THẾ LOẠI
Kẻ ngu làm kinh ngạc bằng tiếng gào,
Người thông minh làm kinh ngạc bằng câu tục ngữ dẫn ra đúng chỗ.
Mùa xuân đã đến - hãy hát bài ca.
Mùa đông đã đến - hãy kể chuyện cổ tích.
Đây, tôi đang đứng trước quả núi mà tôi cần phải vượt qua. Con ngựa cừ đưa tôi vượt qua bất cứ ngọn đèo nào. Quả núi - là đề tài của tôi, ngựa - là lời nói của tôi. Nhưng bây giờ tôi phải chọn con đường nhỏ, mà theo đó, sẽ vượt được núi cao.
Các bậc tiền bối của tôi đều yêu thích con đường thẳng. Nó khó đi hơn, nguy hiểm hơn nhưng ngắn hơn... Nó có thể giết chết người vượt núi, nhưng lại dễ dẫn người đó mau đến đích.
Hay trước mặt tôi là một thành lũy cần phải chiếm. Tôi có một thứ vũ khí tuyệt diệu mà nó sẽ không phản bội tôi trong trận đánh. Thành lũy - là đề tài của tôi, vũ khí - là lời nói cửa tôi. Nhưng cần phải tìm cách nào có thể dễ chiếm được thành lũy kiên cố đó. Hoặc là tấn công bất ngờ, hoặc bao vây kéo dài thì tốt hơn.
Có cánh đồng đã gieo hạt kê, và có con nước trên dòng suối núi. Nhưng làm thế nào dẫn nước xuống đồng?
Có củi trong bếp lò, có nồi và một thứ gì có thể đặt vào nồi. Nhưng sẽ nấu món ăn gì cho bữa cơm trưa?
Vị tổng biên tập nọ trong bức thư của mình đã cho phép tôi lựa chọn bất kỳ thể loại nào: truyện ngắn hoặc truyện vừa, thơ hay là bài báo. Càng nhiều khả năng, càng khó lựa chọn.
Rút trong sổ tay. Ở Đại học văn học chúng tôi đã có một sự diễn biến thế này.
Năm thứ nhất - có 20 nhà thơ, 4 nhà văn xuôi và 1 nhà viết kịch.
Năm thứ hai - có 15 nhả thơ, 8 nhà văn xuôi, 1 nhà viết kịch và 1 nhà phê bình.
Năm thứ ba - có 8 nhà thơ, 10 nhà văn xuôi, 1 nhà viết kịch và 6 nhà phê bình.
Đến cuối năm thứ năm - chỉ có 1 nhà thơ, 1 nhà văn xuôi, 1 nhà viết kịch, còn lại tất cả đều là nhà phê bình.
Chuyện đó tất nhiên là chuyện tiếu lâm, phóng đại. Nhưng điều có thật là nhiều người bắt đầu nghề viết bằng thơ, sau đó chuyền sang viết văn xuôi, viết kịch rồi cuối cùng viết các bài phê bình. Bây giờ lại thêm mốt mới là chuyển sang viết kịch bản điện ảnh.
Có những hoàng đế và quốc vương phế bỏ hoàng hậu vì không có con. Nhưng sau khi thay vợ vài lần, vị hoàng đế hay quốc vương đó mới biết là không có con không phải vì lỗi của các bà vợ. Trong khi đó, một bác nông phu khác suốt đời chỉ sống với một vợ thì lại có đến mười hai đứa con.
Tôi cho rằng: cứ uống rượu đi nhưng đừng chê bai bánh mì. Cứ việc hát, nhưng hãy nghe cả chuyện cổ tích. Cứ làm thơ đi, nhưng cũng đừng xua đuổi truyện ngắn tránh xa mình.
Văn xuôi. Đã có thời tôi nằm trong nôi nghe mẹ tôi hát bài hát ru. Bà chỉ biết duy nhất một bài hát. Mặc dù bố tôi là một nhà thơ có tiếng, nhưng ông không viết cho các con của mình một bài hát nào. Ông ưa kể cho chúng tôi nghe những câu chuyện, những mẩu chuyện khác nhau. Đó là văn xuôi của ông.
Bố tôi không thích nói về những bài thơ của mình. Theo tôi, ông đã coi làm thơ là một việc ít nghiêm chỉnh. Những việc nghiêm chình của ông là: cày ruộng, chữa kho thóc, chăn nuôi bò sữa và ngựa, gạt tuyết khỏi mái, sau này là tham gia công việc chung trong làng và cả trong huyện nữa.
Viết xong một bài thơ, bố tôi chẳng quan tâm nhiều lắm đến việc nó sẽ được in ở đâu. Đối với ông thì báo trung ương hay báo tường của thiếu nhi trong làng cũng thế. Tôi đã thấy là có khi ông lại còn thích thú báo tường hơn.
Ông thường nhớ lại điều Anaxin Mahômét đã nói với con trai của mình, là một người ngợi ca tình yêu nổi tiếng, - nhà thơ Makhơmút. Khi Makhơmút sau một thời gian dài lưu lạc, đau khổ vì tỉnh yêu và những bài ca về tình yêu, nhợt nhạt và đói mệt trở về nhà, xin bố cho ăn, người bố bình thản trả lời:
- Lấy thơ mà ăn, lấy tình yêu mà uống. Tao phải cày ruộng thay mày mệt lắm rồi.
Tất nhiên, với chim, hót cũng cần, nhưng việc chính là xây tổ, kiếm thức ăn, nuôi con.
