← Quay lại trang sách

TÀI NĂNG

Cháy lên để mà tỏa sáng

Lời ghi trên cây đèn

Câu chuyện về nhà thơ và con cá vàng. Người ta kể lại rằng có một nhà thơ bất hạnh bắt được con cá vàng ở biển Caxpie.

- Hỡi thi sĩ, thi sĩ, chàng hãy thả tôi về với biển, - con cá vàng khẩn khoản van xin.

- Nhưng ngươi sẽ đền đáp lại gì cho ta?

- Tất cả nguyện vọng thầm kín của thi sĩ sẽ được thực hiện.

Nhà thơ mừng rỡ và thả con cá vàng xuống biển.

Từ đó trở đi, không biết từ đâu, những may mắn liên tiếp theo nhau đến với nhà thơ. Các tập thơ của ông ta liên tiếp được xuất bản. Ông tậu được một ngôi nhà trong thành phố và một nhà nghỉ tuyệt vời ở ngoại ô. Trên ngực nhà thơ đeo đầy huân chương, huy chương vì “Tinh thần lao động dũng cảm”. Nhà thơ trở nên nổi tiếng, ai ai cũng biết đến tên ông, cả thế giới bày ra trước mắt ông như một đĩa thịt cừu nướng đã rắc hành tươi và vắt chanh lên. Chi cần đưa tay ra cầm là có thể xơi ngon lành.

Thế rồi có lần, khi ông đã trở thành viện sĩ, thành đại biểu Xô Viết và được giải thưởng văn học, bà vợ ông tình cờ buột miệng nói:

- Chà, khi yêu cầu cá vàng đem tới cho anh những thứ này sao anh lại không bảo nó cho anh tài năng nữa?

Nhà thơ chợt tỉnh ngộ, hệt như ông đã hiểu ra rằng điều gì ông còn thiếu suốt những năm qua. Ông chạy ra bờ biển, cất tiếng gọi cá vàng:

- Cá ơi, cá ơi, hãy cho tôi dù chỉ một ít tài năng thôi.

Cá vàng trả lời:

- Tôi đã cho anh tất cả những gì anh ao ước. Sắp tới tôi cũng có thể cho anh những gì anh muốn. Nhưng tài năng thì tôi không thể cho được, Ngay phần tôi, tôi cũng không có tài thơ...

Như vậy, hoặc là có tài năng hoặc là không. Không một ai có thể cho tài năng và cũng không một ai tước đoạt được tài năng. Cần phải sinh ra những con người tài năng.

Nhà thơ của chúng ta được cá vàng đem lại đủ điều may mắn, chẳng bao lâu đã tự cảm thấy giống như con quạ mang lông công trên mình, tất cả vẻ đẹp của bộ lông nhân tạo bảy sắc cầu vồng rực rỡ ấy ít lâu sau đã biến mất, hơn nữa cũng trong thời gian ấy những chiếc lông thật cũng rụng đi một phần, và nhà thơ trở nên kém cỏi hơn lúc mới đầu.

Lời nguyện cầu không vì bị nhắc lại mà bớt thiêng, và tôi muốn nhắc lại một lần nữa. Để có thể viết được, cần có tài năng, không thể kiếm ở đâu khác nếu ngay cả đến cá vàng thần cũng không có.

Bố tôi kể lại. Một người miền núi từ một làng xa đến gặp bố tôi và đọc thơ của mình cho bố tôi nghe. Bố tôi chăm chú lắng nghe nhà thơ mới xuất hiện, sau đó ông chỉ ra những chỗ yếu kém hơn cả. Rồi ông nói cho vị khách nghe, nếu ở vào địa vị của vị khách kia thì ông, Gamzát làng Xađa, sẽ làm những bài đó như thế nào.

- Nhưng mà thưa bác Gamzát thân mến, - vị khách miền núi thốt lên, - muốn làm được như vậy thì cần phải có tài.

- Có lẽ anh nói đúng đây, một chút tài năng thôi, chắc không gây trở ngại gì cho anh đâu.

- Nhưng bác hãy báo cho tôi, tìm ở đâu được thứ đó, - người khách miền núi mừng rỡ nói, không hiểu ý hài hước trong câu trả lời của ông Gamzát.

- Hôm nay tôi có ghé mấy cửa hàng, không thấy bày bán, có lẽ phải kiếm ở ngoài chợ.

Không biết tài năng có trong con người là do đâu. Không biết do trời hay do đất ban cho. Hay nó là con của trời và đất, không biết nó ẩn náu ở đâu trong cơ thế con người: ở trái tim, trong dòng máu hay trong óc? Ngay từ lúc mới ra đời nó đã trú vào trái tim nhỏ bé của con người, hay sau này con người mới tìm thấy nó khi đã đi qua bao chặng đường nhọc nhằn trên thế gian? Cái gì nuôi sống nó nhiều hơn: tình yêu hay lòng căm thù, niềm vui hay nỗi buồn, nụ cười hay nước mắt? Hay là cần phải có tất cả - cả cái đầu tiên, cái thứ hai, thứ ba, - để cho tài năng có thể trưởng thành và cứng cáp. Nó có được tiếp nhận qua di truyền hay là con người cô kết chắt lọc ra nó ngay trong bản thân mình từ tất cả những gì anh thấy, anh nghe, anh đọc, anh xúc động và nhận biết?

Đó là kết quả của lao động hay của trò chơi tạo hóa? Đó là màu mắt có từ lúc con người mới sinh ra hay là những bắp thịt mà anh đã tạo nên qua những ngày luyện tập chuyên cần? Nó là quả táo mà người làm vườn đã cố công chăm sóc mới có hay là quả táo rơi thẳng từ trên cây xuống lòng bàn tay chú bé?

Tài năng là một điều bí ẩn đến nỗi khi con người đã biết tất cả về trái đất, về quá khứ và tương lai của nó, khi con người đã biết tất cả về Mặt trời và các vì sao, về ngọn lửa và đóa hoa, khi con người thậm chí đã biết tất cả về Con người, - Thì điều cuối cùng mà con người biết sẽ vẫn là: tài năng là gì, nó xuất hiện từ đâu, nó ẩn náu tại nơi nào, vì sao nó có ở người này mà không có ở người kia.

Tài năng của hai người có tài không giống nhau bởi vì tài năng mà giống nhau thì đã không phải là tài năng nữa. Hơn nữa, tài năng không phụ thuộc vào cái bề ngoài giống nhau. Tôi đã gặp nhiều người có gương mặt rất giống bố tôi, nhưng tài năng như của bố tôi thì tôi không thấy ở ai cả.

Tài năng không di truyền lại, nếu không thì trong nghệ thuật đã có những triều đại trị vì cha truyền con nối. Không hiếm thấy người thâm thúy sinh ra người con ngốc nghếch, và con một anh đần độn lại có thể trở thành người uyên bác.

Tài năng khi trú vào một người, không hề hỏi han xem người đó có thuộc một quốc gia lớn không, một dân tộc đông người không. Sự xuất hiện của tài năng bao giờ cũng ít ỏi, bất ngờ và vì thế mà đáng ngạc nhiên như ánh chớp, như câu vồng trên bầu trời, như cơn mưa giữa sa mạc nóng bỏng đã khát cạn, khát kiệt không còn sức chờ mưa được nữa.

Tôi mất bạn như thế nào. Có lần, khi tôi đang ngồi bên bàn, có một người trẻ tuổi cưỡi ngựa tiến tới gần nhà tôi.

- Chào chú ạ!

- Chào anh!

- Cháu có một yêu cầu nhỏ muốn gặp chú để trình bày.

- Anh cứ vào nhà, bày yêu cầu của mình lên bàn cho tôi xem thử.

Người trẻ tuổi rút trong túi ra mấy tờ giấy và quả thật đã đặt lên bàn yêu cầu của mình, tờ giấy đầu tiên là thư của người bạn thân của bố tôi, cũng là một vị khách hay đến nhà tôi. Người bạn của gia đình tôi đã viết: “Anh Raxun thân mến, người thanh niên mang lá thư này đến anh là một người họ hàng gần gũi của chúng tôi, một người rất tốt. Anh hãy giúp người này cũng trở thành một nhà thơ nổi tiếng như anh”.

