hệt như ở vùng núi chúng tôi; trên đường phố New York có một anh chàng người Kapkazơ đi lại trong bộ quần áo dân tộc; ở Xtambun và Pari lưu lạc những người dân miền núi bị xua đuối, những người bất hạnh nhất trên thế giới này; ở Luân Đôn người ta trưng bày tại triển lãm những sản phẩm bằng sứ của những người thợ nổi tiếng miến Balkhar, ở Vơnizơ những người Lắc vốn ở làng Xốppkơra biểu diễn xiếc trên dây làm kinh ngạc khán giả; trong một hiệu sách cũ ở Pítxbơc tỏi bất gặp một cuốn sách về Samin.

Từ mọi nơi, từ mọi miền tôi đặt chân đến, đều có những sợi dây nối về Đaghextan.

Một chiến sĩ sẽ rơi vào cảnh hết sức bất lợi nếu anh bị một lúc mấy người cầm gươm tiến công. Anh không thể vừa đỡ cả đằng trước lẫn sau lưng. Nhưng nếu tìm được một vách đá có thể tựa lưng vào thì người chiến sĩ sẽ cảm thấy mối đe dọa chưa đến nỗi ghê gớm: một chiến sĩ cường tráng, nhanh nhẹn có thể hạ được hai hay ba đối thủ nếu anh được tựa lưng vào vách đá.

Đối với tôi, Đaghextan chính là vách đá như thế. Nó giúp tôi đứng vững trong những phút gay go nhất.

Những người đi xa thường đem về quê hương bài ca của các nước mà họ đã tới. Chỉ có tôi là không gặp may mắn như vậy - dù tôi đi tới đâu, tôi cũng chỉ toàn mang về những bài ca mới về Đaghextan. Với mỗi bài thơ mới, tôi như được thấy mặt Đaghextan hoàn toàn mới, tôi lại hiểu và yêu quê hương tôi như từ buổi đầu.

Miền quê Đaghextan thân yêu đối với tôi là không có giới hạn, không có tận cùng.

Rút trong sổ tay.

- Này chim ưng, bài ca chim yêu thích nhất hát về cái gì vậy?

- Hát về những ngọn núi cao.

- Này chim hải âu, bài ca chim yêu thích nhất hát về cái gì vậy?

- Hát về biển xanh.

- Này quạ đen, bài ca chim yêu thích nhất hát về cái gì vậy?

- Hát về những xác chết ngon lành ngoài chiến địa.

Trong văn học cũng có những loài chim: chim ưng và hải âu. Loài thì ngợi ca núi cao, loài thì ngợi ca biển rộng. Mỗi loài có riêng quê hương, có riêng đề tài. Nhưng trong văn học còn có cả quạ. Loài này yêu mình hơn cả mọi thứ trên đời. Con quạ khi móc mắt người chết ngoài bãi chiến trường, không hề nghĩ ngợi xem đó là mắt người anh hùng hay là kẻ hèn nhát. Tôi biết những nhà văn hôm nay làm những điều gì hôm nay thấy lợi, và ngày mai lại làm những điều gì ngày mai thấy lợi.

Lại nói về đề tài. Đề tài là cái hòm đựng của cải. Lời nói là chìa khóa mở cái hòm đó. Nhưng đồ đạc trong hòm cần phải là của anh chứ không phải của người khác.

Có những nhà văn nhảy từ đề tài này sang đề tài khác mà không kịp tìm hiểu một đề tài nào đến nơi đến chốn. Họ mở nắp hòm he hé, lật đồng quần áo cũ nát ở trên rồi vội vàng bỏ đi chỗ khác. Còn người chủ nhân của chiếc hòm thì biết rằng nếu cẩn thận lấy từng thứ ra thì ở đáy hòm sẽ hiện ra một cái hộp nhỏ đựng tư trang quý giá.

Những người cứ mỗi đề tài đều ghé mũi ngửi một tý giống như anh chàng đa thê Đalagôlốp mà người miền núi đều biết tiếng. Anh ta lấy vợ hai mươi tám lần nhưng cuối cùng chẳng có vợ nào cả.

Tuy vậy không thể ví đề tài với người vợ hợp pháp duy nhất, không thể ví cả với người mẹ duy nhất, hay người con duy nhất. Bởi vì không thể nói rằng: đây là đề tài của tôi, đừng ai cả gan động vào đó.

Đề tài của tôi, nhưng nó mở ra cho tất cả mọi người. Tôi đã từng nghe một nhà văn mắng nhiếc một người khác vì người này đã “đánh tháo” đề tài của anh ta. Anh ta nói: “Ai cho anh quyền viết về Irtri Kazắc? Anh biết rằng đó là đề tài của tôi, rằng tôi đang viết về Irtri Kazắc. Đây là một sự ăn cắp rõ ràng!” Nhà văn nọ xúc động như là anh ta vừa bị cướp mất người yêu.

Câu trả lời, xứng đáng là của một người dân miền núi:

- Irtri thành thủ lĩnh Hồi giáo là người có lưỡi gươm sắc sảo hơn, táo bạo hơn. Cô gái không phải thuộc về người nào phái người mối lái đến nhà cô, mà thuộc về ai sẽ biến được cô ta thành vợ mình. Hãy để cho đề tài về Irtri, như mọí đề tài khác, thuộc về ai viết tốt nhất đề tài đó.

Phải rồi, nhiều nhà văn khác nhau có thể khai thác một đề tài theo cách riêng của mình. Trong văn học không thể có những nông trang tập thể. Mỗi nhà văn cần có riêng cánh đồng, có riêng thửa ruộng của mình, dù nó có hẹp đến đâu, Nhưng tôi không ngăn cấm ai đến cánh đồng của tôi, chỉ vì tự tôi cũng không phân chia thửa ruộng đó, trên bờ ruộng của tôi các bạn sẽ không thấy một con chó hay một người nào cầm súng đứng gác cả. Mà bờ ruộng đó là ở đâu, làm thế nào mà đắp nó lên, vạch nó ra? Đề tài của tôi không phải là đồng cỏ cấm bò ngựa, không phải là chỗ cấm kỵ trong đền thờ không một người lạ nào được đặt chân tới.

Có lần, các nhà văn Đaghextan họp hội nghị, trong hội nghị xẩy ra tranh luận, Một diễn giả nói:

- Việc gì các nhà văn Đaghextan lại đi viết về các miền khác và các dân tộc khác? Hãy để cho người Tây Ban Nha viết về Tây Ban Nha, người Nhật viết về nước Nhật, các nhà văn sống ở Uran viết về công nghiệp vùng Uran. Nếu chim có tổ trong vườn này thì việc gì lại phải bay sang vườn khác mà hót? Việc gì phải lấy đất trên núi đá đem xuống thung lũng, trong khi ở thung lũng đã sẵn có quá nhiều đất màu mỡ? Khấu đuôi cừu vồn đã đầy những mỡ thì việc gì khi rán lại phải đổ thêm dầu vào chảo?

