← Quay lại trang sách

NGÔI NHÀ CUỐN SÁCH NÀY - CỐT TRUYỆN

Chúng ta là những hòn đá ít nữa sẽ gắn thành tường

Làm lâu đài, nhà kho, đền chùa hay là nhà tù.

Lời ghi trên đá

Đá quý phải xem trong khung, nhìn người phải nhìn trong nhà.

Khi đám cưới đã xong - Cần phải dựng nhà.

Những lâu đài rộng lớn của những ý nghĩ của tôi, những ngọn tháp nặng nề của những điều nghiền ngẫm, ngôi nhà của những câu chuyện kể, những chỏm tháp cao vút của thơ... Đây, tôi đã mang đủ đá về, đã chuấn bị sẵn cột kèo, đã chọn chỗ để cất ngôi nhà mới. Bây giờ tôi phải làm một kiến trúc sư, kỹ sư, nhà toán học, thợ đá, cán bộ lập kế hoạch.

Tôi sẽ cất ngôi nhà thế nào đây? Tôi sẽ đem lại cho nó những đường nét gì để mắt ưa nhìn? Để nó trông ngay ngắn, đẹp đẽ, để nó trông khác những ngôi nhà xưa nay, nhưng vẫn quen mắt. Không phải trần thấp lè tè chạm đầu người như những ngôi nhà vẫn thường xây ngày nay, nhưng cũng không phải cao đến mức phải ngửa cổ lên mới thấy trần. Không phải như ngôi nhà kéo bàn vào không lọt cửa, nhưng cũng không như ngôi nhà có thể cưỡi lạc đà vào trong. Không phải như ngôi nhà có thể làm câu lạc bộ để mọi người đến nghe ca nhạc rồi lại ra về, nhưng cũng không phải ngôi đền chỉ khi cầu nguyện người ta mới đến. Không phải như ngôi nhà có thể đặt văn phòng chất đầy những chứng từ, những lá đơn, và không phải giống như cái cối xay quay vĩnh viễn của Ali.

Đọc xong bản trường ca của một nhà thơ trẻ, bố tôi nói:

- Bản trường ca này có những bức tường rất đẹp. Nó giống như cái chuồng gà mà Alikêbét đã xây. Chuồng gà không nên làm người ta thấy giống lâu đài, và lâu đài cũng không nên dùng làm nơi nuôi gà.

Còn khi bố tôi đọc một truyện quá dài của một nhà văn khác, một truyện mà hình như nhà văn không sao chấm dứt được, ông đã nói với nhà văn:

- Anh cố đẩy một cái cửa mà người ta không đóng. Anh đã cố mở một cái vòi đã mở sẵn. Anh đã thấm nước quá nhiều vào sợi dây khi thắt nút.

Hồi nhỏ, tôi còn nhớ có nhiều ca sĩ đến làng tôi. Tôi nằm trên rìa mái nhà nhìn xuống sân và nghe họ hát. Người thì tự đệm bằng trống, người đệm bằng viôlông, người đệm bằng nhị, nhưng thường là bằng đàn kumuz. Họ đến từ nhiều nơi khác nhau, vào nhiều thời gian khác nhau. Họ hát nhiều bài hát và không bao giờ hát lặp lại đến hai lần một bài nào cả. Đặc biệt tôi rất thích khi hai hay ba ca sĩ bắt đầu ganh đua với nhau.

Những bài hát đó rất dài, và tôi đã quên cả. Tuy vậy, mỗi bài tôi vân còn nhớ được dăm ba câu. Chắc là những câu được nhớ hoặc là thơ mộng nhất, hoặc là thông minh nhất, hoặc là sắc sảo nhất, vui tươi nhất, hay buồn rầu nhất.

Tôi không biết vì sao tôi nhớ chính những câu hát đó mà không phải là những câu khác, và tôi đã canh cánh mang theo trong lòng cho đến hôm nay. Đôi khi tôi thầm nhấc lại những câu hát ấy như một cái gì gần gũi, thân thiết nhất, như tên của người tôi yêu.

Cả trong những bài hát Avar khác mà tôi thuộc lòng từ đầu đến cuối, cũng có một số câu mà tôi yêu thích nhiều hơn so với những câu còn lại.

Không phải chỉ các bài hát! Trong những bài thơ của tôi, tôi cũng yêu thích một số câu, những câu mà tôi cảm thấy hay hơn, thơ hơn, thành công hơn những câu khác. Tôi xin tiết lộ với các bạn là có những bài thơ rất dài của tôi được viết ra chỉ vì vài dòng mà tôi tâm đắc.