Những giấy tờ còn lại là: giấy chứng nhận của Xô Viết xã, giấy chứng nhận của nông trang, giấy chứng nhận của Đảng ủy và sơ yếu lý lịch.

Giấy chứng nhận của Xô Viết xã ghi rõ anh này đích thực là cháu của nhà thơ nổi tiếng Makhơmút ở làng Kakhap - Rôxô và Xô Viết xã coi anh là người xứng đáng được trở thành một trong số những nhà thơ Đaghextan nồi tiếng.

Những giấy tờ khác ghi rõ cháu của Makhơmút đã 26 tuổi, anh ta đã tốt nghiệp lớp 9 và hoàn toàn khỏe mạnh.

- Được rồi, tốt lắm, - Tôi nói. - Anh cho tôi xem các tác phẩm của anh, có thể anh quả thật có tài và dần dà với thời gian sẽ trở thành một nhà thơ nổi tiếng. Tôi rất sung sướng có thể giúp được anh trong phạm vi khả năng của tôi, và bằng cách đó đáp ứng được yêu cầu người bạn lớn của chúng ta.

- Sao cơ hở chú?! Người ta cử cháu đến gặp chú là để chú dạy cháu làm thơ chứ cháu đã làm thơ bao giờ đâu!

- Thế anh làm gì?

- Cháu làm việc ở nông trang. Nhưng việc làm này không hay lắm. Người ta ghi công điểm cho cháu, nhưng rồi sau đó chẳng thấy phát gì cho số công điểm đó cả. Mà gia đình cháu đông người lắm. Thế rồi mọi người mới nghĩ rằng hay là cho cháu đi học nghề làm thơ. Cháu biết chú Makhơmút của cháu kiếm được nhiều tiền lắm, nhiều hơn cháu làm ở nông trang. Cả chú cũng vậy, chú Raxun ạ, người ta nói là chú cũng được nhiều tiền lắm!

- Tôi sợ rằng dù tôi rất mong muốn cũng không thể biên anh thành nhà thơ được.

- Sao hở chú? Cháu là cháu ruột nhà thơ Makhơmút cơ mà? Giấy chứng nhận của cháu ghi rõ cả. Xô Viết xã giới thiệu. Đảng ủy cũng giới thiệu.

- Anh có là con đẻ của Makhơmút cũng thế thôi. Như mọi người đều biết đấy, chính Makhơmút có bố làm nghề đốt than, chứ có phải là nhà thơ đâu.

- Vậy thì công bằng là ở đâu? Ở đây, ở Makhátkala, các nhà văn, nhà thơ chia nhau hết phần thịt, mỡ ngon lành của văn học, chẳng lẽ không phần cho cháu được bộ lòng sao? Cháu sẵn sàng lấy bộ lòng. Bây giờ thì cháu biết làm gì? Chú giúp cháu tìm việc làm ở đâu đó vậy. Giấy tờ của cháu đủ cả.

Chúng tôi lấy trong Quỹ văn học ra một số tiền nhỏ để trợ cấp cho anh ta với tư cách là cháu ruột nhà thơ Makhơmút, rồi sau đó, theo yêu cầu của tôi, giám đốc xí nghiệp điện máy Đaghextan đã nhận anh vào làm. Nhưng như sau đó tôi đã thấy, người có tham vọng trở thành nhà thơ lớn đã không bằng lòng với số phận của mình, ít lâu sau, bố của anh ta, người bạn lớn của gia đình tôi, đã gửi cho tôi một bức thư đầy tức giận:

“Trước kia, bố anh là Gamzát bao giờ cũng thực hiện được hết các điều tôi yêu cầu. Ông chưa từng bao giờ từ chối tôi điều gì. Thế mà anh, con trai ông Gamzát, lại từ chối thực hiện một yêu cầu cỏn con là sắp xếp cho con tôi trở thành nhà thơ. Rõ ra là anh đã kiêu ngạo không còn giống bố anh nữa rồi, anh Raxun ạ. Chưa bao giờ tôi phải bỏ một người bạn nào của mình, nhưng bây giờ thì phải làm thế. Vĩnh biệt”.

Thế là vì chuyện tài năng, hay đúng hơn là vì chuyện không có tài năng, mà tôi đã mất một người bạn tốt. Người bạn của tôi thực ra là một người tốt, nhưng ông chỉ không hiểu rằng, không một ai - dù là chủ tịch Hội nhà văn, dù là Bí thư Đảng ủy hay người đứng đầu chính phủ chăng nữa - cũng không thể phân phát tài năng như người ta xẻo thịt cừu, khi mọi người đã ngồi quây quần quanh bàn trước một tảng thịt cừu luộc đang bốc hơi nghi ngút.

Hay là, khi đi trên những con đường Đaghextan, anh thấy một chiếc xe bò chở nặng đang leo lên dốc. Người thì cố kéo đằng trước, người thì cố đẩy từ đằng sau;

Hay là như anh nhìn thấy, một chiếc xe vận tải lớn dùng dây kéo chiếc “Maxcơvích” nhỏ bé bị sa lầy giữa tuyết;

Hay là, như một chiếc xe ben to lớn, nặng nề chạy chậm rì rì đằng trước không cho chiếc xe du lịch nhỏ chạy nhanh phía sau vượt lên được - đường núi quá hẹp, chiếc xe chạy nhanh không thể vượt qua chiếc xe nặng nề chậm chạp kia được.

Đây, tài năng không phải là chiếc xe bò mà hai người có thể vừa kéo vừa đẩy; tài năng không phải là chiếc “Maxcơvích” có thể dùng dây lôi đi được; tài năng không phải chiếc xe bị chắn không vượt lên phía trước được.

Tài năng không cần đẩy đằng sau và không cần kéo đằng trước. Nó tự mình tìm được đường đi và tự nó sẽ vượt lên phía trước.

Thế mà vẫn có nhiều người hy vọng rằng họ sẽ được đẩy tới hoặc kéo lên. Đây là một câu chuyện nhỏ, câu chuyện có thể đặt tên:

Tuy hơi già, nhưng có tài. Hồi tôi theo học ở Đại học văn học Matxcơva, tôi kết bạn với nhiều nhà thơ Nga, cũng là sinh viên của trường. Họ bắt đầu dịch thơ của tôi. Các bài thơ dịch lần lượt được đăng trên các báo, tạp chí. Nhờ các bản dịch tiếng Nga mà nhiều dân tộc Đaghextan khác đã đọc được thơ của tôi.

Vào những năm ấy, có những người ác khẩu phao lên rằng: Raxun Gamzatốp đâu có biết làm thơ bằng tiếng Avar, những người phiên dịch tiếng Nga giỏi giang đã cố gắng vực thơ anh ta lên và anh ta lập tức chuyển sang viết những bài thơ theo khẩu vị của độc giả Nga.

Nhân chuyện này, tôi thường nhớ tới một nhà thơ Đaghextan.

Có một dân tộc ít người là dân tộc Tát. Họ có chừng mười lăm nghìn người. Tuy vậy, cũng đến năm sáu nhà văn người Tát mà cả Đaghextan biết tên. Sách của họ được in bằng tiếng mẹ đẻ ở Makhátkala và được dịch sang tiếng Nga. Tôi muốn kể về một nhà thơ người Tát. Tên của anh không cần thiết phải nêu.

Tốt nghiệp Đại học văn học, tôi trở về Makhátkala thân yêu. Ngay những ngày đầu tiên, nhà thơ Tát đã mời tôi đến nhà chơi. Anh đãi tôi ngay ngoài trời. Trước mặt là biển Caxpie mênh mông, phía sau lưng là những rặng núi cao. Anh đọc thơ của mình cho tôi nghe bằng tiếng Tát, sau đó anh dịch nghĩa từng chữ sang tiếng Nga cho tôi hiểu ý tứ các bài thơ của anh.