Tạí hội nghị cỏ một vị khách từ nước cộng hòa khác đến. Ông trả lời lại diễn giả kia thế này:

- Thú có hang có hốc, cũng như chim có tổ. Nhưng mặt trời thì chiếu sáng cho mọi loài thú và mưa thì tưới cho mọi loài cây. Cầu vồng đập vào mắt mọi người như nhau, tia chớp sáng lóe lên cả trên núi cao và dưới khe sâu. Tiếng sét cũng vọng đến cả dưới đó. Có thể nấu một bữa cơm ngon bằng gạo mang từ nước khác đến. Tôi từ xa đến dự hội nghị của các bạn. Tôi chỉ có nhiệm vụ đến chào mừng các bạn. Nhưng bây giờ tôi cảm thấy rằng tôi đã yêu núi của các bạn, biển của các bạn, đã yêu những người đàn ông cao thượng và những người phụ nữ xinh đẹp đầy phẩm giá cao quý trên đất nước các bạn. Nếu tôi viết về các bạn thì những người đồng hương của tôi sẽ nói lời cảm ơn với tôi. Vậy nếu các bạn viết về quê hương tôi, điều đó sẽ chẳng có tai hại gì. Nhà văn có thể tự do lựa chọn đề tài như tự do tìm người yêu. Chẳng lẽ tình yêu lại phải nói lời xin phép khi định gứi gắm ở một trái tim nào sao?

Hội nghị vỗ tay hoan hô vị khách, lời nói của ông chính xác và sắc sảo như mũi tên; tuy vậy, mặc dù lúc đó tôi cũng vỗ tay và hầu như tán đồng hoàn toàn với vị khách, tôi thấy vẫn còn phải suy nghĩ thêm.

Viết về các nước khác, các dân tộc khác là điều rất tốt, nhưng chỉ sau khi anh đã tự khẳng định ở đề tài của mình.

Đaghextan nhỏ bé của tôi và thế giới rộng lớn của tôi. Hai dòng ssuối gặp nhau ở thung lũng và hòa nhập lại. Hai dòng lệ từ hai mắt cháy qua hai bên má nhưng cùng sinh ra bởi một nỗi đau hay một niềm vui.

Những giọt nước rơi trên má nhà thơ

Giọt bên phải và giọt rơi bên trái

Giọt của niềm vui, giọt của nỗi buồn đọng lại.

Giọt nước mắt tình yêu, giọt nước mắt căm hờn.

Hai giọt nước nhỏ nhoi, dịu dàng, trong sạch

Bất lực ở hai noi, khi chưa nhập vào nhau

Khi nhập một, bỗng thành thơ lóng lánh

Như ánh chớp bừng soi, như xối xả mưa rào!

Đaghextan nhỏ bé của tôi và thế giới rộng lớn của tôi, đó là đời tôi, là bán giao hưởng của tôi, cuốn sách của tôi, đó là đề tài của tôi.

Chim ưng nào không rời đỉnh núi cao bay xuống thung lũng rộng bao la - đó là một chim ưng xoàng.

Chim ưng nào không trở về đỉnh cao từ thung lũng rộng bao la, - đó là chim ưng xoàng.

Nhưng đối với chim ưng, mọi việc dễ dàng thôi, Nó sinh ra là chim ưng và dù muốn chăng nữa, nó cũng không thể biến thành hải âu hay thành quạ. Nhà văn thật khó mà trở thành chim ưng nếu anh ta sinh ra không có những phẩm chất của loại chim dũng cảm, cao quý đó. Về người không học được cách đánh đàn kumuz, chúng tôi thường nói an ủi rằng, không sao, ở thế giới bên kia, anh ta sẽ biết đánh.

Biết bao nhiêu nhà văn cầm lấy giấy bút viết mà không phải do cảm giác yêu thương hay căm giận thôi thúc mà chỉ do khứu giác xúi giục thôi!

Bởi vì đã có vị khách qua làng và nghĩ ngợi xem mình nên ghé vào nhà nào, cuối cùng đã chọn nhà bằng cách đánh hơi qua mùi khói bay lên. Có nhà khói mang theo mùi ngô rang, có nhà khói xông mùi thịt cừu luộc.

Bởi vì đã có chàng rể khi phải chọn lựa giữa hai cô gái, một cô rỗng tuếch, một cô thông minh, cuối cùng đã chọn lấy cô rỗng tuếch chỉ vì cô ta nhiều tiền.

Bởi vì đã có những nhà văn hoàn toàn không cần biết mình viết về cái gì và về nước nào. Họ giống những tay lái buôn chỉ biết nghĩ rằng càng đi xa, món hàng họ bán càng được giá.

Họ làm tôi nhớ tới cô gái tên là Parkhansa, cô này cho là trong làng không có chàng trai nào xứng đáng với cô, cô hy vọng tìm chú rể ở làng khác, và cuối cùng, như ta có thể dễ dàng đoán ra, cô ta đã biến thành một mụ gái già cô đơn.

Câu chuyện về hai người miền núi đi vào rừng. Có hai người miền núi rời làng đi vào rừng để tìm cây chặt làm vai cày. Chắc là cái vai cày cũ đâ hóng.

Người đầu tiên tìm được ngay đoạn cây thích hợp, anh ta chặt ra được hai cái vai cày tuyệt vời. Nhưng anh bạn cùng đi kia thì lúc nào cũng có cảm giác rằng cây sau nữa sẽ đẹp hơn cây vừa thấy. Và cứ thế anh ta đi suốt ngày, không chịu dừng lại chọn cây thích hợp. Cuối cùng anh ta cũng đẵn được hai đoạn gỗ làm vai cày, nhưng tồi hơn rất nhiều so với những cái anh ta đã thấy lúc đầu. Mãi đến chiều tối anh ta mới trở về làng, khi người bạn cùng đi đã rời thửa ruộng vừa cày xong bằng chiếc vai cày mới chặt ban sáng.

Câu chuyện này Abutalíp đâ kể cho tôi, nhân có một nhà thơ Đaghextan đi thực tế sáng tác rất xa và mang về hai bài thơ dở.

