← Quay lại trang sách

LÀM VIỆC

Ai tưởng việc chúng ta là mật ngọt

Hãy thử đến ở Kubatri một ngày

Lời ghi trên sản phẩm vùng Kubatri

Tôi như người nô lệ của thơ mình

Đổ mồ hôi suốt ngày, còng lưng phục vụ

Nhưng những câu thơ dường như chưa thấy đủ.

Nửa đêm còn dựng dậy, chẳng cho yên.

Tôi như người kéo xe. Bánh xe lăn bất tận,

Hai càng xe luôn thúc ở hai sườn.

Mà hàng hóa chở mỗi ngày thêm nặng,

Suốt một đời trói buộc chẳng hề buông!

Câu chuyện này xảy ra đã lâu, nhưng bây giờ tôi vẫn nhớ mồn một như nó mới xảy ra hôm qua.

Tôi đã từng mô tả chuyện này trong một truyện thơ, nhưng không thể không nhắc lại ở đây.

Là con trai chưa ai biết tới của nhà thơ Gamzát, tôi rời làng quê ra đi, mới đâu tới Makhátkala, sau đó lên Matxcơva. Năm tháng trôi qua. Tôi tốt nghiệp Đại học văn học, xuất bản mười tập thơ. Một tập thơ được tặng Giải thưởng Xtalin. Tôi đã cưới vợ. Nói tóm lại là đã trở thành nhà thơ Raxun Gamzatốp. Lúc đó, tôi quyết định trở về thăm làng lần nữa.

Mấy ngày liền tôi đi khắp chốn, nơi tôi đã chạy chơi hồi nhỏ, tôi nhìn những vách núi, những hang sâu, nói chuyện với mọi người, lắng nghe suối reo, im lặng ngồi trong nghĩa địa và đi lang thang ngoài đồng.

Ở Mỹ, trong nhà máy Ford, tôi nhìn thấy quả núi nhỏ chuyên dùng để thử xe trước khi xuất xưởng. Đối với nhà văn, quả núi kiểm tra phải là nơi anh sinh ra.

Có mấy người phụ nữ vừa đi làm cỏ lúa mì về. Quần áo lấm lem đất cát, đôi tay đầy những vết xước vì cỏ sắc, vẻ mặt mệt mỏi, họ ngồi xuống vệ cỏ bên đường nghỉ. Tôi đi lại gần phía họ.

Không biết thấy tôi, họ mới bắt đầu nói về tôi hay là nói từ trước đó, chỉ biết tôi bất chợt nghe thấy một bà vừa lấy búi cỏ lau mồ hôi trên trán vừa nói:

- Nếu người ta hỏi tôi thích gì nhất thì tôi sẽ nói: thích có trái tim vô lo và số phận dễ dàng của Raxun Gamzatốp.

- Sao, Raxun có trái tim như cục phó mát, không bao giờ biết đau sao? - một bà họ hàng bênh vực tôi.

- Có thể không phải là cục phó mát, nhưng dù sao thì anh ta cũng không phải rẫy cỏ lúa. Anh ta không phải đi làm hay ăn cơm theo kẻng đánh của nông trang. Anh ta không biết thế nào là ngày công, không biết phải làm gì mới kiếm được số công điểm và được phân phát những gì theo số công điểm ấy, chỉ có đàn địch, bông phèng mà tiền vẫn chui vào túi. Có lo lắng điều gì đâu? Tim anh ta có bao giờ bị đau? Tôi chẳng mong số phận nào may mắn hơn.

Hỡi người phụ nữ phúc hậu! Tôi biết kể thế nào cho bà nghe công việc của mình, về sự lao động liên tục, nhọc nhằn của tôi?

Tôi buồn rầu từ cánh đồng trở về làng. Trong đình làng, các bậc cao tuổi đang ngồi chơi, trò chuyện với nhau về đất, về mùa màng sắp tới, về những ngọn núi, bãi chăn cừu, về bệnh tật và cỏ cây, về những ngày đã qua của làng chúng tôi. Tôi bước lại gần, chào các cụ và cũng ngồi xuống một phiến đá lạnh.

Có cụ già cầm một tờ báo mới trong đó có đăng bài thơ tôi. Câu chuyện chuyển sang bài thơ. Người kỵ sĩ bao giờ cũng thích thú khi người ta khen con ngựa của anh ta. Tôi cũng hy vọng rằng các cụ sẽ khen bài thơ của tôi. Ở Matxcơva, ở Makhátkala tôi đã quen nghe nhiều lời khen rồi. Cụ già cầm tờ báo nói:

- Ông Gamzát, bố anh, làm thơ. Anh là con trai ông Gamzát, cũng làm thơ. Vậy thì đến bao giờ anh mới làm việc? Hay anh nghĩ rằng sống hết đời rồi cũng không nhấc cái gì nặng hơn miếng bánh mì?

- Những bài thơ - đó là công việc của cháu, - không ngờ câu chuyện lại chuyển sang hướng không mong đợi, tôi hơi choáng váng nhưng cố dịu giọng trả lời.

- Nếu làm thơ là làm việc, thì cái gì mới là vô công rồi nghề? Nếu các bài ca là lao động thì cái gì mới là sự giải trí, nghỉ ngơi?

- Đối với những người hát thì bài ca quả thật là một điều thích thú, nhưng đối với người sáng tác ra những bài đó thì đây là làm việc. Một việc làm mất ăn mất ngủ, không biết đến ngày nghỉ, đến thời gian nghỉ phép. Giấy đối với cháu chẳng khác gì cánh đồng đối với các cụ. Những chữ của cháu là hạt lúa. Còn bài thơ là bông lúa.