Bố tôi coi thơ cũng hệt như tiếng chim hót. Đẹp đấy, thú vị đấy, nhưng không nhất thiết phải có. Ông nghĩ thơ cũng giống như là tiếng chào khi gặp nhau buổi sớm, lời chúc nhau ngủ ngon ban đêm, lời mừng khi gặp lễ lạt, lời chia buồn khi nhà ai đó có tang.
Có ý kiến cho rằng nhà thơ không phải là những người như ở thế giới này - mỗi nhà thơ đều có riêng tính nết, bố tôi lại hoàn toàn là một người dân miền núi bình thường. Bố tôi thích nhất là ngồi chậm rãi trò chuyện với bè bạn, khi mọi người quây tròn lại lần lượt kể cho nhau đủ thứ chuyện - Tức vẫn là văn xuôi.
Những bài thơ đầu tiên ông đưa cho nhà thơ nổi tiếng Makhơmút xem. Nhà thơ rất ngạc nhiên khi đọc những bài thơ của bố tôi và nói rằng ông không hiểu được những bài thơ đó, và nói chung là ông không thể hiểu vì sao lại có thể làm được thơ về con bò sữa, về máy kéo, về những con chó, về con đường nhỏ dẫn tới làng Khunzắc.
- Vậy thì phải làm thơ về cái gi? - bố tôi từ tốn hỏi.
- Về tình yêu và chỉ về tình yêu thôi! Cần phải xây lên một lâu đài tình yêu.
Bố tôi không dựng lâu đài tình yêu. Mà ông cũng chẳng lo tới chuyên phải dựng nó. “Lâu đài” của ông, mối lo của ông - những gì chất chứa trong thơ ông - đó là cái nhà, gia đình, con cái, làng bản, ngựa, đất nước, hòa bình và ruộng đất, bầu trời, cơn mưa, mặt trời, cỏ cây.
Đúng ra, có một lần ông làm một bài thơ tình về người đàn bà ông yêu. Nhưng để không ai đọc được bài thơ đó, ông đã viết bằng tiếng Ả Rập. Đó là bài thơ viết riêng cho người yêu, riêng cho ông.
Phải rồi, bố tôi ưa thích hơn cả là câu chuyện kể từ tốn, thông minh. Buổi tối, khi mặt trời vừa lặn, bố tôi thường đặt tôi ngồi lên đùi, lấy vạt áo dày ấm thơm thơm choàng qua người tôi, rồi bắt đầu kể chuyện và kể rất lâu. Ông kể về những người đi đến những miền xa lạ và những người ở lại quê hương. Ông kể về những con đường, những dòng sông, về những bông hoa nở và vì sao đàn ong lại đến. Ông kể về mặt trời đỏ mọc lên rồi lặn đi thế nào. Ông kể về những phong tục, tập quán cổ xưa, những lời câu nguyện trước khi bước vào trận đánh.
Chi cần nhìn lên trời, ông cũng có thể biết ngày maỉ mưa hay nắng. Ông biết rằng nếu chung quanh đều mưa mà làng Têlét lại nắng thì có nghĩa là có mưa đá trên cao nguyên Khunzắc.
Ông kể cho tôi nghe một bông lúa có bao nhiêu hạt và vì sao cầu vồng rực rỡ hiện lên.
Nếu từ xa thấy một người bộ hành đi từ làng này qua làng khác, bố tôi có thể kể rõ người đó là ai, vì chuyện gì phải lên đường, buổi tối sẽ ngủ lại nhà ai...
Mà việc gì lại phải kể tất cả những chuyện đó cho tôi! Tốt hơn hết là ghi lại trên giấy. Đấy có thể đã là văn xuôi của ông, văn xuôi của nhà thơ Gamzát Xađax.
Chuyện kể và cuộc đời đối với ông là một. Ông cho sự suy nghĩ là chuyện kể và chuyện kể là sự suy nghĩ. Còn thơ thì ông ví với trái tim mỗi lúc đập một nhịp.
Tốt hơn hết, bố tôi tự mình ghi lại những chuyện ông đã kể. Bởi vì đằng nào khi tôi lớn lên, trái tim tôi vẫn đi trước. Khi có con chim bay ngang qua, tôi chẳng hề nghĩ nó bay đi đâu và vì sao, tôi chỉ muốn bắt được nó lúc đang bay. Dù bố tôi có cố công đến thế nào, bài hát ru duy nhất của mẹ hỏi nhỏ tôi vẫn yêu thich hơn tất cả những chuyện kể của bố tôi.
Với bài ca, tuổi thơ của tôi đã trôi qua; với bài ca, tôi đã sống những năm trẻ trung; với bài ca, tôi đã trưởng thành; cũng với bài ca đầu tôi đã bạc.
Nhưng bây giờ tôi đã hiểu, dù tôi phiêu bạt tận đâu, dù tôi đã hát những bài ca nào, bao giờ cũng có vách đá chờ chim ưng tới đậu, bao giờ cũng có ngọn cây chờ chim đến kết tổ, bao giờ cũng có ngôi nhà chờ khách gõ cửa, và có văn xuôi đang chờ nhà thơ đến với nó.
Và đây, tôi đã đậu xuống vách đá chờ tôi, đã gõ vào cánh cửa ngôi nhà sẽ mở đón tôi bước vào. Tôi hiểu rằng tôi không thể nói ra bằng thơ tất cả những gì tôi đã thấy trên trái đất, tất cả những gì tôi đã cảm, đã nghĩ.