Bài ca mà anh không thể học thuộc ở làng quê, thì anh cũng không thể học thuộc ở nơi xa, - nhà thơ già rút ra điều giáo huấn như vậy, rồi nói thêm: - Nhà thơ đôi khi giống như anh chàng suốt ngày đi tìm mũ, trong khi mũ đã nằm nguyên trên cái đầu ngớ ngẩn kia từ bao giờ.

Lại nói về đề tài. Nhớ lại ngày đầu tiên tôi phải rời ngôi nhà thân yêu lên đường đi xa. Mẹ tôi đặt lên cửa sổ một ngọn đèn tỏa sáng. Tôi bước đi, chốc quay lại nhìn, rồi lại đi, nhưng ánh lửa của ngôi nhà thân yêu vẫn lóe sáng qua sương mù, qua màn đêm.

Ánh lửa trên khung cửa nhỏ đã soi rọi cho tôi qua bao năm tháng, những lúc tôi đi khắp thế gian, Còn khi tôi trở về ngôi nhà thân thuộc và từ trong nhà nhìn ra ngoài, tôi thấy cả thế giới rộng lớn mà cả đời tôi đã đi qua.

Ai đem đề tài tới cho nhà văn? Đem tới cho anh ta cái đầu, đôi mắt, đôi tai, trái tim còn dễ hơn. Những nhà văn nào đi tìm đề tài không phải vì yêu thương hay căm giận mà đi tìm theo mùi hương, hay đúng hơn là đánh hơi, thì không thể trở thành người con của thời đại mình. Họ không phải là con của thời đại mà là con của từng ngày. Họ còn giống cô dâu bị điếc.

Câu chuyện về cô dâu điếc. Người ta kể rằng, ở một làng kia, có một cô gái điếc. Một chàng trai ở làng khác, hoàn toàn không biết cô bị điếc, đã nhờ người mối mai. Câu chuyện diễn ra xuôi xẻ, đám cưới được tổ chức. Dân làng tụ họp rất đông. Cô dâu không muốn những người dự đám cưới biết cô bị điếc. Cô ta yêu cầu một người bạn gái luôn luôn ngồi cạnh cô. Nếu người ta đang kể một câu chuyện vui có thể cười được thì cô bạn gái sẽ khẽ véo vào vai bên trái. Nếu bắt đầu kể một chuyện buồn rầu thì cô bạn gái sẽ véo vào vai bên phải.

Trong đám cưới, cô dâu không nhất thiết phải nói, thậm chí tốt hơn hết là không nói gì. Bởi vậy lúc đầu mọi việc diễn ra rất tốt đẹp. Cô dâu đã cười những lúc cần cười, đã lộ vẻ rầu rĩ khi mọi người chung quanh rầu rĩ.

Nhưng sau đó cô bạn gái quên mất lời dặn, lẫn lộn lung tung, cô ta véo vào vai phải khi lẽ ra cần véo vào vai trái và ngược lại. Cô dâu cười phá lên vào những phút buồn rầu và im lặng đăm chiêu, thở dài buồn bã khi mọi người đều vui vẻ, hớn hở.

Chàng rể nhìn chăm chú vào cô dâu, theo dõi mọi cử chỉ của cô ta và cho rằng cô ta hoàn toàn ngớ ngẩn. Ngay lúc ấy, anh ta dẫn cô trở lại con đường mà cô ta đã đi đến đám cưới.

Vậy là nhà văn chân chính không cần phải nhờ ai lúc thì véo vào bên phải, lúc thì véo vào bên trái như cô gái điếc nọ. Chỉ có nỗi đau của chính trái tim anh, chỉ có niềm vui của chính anh mới bắt được anh cầm lấy bút. Anh cười không phải vì mọi người cười và cần phải làm theo mọi người không phải vì họ buồn mà anh phải bắt chước họ. Không, tự anh phải khởi xướng ra tâm trạng ở một đám cưới. Hãy để mọi người chung quanh cười vui, khi nhà thơ cười vui. Hãy để cho nỗi đau thắt trái tim lại, khi nhà thơ chia sẻ nỗi đau của trái tim mình với mọi người.

Nêu ai chưa đồng ý với tôi và đến bây giờ vẫn còn cho rằng viết theo sự mách bảo của người khác dễ dàng hơn thì hãy để cho người đó tự rút ra bài học từ câu chuyện đã xảy ra với tôi.

Hồi ức. Hồi đó tôi học lớp hai ở trường cấp 1 trong thành cổ Khunzắc. Ngồi cùng bàn với tôi là cô bé Nhina mắt xanh, con cô giáo người Nga. Tôi rất thích cô bé nhưng không dám nói ra điều đó. Cuối cùng tôi quyết định viết cho cô ta một mảnh giấy. Nhưng việc ấy đối với tôi không dễ dàng vì lúc đó tôi còn chưa biết viết một chữ Nga nào. Tôi khẩn khoản nhờ một cậu bạn tôi. Nó nói cho tôi nghe mấy chữ tiếng Nga mà tôi không hiểu gì cả, còn tôi thì ghi lại bằng mẫu tự Nga, tôi tưởng rằng tôi đã viết ra những lời yêu thương, những lời tôi muốn nói vói Nhina. Tay run run, tôi đưa mảnh giấy cho cô bạn ngồi cùng bàn, và Nhina cũng run run mở tờ giấy ra. Bất ngờ cô bé đỏ bừng mặt, chạy vụt ra khỏi lớp và không bao giờ muốn ngồi cùng bàn với tôi nữa. Hóa ra là mảnh giấy chứa đựng toàn những lời xằng bậy, tục tĩu.

Tôi còn nhớ một chuyện nữa. Lúc này tôi đã học ở trường Đại học văn học, còn Nhina học trường Sư phạm Lênin. Có lần vào tháng chạp nàng mời tôi đến nhà chơi. Tôi biết ngày ấy là sinh nhật của nàng. Tất nhiên tôi đã lo sắm quà cho nàng, nhưng tôi nghĩ rằng món quà tốt nhất có lẽ lả bài thơ tôi sẽ viết về nàng, đọc nó lên và trịnh trọng trao tặng nàng.

Vậy là tôi đã viết xong bài thơ chúc mừng, thuyết phục anh bạn cùng lớp cũng lả nhà thơ trẻ dịch nó sang tiếng Nga. Anh bạn tôi đã thức suốt đêm để dịch. Nhưng khi anh ta đọc cho tôi nghe, tôi không còn nhận ra bài thơ của mình nữa. Trong bài thơ là những lời tỏ tình sướt mướt, những cơn say đắm đuối, nhưng không có chút gì của tình cảm mà tôi muốn nói với Nhina.