Lưu ý tôi là khách, anh ấy là chủ; lưu ý rằng anh có thể cho là tôi đang muốn khoe khoang những kiến thức đã học được ở Matxcơva, rằng tất cả các nhà thơ đều thích được khen hơn là bị chê, rằng chẳng có thứ phê bình nào giúp ích được cho anh ta, rằng chính anh cũng đã bốc lên tận mây xanh từng bài thơ của tôi, từng câu thơ của tôi - lưu ý đến tất cả những điều đó, tôi cũng bèn khen mọi bài anh đã đọc cho tôi nghe.

Quả thật cũng có một vài bài thơ tôi thích, và tôi nói về những bài đó một cách chân thành, còn đối với các bài tôi không thích thì tôi đã nói một cách miễn cưỡng. Ngay lúc đó tôi tưởng tượng mình đang dang hai tay ra về phía biển Caxpie, thậm chí còn quỳ xuống nữa, mà nói: “Hãy tha thứ cho tôi lời nói dối này”. Sau đó tôi lại tưởng tượng mình đang quay về phía núi, tay dang ra về phía những đỉnh cao phủ đầy tuyết trắng, chân quỳ xuống và nói: “Hãy tha thứ cho tôi lời nói dối này!”

Đọc cho nhau nghe đủ các thứ thơ và tới tấp khen nhau, chúng tôi im lặng ngồi một lúc. Tôi lắng nghe tiếng biển, còn anh thì chắc là đang mải suy nghĩ điều gì. Cuối cùng anh bắt sang chuyện sau:

- Anh Raxun này, tôi muốn thổ lộ với anh một ý nghĩ hệ trọng. Nhưng anh phải hứa là anh sẽ không nói với ai nhé.

- Tôi hứa với anh.

- Anh biết không, - anh bạn tôi tiếp tục, - dân tộc Tát chúng tòi rất ít người. Thơ của tôi ít người đọc quá. Anh đã hành động đúng khi đi tìm độc giả ở Matxcơva. Tôi muốn theo gương anh, muốn chuyển về sống ở Matxcơva. Nhưng ở đấy tôi chẳng có người thân thích ruột thịt, chẳng có bạn bè, chẳng có người quen. Không có nhà nữa. Anh nghĩ dùm xem, nếu nhận nhuận bút cuốn sách mới xong, tôi dùng số tiền ấy để đi Matxcơva thì liệu tôi có kiếm được chỗ trú chân ở đây không?

- Sao lại không được? Nếu anh có tiền, anh sẽ thuê một căn buồng.

- Không, tôi không nói chuyện đó. Liệu tôi có tìm được vợ ở đấy không? Có thể là hơi già một chút, hơi xấu một chút, thế nào cũng được, chỉ cần cô ta có tài và dịch thơ tôi sang tiếng Nga, chỉ cần cô ta giúp tôi nên người. Sau đó, khi tôi có tên tuổi đứng được, thì tự mình tìm đường đi cho mình không khó gì. Còn không thì tôi sẽ còi cọc, khô héo trong cái vỏ dân tộc chật chội này.

Tôi nhìn lại hình dạng anh một lần nữa. Hai mươi lăm tuổi, bắp thịt cuồn cuộn, một người Kapkazơ tràn trề sinh lực. Đôi bàn tay to bè bè, ngay cà những ngón tay cũng có lông mọc tua tủa. Lông ngực cứng như những cái đinh đóng vào tường, trên gương mặt bầu bĩnh, mầu da nâu là đôi môi dầy và đôi mắt xanh như mặt hồ biềc. Mái tóc anh nhìn có thể nhầm là lông nhím. Hàm răng trắng to tướng. Chân chắc nịch như cột nhà. Gân nổi khắp người. Thật là đứa con chính cống của tạo hóa. Chằng lẽ anh không tìm được vợ ở cái thành phố mấy triệu dân đó vào năm thứ ba sau chiến tranh? Tôi nói với anh:

- Anh chỉ cần dừng lại giữa phố, và huýt sáo gọi là các bà các cô sẽ đua nhau chạy lại, bao nhiêu tùy thích.

Anh bạn tôi tỏ vẻ mừng rỡ như trẻ con. Anh trồng cây chuối và cứ thế đi bằng hai tay xuống nước. Trước khi bơi ra ngoài biển, anh còn hỏi:

- Anh bảo tôi nên đi Matxcơva bằng gì - đi máy bay hay tàu hỏa?

Nửa năm trôi qua. Vừa phủi bụi tuyết ướt bám trên mũ, tôi vừa leo lên gác tư nhà xuất bản “Thanh niên cận vệ”. Đi ngược xuống phía tôi là nhà thơ Tát nọ, người đã đãi tôi trên bờ biển Caxpie. Anh mang một chiếc cặp da to tướng. Điều đầu tiên tôi chú ý là anh không xách cặp như bình thường các nhà văn vẫn xách, mà cắp dưới nách như những người kế toán, thủ quỹ vẫn mang. Tôi còn ghi nhận thêm là anh đã thay đổi rất nhiều qua nửa năm vừa rồi. Mái tóc lởm chởm như lông nhím đã được cắt tỉa cẩn thận, đầu chải rẽ ngôi gọn gàng. Anh để râu quai nón trông như một nhà cách mạng tháng Chạp. Móng tay ngón út để dài và nhọn hoắt như lưỡi lê. Tay đeo nhẫn mặt đá. Ở cổ áo, nơi vẫn thường đeo ca vát, anh đính một miếng vải gì trông như đôi cánh con bọ hung tháng Năm. Trông bảnh bao lịch thiệp lắm. Sau khi chào nhau, anh đưa tay sửa chiếc cà vạt của tôi chắc là bị lệch sang một bên. Tôi đương nhiên là cảm ơn anh.

Akhơmét giới thiệu vợ anh với tôi và giới thiệu tôi với vợ mình.

- Rất hân hạnh, - chị ta nói và chìa ba ngón tay ra cho tôi.

Ở Đaghextan không có tục lệ hôn tay phụ nữ, bởi vậy tôi chỉ tự giới hạn mình vào một động tác bắt tay nhẹ nhàng, nhưng chị ta đã kêu đau ầm lên hệt như tôi đã bẻ gãy cả mấy đốt xương ngón tay của chị.

- Tha lỗi cho tôi, dân miền núi quê mùa... quả tình tôi không cố ý.

- Đã đến lúc phải học cách xử thế văn mình rồi đấy, - chị ta ném một câu và bước về phía gương rồi bắt đầu uốn éo trước nó, dường như cái gương có thể sửa đổi được chút gì cho hình dáng của chị ta.

Đúng rồi, chị ta quả là vừa già vừa xấu, phấn sáp trên mặt nhiều đến mức có thể dùng để trát lên bốn bức tường của một căn phòng cỡ vừa. Điều tôi tiếc hơn cả là không có mặt Abutalíp ở đây, nếu có ông thì chắc ông đã tìm cách cho chị ta một chữ chính xác.

Người ta nói rằng không có gì ranh ma hơn cáo và cái đuôi của nó. Thế mà nó lại phạm sai lầm ghê gớm là đặt cái đuôi mầu đồng hun của mình lên cổ áo của chị ta. Người đàn bà bước lại quầy báo chí, tôi và Akhơmét đứng nói chuyện một lúc với nhau.

- Anh sống thế nào, có thoải mái không, anh bạn Akhơmét?

- Ồ, tôi cảm thấy mình như con bò thiến mà người ta đã đeo ách vào để kéo cối xay đậu. Vợ tôi chỉ huy tôi trong mọi việc. Chà, nếu anh biết cô ta là người có học thức thế nào! Thật là thông minh. Quen biết riêng Blốc và Maiakốpxki này. Từng làm bạn với Xécgây Êxênhin này. Đã ở Pari. Nói tiếng Anh rất tuyệt. Chúng tôi có căn nhà bốn buồng, mà chỉ có hai chúng tôi thôi. Không có con. Chỉ có con chó Tôsích thôi. Thứ chó Nhật Bản, bé hơn cả mèo,

- Phải rồi, anh gặp may đấy, Bây giờ anh đi đâu vậy?