Tôi hiểu rằng văn xuôi không phải là bài ca có thể đứng mà hát được. Cần phải ngồi xuống cạnh bàn, xắn tay áo lên, cần phải vặn chuông đồng hồ báo thức thật sớm, cần phải pha chè thật đặc để khỏi ngủ thiếp đi trong đêm.
Nếu xây móng thật chắc và biết dựng dàn giáo thật chắc thì việc dựng nhà sẽ trót lọt. Đây sẽ là gì - là truyện ngắn, truyện vừa, truyện cổ tích, truyện hoang đường, tùy bút, suy tư hay chi là bài báo - Tôi cũng không biết.
Có thể có những nhà biên tập, nhà phê bình nói với tôi rằng không phải tôi đã viết tiểu thuyết, truyện cổ tích, truyện vừa mà cũng chẳng biết tôi đã viết ra cái gì. Một vài nhà biên tập, nhà phê bình khác lại có thể nói rằng đây vừa là thể loại đầu vừa là thể loại thứ hai, thứ ba, thứ năm và thứ mười nữa.
Tôi cũng không phản đối. Các bạn cứ việc gọi tùy thích những gì tôi đã viết. Tôi không viết theo những quy cách sách vở đã định, mà viết theo mệnh lệnh của trái tim. Trái tim không có quy cách. Nói đúng hơn là nó có riêng những quy cách không phải bao giờ cũng thích hợp với mọi người.
Tôi thầm nghĩ: không biết mình có làm hỏng bữa ăn không, nếu tôi đổ vào một nồi cả thịt, cả gạo, cả hoa quả, cả ớt, hoặc nếu vừa cho thêm muối lại cho thêm cả mật? Hay là, ngược lại, đây sê là một món ăn ngon lành, phi thường? Hãy để cho người ngồi ăn đánh giá dở ngon.
Câu chuyện của tôi, những suy nghĩ của tôi, chuyện cổ tích của tôi! Đã nhiều lần hồi bé, vào đêm mùa đông, tôi không thể nào ngủ được vì nóng lòng chờ bố tôi hay anh tôi trở về nhà. Tôi lắng nghe tiếng cửa cót két và tiếng sột soạt ngoài hiên, và những phút ấy như đã kéo thành giờ dài dặc.
Vào những đêm đó, ông tôi ngồi xuống bên cạnh tôi và bắt đầu khe khẽ kể khi thì chuyện cổ tích, khi thì một bài bát, một truyện ngụ ngôn, một câu tục ngữ, lúc buồn cười, lúc đáng sợ. Tôi không nhớ đến thời gian nữa, tôi chỉ còn biết lắng nghe chuyện kể của ông, những chuyện gợi trí tưởng tượng cho tôi. Bố hay anh tôi trở về nhà, và tôi tiếc rằng câu chuyện lý thú đã bị cắt ngang.
Sau này, khi tôi đã lớn và đi khắp thế gian rồi vội trở về làng như bố tôi hay anh tôi trước đây, thì càng gần đến nhà bao nhiêu, tim tôi càng đập gấp bấy nhiêu, tôi tính đếm xem trên đường còn bao hẻm núi nữa sẽ đến nhà; lúc đó có ai trong số bạn đồng hành lên tiếng kể một chuyện hấp dẫn, tôi liền chăm chú nghe và khi ngôi nhà đã hiện ra trước mắt, tôi cảm thấy tiêng tiếc là đường đã hết và người đồng hành chưa kịp kể hết câu chuyện.
Bố tôi hỏi:
- Thế nào, qua đèo thế nào, hẻm núi có bị tuyết lấp không?
Nhưng tôi đã chẳng để ý gì đến đèo, đến hẻm núi, đến tuyết. Tôi chỉ nhớ những gì người bạn đồng hành hay chuyện đã kể cho tôi. Những chuyện kể của anh đối với tôi biến đèo cao thành đường bằng, tuyết lạnh thành bông ấm áp.
Những câu chuyện của tôi, những suy nghĩ của tôi! Liệu chúng có thể rút ngắn cho ai đó đêm mùa đông dài chờ đợi người thân, hay đường mùa đông dài dặc dẫn về ngôi nhà ấm cúng vẫn hằng mong nhớ?
Như người ta cho rau thơm vào canh, tôi cũng cho đôi ba câu thành ngữ, tục ngữ vào những câu chuyện nhàn nhạt của tôi.
Các cô gái ở làng Tailúc tự chấm lên cằm mình, gần đuôi mép, hai nốt ruồi nho nhỏ làm duyên. Hãy để cho những tục ngữ trong cuốn văn xuôi này của tôi cũng giống như hai nốt ruồi ấy trên gương mặt cô gái.
Như người ta ốp vào tường phẳng phiu những hòn đá sù sì, tôi cũng gắn vào câu chuyện của tôi những hồi ức, những đoạn rút từ trong sổ tay. Nhưng không phải hòn đá nào cũng thích hợp với bức tường cả. Khi tôi đã gán vào đấy một vài đoạn như thế, rồi tiếp tục viết, thì tôi có cảm giác giống cảm giác của những người theo đạo, khi họ tiếp tục nguyện cầu, nhưng đã không còn lòng cầu nguyện. Những hòn đá nào không thích hợp cần phải lấy ra khỏi tường.