Những dòng thơ đó: nếu bài thơ là chiếc dây lưng thì chúng là cây dao găm đeo ở đó; nếu bài thơ là cánh đồng thì chúng là lúa mọc trong đó; nếu bài thơ là con chim thì chúng là cánh chim; nếu bài thơ là con nai đứng trên vách đá thì chúng là đôi mắt nai trông về phía xa.

Có lần tôi nghĩ rằng: nếu trong cả bài thơ tôi chỉ tâm đắc giá dụ là tám câu thôi, vậy thì việc gì tôi phải viết tới tám mươi câu? Sao lại không thể viết ngay tám câu thích nhất đó ra? Đó là điều vì sao tôi đã viết cả một cuốn sách gồm các bài thơ tám câu.

Vui mừng vì có khách đến chơi nhà, người dân miền núi thường nắm lấy dao và chọc tiết con bò thiến lớn. Nhưng khách thì chỉ cần ăn một miếng thịt nhỏ thôi. Chẳng có khách nào ăn được hết một con bò.

“Vậy thì việc gì, - Tôi nghĩ, - Tôi phải mổ cả con bò to, nếu chỉ cần một con gà mái là đủ?”

Bởi vậy trong cuốn sách mà tôi sẽ viết xong vào một ngày nào đó, tôi muốn loại bỏ tất cả những gì thừa, chỉ để lại những chỗ nào mà tôi vẫn thấy quý, ngay cả khi cuốn sách mười lần hay hai mươi lần dài hơn.

Một lần, lúc có mặt tôi, một nhà thơ trẻ người Lắc đã đọc thơ mình cho Abutalíp nghe. Anh đọc mười bài thơ. Khi anh ta ra về, Abutalíp nói với tôi:

- Anh ta cũng khá đây, sau này có thể ăn nên làm ra.

- Bác thích thơ của anh ta à?

- Các bài thơ nói chung đều yếu. Nhưng có tám câu thôi mà có thể đem một thành lũy vừa chiếm được để đổi lấy. Chưa từng có ai viết được tám câu như thế bằng tiếng Lắc.

Nhưng nếu trong các bài thơ, bài hát có những câu không thể quên được thì trong đời người ta cũng có những ngày, những cuộc gặp gỡ - đối với một nước thì đó là những sự kiện, những chiến công - còn in đậm trong trí nhớ. Tôi muốn đưa chúng vào, muốn đặt và lắp chúng vào bức tường ngôi nhà mới của tôi tức cuốn sách mới của tôi. Tôi không muốn lấy những lời giảng giải đẹp đẽ để thay thế chúng mà để cho những câu thơ ấy tự nói về mình.

Biển tháng ba bao giờ cũng nổi nhiều gió bão. Một lần vào tháng ba, có cơn bão đi qua Makhátkala. Hai luồng gió mạnh đã gặp nhau: một luồng từ biển Caxpie, một luồng từ trên núi xuống. Một luồng gió tràn vào thành phố sau khi đã lồng lên giữa biển khơi, một luồng nữa thì lao từ trên cao xuống. Hai luồng gió cuồn vào nhau, giằng xé nhau, vật lộn với nhau. Khi hai người khổng lồ đọ sức, thì đứng dưới chân họ thật là nguy hiềm. Lần này thì Makhátkala đã phải ở dưới chân hai tên khồng lổ đang vật lộn đó.

Tất cả những gì gắn không chặt vào đất, ngay lập tức bị cuốn lên không trung: những cái cây xương xẩu, gầy gò, những cái hộp rỗng, những mái nhà ọp ẹp, những quầy hàng bằng gỗ dán và mọi thứ rác rưởi khác.

Nhưng những ngôi nhà cao, những cây cổ thụ bắt rễ sâu vào lòng đất vẫn hiên ngang đứng vững. Những gì nhẹ bỗng, ọp ẹp thì bị cuốn đi, những gì bền vững, chắc chắn thì ở lại.

Cũng hệt như vậy: tình cảm, ý nghĩ của con người, có những cái ngay một làn gió nhẹ của thời gian cũng đủ cuốn nó bay đi, nhưng cũng có những cái mà ngay giông bão cuộc đời cũng không đủ sức xua tan.