- Tôi đem thơ đến tòa soạn “Murzinka”. Người ta nói là đối với trẻ em thì hơi sâu sắc quá. Tôi mang tới tạp chí dành cho các nông trang viên nhỏ tuổi. Các anh ở đấy khen bài thơ lắm, nhưng nói là cần phải viết thêm đôi ba câu cho có chữ “nông trang” trong bài. Tối nay tôi viết nốt và sáng mai lại mang đến... Anh Raxun ạ, hóa ra là cần phải kiếm sống và làm việc như vậy! Vợ tôi nói với tôi: đứa bé trước khi biết đi cũng phải bò. Sau này thế nào tôi cũng sẽ viết được những tác phẩm ra trò.

- Anh Aliôsa, - chị vợ bước lại gần và gọi chồng vừa âu yếm vừa như ra yêu sách. - Chúng ta ghé qua nhà cho con Tôsích ăn một chút gì đã, rồi đến tòa soạn “Cá sấu” và “Nữ công nhân”.

Sau lần đó, rất lâu tôi không gặp lại Akhơmét. Có lần tôi nhận được thư anh. Anh yêu cầu tôi đặt mua cho anh một chiếc bình của vùng Bankhar với dòng chữ khắc: “Tặng vợ thân yêu của tôi”. Tôi đặt làm chiếc bình và nghĩ rằng: “Chắc là quả tình chị ta cũng làm được cho anh ấy nhiều việc”. Thơ anh do vợ dịch đã thỉnh thoáng được đăng khi thì ở báo “Murzinka”, khi thì ở báo “Thiếu niên”, báo “Cá sấu”. Chỉ có điều là không thấy thơ anh xuất hiện ở Makhátkala bằng tiếng Tát của anh.

Vài lần chúng tôi đề nghị anh gửi bài cho chúng tôi, nhưng không nhận được trả lời.

Mười lăm năm sau lần gặp đầu tiên, chúng tôi mới gặp lại nhau, ở Matxcơva năm ấy, có tổ chức tuần lễ văn học nghệ thuật Đaghextan. Bốn mươi nhà thơ Đaghextan đi Matxcơva. Bằng những thứ tiếng khác nhau, chúng tôi đọc thơ của mình ở hội trường Kôlônhưi, ở nhà hát Kremli, ở nhà máy ô tô và ở sư đoàn cận vệ Kanchêmia.

Vào đêm kết thúc tuần lễ văn học nghệ thuật, Akhơmét đã lén lút đến gặp tôi đang đứng sau cánh gà.

- Anh Raxun, - Akhơmét nói, giọng như van vỉ, - anh lấy tôi về Đaghextan đi! Tôi buông lưới định bắt cá mà cuối cùng mất cả chì lẫn chài!

Thế là Akhơmét trở về Đaghextan. Nhưng rồi cây đàn panđur của anh không sao lên lại được dây, không sao đánh lên đúng điệu. Anh giống như cái bình bị nứt làm rượu chảy đi hết. Dù có hàn gắn thế nào, rượu vẫn ngấm qua và chảy đi hết.

Vậy là người dịch không thể đắp điếm thêm tài năng cho ai không có tài năng. Một số người nói rằng Épfenđi Kapiép đã tạo ra Xulâyman Xtanxki. Một số người khác lại nói: Xulâyman đã tạo ra Épfenđi Kapiép, trên thực tế thì cả hai đều có tài. Tài năng của Épfenđi tạo ra Épfenđi, và tài năng của Xulâyman tạo ra Xulâyman.

Để tôi nói với Iza. Có thể đặt đầu để như thế cho câu chuyện tôi vừa chợt nhớ lại sau đây.

Ở trường Đại học sư phạm Đaghextan tôi đã cùng học với Mahômét Xulimanốp, bây giờ là một nhà văn Đaghextan có tiếng. Từ nhỏ, anh đã tỏ ra là một người lắm tài: anh vẽ đẹp, múa các điệu dân gian rất cừ và làm thơ nữa. Anh rất yêu thích tác phẩm “Épghênhi Ônhêghin”, Lúc nào anh cũng mang theo mình cuốn sách đó và gần như là thuộc lòng nó. Ngay từ dạo ấy anh đã ước mơ dịch tác phẩm “Épghênhi Ônhêghin” sang tiếng Avar. Khi ra mặt trận, anh cũng mang theo cuốn sách đó.

Cuối chiến tranh, anh bi thương và nằm điều trị tai một quân y viện ở Matxcơva. Ở đấy anh làm quen với một cô gái người Matxcơva tên là Maria. Khi vết thương đã lành, anh cưới cô ta và ở lại Matxcơva.

Lên học ở Matxcơva, qua trạm chỉ dẫn địa chỉ, tôi đã tìm đến được chỗ anh. Tôi rất nhớ anh, và anh cũng nhớ tôi. Maria không ngăn trở cuộc trò chuyện thân mật, say sưa của chúng tôi. Cả ba chúng tôi ngồi rất lâu bên chai rượu nồng. Mahômét kể lại thời kỳ ở bộ đội, tôi kể cho anh nghe về Đaghextan, về những ngọn núi, làng bản quê hương. Tôi đọc những bài thơ của tôi và của bạn bè tôi, những nhà thơ Avar trẻ tuổi. Sau đó tôi hỏi anh định dành cả đời mình cho công việc gì.

- Tôi cũng nghĩ ngợi nhiều xem mình nên làm việc gì. Nhưng Maria có một bà cô, bà cô có người quen thân tên là Iza, một người có nhiều quyền lực ở Matxcơva. Bà cô tôi thấy tôi đang phải nghĩ ngợi khổ sở bèn nói: “Việc gì phải nghĩ ngợi cho khổ hở Mahômét! Để tôi nói với Iza, ông sẽ lo chu tất cho anh”. Quả thật là ông Iza đã kiếm cho tôi một chỗ làm việc khá tốt ở Viện Hàn lâm khoa học. Bây giờ tôi làm việc ở đấy.

- Thế còn nghề vẽ của anh?

- Ôi dào, đạn nó vẽ lên người tôi thế cũng đủ rồi.

- Còn thơ thì sao?

- Đó là chuyện hồi trẻ, Raxun ạ. Bây giờ tôi đã là người lớn, đứng đắn, phải tìm cho mình một việc làm nghiêm túc chớ!

- Thế còn “Épghênhi Ônhêghin”?

Anh bạn tôi ra chiều nghĩ ngợi. Rõ là tôi đã chạm phải chỗ đau của anh.

- Sao anh không muốn trở về Đaghextan?

- Thế Maria thì sao?

- Anh đem cô ấy theo.

- Tôi chỉ có nhà ở làng thôi. Tôi không thể đưa Maria về làng được. Vì nàng không thể nói chuyện với mẹ tôi được. Tất nhiên tôi không thể mang theo người phiên dịch để Maria hiểu được mẹ tôi và mẹ tôi hiểu được Maria.

Để cắt đứt câu chuyện khó xứ đối với Mahômét, tôi nâng cốc chúc mừng Mahômét, mừng Maria, mừng cả “Épghênhi Ônhêghin” nữa.

Lần sau ghé thăm Mahômét, tôi được Maria kể lại là Mahômét bỗng nhiên thay đổi hoàn toàn, cả ngày lẫn đêm, hễ rỗi phút nào là anh lại viết, viết rồi xé, rồi lại viết, lại xé.

Bà cô của Maria thấy Mahômét như vậy, cuối cùng bèn hỏi anh đang viết gì và tại sao lại xé những cái đã viết.

- Tôi muốn trở thành nhà thơ, - Mahômét trả lời bà. - Tôi muốn dịch “Épghênhi Ônhêghin”.

- À hóa ra thế, nhưng mà việc gì anh phải khổ sở thế chứ! Để tôi nói với Iza, ông ấy sẽ lo chu tất cho anh.

- Không đâu cô ạ, cả ông Iza, cả thủ trưởng của ông, thậm chí cả vợ ông cũng không thể giúp cháu thành nhà thơ được. Chỉ có cháu mới giúp cháu trở thành nhà thơ được.

Ít lâu sau, Mahômét đọc cho tôi nghe bản dịch sang tiếng Avar chương đầu của “Épghênhi Ônhêghin”. Và ba năm sau thì độc giả Avar đã có thể đọc tiểu thuyết đó bằng tiếng mẹ đẻ của mình.