Bây giờ thì khó mà đánh lừa tôi được. Tôi đã là con chim sẻ một lần phải tên. Tôi nói:

- Thôi được rồi, bài thơ này cậu sẽ dùng để đọc cho người yêu của cậu khi nào sinh nhật cô ta, bởi vì bài thơ đó là của cậu chứ không phải của mình.

Lại nói về đề tài. Đề tài không trơ bụng nổi trên mặt nước như con cá chết trương. Nó lặn sâu dưới nước, ở vào giữa dòng xiết nhất. Hãy bắt lấy nó ở đó, hãy túm lấy nó trong chỗ nước xoáy từ dưới dòng thác đổ. Chẳng lẽ một đồng tiền tình cờ nhặt được trên vỉa hè, đồng tiền mà người khác đã mất bao công sức nhọc nhằn mới kiếm được, lại có một giá trị nào đó sao?

Người miền núi thường nói: có thể bắt được nhiều thú, nhưng tất cả sẽ là chó rừng hay là thỏ. Bắt được một con thôi nhưng là con cáo thì hơn. Chưa thể biết sẽ bắt được nó ở đâu. Nhưng không nhất thiết con thú quý nhất lại ở hẻm núi xa nhất.

Có một người thợ săn suốt đời ao ước săn được một con cáo đen. Suốt đời anh ta tìm kiếm nó, đi ngang dọc khắp các triển núi. Về già, ông ta không còn đủ sức đi xa nữa, đành đi săn ở hẻm núi gần nhất ngay cạnh nhà. Và bất chợt ông ta trông thấy con cáo lông đen mịn màng.

Người thợ săn hỏi cáo:

- Bây lâu nay mày trốn ở đâu vậy, làm tao tìm kiếm cả đời không gặp?

- Tôi vẫn sống từ bé trong hẻm núi này, - con cáo trả lời, - nhưng chẳng lẽ ông lại không biết rằng nếu ông có mất cả đời để đi tìm chăng nữa thì lúc thấy chỉ cần một ngày, thậm chí một giây lát thôi sao?

Phải rồi, mỗi nhà văn đều có một ngày, một giây lát mà anh ta tự tìm thấy mình, tìm được đề tài chủ yếu nhất. Một đề tài như thế, về sau nhà văn không nên phản lại. Nếu anh ta thay lòng đổi dạ, thì anh ta sẽ gặp phải câu chuyện như anh bạn quen của tôi đã gặp phải,

Như vậy, về vở kịch của người tôi quen. Một nhà văn Đaghextan viết vở kịch về đề tài đời sống nông trang. Nhưng dù cho đề tài này quan trọng thế nào, nhà hát vẫn không chịu dựng, giải thích bằng lý do khó chấp nhận nhất; chúng tôi không thích vở kịch này, thế thôi.

Có thể đối với người nào khác một lý do như vậy có thể hiểu được, nhưng nhà viết kịch lại không thể hiểu nổi. Ông nổi giận và viết một lá đơn đến nơi cần thiết. Một ban kiểm tra được thành lập ngay để nghiên cứu vấn đề và tìm ra biện pháp giải quyết. Qua quá trình nghiên cứu, ban kiểm tra phát hiện vở kịch có nội dung như sau: vừa làm vừa hát những bài ca vui vẻ, hai đội sản xuất thi đua với nhau trong việc thu hoạch lúa mì.

Một nội dung như vậy hoàn toàn có thể làm vừa lòng ban kiểm tra và vở kịch có thể được thông qua trót lọt, nhưng lại có một tình tiết phụ cản trở: vào thời kỳ đó cấp trên đã thông qua quyết định không trồng lúa mì ở vùng thảo nguyên Kumức nữa (chính vùng này đã có hai đội sản xuất vừa thu hoạch mùa màng, vừa vui vẻ thi đua), phải trồng bông thế vào. Trong hoàn cảnh “trồng bông” như vậy mà lại đi dựng kịch “lúa mì” là việc không thể chấp nhận được. Nhà viết kịch liền ngồi vào sửa ngay tác phẩm của mình. Bông mới trồng chưa kịp nở hoa thì vở kịch đã được sửa xong ở mức độ hoàn hảo nhất. Người ta lại đem vở kịch ra đọc ở nhà hát. Khi người ta đang đọc nó thì lại có một nghị quyết mới được thông qua. Nghị quyết này nói rằng trồng bông ở vùng thảo nguyên Kumức không kinh tế bằng trống lúa mi, tuy vậy cần phải trồng ngô.

Nhà viết kịch có nhiều khả năng làm việc kia lại bắt tay vào sửa vở kịch. Tôi không biết câu chuyện sẽ kết thúc thế nào, nhưng rồi vào thời gian đó nhà hát bị cháy. Anh bạn quen của tôi nổi giận về sự không may của mình, anh ta bước ra bờ sông cao vời vợi, buồn bực lao cả vở kịch của mình xuống dòng nước cuồn cuộn trôi. Bây giờ thì anh chẳng tiếc gì vở kịch đó nữa.

Có lẽ tôi cũng nên kể thêm về một vở kịch khác nữa. Vở kịch do một nhà văn Nga viết và được đặt tên là “Những người sôi nổi”. Đây không phải là một vở kịch về lúa mì hay bông, mà là một vở kịch về đánh cá. Thậm chí cũng khó có thể gọi là về đánh cá, mà thế này.

Có chủ trương chuyển hết người miền núi từ các bản làng lâu đời trên cao xuống đồng bằng ven biển. Người ta gọi đó là chủ trương “xuồng đồng bằng”. Chúng ta sẽ không đi sâu vào vấn đề phức tạp đó, chúng ta chỉ nói là những người miền núi, từ bao đời chuyên chăn cừu trên núi, khi xuống đồng bằng đôi khi sẽ trở thành người đánh cá. Không thể giải thích một cách đơn giản là vì sao làm người đánh cá tồi lại tốt hơn làm anh chăn cừu giỏi, nhưng chính là vở kịch “Những người sôi nổi” đã viết về vấn đề những người miền núi ở bản làng xa đã trở thành người đánh cá ở biển Caxpie như thế nào.

Các nhân vật trong kịch đều là người Avar, vì vậy kịch sĩ bèn đưa tác phẩm của mình cho một nhà hát Avar.

Nhưng nhà hát đó đã chê bai vở kịch.

Nhà viết kịch sẽ có thái độ thế nào? Phải người khác lâm vào tình cảnh của anh ta, chắc sẽ hoang mang và mất hết tinh thần. Nhưng trong một ván cờ đôi khi cũng gặp trường hợp như thế này: chẳng hạn quân đen bị dồn vào một góc, không biết đi đâu, không còn chỗ thở; vào lúc đó bỗng quân đen đi quân mã một nước, một nước rất đơn giản và bất ngờ, và cục diện ván cờ bỗng thay đổi; bây giờ đến lượt quân trắng phải phòng thủ cố chống đỡ cho khỏi thua.