Vậy là từ những bài thơ, bài ca sôi nổỉ, tôi chuyển sang chuyện kể từ tốn, chuyển sang văn xuôi. Nhưng nếu tôi quyết định tạm thời xa bài ca, thì nó lại không muốn xa tôi. Giống như chú mèo con mềm mại, nó chui vào chăn tôi, khi tôi đang ngủ. Giống như tia mặt trời ló qua đỉnh núi, nó vụt chiếu vào nhà tôi, khi tôi vừa mở cánh cửa sổ. Nó chờ tôi ở đáy cốc cùng với những gìọt rượu cuối cùng ngon ngọt nhất. Nó theo dõi tôi khắp nơi như người đàn bà vừa bị phụ tình, và khi túm được tôi, liền chắn ngang đường và nói:
- Sao, anh định cắt đứt với tôi thật à? Nhưng anh cứ nghĩ kỹ đi, có thật là anh có thể sống thiếu tôi được không. Anh là con sơn dương đã quen kiếm ăn trong khu rừng mát mẻ. Anh là con cá hồi đã quen bơi trong nước băng đang tan. Chẳng lẽ anh tưởng rằng anh có thể quen với mặt hổ phẳng lặng ấm áp sao? Cũng được thôi, nếu anh quyết định bỏ đi, ta hãy ngồi xuống đây nói chuyện với nhau lần cuối đã.
Thơ ca, chẳng lẽ ngươi không biết rằng, ta không bao giờ có thể xa ngươi sao? Chẳng lẽ ta có thể rời bỏ những niềm vui đã đến với ta, những giọt nước mắt chảy trong lòng ta?
Thơ giống như cô bé đã ra đời trong khi mọi người chờ sinh một đứa con trai, thơ giống như đứa bé gái đã ra đời và bằng sự ra đời của mình dường như muốn nói: “Tôi biết rằng, các người đã không mong tôi xuất hiện và bây giờ chưa một ai yêu tôi. Cũng được thôi, hãy để cho tôi lớn lên, hãy để cho tôi tết đuôi sam và hát bài ca. Rồi xem liệu có ai trên đời này lại không yêu tôi?”
THƠ CA
Có công việc làm, hẳn có lúc ngừng tay,
Có cuộc hành trình, phải có mươi phút nghỉ.
Thơ vừa là nghỉ ngơi, vừa là việc đầy lao lực,
Thơ vừa là chỗ dừng chân, vừa là cuộc hành trình.
Thơ như bài hát ru, ngây ngất đầu giường thơ bé,
Như mơ ước mùa xuân, như khát vọng chiến công
Tôi yêu thơ và thơ liền hiển hiện,
Thơ đã sinh ra, tình yêu cũng đến cùng.
Khi tôi nhỏ, thơ giống như bả mẹ,
Tôi lớn lên, thơ lại giống người yêu,
Chăm sóc tuổi già, thơ sẽ làm con gái,
Lúc từ giã cõi đời; kỷ niệm hóa thơ lưu.
Có lúc thơ như trái núi cao không thể tới
Có lúc thành cánh chim sà đậu xuống lòng tay.
Thơ như đôi cánh nâng tôi bay
Thơ là vũ khí trong trận đánh
Là tất cả, thơ ơi, chỉ trừ không chịu là yên tĩnh!
Tôi nguyện suốt đời trung thực sống cho thơ...
Là công việc tận cùng? Là rảnh rỗi bắt đầu?
Là cuộc hành trình ư? Hay chỉ là chỗ nghỉ?
Tôi chỉ biết với tôi, thơ vẫn là hai vẻ:
Rảnh rỗi và việc làm; chỗ nghỉ với hành trình...
Bố tỏi đã nói: Nếu muốn cắt lời một anh chàng ba hoa tẻ ngắt thì cần phải nhờ đến một bậc cao niên đáng kính hay một vị khách. Nếu sau đó, chàng ba hoa vẫn không chịu chấm dứt những lời rỗng tuếch đó, thì cần hát lên một bài. Và nếu cả đến bài hát cũng không có tác dụng với anh ta, thì lúc ấy có thể mạnh dạn túm lấy cổ áo anh ta mà lôi ra ngoài nhà. Bất cứ ai nói lời ba hoa cản trở bài hát đều có thể thụi cho một quả kha khá.
Thơ ca, chính ngươi biết rõ hơn ai hết, rằng những lời bàn về ngươi chẳng làm cho ngươi trở nên tốt đẹp hơn, cao quý hơn. có thể dùng lời nói để làm bài hát hay hơn chăng? Có thể lấy ấm nước để làm dòng suối núi chảy xiết thêm chăng? Có thể dùng miệng thổi làm gió thêm mạnh? Có thể đắp thêm nắm tuyết làm ngọn núi cao trở nên hùng vĩ hơn?
Thơ ca, nếu không có người, tôi đã mồ côi.
Cuộc sống tối sầm nếu không có thơ ca
Không thấy mặt trời, sẽ không còn khái niệm,
Giống một vòm đêm không ngôi sao nào hiển hiện
Giống tình yêu khô cằn, không có phút trao hôn.
Thế giới ra sao, nếu biển không cón biếc?
Không còn hơi mát đưa, vĩnh viễn rập rờn?
Nếu vườn tược không hoa và không cỏ,
Không cả tiếng ve rền, không tiếng họa mi ngân?
Cây sẽ xám đen, trơ trụi, khô gầy,
Tháng mười một trống trơn, mùa xuân không trở lại.
Và con người sống nghèo nàn, hoang dại,
Sẽ không một ai biết hát bao giờ!
Người Avar thường nói: “Nhà thơ sinh ra một trăm năm trước khi thế giới tạo thành”. Qua đó họ muốn nói rằng, nếu nhà thơ không tham dự vào việc tạo thành thế giới thì thế giới đã không được đẹp như thế này.