Biết in ảnh ai bây giờ? Người ta nói rằng các bà vợ năng nổ có thể giúp ích rất nhiều cho thành công của chồng. Phải rồi, chúng ta đã thấy nhiều bà vợ như vậy, Một nhà thơ không phải là không nổi tiếng ở Đaghextan đã có một bà vợ như thế. Cả Hội nhà văn, mọi nhà xuất bản và báo chí, đều run bần bật khi nghe nhắc đến tên bà. Tôi cũng sợ bà ta và để tỏ thiện cảm, tôi còn treo ảnh chồng bà trong phòng làm việc của mình. Tôi nghĩ rằng bà ta sẽ hài lòng và đối xử với tôi gượng nhẹ hơn. Nhưng việc làm đó của tôi chẳng tác động gì nhiều đến bà. Vì lẽ bà ta không lĩnh thêm được một kôpếch nào do chỗ ảnh chồng bà treo trong phòng làm việc của tôi.

Có lần bà ta đòi nhà xuất bản phải lập tức in ngay tuyển tập thơ của chồng bà. Vị giám đốc rụt rè nói lại là kế hoạch xuất bản năm nay đã được duyệt, rằng số giấy được cấp có hạn thôi, rằng tuyển tập đó có thể in sang năm...

- Anh là đồ vô lương tâm! - người đàn bà tức giận hét lên! – Chẳng qua chỉ vì anh sợ mọi người thấy thơ chồng tôi hay hơn thơ anh. Đấy, chính vì thế mà anh bịa ra với tôi đủ thứ chuyện về kế hoạch, về giấy má. Ồ, tôi nhìn rõ gan ruột của anh. Tôi không để anh làm thế đâu. Tôi buộc anh phải in tuyển tập thơ chồng tôi!

Nói xong mấy lời đó, người đàn bà đóng sập cửa nhà xuất bản.

Hai giờ sau, điện thoại bàn giám đốc reo lên. Đầu ống đằng kia nghe rõ giọng nói của bí thư tỉnh ủy:

- Anh làm ơn làm phúc tìm cách giải quyết dùm cho, - đồng chí bí thư khẩn khoản, - sao cho người đàn bà này không bao giờ đến chỗ tôi nữa. Tôi chưa kịp thay kính trên mặt bàn của tôi, bà ta đã đấm vỡ thêm một miếng.

Kết quả là thế nào? Người ta phải loại ra ngoài kế hoạch truyện vừa của Lép Tônxtôi “Khátgi - Murát” và cuốn thơ dành cho thiếu nhi của Gamzát Xađax. Thế chỗ hai cuốn đó, người ta đưa vào kế hoạch tuyển tập thơ của chồng người đàn bà hùng hổ kia.

Tưởng là mọi chuyện đã yên lành. Nhưng ít lâu sau lại nổ ra một vụ ầm ĩ nữa. Hóa ra trong tuyển tập người ta không để ảnh nhà thơ.

- Toàn là bọn vô lương tâm! - bà vợ nổi tam bành gào lên. - Các anh sợ rằng mọi người thấy chồng tôi đẹp hơn các anh chứ gì? Chính vì thế các anh không in ảnh chồng tôi.

- Chết, không phải thế đâu, - giám đốc nhà xuất bản trả lời. – Chẳng qua là chúng tôi không biết phải in ảnh ai trong cuốn sách này: ảnh chị hay là ảnh chồng chị.

- Còn sao nữa, - người đàn bà cười khẩy, - chưa ai biết là nếu không có tôi, liệu chồng tôi có trở thành được nhà thơ hay không?

Có lần gặp nhà thơ kia, Abutalíp nói:

- Anh nghe này, anh Kuxa, anh nhường cho tôi bà vợ của anh một tuần thôi, tôi sẽ lập tức đoạt được giải thưởng Xtalin.

- Sao anh lại nói thế, anh Abutalíp, tôi đã sống gần bà ta mười năm mà đến giải thưởng mang tên Khatgi Khaxum thôi, tôi cũng có được đâu!

- Thế thì anh hãy xin bà ta một tý tài năng.

Câu chuyện về Abutalíp và nàng Khatimát. Abutalíp thoạt đầu làm nghề chăn cừu. Sau đó ông chuyển sang nghề hàn thiếc nhưng ông vẫn luôn mang theo bên mình cây sáo của người mục đồng và thổi sáo những lúc rỗi rãi. Nghề nghiệp ấy đưa ông hết làng này sang làng khác, và rồi một lần - người thì nói ở Kuli, người thì nói ở Kumukhi, có một cô gái tên là Khatimát mang chiếc bình cao hỏng đến gặp ông.

Abutalíp chữa chiếc bình đó rất lâu. Khi thì ông đặt chiếc bình sang một bên rồi chậm rãi hút thuốc, khi thì ông đặt sang một bên rồi bắt đầu thổi sáo, khi thì ông ngừng tay làm và kể cho Khatimát nghe đủ thứ chuyện thật, chuyện bịa.

Khatimát giục ông sửa bình nhanh, nàng kêu lên:

- Ông vấn điếu thuốc ngắn ngắn thôi.

- Cô Khatimát đáng yêu ạ, bây giờ thì tôi sẽ vấn điếu thuốc dài một ácsin để hút cho thật lâu.

Cuối cùng cô gái nổi cáu và Abutalíp đành phải trao lại chiếc bình cho cô gái. Cả chiếc bình ánh lên mầu men bóng như mới. Abutalíp đã cố công làm đẹp. Tuy nhiên, khi về nhà, cô gái vừa đổ nước vào bình thì nước đã chảy ra ngoài cả. Tức giận đến phát khóc, cô gái lại đến gặp Abutalíp.

- Anh chữa bình cho tôi lâu thế, mà bây giờ nó lại bị chảy nhiều hơn cả lúc đầu.

- Tôi muốn ngày nào cũng có những chàng trai đẹp đẽ, táo tợn ném đá vào bình của cô! Sao cô lại nổi giận hở cô Khatimát? Tôi cố ý làm hở một lỗ nhỏ ở bình để cô phải trở lại đây, để tôi có thể được nhìn cô thêm.

- Cứ để cho các chàng trai ném đá vào đầu anh, chứ không phải vào chiếc bình của tôi! - Khatimát nói liền một thôi rồi bỏ đi luôn.

Abutalíp rất buồn nhớ nàng. Tình yêu của anh với cô gái Khatimát ngày một thêm nung nấu... Tình yêu càng dâng đầy, nỗi buồn càng sâu nặng. Abutalíp buồn rầu làm một bài hát ca ngợi Khatimát và bày tỏ tình yêu của mình với nàng. Sau đó anh làm bài thứ hai, rồi bài thứ mười, bài thứ hai mươi, rồi sau nữa, từ một người thợ hàn thiếc anh trở thành một nhà thơ nổi tiếng.

Vào thời gian ấy, Khatimát đi lấy một người tên là Khatgi. Sau đó ly dị người này và lấy người khác tên là Muxa.

Có lần, khi nhà thơ nổi tiếng Abutalíp đi qua chợ thì nghe tiếng người gọi:

- Ông Abutalíp ơi, ông có chữa bình nữa không đấy!

Nhà thơ quay lại và nhìn thấy Khatimát lúc này già nua, lưng còng, ốm yếu.

- Chắc là ông kiêu lắm chứ gì, ông Abutalíp. Làm sao khác được! Nào là đại biểu Xô Viết, nào là được đeo huân chương. Chắc ông đã quên nghề hàn thiếc ngày xưa của ông rồi! Nhưng nếu cứ tính chẻ hoe ra thì chính tôi đã làm ông thành nhà thơ. Nếu hồi ấy không có tôi đem bình đến cho ông chữa, thì bây giờ ông vẫn còn là ông thợ hàn thiếc ngồi ngoài chợ!

- Nếu quả thật quyền lực của chị nhiều đến thế, chị Khatimát ạ, nếu quả thực chị có khả năng biến người này người kia thành nhà thơ, thì tại sao chị không biến Khatgi, anh chồng thứ nhất của chị thành nhà thơ? Đến giờ cũng chẳng nghe thấy bài hát nào của Muxa, anh chồng thứ hai của chị...