Chính những sự kiện vững chắc ấy, những ý nghĩ, tình cảm ấy tôi cần phải chọn lấy để xây lên ngôi nhà cuốn sách của tôi. Ngôi nhà đó cần phải được xây theo kiểu truyền thống của dân tộc Avar, nhưng đồng thời nó phải mang dáng dấp hiện đại. Ngôi nhà phải xây làm sao cho gia đình người xây cảm thấy thích thú ở, đồng thời sao cho khách đến cũng hài lòng. Ngôi nhà phải xây sao cho những đứa bé tìm thấy hạnh phúc ở đó, tuổi trẻ tìm thấy tình yêu và người già tìm thấy sự yên tĩnh.

Cuốn sách của tôi - là Đaghextan của tôi. Tôi muốn nó có những đường nét, dáng hình gì? Tôi biết so sánh với cái gì? Với chim ưng đang liệng bay ư? Nhưng chim không phải là sản phẩm của bàn tay con người, thiên nhiên đã sáng tạo ra nó, trong đó chẳng có ý nghĩ nào của con người. Vậy thì có lẽ nên ví với máy bay chăng? Nhưng máy bay thì bay quá cao trên mặt đất, và khi chạy trên mặt đất, thì chung quanh nó chỉ là cảnh sân bay. Tôi không thích từ trên cao nhìn xuống đất và nói về đất từ trên cao.

Không, tôi hình dung ra những đường nét của một thứ máy nào đó bay như máy bay, chạy như xe hỏa, rẽ sóng như con tàu. Trên đó, tôi vừa là phi công, vừa là thợ máy, vừa là người bẻ bánh lái. Nơi xuất phát của nó là sân bay của chúng tôi, là bến cảng của chúng tôi, nhà ga của nó là Đaghextan nghìn đời bất diệt. Từ đấy, chúng tôi có thể lao đi mọi miền đất nước trong không trung, trên cạn, dưới nước, Đến nơi tôi đã từng tới, hay đến nơi mà chỉ ước vọng của tôi đã tới. Chúng tôi đi xe, đi máy bay, đi tàu thủy. Ngoài cửa sổ trông rõ những đỉnh núi phủ đầy tuyết trắng, những đồng cỏ xanh tươi màu mỡ, những dòng sông mênh mông và những đại dương bát ngát. Mùa xuân đầy bão tố, mùa thu ngắn ngủi, mùa đông khắc nghiệt và mùa hè nóng bức trôi qua cửa sổ chúng tôi. Chung quanh tôi bao nhiêu là hành khách, là những chàng hiệp sĩ của Samin tay quấn băng còn rỉ máu, là những du kích miền núi, là những người, sống cùng thời đại với tôi - những người làm đủ nghề khác nhau. Chung quanh tôi là tất cả những ai tôi đã từng thấy, từng gặp gỡ, nói chuyện và ghi nhớ.

Phải rồi, muốn vào trong cuốn sách - xe hỏa, cuốn sách - máy bay, cuốn sách - tàu thủy của tôi, hành khách chỉ cần một tấm vé duy nhất: được tôi nhớ mặt. Sao cho những con người và sự kiện ấy phải giống như những câu thơ in sâu vào tâm khảm tôi từ những bài hát dài những người hát rong đã hát. Sao cho những con người và sự kiện ấy phải giống như tám câu thơ mà Abutalíp đã để ý sau khi nghe cả mười bài thơ dài. Sao cho những con người và sự kiện ấy giống như những cây cổ thụ, những ngôi nhà đứng vững bình yên trước bão tố, trong khi những gì nhẹ bỗng, ọp ẹp bị cuốn đi như lá mùa thu.

Nếu không thì tôi sẽ giống như chàng Muxlim ở làng Kazanhisi. Giờ tôi sẽ kể cho các bạn nghe, chuyện gì đã xảy ra với anh ta.