Bố tôi sinh được bốn người con trai và một người con gái. Người con gái là chị cả chúng tôi. Như mọi phụ nữ miền núi khác, chị tôi đã phải làm rất nhiều việc, đã phải gánh chịu nhiều buồn khổ, nhiều nước mắt. Bố tôi nhiều lần nói:
- Các con có bốn anh em trai, mà chị gái thì chỉ có một thôi. Các con phải biết quý chị, lo cho chị. Trên thế gian này, các con không có ai thân thiết hơn chị gái đâu.
Bố tôi nói đúng, chị tôi đã là người thân thiết nhất đối với tôi. Nhưng tôi còn có một người chị gái thứ hai nữa mà tôi không biết có kém phần thân thiết với tôi hơn không. Người chị thứ hai của tôi là thơ ca. Không có thơ ca, tôi không thể sống được.
Đôi khi tôi tự hỏi, không biết có thể lấy gì thay thơ ca được không. Tất nhiên tôi còn có những ngọn núi, còn có tuyết và những dòng suối, cơn mưa và những vì sao, mặt trời và bánh mì... Nhưng lẽ nào những ngọn núi, cơn mưa, hoa lá và mặt trời có thể không cần đến thơ ca, và thơ ca - không cần đến chúng? Không có thơ ca, những ngọn núi biến thành đống đá chất lên cao mà thôi, cơn mưa biến thành nước đổ xuống thành vũng lầy lội, mặt trời biến thành một khối vật chất khồng lổ bức xạ nhiệt năng trên bầu trời.
Tôi lại tự hỏi: có thể lấy gì thay thơ ca? Tất nhiên còn có những miền đất xa xôi, tiếng chim hót, bầu trời và nhịp đập con tim. Nhưng thiếu thơ ca không gì có thể trở thành chính nó. Sẽ chỉ còn những khái niệm địa lý thế vào những miền đất xa xôi đẩy vẻ hấp dẫn, sẽ chỉ còn khối nước khổng lồ vô nghĩa thế vào các đại dương, hỗn hợp của một vài chất khí thế vào bầu trời xanh, tiếng con cái gọi con đực thế vào tiếng chim hót, sự tuần hoàn của máu thế vào nhịp đập run rẩy của con tim.
Tất nhiên còn có sự dịu dàng, lòng phúc hậu, tình thương, tình yêu, vẻ đẹp, sự dũng cảm, lòng căm thù, tính kiêu hãnh... Nhưng tất cả các khái niệm đó đều do thơ ca sinh ra và thơ ca sinh ra từ đó. Những tình cảm đó không thể tồn tại ngoài thơ và thơ cũng không tồn tại ngoài chúng.
Thơ tôi đã làm nên tôi, và tôi đã làm ra thơ của tôi. Không có nhau, hai chúng tôi đều chết, hay đúng hơn là chưa từng có. Trong người tôi có những chiếc xương. Mắt người ngoài không làm sao biết được xương nào của tôi nguyên vẹn, chắc chắn, xương nào đã bị gãy rồi, sau dính liền lại. Tuy nhiên, những tia Rơn-ghen đã xuyên qua người tôi và tất cả những gì bí mật của tôi đã lọt vào mắt người ngoài.
Tâm hôn tôi còn ẩn náu sâu hơn, kín đáo hơn những cái xương, cột sống, lá phổi của tôi. Nhưng những tia sáng thơ ca đã rọi chiếu qua tôi, và mỗi một rung động nhỏ trong tâm hồn tôi trở thành cái mọi người đều biết. Tâm hồn tôi như đặt trong lòng bàn tay trần, những tia sáng huyền diệu của Thơ ca chiếu tới, và mọi người nhìn thấu qua tôi.
Trong cỗ máy tính ngày nay có hàng ngàn dây dẫn và linh kiện khác nhau. Người ta đưa vào máy chương trình phức tạp nhất bằng nhiều con số. Một dòng điện chạy qua vô số dây dẫn và linh kiện đó. Không một con mắt nào, không một bộ óc nào có thể bao quát kịp tất cả mọi quá trình diễn ra trong cỗ máy phức tạp. Nhưng sau đó xuất hiện một con số là kết quả, là câu trả lời cuối cùng.
Không ai có thể biết những ấn tượng nào, những dòng điện tình yêu và lòng căm giận nào đã chạy trên vô số những dây dẫn của cơ thế tôi. Nhưng sau đó thì xuất hiện bài thơ - cái cuối cùng, cái cao nhất mà tâm hồn tôi đã có thể tạo ra từ những ấn tượng cuộc sống đi qua tôi.
Tôi đã đi rất nhiều trên thế gian này. Tôi đã đi bộ, ngồi trên yên ngựa, đi trên máy bay - ngồi lọt vào chiếc ghế bành và như thiu thiu ngủ, ngồi trong xe hơi vun vút lao đi, nằm trên giường cao gắn trong toa tàu hỏa...
Trông thấy tôi đi bộ hay cưỡi ngựa trên con đường nhỏ, mọi người có thể nói: Raxun Gamzatốp đấy. Anh ta đi một mình, chắc là buồn lắm. Nhưng tôi chưa bao giờ phải đi một mình. Bên cạnh tôi luôn luôn có người chị là thơ ca. Không một phút nào chúng tôi xa nhau. Đôi khi cả trong giấc ngủ tôi cũng làm thơ hay nhớ lại bài thơ đã viết, hay đọc thuộc lòng những bài thơ của các nhà thơ khác.