Abutalíp đi rồi, còn Khatimát vẫn đứng yên tại chỗ, miệng há ra, không biết trả lời thế nào. Mấy hạt mưa lất phất rơi làm chị ta sực tỉnh lại.

Vậy là không ai có thể đủ quyền lực biến một người nào đó thành nhà thơ, nếu người đó không tự mình trở thành nhà thơ.

Bố tôi kể lại, khi tôi viết những bài thơ đầu tiên, một người bạn già của bố tôi, một người nhiều uy tín và tiếng tăm ở Đaghextan đã nói:

- Thật là hay nếu bây giờ Raxun yêu mê mệt một cô gái nào. Tình yêu đó có được đáp lại hay không, đem lại hạnh phúc hay là đau khổ điều này không quan trọng. Thậm chí là càng tốt nếu tình yêu đó không được đáp lại, nó chỉ mang tới toàn đau khổ. Lúc ấy thì cậu ta sẽ lập tức trở thành nhà thơ.

Ông bạn bố tôi thậm chí còn tìm một cô gái trẻ, đẹp, cô gái có thể làm tôi trở nên bất hạnh nhưng thành nhà thơ.

Bố tôi trả lời bạn mình:

- Anh thử xem xem, trên đời này có bao nhiêu người yêu nhau nhưng đâu phải ai cũng thành nhà thơ? Cũng cần phải có tài năng mới yêu được thật đẹp. Có thể là tài năng cần cho tình yêu nhiều hơn là tình yêu cần cho tài năng. Tất nhiên là tình yêu có thể sóng đôi với tài năng, nhưng không thay được tài năng. Cũng có thể nói như vậy về tình cảm ngược lại với tình yêu là lòng căm thù.

- Đấy, anh cứ ngẫm trường hợp Makhơmút, nhà thơ tình yêu, mà xem...

- Đúng. Makhơmút trở thành nhà thơ như chúng ta đã biết, nhiều phần nhờ cô gái ông yêu. Nhưng tôi vẫn nghĩ rằng giả dụ cô gái này không có mặt trên đời, thì Makhơmút vẫn thành nhà thơ lớn.

Những cảm xúc đầy mãnh liệt, day dứt của ông sẽ tự tìm được đường đi, giống như cây cỏ nhỏ bé, mềm mại trong bóng tối ẩm ướt vẫn tìm được hướng ra ánh sáng mặt trời. Đôi khi còn có cây cỏ nhú lên từ giữa khe đá.

Phải rồi, có thể dễ dàng đồng ý với một điều, giống như ngọn lửa bùng lên từ những cây củi khô, tài năng cũng được nuôi dưỡng bằng những tình cảm mạnh mẽ của con người - bằng tình yêu và lòng căm thù; thơ sinh ra từ nụ cười trong sáng hay từ giọt nước mắt cay đắng. Nhưng tôi muốn dẫn ra đây hai thí dụ.

Liệu có nỗi đau nào, nỗi khổ nào so sánh được với nỗi đau khổ của người mẹ mất con? Và đây là đám tang người con, dân làng tụ tập đông đủ. Nhưng người mẹ không nói được gì, bà chỉ lặng lẽ khóc, bà không thể bầy tỏ nỗi đau của mình bằng lời, bằng những lời làm cho tất cả phải khóc theo bà.

Lúc đó có những người khóc mướn đến. Mắt họ ráo hoảnh bởi vì đó không phải là nỗi đau của họ. Nhưng khi họ bắt đầu trổ tài nghệ kinh khủng của mình, tất cả đều khóc òa.

Tôi gọi đó là một tài nghệ kinh khủng. Trên thực tế, quả thật là kinh khủng, tàn nhẫn. Không phải ngẫu nhiên mà đạo Hồi khẳng định ở thế giới bên kia, những người khóc mướn sẽ vĩnh viễn bị đầy ải - cùng với bọn giả dối, bọn lừa đảo, vu cáo, đãi bôi. Nhưng với tài nghệ làm mọi người phải khóc thì chẳng biết làm thế nào.

Bây giờ đến một ví dụ ngược lại. Ai có thể hạnh phúc hơn người bố, người mẹ có con trai đã thành chàng thanh niên khôn lớn, khóe mạnh, và bây giờ thì lấy vợ? Đám cưới là một ngày hội vui mừng. Người ta hát múa trong đám cưới. Và tất nhiên người vui nhất là bố mẹ chàng rể. Nhưng có phải người bố, người mẹ nào cũng bầy tỏ được niềm vui của mình bằng bài hát làm mọi người reo mừng chung quanh, làm mọi người cảm thấy niềm vui của kẻ khác trong đám cưới cũng là niềm vui của chính mình?

Không, trước đó bố mẹ chàng trai đã đi các làng và mời các ca sĩ giỏi giang. Và các ca sĩ đến. Hôm qua họ hát ở một đám cưới khác, ngày mai lại hát ở một đám cưới khác nữa. Đối với họ điều đó chẳng có gì hệ trọng. Nhưng tài năng của họ đã đem lại niềm vui thật sự cho mọi người.

Vậy có thể tài năng được nuôi dưỡng bằng kinh nghiệm lâu bền chăng? Và mọi biểu hiện của tài năng trong nghệ thuật đều là kết quả của những kiến thức rộng lớn, những số phận éo le, những sự nghiệp vĩ đại?

Nhưng nếu vậy thì tại sao một cậu bé Avar 14 tuổi, lại bị mù, có thể chơi đàn panđur hay đến mức làm kinh ngạc và lôi cuốn dân chúng cả làng.

Có một chàng trai tên là Mahômét Rátgiabốp bị liệt từ nhỏ, nằm trên giường đã viết một bài thơ về người mẹ mà không ai ở Avaria là không biết. Bài thơ đã được Akhơmét Xurmilôp phổ nhạc, anh này cũng bị liệt cả hai chân. Có lần tôi viết về anh:

Cây đàn anh tám dây

Mà tám nghìn giai điệu.

Người mù có tài nhìn thấy được nhiều hơn người sáng mắt bất tài. Một người nào đó còn nói thêm rằng: người thông minh ngồi trong phòng làm việc của mình còn thấy được nhiều hơn một tên ngốc đã từng chu du khắp thế giới này.

Cũng nên nói thêm, cậu Mahômét mù ngồi xin tiền ngoài chợ không bao giờ lầm lẫn khi tính đếm tiền thu được trong ngày.

Rút trong sổ tay. Nếu sức mạnh tài năng chỉ chứa trong thị giác, làm sao nhà thơ Khốtkhurxki còn cất tiếng hát sau khi bị tên chúa đất đâm thủng cả hai mắt? Nếu sức mạnh tài năng chính là sự giàu có, thì tại sao nhà thơ Etim Emin lại nổi tiếng khi ông là kẻ nghèo khó, không cha không mẹ? Nếu sức mạnh tài năng ở vốn học vấn thì làm sao Xulâyman Xtanxki có thể trở thành “Hôme của thế kỷ 20” khi thậm chí đến ký tên, ông cũng không biết - ông phải dùng ngón tay để điểm chỉ mỗi lúc cần thiết? Nếu sức mạnh tài năng là ở chỗ đọc nhiều, biết nhiều thì tại sao tôi đã từng gặp bao nhiêu người đọc nhiều, biết nhiều mà không viết được một câu nào đáng nhớ?

Ngày xưa ở miền núi thường tổ chức những cuộc thì thú vị. Một bên là những cậu học sinh các trường Ả Rập, biết đọc biết viết thành thạo tiếng Avar, một bên là những người mù chữ chỉ biết mỗi việc chăn cừu. Hai bên thi nhau làm thơ. Thường thì những người chăn cừu thắng. Các bài thơ vuông vức, mực thước của những cậu học sinh hiểu biết kia đã đành phải chịu lép trước bài thơ thoải mái, phóng khoáng như làn gió bay trên những triển núi xanh tươi.

Nhưng cả hai loại người đó đều chịu thua các nhà thơ vừa là học sinh vừa biết chăn cừu. Nếu tham dự cuộc thì có Makhơmút hay là bố tôi, thì hai người đành phải đọ tài với nhau chứ không phải với những người khác, vì những người này thua kém quá xa.