Vào tháng Năm, khi người ta xua những đàn cừu từ thảo nguyên nóng nực, lầm bụi lên những triền núi xanh mát, anh Muxlim ở làng Kazanhisi đã yêu cầu Hội nhà văn cho đi thực tế sáng tác để viết bút ký về chuyện di chuyển đàn cừu. Cũng có thể chuyện này xảy ra vào tháng Chín, khi người ta xua cừu theo hướng ngược lại: từ những triền núi đã bắt đầu lạnh xuống trú đông ở những thảo nguyên ấm áp hơn. Chúng tôi đã đồng ý cho Muxlim đi thực tế. Muxlim lên đường và đã hăng hái đi cả đoạn đường ấy cùng với những người chăn cừu. Khi anh ta trở về thì những sổ tay ghi chép chi chít những chữ của anh đã phải chất riêng lên một con ngựa. Hóa ra hết ngày này sang ngày khác anh ta miệt mài ghi chép tất cả những gì trông thấy. Không một cái gì, không một điều vặt vãnh nào có thể thoát khỏi cây bút chì của anh ta. Nhìn thấy con ngựa, anh ta liền ghi chép về ngựa; nhìn thấy người chăn cừu, liền ghi chép về cừu. Mà ở đấy thì có bao nhiêu là cừu và người chăn! Anh ta ghi lại tất cả những gì nhìn thấy và cả những gì nghe thấy. Anh ta không bỏ qua một câu chuyện nào. Anh ta ghi lại cả điều là ai đã đi quá nhanh lên phía trước cần ghìm lại, cũng như ai đi chậm quá cần phải thúc. Cuốn sách về chuyến đi kết quả là dài hơn cả đường đã đi. Cuối cùng anh ta viết ra một cuốn sách, mà muốn đọc hết phải cần một số thì giờ vừa bằng số thì giờ Muxlim đã bỏ ra để đi theo những đàn cừu đó. Những người chăn cừu sau này đã kể cho chúng tôi là khi lên rặng núi Gemrinh, họ gặp một con la. Vừa chợt thấy con la, Muxlim đã rút ngay bút chì ra, - anh ta muốn nhìn kỹ cả bốn móng chân của nó. Muxlim chạy lại bên con la, túm lấy chân sau của nó và định nhấc lên xem. Nhưng con la không thể hiểu được dụng ý tốt đẹp của nhà văn nọ và tính chất hệ trọng của sự kiện này, nó bèn tung chân đá vào anh chàng Muxlim nhàn rỗi: cú đá bật trúng mũi.

Mấy người chăn cừu cười phá lên:

- Muxlim, anh phải ghi chép cả chuyện này nữa chứ!

Tất nhiên, la là một loài vật khó bảo và có nhiều tính xấu, nhưng trong trường hợp này thì nó đúng: Sự mẫn cán quá mức cần phải bị trừng phạt.

Sau đó, chúng tôi đã thảo luận công trình của Muxlim tại Hội nhà văn. Chúng tôi hỏi đùa anh ta:

- Này anh Muxlim, cuốn sách của anh viết đủ thứ chuyện, từ chuyện con lừa ở làng Kharicôlô đến chuyện móng sắt con la. Vậy thì sao anh lại bỏ qua không nhắc đến loài dê không sừng?

- Sao các anh lại nói thế, tôi bỏ qua thế nào được? Cuốn sách của tôi cũng có nói đến dê không sừng đấy chứ, chỉ có điều là tôi đã nhắc đến nó bằng tiếng địa phương. Tôi gọi nó là “khankơva”.

Chúng tôi cười ồ lên, nhưng sau đó tất cả đều cố gắng thuyết phục Muxlim thấy rằng nhà văn không cần viết về tất cả những gì mình thấy, mà chỉ chọn những gì đáng chú ý thôi. Một câu có thể biểu hiện được một ý nghĩ lớn. Một chữ có thể biểu hiện được một tình cảm lớn. Một chi tiết có thể biểu hiện được cả một sự kiện.

Cách đây không lâu, chúng ta bắt đầu tiến hành đủ thứ cách tân. Và bây giờ chúng ta cũng đang đổi mới một cái gì đó. Tôi cũng bị cuốn vào quá trình đó. Tôi cũng đang cách tân thể loại mà tôi đã nắm vững. Tôi thu thập, tất cả các thể loại vào một cuốn sách, tiến hành một sự chỉ đạo tập trung vơi các thể loại đó. Ở chỗ này tôi thu hẹp phạm vi các bang, chỗ kia tôi lại mở rộng ra. Tôi đổi chỗ các thể loại, lúc thì nhập làm một, lúc thì tách một thành ra hai. Nếu tiên hành cách tân thật nhiều thì may ra có một cách tân nào đó tình cờ thành công.

Câu chuyện về một người miền núi đến Makhátkala. Có một người dân miền núi đi công tác ở Makhátkala. Anh mang rất nhiều tiền, nhưng không phải tiền riêng của anh mà là tiền công quỹ. Anh ta ăn trưa, ăn chiều toàn ở khách sạn. Ngày đầu mới đến, anh gọi to cả phòng ăn khách sạn nghe thấy:

- Anh dọn bàn đâu, đem thêm rượu cô nhắc ra đây!