Tác giả vở “Những người sôi nổi” lúc đó cũng đã đi một nước cờ đơn giản như vậy. Anh ta bất ngờ đổi hết tên nhân vật dân tộc Avar sang thẳng tên dân tộc Kumức và đưa vở kịch cho nhà hát Kumức. Tuy nhiên nước đi của quân mã đó cũng không cứu vãn được tình thế. Nhà hát Kumức cũng từ chối dựng vở kịch về những người chăn cừu biến thành người đánh cá.

Ở vùng núi Đaghextan chúng tôi có rất nhiều dân tộc. Nhân vật của vở kịch lần lượt khoác tên dân tộc Đarghin, rồi Lêzghin, nhưng có lẽ họ cũng đều không trở thành những người đánh cá giỏi. Nhà viết kịch đã thả vở kịch của mình vào đời như người ta thả ra đường một con chó đói. Con chó chạy cùng sân các nhà lạ mà cuối cùng vẫn không tìm được một mẩu xương nào.

Vài năm sau nhà viết kịch về Matxcơva theo học chương trình Đại học về văn học. Có tin đồn về Makhátkala rằng những người đánh cá kia đã biến thành người Digan. Vở kịch được nhà hát Digan “Rômen” chú ý. Cuối cùng cô gái thọt cũng đã kiếm được chồng. Tuy nhiên cuộc hôn nhân đó kéo dài không lâu...

Đấy, tôi đã phê bình gắt gao một lúc cả hai vở kịch của các nhà văn tôi quen. Nếu bây giờ tôi đang đứng trên diễn đàn của một hội nghị nhà văn nào đó, thì chắc từ lâu tôi đã nghe những tiếng la ó: “Nói về mình đi chứ! Tự phê bình xem nào!”

Vậy thì tôi sẽ nói về mình thế nào? Tôi đã cảm thấy sung sướng nếu lúc này tôi chỉ phải nhận lỗi lẩm trong những sai sót của nghề viết văn như tôi vừa kể. Nhưng tôi đã phạm phải một tội lỗi mà đặt bên cạnh nó tất cả những sai sót đại loại như về “bông”, “đánh cá” vừa rồi đều trở thành một thứ nghịch ngợm của trẻ con, không đáng gì phải nói. Lúc còn trẻ, tôi đã có một hành động mà mỗi khi nhớ lại tôi thấy thật nặng nề.

Sau này bạn bè tôi đã chửi tôi rất nhiều, rất lâu và đó là một sự trừng phạt đối với tôi. Nhưng sự trừng phạt lớn nhất là từ chính bản thân tôi và có lẽ không bao giờ có ai trừng phạt tôi nặng nề hơn.

Bố tôi đã nói: nếu đã gây ra một hành động xấu xa, nhục nhã, thì dù sau này có hối hận đến đâu, cũng không thể xóa đi được hành động đó,

Bố tôi còn nói: người nào phạm phải điều xấu xa, sau đó vài năm lại tỏ ra hối hận thì cũng giống như người định xóa món nợ cũ bằng thứ bạc lưu hành từ trước khi đổi tiền.

Bố tôi còn nói; nếu anh đã cho phép cái ác làm tất cả những gì nó muốn và thả rông nó ra khỏi nhà mình, thì việc quất vào chỗ cái ác vừa ngồi còn có nghĩa gì nữa?

Việc gì phải lấy khóa to tướng mà khóa chuồng lại sau khi đã xua hết bò đi?

Mọi chuyện là như thế. Và tôi biết rằng sau khi đánh nhau người ta không lấy nắm đấm mà vẫy nhau. Nhưng các độc giả của tôi sẽ lại viết thư, sẽ nhắc nhở, khơi lại vết thương. Tưởng như họ ném đá vào cửa sổ của tôi và nói:

- Ra đây, ló mặt ra đây, Raxun Gamzatốp. Hãy kể cho độc giả chúng tôi nghe xem mọi chuyện đã xảy ra vì sao và như thế nào!

Tôi phải kể cho các bạn về chuyện gì?

Câu hỏi của những câu hỏi. Có thể rút được mũi tên ra khỏi da thịt. Nhưng liệu có thể rút dược mũi tên ra khỏi trái tim không?

Đây, chuyện này. Năm 1951 anh đã viết bài thơ lên án Samin, rồi năm 1961 anh lại viết bài thơ khác ca ngợi Samin. Cả hai bài thơ đều ký là Raxun Gamzatốp. Bây giờ chúng tôi muốn biết đó là một người hay là hai người trùng tên. Và chúng tôi nên tin Raxun nào.

Người bạn độc giả thân mến của tôi, tôi không biết bạn bao nhiêu tuổi, có thể rằng bạn còn rất trẻ. Trong đời mình đã có ranh giới nào bạn phải vượt qua chưa? Tôi đã phải một lần vượt qua ranh giới - tôi đã yêu mà không suy ngẫm nghiêm túc về tình cảm của mình. Sau đó tôi đã phải hối hận về điều đó.

Có khi hai người ở hai ngôi nhà đối diện nhau qua một con đường hẹp, cửa sổ mở sát sang nhau. Và thế rồi hai người đó cãi vã, chửi bới nhau là đã có những hành động xấu xa, khi thì người nhiều tuổi mắng người ít tuổi, khi thì ngược lại. Tôi giống như hai người hàng xóm đó, chỉ cỏ điều cả hai người ở hai nơi ấy đó đều là tôi. Tôi lúc trẻ và tôi bây giờ.

Ánh sáng của thời gian đã làm lóa mắt tôi như cô gái đẹp làm lóa mắt chàng trai khờ khạo. Tôi đã nhìn mọi sự trên đời này, như chú rể nhìn cô dâu, chẳng thấy một nét nào không vừa ý.

Nếu nói một cách nghiêm túc thì tôi đã là một cái bóng của thời đại. Mọi người đều biết là: cái gậy thế nào thì bóng nó như thế. Người ta đã công bố một cách chính thức rằng Samin là gián điệp của Anh và Thổ Nhĩ Kỳ và mục đích chủ yếu của ông là gây nên sự hằn thù giữa các dân tộc. Tôi tin vào ngôi nhà mà ở đó điều ấy đã được khẳng định, tôi tin cả vào người chủ của ngôi nhà đó. Chính lúc ấy tôi đã viết bài thơ lên án Samin của chúng ta.