Có thể sức mạnh tài năng ở trí thông minh? Nhưng tôi đã gặp ở Matxcơva và ở các nước khác nhiều người rất thông minh. Nếu bất ngờ, trí thông minh của họ biển thành dạng bài thơ hay dạng tiểu thuyết, truyện ngắn thì đấy sẽ ìà những tác phẩm vô giá. Nhưng có một cái gì đó đã cản trở những ý nghĩ thông minh của họ rời ngọn bút xuống giấy, và những ý nghĩ thông minh ấy chỉ còn biết bay lung tung trong không khí hay là cùng chui xuống mồ với chủ nhân.

Thế thì có thể sức mạnh tài năng là ở sự lao động chuyên cần, là ở sự làm việc đến đầm đìa mồ hôi? Rất nhiều lần tôi nghe thấy nói tài năng tự nó không có, nó chỉ có thể bộc lộ qua lao động miệt mài. Nhưng các bạn thử hình dung xem tiếng hót nhẹ nhàng của chú chim họa mi thảnh thơi đậu trên cành cây vẫn làm tôi thích hơn tiếng kêu đầy khó nhọc của con lừa đang lặc lè mang nặng.

Người kéo xe không hát, người ngồi trên xe mới hát.

Ôi, tạo hóa linh thiêng, trên đời này có bao nhiêu điều mâu thuẫn! Nếu bài ca là kết quả sự nhàn tản của người ngồi trên xe, thì có thể toàn bộ nghệ thuật là kết quả của sự an nhàn, dư dật vật chất của cuộc sống vô lo ư?

Phải chăng trong các lâu đài giầu sang người ta đã phải hát những bài ca ra đời từ những túp lều dột nát? Mọi câu chuyện về các lãnh chúa, về những người giầu sang đều do những người nghèo khổ sáng tác. Viên tù trưởng đày Irtri Kazắc đi Xibiri. Bị đầy ải ở Xibiri, Kazắc tiếp tục làm thơ. Qua thơ của Irtri Kazắc, mọi người bây giờ mới biết đến viên tù trưởng người Kumức kia.

Những người dân miền núi đã bắt cóc Đavít Guramisvili, công tước trẻ người Gruzia. Họ tống anh ta vào ngục ở Unxukun. Ngồi trong ngục ẩm ướt, da diết nhớ miền Gruzia tươi đẹp, công tước bắt đầu làm thơ. Ở một chừng mực nào đó, có thể nói rằng người dân miền núi đã biến Guramisvili thành nhà thơ.

Con gái của lãnh chúa Khunzắc là nàng Aisát đã phải lòng một chàng trai chăn cừu trẻ đẹp. Biết chuyện, bố cô gái đã đuổi cô ra khỏi nhà. Ngoài trời là đêm đông rét mướt. Nàng mặc bộ váy áo mỏng manh, đi ngược làn gió buốt, tuyết ngập đến đầu gối - đêm đó nàng đã làm bài thơ đầu tiên.

Nhưng nếu vậy thì sức mạnh tài năng có thể ở sự nghèo khó, tuyệt vọng của con người? Có thể nỗi đau khổ và sự bất hạnh đã sinh ra những bài ca hay nhất chăng? Vậy thơ là ai, thơ cần cái gì? Thơ đã đến với Batưrai khi ông đã thành người già nua, ốm yếu đói rách, ngồi bên bếp lò lạnh ngắt của mình. Thơ đã đến với Makhơmút khi ông rét cóng trong những chiến hào Karpát, còn cô gái ông yêu, người mà ông quý hơn cả mặt trời, trái đất và cuộc sống, lại đi lấy người khác, thơ đã đến với Abutalíp, khi ông xách bị gậy đi các làng xin ăn, còn cô gái Khatimát ông yêu lại ruồng bỏ ông đi lấy người khác. Thơ đã đến với Enđariláp, khi ông nhận cốc thuốc độc từ tay những kẻ giết mình. Bạo chúa Zunti-Naíp đã khâu mồm nàng Ankhin-Marin, và chính lúc đó Marin làm được bài ca hay nhất của mình. Bài ca này, như một lời nguyền rủa, đã làm tên bạo chúa suốt đời mất ăn, mất ngủ.

Vậy thì sức mạnh tài năng ở đâu? Tài năng là gì - là lương tâm, danh dự, lòng dũng cảm hay có thể là sự sợ hãi? Bởi vì người nhát gan đi đêm cũng phải hát cho mình đỡ sợ.

Tài năng là niềm hạnh phúc hay nỗi khổ, là phần thưởng hay sự trừng phạt? Là cái đẹp được tạo ra để con người phải chịu khổ vì nó, hay những nỗi khổ từ đó cái đẹp đã nảy sinh? Hay tài năng là con đẻ của thời gian và sự kiện? Những tia lửa bật ra khi hai hòn đá đập vào nhau. Chiến tranh không làm tăng số người trên trái đất, nhưng làm tăng số người anh hùng.

Tôi không biết tài năng là gì, cũng như không thể nói thơ là gì. Nhưng đôi lúc - khi trên đường về nhà, khi ở xa quê hương, khi đang mơ màng ngủ (hơi khép lại vạt áo ngoài), khi tôi bước đi trên cỏ (và những ngọn cỏ non xanh như thấm qua da thịt tôi, hòa vào dòng máu), khi tôi ăn cơm, khi tôi nghe nhạc, khi gia đình sum vầy, khi giữa bạn bè ồn ào, khi tôi nhấc bổng đứa bé lên như cầu chúc cho nó một cuộc sống yên lành mai sau, khi tôi ghé vai khiêng linh cữu người bạn đưa về chốn yên nghỉ cuối cùng, khi tôi nhìn lên gương mặt người tôi yêu - những lúc đó tôi bỗng thấy một cái gì đặc biệt, kỳ lạ, bí ẩn, mãnh liệt cồn lên ập đến lòng tôi. Cảm giác đó khi vui, khi buồn, nhưng bao giờ cũng thôi thúc tôi làm một việc gì, bắt tôi phải nói lên lời. Cảm giác ấy đến không cần tôi mời mọc, yêu cầu.

Cảm giác ấy đến và đằng sau nó thấp thoáng bóng Makhơmút vận áo chẽn với cây đàn panđur trên tay, với tình yêu say đắm vẫn chưa nói hết qua các bài ca, thấp thoáng hình bố tôi với nụ cười buồn buồn, dịu dàng, và Enđariláp với cốc thuốc độc trong tay, và Marin với đôi môi bê bết máu vì bị tên bạo chúa khâu lại... và cả những hình bóng xa xôi của những người khống lồ Đăngtê, Tônxtôi, Sinle, Blốc, Gơtơ, Banzắc, Đôxtôiépxki... Đôi khi tôi cảm thấy như hình bóng Đấng hư vô hiện ra lóe sáng qua màn mây mù.

- Người là ai vậy? - Tôi cất tiếng hỏi Đấng hư vô đó.

- Ta là tài năng của anh, ta là thơ ca của anh.

- Người từ đâu tới vậy?

- Ta ở khắp mọi nơi.

- Người cũng bằng tuổi tôi sao?

- Không đâu, tuổi ta vừa là một giây vừa là ngàn thế kỷ. Trong ta vừa có sự thơ ngây con trẻ, vừa có niềm say mê của chàng trai và sự uyên thâm của người già cả.

Ta không có tuổi. Ta là ngọn lửa không bao giờ tắt. Ta là bài ca không ai hát hết được lời. Ta là chuyến bay cao, bay xa mà không ai có thể thực hiện được. Ta ở cách anh rất xa, và ở ngay trong anh. Mang theo ta trong người vừa là niềm sung sướng không cùng, vừa là nỗi đau buồn cay đắng. Không có gì nhẹ hơn ta và cũng không có gì nặng hơn ta.

Nếu có ta, vách đá lạnh có thể nứt ra vì tiếng đàn ngân viôlông. Nếu có ta, những chú dê rừng trong khe núi cũng phải nhẩy múa lên vì nghe tiếng kèn zurna. Nếu có ta thì dao găm rơi khỏi tay kẻ giết người, và đôi trai gái yêu nhau ngây ngất hôn nhau.