Mọi người nghe thấy, quay lại phía anh và ngạc nhiên không biết anh là ai mà nhiều tiền thế, không tiếc tiền khi gọi thứ rượu cô nhắc rất đắt.

Đến ngày công tác cuối cùng, anh chàng miền núi của chúng ta rón rén tiến lại bên cạnh người dọn bàn và thì thào hỏi:

- Ở khách sạn của anh, mỗi đĩa cháo giá bao nhiêu?

Vậy là không thể biết bò tốt xấu ngay lúc mới cầy mà chỉ biết lúc nó đã cầy xong; không thể biết tốt xấu, khi nó húc nhau trên đồng cỏ mà chỉ biết lúc nó đeo ách lên cổ. Đừng bình phẩm ngựa khi người ta trèo lên nó mà hãy bình phẩm khi người ta từ trên mình nó tụt xuống.

Liệu tôi có thổi phồng cuốn sách của tôi lên như người ta thổi ống thủy tinh? Liệu có phải tôi đang làm bếp lò bằng gỗ như người Xiúc không? Liệu có phải tôi đã giết chó thay vào chó sói như có lần người làng Xađa quê tôi đã làm không?

Khi bắt đầu lên đường đi tới đích, đích ở rất xa. Liệu tôi có đủ dũng cảm, đủ kiên nhẫn và tình yêu để đạt tới đích đó không? Hay là cuối cùng tôi phải đưa tay gãi gáy và nghĩ thầm không biết đĩa cháo giá bao nhiêu?

Hổi ức. Có một năm, mùa đông ở Đaghextan lạnh ghê gớm. Tuyết đột ngột rơi xuống phủ đầy mặt đất tới một mét. Cừu lớn cừu bé không có gì ăn. Chúng theo nhau chết. Tôi được gọi lên tỉnh ủy và được nghe:

- Anh Raxun, anh hãy về các khu chăn nuôi miền núi, cần phải cứu các đàn cừu.

- Tôi có thể giúp được gì?

- Đến nơi rồi anh sẽ thấy. Anh sẽ nghĩ ra cách. Cần phải tìm được biện pháp cứu đàn cừu.

Đường đến những nơi chăn cừu ngay cả lúc thời tiết tốt tôi cũng còn chưa biết rõ, nói gì đến chuyện tìm ra những nơi đó vào lúc mưa tuyết! Nhưng ký luật Đảng là cao hơn hết thảy, và tôi phải dò dẫm bước đi trong lớp tuyết dày và gió ngược. Cuối cùng tôi tìm được tới một chỗ chăn cừu. Những người chăn cừu buồn rầu đón tôi. Nước mắt lăn xuống gò má và ria mép đã đóng lại thành băng. Những con cừu mồm ri rỉ máu cố xục qua lớp tuyết băng mà tìm đến cỏ. Nhưng chúng không sao xục qua được lớp băng. Chó tránh gió tuyết, trú vào những hang hốc, không còn biết sợ gì chó sói hay kẻ cắp. Nói tóm lại, điều tôi tìm thấy ở đây là một thảm họa và sự bất lực. Nhìn thấy tôi, những người chăn cừu cười cay đắng:

- Bây giờ chúng tôi chỉ còn thiếu có thơ với bài hát thôi. Cho nên anh mới tới đây để đọc thơ hay hát cho chúng tôi nghe chứ, phải không anh con trai ông Gamzát ở làng Xađa? Tốt hơn hết là anh hãy tả lại tiếng khóc, còn chúng tôi sẽ khóc theo anh.

Ba ngày liền tôi ngồi trong lều của những người chăn cừu, sau đó, khi thấy rằng tôi không đem và không thể đem tới cho họ một điều gì có ích, tôi đành từ giã họ, quay lưng ra về. Tôi đi thẳng tới Makhátkala.

- Thế nào anh cứu được cừu rồi chứ? - các đồng chí ở tính ủy hòi tôi.

- Tôi cứu được ba con.

- Anh kể lại xem, bằng cách nào?

- Rất giản đơn thôi, những người chăn cừu mổ thịt ba con để đãi và chúng tôi đã ăn hết. Tôi cho rằng tôi đã cứu được ba con ấy.