- Úi dào, đó toàn là những lời hay ho. Cánh đồng không bay đến với tôi trên mái nhà. Tôi phải đi ra đồng làm việc. Còn các bài thơ thì tự nó đi tìm anh, dù anh ở đâu, dù anh đang nằm trên gường. Mỗi bài thơ là khách đến gõ cửa nhà anh. Nghĩa là mỗi bài thơ đều là niềm vui. Còn cánh đồng của chúng tôi lại là chuyện làm ăn khó nhọc, ngày nào cũng như ngày nào.

Đấy, các cụ già làng tôi đã bầy tỏ ý nghĩ của mình như vậy hay đại khái như vậy.

- Nhưng thơ cháu - chính là cuộc đời của cháu.

- Vậy thì đời anh lúc nào cũng là một ngày hội. Vì thơ là chuyện của tài cán. Nếu có tài thì dễ dàng làm được bài thơ hay. Còn ai không có tài thì phải bỏ công sức ra mà làm. Tuy vậy, ở đây cố sức cũng chẳng giúp ích được là bao.

- Không, các cụ nói không đúng đâu. Người nào ít tài năng thì đều thấy nghệ thuật là chuyện dễ dàng. Anh ta làm thơ một cách cẩu thả, qua quýt. Tài năng bao giờ cũng đi đối với tinh thần trách nhiệm. Người thực có tài bao giờ cũng coi thơ là một việc làm rất hệ trọng và khó khăn. Không phải cái gì ngâm được đều là thơ, cũng như không phải cái gì kể lại được đều là truyện.

- Vậy anh thử nói xem anh làm việc thế nào. Công việc của anh khó khăn ra sao?

Ngồi chung quanh tôi là những người thợ cày cao tuổi. Tôi bắt đầu nói chuyện với họ, nhưng chỉ các cụ biết được những điều đối với tôi gần như là hiển nhiên. Tôi lúng túng, ấp úng rồi im bặt. Hôm đó, các cụ ngồi ở đình làng đã thắng tôi. Tôi không thể giải thích cho họ vì sao làm thơ lại khó và nói chung - thế nào là làm thơ.

Từ ngày ấy, nhiều năm đã trôi qua. Nhưng đến tận hôm nay, nếu ai hỏi tôi, chắc tôi cũng không thể giải thích rạch ròi thế nào là công việc làm thơ của tôi, tại sao nó không dễ dàng và nó khác với những công việc khác ra sao?

Nơi làm việc của tôi ở đâu? Tất nhiên là bên bàn làm việc của tôi. Nhưng nơi làm việc của tôi còn là con đường mòn trên triền núi những khi dạo chơi, khi tôi nghiền ngẫm những câu thơ, từng chữ, từng âm thanh đến với tôi, tôi “kiểm tra chất lượng” của chúng và loại bỏ dần những gì không vừa lòng. Nơi làm việc của tôi còn ở trong toa tầu, khi tôi đi sang nước khác, vì chính vào lúc ấy có thể có một tứ thơ mới nẩy sinh trong đầu. Nơi làm việc còn là khoang máy bay, trên xe điện, giữa Quảng trường Đỏ, bên bờ suối, trong rừng, hay trong phòng tiếp khách của bộ trưởng. Chỗ nào trên mặt đất này cũng là nơi làm việc của tôi, là thứa ruộng tôi cấy cày và gặt hái.

Tôi làm vào lúc nào? Vào buổi sáng hay buổi tối? Ngày làm việc cửa tôi kéo dài bao lâu? 8 giờ hay 6 giờ, hay có thể tới 12 giờ hay nhiều hơn nữa? Nhưng nếu nhiều hơn thì tại sao tôi không “bãi công” và không đâu tranh đòi làm ngày 8 tiếng?

Thực ra lúc nào tôi cũng làm việc. Trong khi ăn và trong nhà hát, trong khi họp và khi đi săn, khi uống trà và trong buổi lễ tang, khi đi trên ô tô và trong đám cưới. Thậm chí khi ngủ, tôi cũng đã từng mơ thấy những câu thơ, những hình ảnh, ý tứ, có khi cả một bài thơ hoàn chỉnh. Vậy cả đến lúc ngủ tôi vẫn phải làm việc. Nghĩa là lẽ ra tôi phải tổ chức “bãi công” từ lâu rồil

Tôi làm việc thế nào? Đó là điều khó trả lời nhất. Đôi lúc tôi cảm như công việc của tôi giống mọi việc của người khác. Đôi lúc tôi lại thấy rằng nó hoàn toàn riêng biệt và chẳng thể so sánh với bất kỳ công việc nào người ta đang làm trên thế gian này.

Đôi lúc tôi có cảm tưởng mọi người chung quanh đều làm việc còn tôi thì chơi rông. Đôi lúc tôi lại có cảm tưởng hình như chỉ mình tôi làm việc còn mọi người khác đều an nhàn thư thái.

Kia là những con chim! Suốt đời, chúng chỉ hót đi hót lại một điệu mà bố mẹ chúng đã dạy chúng. Kia là những dòng sông! Hàng ngàn năm, chúng chỉ reo mãi một âm thanh. Còn tôi, tôi phải cố sao trong cuộc đời ngắn ngủi tạo ra những bài ca khác nhau, những bài ca người ta còn nhớ đến nhiều năm sau.