Trước đây tôi nghĩ rằng, trên thế gian này có rất ít nhà thơ. Sống giữa mọi người chắc họ cảm thấy buồn tẻ lắm. Trong cuộc đời, mỗi người đều có một mối quan tâm riêng mà họ có thể đem ra tâm sự với bạn bè, hảng xóm: chuyện công việc làm ăn, chuyện gia đình vợ con, lương bổng, ngày nghỉ, ngôi nhà thân thuộc, câu cá, xem phim, bệnh tật... Tôi nghĩ rằng tất nhiên nhà thơ có thể nói những chuyện đó với người khác, nhưng có ai sẽ chia sẻ cùng nhà thơ sự cảm nhận thế giới bằng thơ ca của anh ta?
Sau này tôi vỡ lẽ ra rằng không có người nào không là nhà thơ. Mỗi người đều là một nhà thơ theo kiểu của người ấy. Hay ít ra thơ ca đến với mỗi người trong chúng ta như là một người bạn đến chơi nhà một người bạn.
Nhân dân miền Đaghextan chúng tôi vốn yêu các bài ca tựa như người ta yêu con mình. Phải rồi, tất cả chúng tôi đều là nhà thơ. Sự khác nhau giữa chúng tôi chi là ở chỗ, một số người làm thơ vì họ biết làm thơ. Một số người khác làm thơ vì họ có cảm giác rằng họ biết làm thơ. Còn một số đông người khác thì hoàn toàn không làm thơ. Có phải rằng chính họ, những người không làm thơ, mới thật là các nhà thơ chân chính?
Có một thời gian tôi không làm thơ, Chẳng lẽ lúc đó tôi không phải là nhà thơ sao? Lẽ nào trái tim tôi lúc ấy đã đập chậm hơn, máu lạnh hơn? Lẽ nào nỗi buồn đau dằng xé tôi ít hơn, và niềm vui đối với tôi ít hơn? Lẽ nào nỗi khát khao hiểu biết mọi thứ của tôi lại nhỏ đi hơn? Lẽ nào đôi mắt tôi không thấy quê hương đẹp như bây giờ mắt tôi đang thấy? Lẽ nào tôi xúc động ít hơn khi bất chợt nhìn thấy ngôi sao xanh long lanh giữa những đám mây đen? Lẽ nào tiếng suối chảy róc rách tôi không nghe thấy êm ái nhịp nhàng? Lẽ nào lòng tôi không thấy nôn nao khi nghe tiếng sếu kêu hay tiếng ngựa hí? Lẽ nào nước mắt tôi không rơi, khi tôi nghe bài ca xưa và câu chuyện cổ về sự nghiệp của cha ông?
Tôi nhớ lại, khi tôi còn nhỏ, tôi đã đi chăn ngựa thuê cho người hàng xóm. Cứ ba ngày chăn thì ông hàng xóm kia phải kể cho tôi nghe một chuyện cổ tích.
Tôi nhớ lại, cũng vào dạo đó tôi đã đi lên núi, đến chỗ những người chăn cừu. Nửa ngày đi đến đó, nửa ngày trở về. Mà cả ngày như vậy chỉ cốt để nghe một bài thơ.
Người ta vẫn thường nói: lê Unxukun, nho Ghimrin, mật ong Bútxra và những bài ca Avar.
Tôi nhớ lại, khi tôi học lớp hai, từ làng Xađa, tôi đã phải đi hai mươi cây số theo con đường nhỏ vắt qua những triên núi cao để đến làng Bútxra. ở đây có một ông già, bạn bố tôi, biết rất nhiều bài hát cổ, bài thơ và truyện cổ tích. Bốn ngày liền suốt từ sáng đến chiếu tối, ông già đọc thơ và hát cho tôi nghe, và tôi cố gắng ghi lại hết các bài ca của ông. Tôi sung sướng trở về với một túi đầy những thơ và bài ca.
Bên cạnh làng Bútxra có một quả núi cao. Khi tôi trèo lên quả núi đó thì bỗng thấy một đàn chó săn cao lớn dữ tợn lao đến phía tôi. Chúng phải đến một tá. Chúng chạy vun vút trên bãi cỏ xanh trông như những quả ngư lôi lao thẳng vào thành tàu đen sì, tôi đã nhìn thấy mõm chúng há hốc và những cái răng nanh vàng nhớp nháp trơ ra. Chỉ một phút nữa là tôi đã có thể bị xé xác, bỗng bất ngờ tôi nghe thấy tiếng quát của một người chăn cừu:
- Nằm xuống! Đừng nhúc nhích!
Tôi nằm dán xuống đất giả vờ chết. Tôi không dám động đậy và hình như còn ngừng cả thở nữa. Chỉ có tim tôi là đập thình thình xuống đất, và tôi có cảm giác là tiếng đập của nó nghe được từ xa. Đàn chó ngơ ngác dừng lại bên tôi, ngửi ngửi vào tôi và cái túi đựng đầy thơ của tôi. Đàn chó tưởng rằng đây là một xác chết, chúng ngơ ngác nhìn nhau rồi tiếp tục đuổi theo tôi như đang hiện trong trí tưởng tượng của chúng. Một lát sau chúng biến mất sau núi.
Tôi cứ nầm yên như thế cho đến khi người chăn cừu đến bên.
- Anh là con cái nhà ai?