Bây giờ thỉnh thoảng tôi cũng được nghe có người nói an ủi:

- Chúng tôi nghe nói là anh đã làm bài thơ đó theo đơn đặt hàng đặc biệt, anh đã bị buộc phải viết bài thơ đó.

Không phải thế! Không một ai bắt ép tôi, không một ai bức bách tôi. Tôi đã tự nguyện viết bài thơ đó và tự tay mình đem đến tòa soạn. Chẳng qua hồi đó tôi giống một số người dân miền núi cứ giở cuốn kinh Hồi giáo mặc dầu không biết một chữ Ả Rập nào - tức là chẳng hiểu một chút gì cả - mà vẫn cảm thấy lòng lâng lâng say sưa.

Tôi đã là cái bóng của thời đại. Lúc đỏ tôi còn chưa biết rằng nhà thơ không thể làm cái bóng, anh ta phải luôn luôn là ngọn lửa, là nguồn sáng, vô luận đó là ngọn lửa yếu ớt hay mặt trời rực rỡ. Ánh sáng không thể để lại bóng đen, ánh sáng chỉ đem tới ánh sáng.

Có thể rằng tôi hiểu điều này hơi muộn màng. Biết làm sao được, bởi vì ngay cây táo cũng có những loại khác nhau. Có những cây chín sớm, có những cây đến mùa thu mới cho quả ngọt. Như các bạn thấy đấy, tôi là một thứ táo mùa thu.

Chuyện xảy ra là như thế. vết thương của tôi vẫn còn mãi trong tôi.

Vết thương cũ chưa lành, từ lâu lắm

Lại cấu xé tim tôi và châm đốt lòng tôi.

Cậu chuyện thời Samin: tôi đã nghe từ bé

Bao câu chuyện trong làng về người ấy không thôi.

Người như một chuyện xưa, còn gắn vào thực tại

Trong truyền thuyết ấu thơ, làm tôi mãi bàng hoàng,

Mây những buổi hoàng hôn bay trên lều mê mải

Như đạo hùng binh, Người dẫn dắt di ngang.

Người là bài ca núi rừng. Mẹ tôi thường hay hát

Tiếng hát tới giờ tôi chẳng hề quên

Giọt nước mắt trong ngần rưng rưng trong mắt mẹ,

Rơi thành sương trên đồng cỏ chiều yên.

Người chiến binh già bận áo quần Tséckét

Đứng trong khung treo, nhìn xuống căn lều

Thuận tay trái, Người cầm gươm tay trái

Còn súng đạn, dành bên phải Người đeo.

Tôi nhớ có lần hai anh tôi ra trận

Người đứng lặng trong khung ánh, dõi nhìn.

Còn chị tôi đem nữ trang quyên góp

Đúc chiếc chiến xa Người được mang tên

Cha tôi đến cuối đời còn mê viết

Một trường ca, ca ngợi vị Anh hùng.

Nhưng thời ấy... Samin bị vu oan, đảng tiếc

Người chịu bao lời đồn đại tối tăm.

Nếu không có tai ương này bất chợt

Cha tôi dễ chưa mất sớm nhường kia!

Tôi cũng mắc lỗi lầm, khi nghe lời đồn thổi,

Vội viết bài ca, chung một duộc, một bè!

Lưỡi gươm cha ông, một phần tư thế kỷ

Hạ kẻ thù trăm trận chẳng rời tay

Tôi lỗi lẩm, trong bài thơ con trẻ

Thô bạo gán thành của phản bội, nào hay!

Đêm đến tôi nghe bước chân Người chắc nặng

Thắp đèn lên, Người thoáng hiện bên ngoài

Vừa giống người giữ làng Akhungô nghiêm khắc

Vừa giong một cụ già Gurtíp, đến bên tôi

Và Người nói: “Giữa trận tiền khói lửa

Ta xông pha đổ máu đã nhiều phen.

Mười chín vết thương, ta mang theo bỏng rát

Vết thứ hai mươi là mi, đồ hơi sữa ươn hèn.

Có vết thương do dao, có vết thương do đạn

Nhưng vết thương mi đâm, còn đau gấp ba lần:

Vì ta bị người vùng cao, lần đầu sát hại

Còn gì đo nỗi tủi hổ này chăng?

Chiến tích ta hôm nay, có thể không cần nữa

Nhưng nó từng gìn giữ núi rừng đây

Vũ khí ta hôm nay có thể thành cũ kỹ

Những chính tự do giành lại bởi dao này!

Ta chiến đấu kiểu dân rừng, kiên gan, không mỏi mệt

Chẳng mong ai ngợi ca, chẳng đàn hát, tiệc tùng

Ta đã từng vung roi quất bọn làm thơ nhảm

Với bọn kể chuyện suông, ta nghiêm khắc vô cùng.

Có thể ta lỗi lầm, khi từng đàn áp họ

Có thể tính nết ta nóng nảy chưa kìm

Nhưng gặp kẻ như người, đồ ba hoa bẻm mép

Thì cơn giận trong ta càng chẳng thể nào yên”.

Tôi không biết, những người dân Đaghextan có tha thứ cho bài thơ trước của tôi không; tôi cũng không biết hương hồn Samin cỏ tha thứ cho tôi, không, còn tôi thì không bao giờ tha thứ.

Bố tôi đã nói với tôi:

- Đừng động đến Samin con ạ. Nếu con động đến thì suốt đời con không được yên lòng đâu.

Bố tôi đã nói đúng.

Ôi, thời gian! Nhiều ngày kết thành năm, nhiều năm kết thành thế kỷ. Nhưng thời đại là cái gì vậy? Cố phải nó kết thành từ nhiều thế kỷ? Hay là từ nhiều năm? Hay là chi một ngày thôi cũng có thể trở thành thời đại? Đã năm tháng rồi cây phủ đầy lá xanh, nhưng chỉ qua một ngày, qua một đêm, tất cả lá đã úa vàng. Và ngược lại, đã năm tháng rồi cây đứng đó, trần trụi, đen như bị cháy khô. Thế rồi sau một buổi sớm ấm áp đầy ánh sáng, chồi xanh nhú lên trên khắp thân mình cây. Chỉ cần một buổi sớm náo nức cây lại xanh trở lại.

Có những cây tháng tháng lại thay màu lá, và có những cây chẳng bao giờ đổi màu.

Có những con chim di cư bay khắp thế gian này tùy theo thời gian thay đổi trong năm, và cũng có những con chim ưng chẳng bao giờ rời đỉnh núi cao của mình.

Chim thích bay ngược gió. Cả giỏi bơi ưa lội ngược dòng.