Khi người ta bỏ chiếc mũ khỏi đầu cô Paiti ở làng Anđi, ta đã có ở đấy; khi người ta cướp Mariam đi, đặt nàng lên yên ngựa, ta đã có ở đấy. Khi Gian Đa tuốt kiếm trước đoàn quân đang hò reo, ta đã có ở đấy. Khi con người chắp vào mình đôi cánh rồi nhẩy từ trên tháp chuông xuống, ta đã có ở đấy. Khi Magienlăng hay Côlông kéo cánh buồm lên, ta đã có mặt ở đó, Khi bức tranh “Đức Mẹ ở nhà thờ Xictin” vẽ lên, ta đã có mặt ở đó,

Địa bàn hoạt động của ta ở mọi nơi, mọi thời gian. Trên khắp hoàn cầu có những lục địa và quốc gia khác nhau, có những đảng phải và chính phủ khác nhau, có những giai cấp và dân tộc khác nhau. - Nhưng còn có những con người. Những con người có tâm hồn và trí tuệ. Dù ở lục địa nào, họ cũng biết yêu và biết căm thù, biết dũng cảm và biết sợ, cao thượng và ranh ma, vị tha và giả dối, chân thành và vu cáo. Trí tuệ và tâm hồn con người - đó là bãi chiến trường của ta, là nơi ta thất bại và chiến thắng, là nơi ta làm nên những sự nghiệp của mình.

Vậy thì người hãy nói cho tôi sự thật: tôi biết giống cái gì được? Liệu tôi có nên liều mạng làm bông tuyết ngày mai sẽ tan đi, liệu tôi có định đổ nước vào chiếc bình nứt đáy không? Liệu có tia lửa nào trong ngọn lửa vĩnh cửu của người chạm đến tâm hồn tôi không, liệu có giọt nước thiêng, nóng bỏng nào của người rơi vào đôi môi tôi không?

Những giọt nước mắt tôi đã khóc - những giọt nước mắt, vui, buồn. Nhưng tôi còn những giọt nước mắt ẩn sâu nơi đáy mắt như con chim nhỏ run rẩy náu mình khi nghe tiếng chân người thợ săn. Cả những giọt nước mắt đời không thấy ấy cũng khi buồn khi vui, lúc vì yêu, lúc đau khổ, lúc sung sướng, lúc bất hạnh. Mái tóc tôi đã pha lẫn hai màu đen, trắng. Tôi đã đứng một chân trên tuổi trẻ, một chân trên tuổi già, tuổi già và tuổi trẻ luôn xung đột với nhau và bãi chiến trường là tâm hồn tôi.

Tình yêu tôi như cây tiêu huyền hai nhánh

Một nhánh vừa khô thì một nhánh đâm chồi

Tình yêu tôi như chim đại bàng hai cánh

Một cánh sải dài khi một cánh khép hờ thôi!

Trong ngực tôi, hai vết thương nhức nhối

Một vết còn đau khi một vết liền da.

Và cứ thế, suốt cuộc đời bất tận

Niềm vui với nỗi buồn, từng phút nối nhau qua!

Cuộc sống ngắn ngủi bao giờ cũng có giới hạn, mà mơ ước thì vô cùng. Tôi đang đi trên đưừng mà mơ ước đã đến nhà. Tôi đang đi gặp người yêu mà mơ ước đã ở trong vòng tay người tôi yêu. Tôi đang sống giờ phút này mà mơ ước đã bay lên phía trước bao nhiêu năm.

Mơ ước bay qua ranh giới cắt ngang cuộc sống trong màn đen vĩnh viễn. Mơ ước bay vào những thế kỷ.

Người ta đố Samin. Người ta đưa cho Samin một sợi dây với ba nút thắt. Hai nút thắt ở đầu dây, gần nhau, còn nút thứ ba ở cuối dây!

Samin căng sợi dây ra, ngắm nhìn và nói:

Một nút thắt - chính là, ta. Nút thứ hai là cái chết của ta. Còn nút thắt cuối kia, đó là nơi chất chứa những mơ ước của ta, dự định, mục đích mà ta cố đạt đến trong đời.

Cánh đồng cho những ước mơ tôi cần cày cầy rộng hơn rất nhiều cánh đồng tôi cày cấy trên thực tế. Vậy thì tài năng sẽ phải phụng sự ai, phụng sự tôi hay là phụng sự những mơ ước bay khỏi tôi rất xa?

Phải rồi, tài năng là ngọn lửa không bao giờ tắt. Tài năng là bài ca không ai hát được đến tận cùng. Tài năng là chuyến bay không ai đủ sức kết thúc. Nhưng liệu tôi có thể dệt được giai điệu của tôi vào bài ca vĩnh viễn của tài năng - giai điệu của tôi, giai điệu miền Avaria? Và lúc ấy có thể bài ca sẽ phong phú thêm.

Liệu tôi có châm được trên đỉnh núi Đaghextan đốm lửa nhở một phần của ngọn lửa không bao giờ tắt của tài năng? Liệu tôi có thể kéo dài đường bay liên tục của tài năng thêm một đoạn, dù chỉ là từ vách đá này đến vách đá khác?

Làng của tôi - làng Xađa! Đó có nghĩa là ngọn lửa! Có lần một người làng khác hỏi tôi:

- Anh người làng nào?

- Làng Xađa.

- Trước tiên hãy đọc những bài thơ của mình, sau đó tôi sẽ nói với anh những bài thơ ấy nảy sinh từ ngọn lửa hay từ tro tàn nguội lạnh.

Những nỗi hồ nghi luôn ám ảnh tôi. Liệu tôi có nên mặc áo khoác ngoài khi thời tiết đã hết lạnh và mặt trời lại ló ra sau màn mây? Liệu tôi có nên khóa chuồng bò sau khi kẻ trộm đã lấy mất bò? Liệu tôi có nên kể điều người ta đã nghe nhiều lần? Liệu tôi có nên mời những người khách chỉ đến vì bữa ăn có nhiều món ngon lành? Tôi có cần viết cuốn sách của tôi không?

- Nếu có thể không viết thì đừng viết.

- Tôi có thể không viết không? Liệu người bệnh quá đau có thể không rên chăng? Liệu người vui mừng có thể không cười? Liệu chim họa mi có thể không hót trong đêm trăng vắng lặng? Liệu cỏ cây có thể không mọc khi hạt giống đã nằm trong lớp đất ẩm ướt, ấm áp? Liệu những bông hoa có thể không nở khi nụ hoa đã uống no nắng mặt trời? Liệu những dòng suối núi có thể không chảy xuôi ra biển khi băng tan và nước ầm ầm lao qua những tảng đá? Liệu đống củi có thể không bốc cháy khi củi đã khô và lửa đã bao quanh nó?

Từ thuở nhỏ tôi đã yêu những đống lửa: những ngọn lửa do những người chăn cừu nhen lên, bên bờ sông, dưới vách đá, trên những triền núi cao xung quanh hay thậm chí ngay trong bếp lò ở nhà. Tôi biết nhóm được lửa mới là một nửa việc phải làm, nuôi nó cháy đều không tắt suốt đêm mưa còn khó hơn rất nhiều.

Tôi cảm thấy trong trái tim tôi có lửa. Nhưng tôi biết làm thế nào để cho ngọn lửa của tôi không bị lụi tàn đi quá sớm, lụi tàn đi trước khi nó có thể sưởi ấm lòng ai đó, có thể soi sáng đường cho ai đó trong đêm đen?

Tôi phải làm gì để gìn giữ và nuôi dưỡng ngọn lửa tài năng ấy của mình.

Rút trong hồi ức của bố. Một người miền núi đến gặp bố tôi và nói:

- Tôi đã thử làm và hoàn toàn tin rằng tôi có thể sáng tác thơ. Nhưng tôi không biết cần có những gì để viết được những bài thơ thật hay.

Bố tôi trả lời:

- Biết lên dây đàn chưa đủ đâu, còn phải biết chơi nữa, Có ruộng chưa đủ, còn phải biết cày bừa, trồng trọt.

- Vậy thì tôi phải làm gì để viết được các bài thơ?

- Phải làm gì ư? Phải làm việc.