- Cháu là Raxun, con trai ông Gamzát ở làng Xađa, - Tôi cố ý nhắc tên bố tôi với hy vọng rằng, nghe thấy tên ông, người chàn cừu sẽ chú ý đến tôi hơn và không làm tôi xấu mặt.
- Anh làm gì ở đây, trên ngọn núi này?
- Cháu đến làng Bútxra chép thơ, để ở trong túi này này.
Người chăn cừu lấy thơ ra và xem qua.
- Vậy là anh cũng định trở thành nhà thơ à? Thế thì tại sao lại sợ chó săn[7]. Chẳng lẽ sợ thứ chó ấy sẽ lao vào anh trên đường đi à? Mà chúng sẽ chẳng bỏ chạy sau khi ngửi, như những con chó của tôi vừa rồi đâu! Nhưng anh đừng sợ, không nên sợ bất cứ cái gì. Anh có biết ngọn núi này có sự tích gì không? Chính từ ngọn núi này Khátgi - Murát đã thoát khỏi tay mấy tên áp tải bằng cách lao cả người xuống. Bon lính áp tải không còn biết áp tải ai, còn Khátgi - Murát thì được cứu sống, ở quê hương, ngay cả những ngọn núi cũng có thể giúp mình.
Trước đây tôi nghĩ rằng những xúc động thơ ám ảnh tôi, nỗi lo âu thường xuyên bám riết tâm hồn tôi, tình yêu đọng lại trong trái tim tôi và cả dòng máu nóng sôi nổi nữa - Tất cả những cái đó đều nhất thời và sẽ mau chóng qua đi. Nhưng bây giờ đầu tôi đã bạc, con cái tôi đã khôn lớn, những cuốn sách của tôi cũng đã có tuổi, mà không một tình cảm nào rời bỏ tôi. Thơ ca tôi đã đi theo tôi thủy chung hơn tất cả.
Bây giờ tôi muốn nói mấy lời với thơ ca.
Thơ ca, người đã không bỏ tôi trong cuộc đời và trong những chuyên viễn du tới miền đất lạ, người cũng không bỏ tôi bây giờ, khi tôi bước xuống biển phẳng lặng, mênh mông của văn xuôi. Tôi biết rằng ghép vần cho truyện ngắn là điều vô nghĩa. Truyện ngắn hay nhất nếu bị ghép vần có thể biến thành bài thơ dở nhất. Nhưng thơ trong truyện có lẽ như muối trong thức ăn. Bối vì đối với cả đời tôi, thơ ca đã là muối mặn. Không có thơ, đời tôi sẽ nhạt nhẽo, vô vị. Ở miền núi chúng tôi, khi dọn cơm mời khách, không bao giờ quên đem lọ muối.
Văn xuôi bay xa hơn, nhưng thơ bay cao hơn. Văn xuôi giống chiếc máy bay khồng lổ có thể bình thản bay vòng quanh trái đất. Còn thơ lại giống như chiếc máy bay tiêm kích có thể lao vút lên bầu trời và trong nháy mắt lên ngang tầm chiếc máy bay khồng lồ kia, dù chiếc máy bay đó có bay cao đến đâu.
Tôi muốn pha trộn những thể loại khác nhau trong cuốn sách của tôi và đưa nó đi xa ra ngoài ranh giới miền Avaria. Sao lại không thể? Những bài thơ của chúng ta từ lâu đã tìm được đường đến trái tim các vị độc giả ở rất xa ngoài phạm vi Đaghextan. Một số truyện ngắn cũng đã nhận được “hộ chiếu” xuất cảnh. Thật ra thì kịch của chúng ta vẫn còn ngồi nhà. Hoặc là phải mở những cuộc trưng cầu ý kiến, hoặc phải học thêm cách xử thế lịch lãm hơn.
Nếu tôi có ý định viết một vở kịch thì nơi xảy ra sự việc sẽ là cả Đaghextan, - những bản làng, những thành phố - và tất cả các nước, cả thế giới. Bài trí của vở kịch sẽ là những dãy núi, bầu trời, những dông sông, biển và mặt đất. Thời gian xảy ra sự việc - là các thế kỷ đã qua, là ngày hôm nay và cả tương lai, tôi sẽ pha trộn những gì cổ kính nghìn năm với những phút giây hiện tại. Nhân vật kịch sẽ là chính tôi, là bố tôi, các con tôi, bạn bè tôi, những người đã chết từ lâu và những người còn chưa ra đời.
Vở kịch này có thể là cuốn sách chính của đời tôi - là “Chiến tranh và hỏa bình” của tôi, là “Đông Kisốt”, là “Thần Khúc” của tôi, - nhưng tôi không những sẽ không hiểm viết vở kịch đó mà thậm chí cũng sẽ không mạo hiểm đặt dù chỉ một “hòn đá kịch” vào bức tường cuốn sách đó. Tôi để lại vở kịch đó cho thời đại khác, hay đúng hơn là cho các nhà văn khác. Tôi sẽ tạm bằng lòng với thơ và văn xuôi, sẽ luân phiên “dùng” hai thứ đó, thơ là phi trên mình ngựa, văn xuôi là cuốc bộ. Cuốc bộ có khi lại đi xa hơn, tuy đi ngựa thì đến đích nhanh hơn. Tùy lúc mà tôi sẽ ngồi lên yên hay xuống ngựa. Chỗ nào có thể kể được, tôi sẽ kể, chỗ nào không kể được - tôi sẽ hát. Trong tôi có cả sự sôi nổi của tuổi trẻ và sự chín chắn của tuổi già. Hãy để cho tuổi trẻ cất lời hát, và tuổi già chín chắn chậm rãi nói bằng văn xuôi.