Chắc người đầu tiên cày xới một thửa đất nhỏ sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Người làm ra bài hát đầu tiên chắc cũng chẳng dễ dàng hơn.

Nếu đã có một nghìn người cày thửa đất thì người thử nghìn lẻ một sẽ cày dễ hơn. Nhưng nếu đã có một nghìn người làm thơ thì người thứ nghìn lẻ một sẽ khó làm thơ hơn rất nhiều.

Đúng rồi, hỡi người nông dân cày ruộng, công việc của tôi cũng có phần giống công việc của anh đấy. Bởi vậy xin đừng nhìn tôi như nhìn một người vô công rồi nghể, người có cuộc sống luôn thảnh thơi, nhàn nhã. Có những đêm dài tôi không ngủ, lo nghĩ tói cánh đồng của tôi như anh đã lo nghĩ về mùa màng trên cảnh đồng của mình. Anh đã chọn những hạt giống tốt nhất để gieo, tôi cũng chọn những chữ hay nhất trong những chữ hiện có. Từ một nghìn chữ tôi cần chọn được một. Tôi cũng có thửa ruộng đã cày bừa, có những hạt giống nẩy mầm làm tôi mừng rỡ, có những thành quả lao động. Tôi cũng phải vun xới, phải rẫy cỏ, bởi vì trên thửa đất của tôi còn mọc chen cỏ dại. Dù phải nhờ đến máy cũng khó mà tách biệt được hạt giống tốt và hạt yến mạch lẫn vào nhau. Nhưng tách được những chữ thừa, chữ tạp khỏi những chữ hay, chữ đẹp, có ích, còn là việc khó hơn.

Anh đề phòng cánh đồng của mình khỏi bị mưa đá, sương muối, hạn hán. Tôi cần phải làm ra được những bài thơ không sợ kẻ thù ghê gớm nhất là thời gian, bởi vì tôi muốn làm ra những bài thơ sống lâu hàng trăm tuổi.

Cánh đồng của tôi cũng có đủ thứ sâu bọ, cào cào, châu chấu. Chủng có thể phá trụi mùa màng của tôi, hay làm cho hạt lúa tôi trồng không sao ăn được nữa, khiên mọi người phải tránh xa những sản phẩm của tôi. Những con vật cắn hại đồng của tôi nguy hiểm hơn, đáng sợ hơn giống chuột của anh; chống lại những gìống vật ăn hại trên cánh đồng của tôi còn khó hơn nhiều, và có lúc hầu như bất lực.

Lò lửa cháy rồi. Hơi ấm bốc trên lều

Nhưng trên tường chỉ một khe nứt nhỏ

Và ngọn gió như sừng trâu hung dữ

Lọt vào nhà, thổi lạnh buốt bên trong.

Trong thơ tôi, cũng thường hay như thế:

Câu thơ sưởi nóng lên, đòi hỏi biết bao công.

Nhưng hơi giá vẫn luồn qua kẽ hở

Chỉ một chữ cong vênh - làm tê giá cả dòng!

Những trái quả của tôi, sau đây tôi phải phân phát cho mọi người, ở Đaghextan cũng như ở các miền đất khác người ta sẽ nếm chúng, sẽ biết vị ngon ngọt hay đắng chát của chủng. Mùi vị của chúng phải độc đáo, không nên giống mùi vị những thứ quả cây khác.

Tôi nhớ lại hỏi nhỏ bố tôi đã dạy tôi bó lúa. Khi tôi tỳ đầu gối lên bó lúa và cố hết sức thít chặt dây, bố tôi liền nhắc:

- Coi chừng đấy, Raxun, không khéo lại bóp nghiến bó lúa đấy!

Bây giờ khi bài thơ làm mãi không song, khi tôi cố nhét vào bài thơ một câu nào đó mà nó cứ tuột ra khói bài, tôi bèn cố sức bó bài thơ lại cho xong. Vào giây phút ấy tôi thường nhớ lại lời nhắc nhủ của bố tôi: “Coi chừng đấy, Raxun, không khéo lại bóp nghiến bó lúa đấy”.

Mùa màng ngoài cánh đồng mỗi năm thu về một khác. Có năm lúa gặt về nhiều đến mức không đủ nhà kho chứa, rồi sau đó, có khi ba năm liền mùa màng mất trắng, Với tôi cũng vậy - không phải bao giờ cũng gặt hái như nhau. Có lúc tưởng rằng đã cày bừa kỹ càng, gieo hạt tốt, bón nhiều phân, thế rồi lúa mì vẫn không mọc. Lại đành phải đi mua hạt giống tận Úc, tận Canađa về. Chẳng có một thứ phân hóa học nào, dù nhiều hay ít, có thể giúp ích cho tôi, khi cây đàn thơ của tôi đã chùng dây, thơ không thể nào từ trong lòng đi ra giấy được.

Biết làm thế nào được? Nếu bất cứ việc gì làm đã bắt đầu là sẽ kết thúc một cách tốt đẹp, thì mọi người lúc nào cũng đã vui vẻ, hoan hỉ. Nếu mùa màng năm nào cũng bội thu thì lúa lúc nào cũng đầy ứ trong kho. Nếu tất cả những gì viết ra trên giấy đều thành bài ca thì mọi người từ lâu đã thôi không nói chuyện với nhau bằng thứ ngôn ngữ đơn giản mà chỉ còn hát với nhau. Nhưng làm ra được các bài ca quả là một việc rất khó.