Rút trong sổ tay. Tôi có một người bạn, một thi sĩ Avar. Năm ngoái, tập thơ mới của anh được xuất bản. Các bài thơ trong cuốn sách anh đều chia ra từng phần, như người ta chia căn nhà ở thành phố thành từng buồng với chức năng riêng biệt. Chẳng hạn như những bài thơ chính trị - là phòng làm việc; những bài thơ tình riêng tư - là buồng ngủ; những bài thơ chung chung - là buồng khách; thế còn những bài thơ về nông nghiệp, về bánh mì, về người chăn cừu... Thì tôi không biết sẽ được xếp vào đâu, chẳng lẽ xếp vào bếp chăng?

Lẽ nào ca sĩ đi từ núi cao xuống Makhátkala để dự cuộc thi hát của Đaghextan, đã xử sự không đúng? Nhà thơ của chúng ta, đã giở tập thơ ra, yêu cầu ca sĩ hát mỗi chương một bài. Ca sĩ lên dây đàn kumuz, yên lặng một lúc như suy nghĩ điều gì rồi cất giọng hát. Anh hát rất lâu. Mọi người đâm hoảng: Nếu đây chỉ là một bài trong một chương, mà cuốn sách thì bốn chương, bao giờ mới hát xong được? Nhưng rồi ca sĩ ngừng hát, lấy tay áp vào dây đàn. Anh không hát tiếp nữa. Hóa ra là anh đã thu hút hết ý chính, cảm xúc chính của nhà thơ vào một bài hát. Nhà thơ hỏi vì sao anh lại hành động như vậy.

- Anh bạn ạ, - ca sĩ trả lời, - đây, cây đàn kumuz của tôi đây, nó có ba dây tất cả. Tôi không thể mới đầu thì gảy một dây, sau đó gảy sang dây thứ hai rồi thứ ba.

Lại nói về đề tài. Có lẽ không phải mọi người đều biết chuyện ngày xưa có anh chàng keo kiệt đi một đôi giày mới và rất sợ giày bẩn. Anh ta chi đi rón rén. Có lần anh ta gặp phải một chỗ rất bẩn, bùn có thể ngập đến đầu gối. Anh chàng keo kiệt đó đành phải trông cây chuối, đi ngược đầu xuống đất.

Có chuyện như thế này. Nhiều khi các nhà thơ không phải sáng tạo ra nghệ thuật mà giống như lả tham dự các cuộc đưa ngựa ngày chủ nhật. Để con ngựa của mình được đeo khăn thưỏng năm phút, họ sẵn sàng quất ngựa đến tóe máu. Tấm khăn thưởng đằng nào cũng phải cởi ra ngay trong ngày hôm đó, nhưng vết thương nơi da thịt ngựa thì còn lâu mới lên da non. Giống như chàng Alibulát ở làng Têlét, bao giờ họ cũng sẵn sàng... Chắc là các bạn chưa biết chuyện về Alibulát đâu?

Có lần viên tri huyện Khunzắc nói với tên lính hầu là Alibulát:

- Sửa soạn đi, sáng sớm mai mi phải đi tới làng Têlét đấy.

- Con xin vâng ạ, - tên lính hầu kính cẩn đáp.

Sương còn chưa tan trên đỉnh núi, Alibulát đã thắng ngựa lên đường. Trước bữa ăn trưa, anh ta đã trở về Khunzắc. Lúc gần về tới Khunzắc, những người quen trông thấy anh liền hỏi:

- Trời phù hộ anh đấy, anh Alibulát ạ, anh phải đi xa không?

- Dạ, tôi đã kịp rời Têlét về đây.

- Có việc gì mà anh phải đến Têlét?

- Dạ, tôi không biết. Việc gì thì chỉ có ngài tri huyện biết. Ngài nói với tôi hôm qua là tôi cần phải đi, thế là tôi đi thôi.

Trong môi trường văn học chúng ta cũng có những anh chàng Alibulát như thế.

Lại nói về đề tài. Tôi đã thấy nhiều thanh niên trước khi lấy vợ đã không hỏi ý kiến chính mình mà lại đi bàn với họ hàng, với các ông chú bà thím. Trong sáng tác của nhà văn không thể có các cuộc hôn nhân phi tình yêu. Trong cuộc đời, từ những cuộc hôn nhân theo lời khuyên của bà cô, vẫn có những đứa trẻ khỏe mạnh ra đời. Thật ra thì người ta nói rằng tình yêu càng nồng, đứa con càng đẹp. Ở nhà văn thì lại khác, những cuộc hôn nhân phi tình yêu chỉ có thể đẻ ra những cuốn sách chết. Nhà văn trước khi kết hôn với đề tài của mình cần phải lắng nghe nhịp đập trái tim mình.

Những bài thơ được làm ra theo lời khuyên của các ông chú bà thím sẽ có số phận như cuốn sách của một người bạn tôi.

Về cuốn sách của bạn tôi. Tôi không nhớ chính xác là vào năm nào, chi nhớ là có lúc người ta bỗng đua nhau nói là nước ta bây giờ cần có những Gôgôn và Sêđrin. Bất thình lình xuất hiện nhu cầu cần phải có văn học châm biếm Xô Viết.

Bạn tôi biết làm thơ một ít, biết viết văn xuôi một ít, biết làm biên tập một ít. Nói tóm lại là một nhà hoạt động văn học. Anh hăng hái đáp lại lời kêu gọi và viết ngay một tập thơ đả kích bọn dựng chuyện vu cáo, bọn nịnh hót, bọn lêu lổng, bọn đa thê và các hiện tượng phản diện trong hiện thực Xô Viết nhìn chung là tốt đẹp,

Cuốn sách chưa kịp bày ra hiệu sách thì có nhà phê bình đã viết một bài báo gay gắt. Ông ta viết: “Khẩu hiệu chúng ta cần có những Gôgôn và Sêđrin đã bị tác giả hiếu một cách quá đơn giản, sơ lược. Bây giờ chúng ta thấy rõ lả bên cạnh chúng ta đã có một kẻ nhỏ nhen độc địa thế nào. Bây giờ chúng ta thấy rõ trái tim anh ta nhỏ nhen, đen tối thế nào. Anh ta có thể tìm được ở đâu những mẫu người mà anh ta đã bêu xấu trong sách? Chăng lẽ trên đất nước Xô Viết của chúng ta lại có những kẻ như thế sao? Không, trên đất nước Xô Viết không thể có những kẻ như vậy được. Các nhân vật đó chi được sinh ra trong trí tưởng tượng đen tối của một người đen tối, kẻ đã tiếp tay cho kẻ thù của chúng ta bằng một cuốn sách bôi đen chế độ”,

Thủ trưởng cao cấp Múctabêkốp đập nắm tay xuống bàn nói lớn:

- Nào, anh đã thấy ở đâu chẳng hạn một đội trưởng sản xuất lười nhác, tắc trách như thế, lại còn rượu say bét nhè nữa?!