Trong tôi có những người khác nhau: khi thì tôi ngồi ăn đúng kiểu gọi là lịch thiệp nhất, cầm dĩa ở tay trái, dùng khăn lau miệng; khi thì tôi ngồi quây quần với bạn bè trên bãi cỏ, nhậu thịt cừu với rượu buza, hai tay cầm cả cái đùi cừu mà gặm.
Từ thành phố trở về làng, cùng với những cử chỉ thị thành, tôi mang theo cả hoa quả và những chai rượu nhẹ. Chia tay với những người chăn cừu mộc mạc, mến khách, trở về thành phố, tôi vắt ngang yên ngựa những tảng thịt cừu.
Bởi vì ngay cả biển cũng có khi hiền hòa, khi gợn sóng, khi cau có và nổi giận. Những tính nết khác nhau cũng chung sông trong tôi như thế.
Tôi đã nhìn thấy đôí trai gái ngồi ôm nhau bên bờ vực sâu. Có thể thấy bóng hình chung của cả hai người, nhưng không thể tách biệt được ra - họ ôm chặt lấy nhau, như đã nhập hòa làm một.
Cũng như vậy, trong tôi không thể tách biệt rành rẽ niềm vui và nỗi buồn, nụ cười và nước mắt, sức mạnh và sự yếu đuối.
Rút trong sổ tay. Một người làng Xiúc trông thấy dưới chân vách núi một đám mây trắng, anh ta nghĩ rằng đây là một tấm lông mềm xôm xốp xếp ken vào nhau và nhảy xuống. Dù mây có giống lông thú hay giống bông đến đâu, nó cũng không bao giờ trở thành bông cả.
Dù cho hình thức cuốn sách có đẹp đến đâu chăng nữa mà nó được viết ra chỉ là vì hình thức không thôi, thì cuốn sách đó cũng không bao giờ làm xúc động trái tim con người.
Không thể chỉ nhìn vào hình thức. Một người đánh cá suốt đời sống trên biển, một lần vào rừng trông thấy tổ kiến, anh ta liền tưởng lầm là trứng cá đen. Một người miền núi rừng chưa bao giờ ra biển, trông thấy khối trứng cả đen lại tưởng lẩm là tổ kiến.
Lại rút trong sổ tay.
Nước mắt và nụ cười cùng ở trên khuôn mặt
Độc địa và ngọt ngào cùng ẩn trong một miệng người
Chim ó với bồ câu cùng lượn bay trên một bầu trời,
Chớp lửa và nước mưa cùng từ một đám mây đen phát xuất,
Con dao và cây đàn cùng treo trên một chiếc đinh.
Lại rút trong sổ tay. Một cô gái tré miền núi lần đầu tiên được yêu, buổi sớm nhìn qua cửa sổ và thốt lên:
- Ôi, những cây đầy hoa kia đẹp quá.
- Con thấy ở đâu những cái cây đầy hoa ấy? - người mẹ già ngạc nhiên. Đây là tuyết đó, ngoài trời bây giờ là cuối thu, đầu đông rồi.
Thế là cùng một buổi sáng, với hai người phụ nữ khác nhau đã có thể vừa là mùa xuân vừa là mùa đông. Trong tôi, hai điều trái ngược nhau đã cùng chung sống: trẻ trung và già nua, hoa nở và tuyết bám, mùa xuân và mùa thu. Vậy thì đừng ngạc nhiên nếu trong cuốn sách của tôi các bạn gặp cả thơ và văn xuôi.
- Nhưng anh có muốn cầm hai quả dưa hấu một tay không?
- Không, tôi không muốn.
Khi tôi pha trộn những thể loại khác nhau vào trong một cuốn sách, điều đó không có nghĩa là tôi lấy nhiều thứ hoa quả khác nhau, gọt chúng ra để làm một món ăn hổ lốn nào đó. Tôi muốn ghép những cây sống với nhau, như những người thợ vườn thông minh vẫn làm, để làm, đề tạo ra giống cây mới.
Tôi không biết, cuối cùng, việc làm này của tôi sẽ đưa đến cải gì. Nhưng trong nhiều việc làm khác, cũng có tình trạng như vậy kia mà. Khi nhóm một đống lửa, không thể hình dung trước mọi hậu quả. Nhưng điều đó không có nghĩa là bao giờ cũng phải sợ nhóm lửa. Và đây, tôi đã bật diêm lên, lấy lòng bàn tay che cho khỏi gió rồi mang đến bên cành củi khô. Ngọn lửa bắt đầu được nhen lên. Tôi không sợ, nếu bây giờ nó chỉ đang leo lét, yếu ớt thế kia rồi bất ngờ sẽ biến thành con thú dữ không sao điều khiển được. Tôi không nghĩ đến điều đó, tôi đang nhen lên ngọn lửa.
Trên thanh kiếm của Samin còn khắc rõ câu nói của chính ông: “Không thể là người dũng cảm nếu khi ra trận còn đắn đo hậu quả”.
Người ta nói. Trong tay người hiểu biết thì nọc rắn cũng có ích. Trong tay kẻ ngu si thì mật ong cũng thành tai vạ.
Người ta nói. Nếu không biết kể chuyện thì hãy hát, nếu không biết hát - hãy kể chuyện.
Chú Thích:
[7]): Những người chăn cừu thường mang theo chó săn để chống lại chó sói (N.D)