Tôi đã có dịp đến thăm các nhà máy rượu ở Đaghextan, ở Gruzia, Armênia, Bungari, nhà máy bia ở Plizen. Tôi có cảm giác rằng công việc của nhà thơ và nhà nấu rượu có nhiều điểm giống nhau, có những điềm tế nhị riêng, những bí mật riêng. Bài thơ cũng như rượu cần phải có chất lượng sao cho càng lâu càng nồng. Trong bài thơ hay cũng chứa một cái gì bí ẩn, say lòng người như chất men. Ớ những điểm đó, Thơ và Rượu giống nhau, thỉnh thoảng ở những làng xa xôi trên miền núi, nơi có cửa hàng, thường ta thấy xe tải chở rượu đến. Người lái xe chở rượu từ Buinắcxcơ đến đã phân phát cho mỗi làng một thùng rượu.

Trông thấy một chiếc xe như vậy, các chàng trai từ mọi ngả trong làng liền đi ngay lập tức đến cửa hàng, bề ngoài có vẻ thong thả, ung dung, nhưng thực ra ai nấy đều sốt ruột. Họ đứng xúm quanh thùng rượu như cừu đứng quanh chỗ những người chăn cừu rắc muối.

Rượu được đóng vào các bình, mọi người bắt đầu nếm, và tất cả đều thất vọng. Nghe thấy tiếng kêu:

- Đây mà lại là rượu à! Nước lã chính cống!

- Hoàn toàn là nước sông múc lên!

- Các ông các bà bán hàng thử nếm coi.

- Tôi chẳng liên quan gì đến chuyện này cả, - người bán hàng thanh minh. - Chính các anh cũng trông thấy người ta chở thùng rượu đến bằng ô tô. Người ta dỡ xuống trước mặt các anh. Chính các anh giúp họ dỡ xuống, dính dáng gì đến tôi? Người ta đem rượu thế nào thì tôi bán như thế. Nếu không thích thì đừng mua!

Hóa ra vị thủ kho ở thành phố, trước khi chuyển rượu xuống huyện đã rút rượu trong bình ra tùy thích, rồi đổ nước lọc vào; “Ở dưới huyện thì uống thứ rượu này cũng thích lắm rồi!” Ớ kho huyện, trước khi chuyển rượu về các làng, người ta lặp lại y nguyên hành động trên: “ở các làng thì được rượu này cũng thú lắm rồi!” Dọc đường, những người lái xe và công nhân bốc dỡ lại hút ra mấy lít uống cho ấm người, cho đỡ mệt đường xa, rồi họ lại lấy nước nguồn trong khe núi đổ bù vào; kết quả trong thùng không biết là một thứ rượu bị pha nước hay là một thứ nước bị pha rượu!

Cũng vậy, khi đọc một số bài thơ, không sao biết được cái gì trong đó chiếm nhiều hơn - Thơ hay là những lời sáo rỗng. Những bài thơ như vậy là con đẻ của các nhà thơ lười biếng, những người không đủ kiên nhẫn để lao động một cách chuyên cần. Nhưng dòng suối chảy xiết ít khi đổ thẳng ra biển. Kẻ đi bộ lười nhác ít khi đến được Mếcka. Nếu hai kỵ sĩ buộc phải ngồi chung một ngựa, họ phải dựa vào nhau. Tài năng và lao động cũng ngồi chung một ngựa.

Abutalíp nói: Tài năng và lao động cần kết hợp trong bài thơ như lưỡi dao găm với vỏ bao.

Rút trong sổ tay. Dạo ấy tôi hay chạy chơi ngoài trời hơn là ngồi ở nhà. Tôi đang học trong trường, nhưng đã bắt đầu làm thơ. Tôi không đủ kiên nhẫn để làm thơ, để đọc sách, hay để làm bài tập thầy giáo cho về nhà. Tôi không sao ngồi lâu bên bàn được. Chỉ một lát sau, tôi đã nhấp nhỏm, sau đó đứng dậy, rồi hễ có dịp là chạy ra ngoài. Đến bây giờ tôi cũng chưa lấy gì làm kiên nhẫn lắm và khó ngồi mãi một chỗ.

Có lần, sau khi bắt tôi ngồi vào bàn để học bài hay làm thơ gì đó, bố tôi ra ngoài nhà một lát. Cửa chưa kịp đóng hẳn sau lưng bố tôi, tôi đã đứng phắt dậy và trèo lên mái nhà. Nhìn thấy thế, bố tôi gọi mẹ tôi:

- Đem cho tôi sợi dây treo trên cái đinh ấy.

- Để làm gì?

- Tôi muốn trói thằng Raxun vào ghế, nếu không thì nó chẳng làm nên trò trống gì sau này đâu. - bố tôi lẳng lặng, bình thản trói chặt tôi vào ghế, khẽ gõ gõ vào trán tôi và chỉ lên trang giấy: - Mày hãy chuyển các thứ trong đầu mày sang tờ giấy này.

Nếu bây giờ có ai, cho dù là thỉnh thoảng thôi, trói nhà văn chúng ta vào cạnh bàn như thế!

Đầu chắc vẫn làm việc, nhưng nếu đầu làm việc mà tay không làm gì thì điều này cũng giống như cái cối xay quay mà không phải nghiền một tý hạt nào để ra bột.