- Tôi đã thấy ở làng tôi, - Tác giả dịu giọng trả lời.

- Đó là một sự vu cáo. Tôi biết rằng nông trang làng anh là một nông trang tiên tiến. Không thể có một đội trưởng sản xuất như vậy trong một nông trang tiến tiến.

Nói tóm lại, sự đả kích đã rơi ngay vào đầu nhà thơ đả kích. Mọi việc xảy ra như trong bức tranh châm biếm của một tờ tạp chí. Bức tranh về hai cái ban công: một cái ở tầng 1, một cái ở tầng 4. Mỗi ban công có một người đang đứng. Người tầng dưới ném lên người tầng trên một viên ngói, nhưng viên ngói không lên tới tầng 4 mà rơi trở lại xuống trúng đầu người đã ném. Còn người ở tầng trên thì bình thản thả viên ngói xuống dưới, và nó cũng rơi trúng đâu anh chàng bất hạnh đứng ở ban công dưới. Dưới bức tranh là dòng chữ: “Phê bình từ dưới lên và phê bình từ trên xuống”.

Có người khuyên nhà thơ đả kích xấu số kia tốt hơn hết là nên tự nhận mình có lỗi, nhận nhiều lần càng tốt, chỗ nào có thể nhận lỗi được thì tranh thủ mà nhận: trên báo, trên tạp chí, trong các cuộc họp. Tác giả cuốn sách mang vạ kia bắt đầu tự đấm ngực mình, hối hận ăn năn. Nhưng như thế vẫn chưa đủ. Thủ trường cao cấp Múctabêkốp:

- Sau những bài thơ bôi nhọ của anh, chúng tôi không tin anh đâu. Anh cần phải chứng tỏ bằng việc làm, bằng ngòi bút mình, rằng anh đã sửa đổi.

Bạn tôi bây giờ sẵn sàng làm mọi việc. Bảo tự phê bình thì tự phê bình, bảo phải cải tạo thì sẽ tự cải tạo. Anh bắt tay vào làm và viết truyện thơ “Cô Margianát yêu lao động”. Nữ nhân vật của truyện thơ, một cô gái tiên tiến, hăng hái, trong chốc lát đã biến cả nông trang thành nông trang tiên tiến, vượt mọi kế hoạch sản xuất và cuối cùng lại đoat giải nhất tại hội diễn nghệ thuật nghiệp dư sau khi hát một bài do chính cô sáng tác. Truyện thơ được in ngay trong tạp chí và được xuất bản thành một cuốn sách riêng. Nhưng thời thế đã đổi thay một chút rồi. Bất ngờ vẫn mấy tờ báo đã từng gọi nhà thơ là kẻ vu cáo, bôi đen chế độ, lại nói rằng anh quá thật là một kẻ tô hồng chính cống. Thủ trường cao cấp Múctabêkốp lại đập nắm tay xuống bàn:

- Anh nhìn thấy ở nông trang nào không có một thiếu sót nào há? Anh tìm được ở đâu một nông trang lý tưởng như vậy?!

Người chịu tội lần này im lặng. Có những nút thắt quá chặt dùng tay không cởi được, dùng răng cũng không cởi được vì đã bị bẩn bởi cứt gì đó. Bạn tôi hiểu rằng trước mắt mình là một thứ nút thắt như vậy, anh chỉ ngồi yên, cúi đầu.

Anh im lặng chẳng nhiều, chẳng ít; vừa vặn 10 năm. Suốt thời gian ấy anh cũng chẳng đến Hội nhà văn nữa. Chỉ có một lần ghé qua Hội, khi người ta phân nhà ở. Các bạn thông cảm cho, ở trường hợp đó, không đến không được!

Ít lâu sau, thủ trưởng cao cấp Múctabêkốp bị cách chức vì tội lừa dối cấp trên. Không ai tiếc cho ông ta cả.

Tiện đây cũng xin kể là ông ta rất thích tắm biển, thường buổi sáng, buổi chiều ông ta đi chiếc xe “Zim” màu đen to tướng ra bãi tắm đặc biệt và ở đây một mình ngâm tấm thân phì nộn của mình dưới làn nước mặn mát của biển Caxpie. Nhà ông ta xây sát biển. Nhưng bây giờ thì không ai thấy ông tắm biển nữa, vì ông không muốn đến bãi tắm công cộng. Chắc là ông không muốn phải hạ mình thành một người khác và tự xúc phạm đến lòng kiêu hãnh của mình.

Lại nói về đề tài. Khi bước ra ngoài sân, anh sẽ thấy dưới đất, trong bụi, trên cây, đâu đâu cũng có chim. Chúng bay trên trời, có loài bay cao, có loài bay thấp: nào là nhạn, nào là quạ, nào là sẻ... Giữa đám chim ấy, trên cả bầu trời chỉ có một chim ưng. Nó bay cao hơn cả, xa hơn cả, nhưng nếu trên trời có nó thì người nào bước ra khỏi nhà cũng sẽ nhìn thấy nó đầu tiên. Nó làm cho người ta chú ý chính là vì nó bay cao hơn cả, bay xa hơn cả. Sau đó người ta mới nhìn thấy những con chim sẻ đang đậu trên bụi cây cách cửa chừng năm bước.

Nhưng không phải vì thấy chim ưng mà thành chim ưng được đâu! Nhà văn viết về người anh hùng không tự biến thành người anh hùng. Tôi biết nhiều người nhát gan lại nổi tiếng về những bài thơ ca ngợi lòng dũng cảm,

Nếu người con dũng cảm của miền đất núi là Makhát Đakhađaép sống lại thì anh sẽ nói gì với nhà “học giả” viết luận văn về anh?

- Sao anh lại dám kể lại cuộc đời anh dũng của tôi, nếu anh không dám bảo vệ lấy một dòng nào của anh trước nhà biên tập cả? Nhà biên tập nào cũng có thể thay đổi ý kiến của anh về tôi nếu người ta muốn, mà anh thì chẳng dám hé môi phản đôi. Không, anh không xứng đáng để viết luận văn về một người như Makhát Đakhađaép, - đấy, người con dũng cảm của núi rừng có thể sẽ nói như vậy nếu ông chui được lên từ dưới nấm mồ.

Có người tưởng