- Thôi được rồi, - các đồng chí ở đó tức giận nói, - anh cứ đi mà làm thơ của anh, còn việc cứu đàn cừu, chúng tôi sẽ tiến hành không cần đến anh. Và để anh có thể làm thơ hay hơn, chúng tôi sẽ cảnh cáo anh nghiêm khắc.

Tôi cầu cho cuốn sách của tôi không gặp phải chuyện như vậy. Lên đường đi cứu đàn cừu, nhưng lúc về sẽ đem theo cái gì? Một ngày mở đầu bằng buổi bình minh không phải bao giờ cũng sẽ như ta mong muốn.

Hồi ức. Tôi nhớ lại ngày đầu vào học Đại học văn học ở Matxcơva. Chúng tôi vừa bước vào học tập thì ngày sinh của tôi đã tới. Tất nhiên không có ai mừng tôi cả vì chưa ai biết rằng tôi đã sinh ra vào ngày đó. Tôi còn giữ một số tiền bố cho để mua bành tô.

“Thôi được, anh bạn Raxun đáng thương ạ, - Tôi thầm nói, - chúng mình sẽ tự mua quà mừng chúng mình vậy - sẽ mua một cái bành tô”. Tôi cầm tiền và đi tới chợ Chisinô.

Những năm đầu tiên sau chiến tranh, các chợ trời ở Matxcơva thật là nhộn nhịp, sầm uất. Ở đấy có những luật lệ riêng, có những vị cảnh sát riêng và những tên phe riêng. Chắc là ở đây có thể mua đủ mọi thứ trên đời, có lẽ chỉ trừ lừa đực hay lừa cái gì đó là không mua được.

Chợ Chisinô trông hệt như một tổ kiến bị phá vỡ. Hàng giờ đồng hồ tôi lách mình qua đám đông người vung lên sát tận mũi tôi đủ các thứ hàng: nào là quần áo, giầy dép, quân phục, mũ lưỡi trai, váy đàn bà, áo lót, nạng chống...

Dạo ấy tôi lại đang muốn tạo cho mình một vẻ ngoài thật bệ vệ. Tôi lách đám đông để tìm kiêm một cái bành tô sao cho khi mặc vào lập tức trông tôi giống như một vị bộ trưởng.

Cuối cùng tôi nhìn thấy một cái áo có lẽ là ưng ý đang vắt trên vai một tên phe. Thêm vào đấy, lại có cả chiếc mũ lưỡi trai đồng màu, cùng một thứ vải với chiếc bành tô,

Tất nhiên tôi bắt đầu thử từ chiếc mũ. Đội vào, nhìn trong gương trông rõ ra là nhân vật quan trọng, đường bệ. Tôi bắt đầu mặc cả. Khi tôi cao giọng rạch ròi nói giá thấp thì người bán làm như không nghe thấy. Nhưng khi tôi nói nhỏ cái giá mà y có thể vừa ý thì hắn nghe thấy ngay. Chúng tôi đập tay vào nhau thỏa thuận giá cả. Để có thể đêm những tờ bạc lẻ dễ dàng hơn, tôi đưa bành tô cho tên phe cầm hộ. Tôi đếm được một số tiền là hai nghìn hai trăm năm mươi rúp. Tôi đưa tiền cho hắn ta. Tôi nghiêm trang trở về nhà tập thể với vẻ mặt bệ vệ như một bộ trưởng. Chỉ khi về đến nhà, tôi mới sực nhớ ra là cải áo bành tô vẫn còn nơi tay tên phe. Tôi đã bỏ ra hai nghìn hai trăm năm mươi rúp để mua một cái mũ lưỡi trai.

Vậy là vì mải mơ thành giống như bộ trưởng, tôi đã hết sạch cả tiền mà không có áo bành tô, tôi mong rằng điều tương tự như vậy sẽ không xảy ra với cuốn sách này của tôi.

Mọi người đều biết họ cần những gì, nhưng không phải tất cả đều có những thứ ấy. Mọi người đều nhìn thấy mục tiêu của mình, nhưng không phải ai cũng đạt tới. Có những người tưởng rằng mình đã biết cần phải viết sách như thế nào, nhưng họ lại không biết viết sách ra sao.

Người ta nói: Cũng vẫn một chiếc kim ấy vừa may áo cưới vừa may đồ khâm liệm.

Người ta nói: Đừng mở cánh cửa mà sau đó anh không biết đóng.