Câu chuyện về Sangrây, con trai ông và 5 rúp. Trước đây ít lâu, ở Khunzắc có một người tên là Sangrây, ông ta khá sung túc, được mọi người vì nể. Ông chỉ có một đứa con trai duy nhất nên chiều chuộng đủ điều khiến nó trở nên lười nhác, nay đòi cái này mai đòi cái nọ. Người bố muốn con trai ông cũng làm việc như mọi người trong làng để thành một người chân chính. Nhưng anh con trai không muốn làm việc. Họ hàng, bè bạn đều chiều chuộng anh. Người cho ngựa, kẻ cho quần áo, người cho tiền, kẻ cho dao găm.

Một lần, Sangrây bị ốm nặng. Thuốc thang bao nhiêu cũng không khỏi. Họ hàng, bè bạn đều vây quanh ông.

- Chúng tôi phải làm gì để chữa cho ông khỏi bệnh?

- Tôi biết rằng tôi có thể khỏi bệnh, nhưng các anh không thể giúp được tôi đâu.

- Cách gì làm ông khỏi được bệnh thì dù khó đến đâu chúng tôi cũng làm bằng được.

- Nếu con trai tôi đem về cho tôi được 5 rúp do chính tay mình làm ra và nói: “Bố ơi, bố cầm lấy đi, tiền này của bố đây”, - Thì tôi sẽ hết ốm.

Hai ngày sau, người con trai trở về và chìa 5 rúp ra:

- Bố ơi, bố cầm lấy tiền này đi, con thả bè gỗ trên suối Kôixu kiếm được đấy.

Người bố nhìn lên tờ giấy bạc, nhìn con trai rồi ném vào lửa. Người con trai đứng ngây ra. Mặt anh ta tái mét như vừa bị ai tát.

Thực ra 5 rúp đó là do người chú đem cho khi ông này nghe được nguyện vọng của Sangrây và quyết định giúp chàng trai.

Vài ngày sau, người con trai lại về và lại chìa tiền ra cho bố:

- Con đến Guníp làm đường mới, kiếm được số tiền này đây.

Người bố nhìn lên tiền, nhìn lên người con, vò tờ giấy bạc rồi ném qua cửa sổ.

Người con trai đứng yên không nhúc nhích. Hóa ra số tiền đó là đo một người bạn của người bố đem cho.

Lần thứ ba người con trở về, lần thứ ba đưa tiền cho bố. Ông không nhìn con, cầm tờ giấy bạc và xé luôn làm đôi. Người con trai nhanh như cắt, vồ lấy nhặt tờ giấy bạc bị xé vội vàng dán ngay lại. Anh ta kêu lên:

- Không phải con cọ rửa chuồng ngựa ở Pêtrốpxkơ và kiếm được tiền này để bố xé như xé một miếng giấy lộn đâu. Tay con đã chai sần rồi đây này.

- Bây giờ thì bố thấy đây đúng là tiền của con kiếm ra!

Sangrây bỗng cảm thấy vui vẻ, khoan khoái, ông thấy người khỏe dần và ít lâu sau thì hết bệnh.

Vậy là chỉ cái gì do chính sức lao động của mình làm ra mới thật là có giá trị.

Có lẽ thơ cũng vậy thôi. Nếu tự anh phải dằn vặt khổ sở để làm được một bài thơ thì anh sẽ cảm thấy quý từng chữ, từng dấu phẩy trong đó. Nếu anh vay mượn hay nhặt nhạnh được ý tứ ngoài đường mà làm ra thơ thì đó không thể là bài thơ có giá trị.

Nếu muốn ăn cá thật ngon thì hãy đi đến hồ và tự tay bắt nó. Chim ưng bay ngược gió, cá ưa bơi ngược dòng. Nhà thơ làm thơ khi đón nhận những cảm xúc mạnh mẽ, những cảm xúc nhiều khi không phải là niềm sung sướng mà là nỗi đau, Có lần Abutalip đã kể cho tôi nghe một chuyện ý nghĩa tương tự như vậy.

Câu chyện về những người thợ gồm Bankhar, về những cái vại của họ và về những người mua xấu tính. Những người làm đổ gốm miền Bankhar xếp hàng của mình vào những chiếc sọt lớn, chất sọt lên lưng lừa, lưng la rồi đi đến thành phố để bán. Trên đường, họ gặp mấy chàng trai tinh nghịch ở làng bên.

- Các bác đi đâu đấy?

- Đi bán đồ gốm đây.

- Giá cả thế nào?

- Thứ nhỏ 20 kôpếch thứ to 5 kôpếch.

- Sao vậy?

- Vì thứ nhỏ khó làm hơn thứ lớn.

Mấy chàng trai tinh nghịch mua hết mấy sọt đầy vại gốm.

- Các anh dùng hàng chúng tôi sẽ thích lắm đây, - mấy người thợ gốm vừa nói vừa quay lừa trở về lối cũ. - Chúng tôi làm hàng cẩn thận lắm đó. Đến đời con, đời cháu những chiếc vại này cũng chưa hỏng đâu.

Lên đến đỉnh đèo, mấy người thợ gốm dừng lại nghỉ. Từ trên cao họ nhìn xuống con đường vừa đi và bỗng muốn biết bây giờ mấy chàng trai mua hàng lúc này đang làm gì. Mấy chàng trai xếp các thứ vại lớn nhỏ ra bên bờ vực, đứng lùi lại hai mươi bước rồi bất đầu lấy đá ném. Chắc là họ đang thì nhau xem ai đánh vỡ được nhiều hơn.

Những chiếc vại vỡ tan, mảnh văng xuống vực. Các chàng trai lấy làm thích chí lắm.

Mây người thợ gốm như nghe thấy hiệu lệnh, nhất loạt chạy bổ xuống phía mấy tên mất dạy, tay lăm lăm dao găm.

- Các anh làm gì vậy, đồ xấu thói! - Họ kêu ầm lên. - Các anh mua toàn thứ hàng tốt để mà đập phá thế hả?... Lương tâm các anh để đâu?

- Sao các ông lại nổi cáu thế? - Mấy chàng trai ngơ ngác hỏi. - Các ông bán, chúng tôi mua, tiền các ông lấy đủ, bây giờ vại là của chúng tôi, chúng tôi muốn dùng sao thì dùng, mắc mớ gì tới các ông? Muốn đập thì đập, muốn đem về nhà thì đem, muốn vứt lại đây cũng được.

- Những chiếc vại này các anh không mất công mất sức làm ra. Phải khó nhọc bao nhiêu chúng tôi mới biến đất sét thành vại, thành bình thế này được. Chúng tôi phải đặt cả lòng mình vào đây, nó mới được đẹp thế, để mọi người nhìn ngắm. Chúng tôi nghĩ rằng sản phầm của chúng tôi sẽ giúp ích cho mọi người, làm vui lòng ai mua nó. Bán hàng cho các anh, chúng tôi tưởng các anh sẽ dùng chúng để đựng rượu đãi khách, để múc nước nguồn, đề trồng hoa, cây cảnh, thế mà các anh thật bất lương, đem ném vỡ vụn chúng ra, làm như vậy khác nào các anh dầy xéo lên tim chúng tôi, quăng xuống vực mọi ước muốn của chúng tôi. Các anh ném đá vào đồ gốm của chúng tôi khác nào bọn trẻ con ngu ngốc ném đá vào những con chim hót hay.

Mây người thợ gốm nhất quyết đòi lại những chiếc vại chưa bị ném vỡ và quay trở về nhà.

Nỗi tức giận của mấy người thợ gốm thật dễ hiểu với những ai tự tay mình lao động, đặt vào đó tất cả tấm lòng và nâng niu thành quả lao động của mình. Abutalíp kết thúc câu chuyện kể của mình như vây.

Không hiểu sao câu chuyện của Abutalíp làm tôi chợt nhớ khi nhìn thấy các cô gái làm nghề mò ngọc trai ở nước Nhật Bản xa xôi. Các cô gái trẻ khỏe lặn sâu xuống đáy biển, và khi hầu như đã hết hơi, còn kịp nhặt bỏ vào chiếc rọ buộc ở đùi vài con trai. Một con trai nào đó có thể sẽ có ngọc. Nhưng cần phải chọn hàng ngàn con trai may ra mới kiếm được một con có ngọc. Vậy là sẽ phải lặn ngụp bao nhiêu lần, phải chọn bao nhiêu ngàn con trai để có thể làm ra được một chuỗi hạt trai?

Liệu nhặt nhạnh những lời hay ý đẹp giữa vô vàn những câu chữ bình thường để làm ra được chuỗi hạt - bài thơ có dễ dàng hơn không?! Mọi từ ngữ bình thường, mọi sự kiện, cảm xúc, tất cả kinh nghiệm đời - đó là cả một đại dương chứa đựng vô số những con trai. Và thật là nặng nề, khó nhọc biết bao công việc của người mò ngọc khi phải liên tục lặn xuống đáy biển sâu, nghìn, vạn lần! Cần phải có sức khỏe, có lòng kiên nhẫn, sự khéo léo, khát vọng đi tìm và sức chịu đựng đến thế nào. Cần phải có kết quả nữa. Lòng kiên nhẫn của người mò ngọc, lòng kiên nhẫn của người thợ chạm bạc - phẩm chất đó gắn liền với tài năng, tất cả cái đó chính là tài năng và lao động kết hợp lại.

Muốn câu thơ còn có thể đi xa

Tôi phải học rất nhiều, lúc vui đùa, khi nghiêm khắc,

Học ở những nghệ nhân Kubatri lòng kiên nhẫn,

Và những bác thợ cả trong làng lòng tận tụy với nghề.

Những phép tắc mà người dân miền núi nào cũng biết.

Đừng gả chồng cho con gái khi chưa đến tuổi trưởng thành!

Đừng cởi giầy khi chưa đến bờ suối!

Đừng đặt nồi lên bếp để luộc thịt khi thú còn ở trong rừng chưa bắn được!

Con cáo lông đen không thuộc về người nhìn thấy mà thuộc về người bắt được nó!

Hồi ức.

Tôi không muốn kể cho mọi người nghe câu chuyện dưới đây vì thực ra chuyện đó chẳng có gì đáng khoe khoang. Nhưng nếu tôi đã tuần tự kể bao nhiêu chuyện rồi thì kể nốt cũng không sao. Không phải ngẫu nhiên ở vùng núi người ta thường nói: “Nếu đã ướt đến rốn thì cho ướt luôn”, hoặc: “Nếu đã tháo bao tải ra thì hãy rũ hết xem trong đó có gì”.

Cuốn sách mà tôi đang viết đây đáng lẽ đã hoàn thành từ lâu, nếu không xẩy ra sự cố kỳ cục mà tôi quyết định sẽ kể bây giờ.

Nếu cuốn sách đã bắt đầu viết mà tôi lại cần đi đâu đấy thì tôi mang theo luôn bản thảo. Thế là bản thảo của tôi đã cùng tôi chu du nhiều nước xa xôi. Tất nhiên tôi mang bản thảo theo không phải chỉ để mang: vì bao giờ cũng có thể có những buổi sáng rỗi rãi, khi có thể ngồi yên trong khách sạn, suy ngẫm và viết tiếp một vài trang. Cuốn sách này cũng đã theo tôi đi qua nhiều đại dương, lục địa.

Một lần đi từ Bruytxen trở về, tôi dừng lại ở khách sạn “Matxcơva”, trên tầng tám. Phải nói ngay rằng đối với tôi thì đây không chỉ đơn thuần là khách sạn mà như là ngôi nhà thứ hai của tôi. Có lẽ tôi đã ở đây đến nửa đời mình, nếu chỉ tính từ khi tôi trở thành nhà văn và hay phải đến thủ đô vì nhiều việc khác nhau.

Tất cả các nhân viên hành chính, trực nhật các tầng, các nhân viên phục vụ đều rất quen tôi, và tôi cũng biết họ. Bạn bè tôi ở Matxcơva đều biết tôi bao giờ cũng ở khách sạn “Matxcơva” nếu có dịp dừng lại đây. Trong số bạn bè ấy quả tình cũng có một số người mà cái tin “Raxun ở Matxcơva” đồng nghĩa với dịp may đến chơi Raxun vì không biết làm gì khác.

Tôi chưa kịp tắm rửa thì chuông đã reo, đã nghe thấy tiếng gõ cửa. Và chỉ lát sau trong phòng đã chật ních người, không còn biết ngồi vào đâu, đứng vào đâu nữa. Làm thế nào được, tuy phòng khách sạn không phải là ngôi nhà vùng quê, nhưng theo phong tục từ xưa, chỉ đến ngày thứ ba, những người miền núi chúng tôi mới hỏi tên các vị khách. Và bởi vì không có ai ở đấy đến ngày thứ ba nên nhiều vị khách đến thăm, tới bây giờ tôi cũng chưa biết tên.

Vậy là có lần từ Bruytxen trở về, tôi dừng lại khách sạn Matxcơva như thường lệ, và cũng như thường lệ, phòng tôi rất đông khách. Một số người đến để mừng tôi mới từ nước ngoài trở về, một số người đến để chúc tôi lên đường đi về quê may mắn, một số người khác nữa thì chẳng biết đến để chúc tôi cái gì. Có người tôi mời đến, có người tự đến không cần tôi mời.

Họ nêu tên một vài người để khen ngợi ầm ĩ rồi cùng nhau uống rượu nhân chuyện đó; họ nêu tên vài người khác để chửi rủa, chê bai rồi cũng lại uống rượu nhân chuyện đó. Nói rồi nâng cốc. Cười cười rồi lại uống. Hát hỏng dăm ba bài rồi lại nâng cốc. Căn phòng dầy đặc khói thuốc, hệt như có ai đốt đống củi ướt dưới gầm giường hay gầm bàn.

Abuta1íp nói, có ba trường hợp làm ông chóng già.

Trường hợp thứ nhất: mọi người được mời ăn đã đến, chỉ còn phải chờ một người đến muộn.

Trường hợp thứ hai: khi vợ đã dọn cơm ra mà cậu con trai sai đi mua rượu chưa thấy về.

Trường hợp thứ ba: khi khách đã về hết, chỉ còn lại một vị suốt buổi ngồi im như thóc, bỗng dừng lại nơi ngưỡng cửa và bắt đầu nói huyên thuyên dường như để bù lại những giờ im lặng, dường như không biết bao giờ mới ngừng.

Dù mệt đến thế nào, dù giấc ngủ trĩu nặng trên mi, chủ nhân vẫn phải nghe những lời nói lẩm cẩm. Chủ nhân cố đồng ý với mọi điều anh ta nói, chỉ mong sao cho anh ta chấm dứt và ra về. Nhưng sự tán đồng của chủ nhân hóa ra lại khích lệ anh ta thêm hăng hái dốc bầu tâm sự.

Có một vị khách như thế đã đến phòng tôi buổi tôi hôm ấy, cái buổi tối đã kết thúc một cách khủng khiếp mà bây giờ tôi kể lại. Khi mọi người đã về hết, vị khách say mềm này bá vai bá cổ tôi, vứt những mấu thuốc lá hút dở ra khắp phòng, bạ đâu cũng dụi điếu thuốc, vào thành ghế, vào rèm cửa, vào valy, vào giấy tờ đặt trên bàn tôi.

Thoạt đầu anh ta khen tôi, tôi cũng đồng ý với anh ta. Sau đó anh ta tự khen mình, tôi cũng đồng ý. Rồi anh ta khen vợ mình, tôi cũng gật gù. Cuối cùng, anh ta chuyển sang chửi bới tôi, thêu dệt đủ thứ chuyện ngu xuẩn về tôi, tôi cũng đành chấp nhận. “Chắc anh ta sắp tự chửi rủa mình, rồi chửi rủa vợ mình cho mà xem”, - Tôi kinh hoàng nghĩ. Nhưng đến đúng chỗ theo lôgic của sự việc anh ta phải bắt đầu chửi bới mình thì vị khách của tôi bất ngờ hấp tấp trở về căn phòng mình thuê để ngủ. Quả tình, để sự ra về của anh ta không làm tôi quá rầu rĩ, anh ta hứa ngày mai sẽ lại đến chơi.

Đôi khi người ta vẫn nói: từ phía nào khách trông cũng đẹp, tuy vậy phía đẹp nhất của khách vẫn là lưng. Đến lần đó tôi mới hiểu hết ý nghĩa của câu ngạn ngữ đó. Cái lưng của vị khách ra về đối với tôi thật là đẹp tuyệt. “Ôi, thế là mọi điều bất hạnh của buổi tối này đã qua, - Tôi thở dài nhẹ nhõm, - và bây giờ thì có thể ngủ yên được rồi”. Tôi vội vàng khóa trái cửa, chui nhanh vào chăn và ngủ thiếp ngay. Tôi ngủ say như khi người ta vẫn ngủ dưới hàng hiên lúc trời mưa, trên mình chỉ đắp chiếc áo khoác. Tôi nằm mơ thấy mình nằm dưới tấm áo khoác, bên cạnh đống lửa, giữa những người chăn cừu. Họ đặt thêm củi vào đống lửa. Lửa bốc khói, khói xông lên mắt tôi, xông vào mũi cay sè. Sau đó tôi như rơi vào trong lò nướng nóng dẫy, toàn mùi lửa. Tiếp đấy, tôi mơ thấy mình cùng bạn bè chủ nhật đi chơi ngoài thành phố và nướng chả cừu thơm phức.

Tôi bừng tỉnh vì khói xông vào mắt nhiều đến mức không chịu nổi. Tôi chồm dậy, không nhìn thấy gì hết. Trong phòng, khói dày đặc, phía gần cửa còn có cái gì đang cháy thành ngọn lửa. Lao về phía ngọn lửa, tôi trông thấy chiếc vali của mình đã cháy gần hết.

Trên chiếc vali đó tôi đã dán nhãn hiệu của nhiều khách sạn thượng hạng trên thế giới. Tôi đã xách nó theo đến bao nhiêu nước rồi! Đã trót lọt đi qua bao nhiêu ải hải quan! Thật ra thì trong vali cũng chẳng có gì quốc cấm, nhưng đôi khi một chai rượu ngoại quốc, một bao thuốc lá cũng có thể làm nhân viên hải quan không thích thú lắm. Hay có khi trong vali là đôi ba cái áo len mua về cho vợ.

Vậy là chiếc vali chưa từng lần nào bị “cháy” qua bao chặng hải quan, cuối cùng lại bị cháy ngay trong căn phòng bĩnh yên của khách sạn “Matxcơva”.

Tôi vội vàng túm lấy mánh vali đang cháy dở, ném vào bồn tắm và vặn nước xuống. Khói lại bốc lên nghi ngút. Tôi thấy đôi tay mình, và hình như cả mặt nữa bỏng rát, nhưng còn cần phải dập tiếp lửa trên ghế vừa đặt vali, dập tắt lửa thảm trải nhà và rèm cửa. Tôi lao tới máy điện thoại gọi người trực nhật tầng.

- Tôi bị cháy! bị cháy! - Tôi thét to vào ống nói. - Cứu tôi nhanh lên!

Nhưng bà trực nhật chắc tưởng là tôi không thể bốc cháy vì ngọn lửa nào khác ngoài ngọn lửa tình yêu - mà trong trường hợp này là cháy vỉ tình yêu đối với bà. Bà bình thản nói với giọng dịu dàng của một người mẹ:

- Đủ rồi Raxun, đi ngủ đi. Đến sáng là mọi chuyện qua hết.

Ôi, những người phụ nữ! Đã bao lần tôi nói đùa với họ rằng tôi đang bị cháy lên, thì họ đã tin ngay và tới giúp đỡ tôi. Còn bây giờ, khi duy nhất trong đời tôi bị rơi vào lửa thật thì không ai tin tôi.

Giống như một lính chữa cháy thuần thục, tôi một mình chiến đấu với ngọn lửa. Cuối cùng thì tôi đã dập tắt được lửa trên thám, trên ghế, nơi rèm, và cả những ván gỗ sàn nhà vừa bén lửa. Tôi đã thắng lửa, nhưng trước khi đạt được chiến công đó, lửa đã gây ra cho tôi nhiều thiệt hại.

Chắc là vị khách say rượu đã dụi mẩu thuốc cháy dở vào vali, và mọi chuyện bắt đầu từ đó. Quần áo tôi, quà cáp mang từ Bruytxen về, tất cả đều bị cháy. Bộ phận hành chính của khách sạn đã lập biên bản định giá các thiệt hại về thảm trải, ghế ngồi, rèm treo cửa, và tôi đã nhận được một khoản thanh toán kếch sù đến kinh người. Bản thân tôi phải vào nằm bệnh viện. Tôi gọi điện về nhà cho vợ và nói rằng tôi phải ở lại Matxcơva vì một vài việc quan trọng. Tôi cũng chưa nghĩ ra việc cụ thể gì để nói với vợ nên hẹn rằng sẽ còn gọi điện về lần nữa. Thế đấy, một mẩu thuốc lá cháy dở đã gây cho tôi biết bao thiệt hại.

Nhưng tôi xin nói với các bạn rằng những thiệt thòi đó chỉ là vặt vãnh so với tai họa tầy đình mà tôi đã phải chịu, ở đáy vali là bản thảo cuốn sách mà tôi đã viết, đã sửa suốt hai năm trời...

Người ta vẫn thường nói: con cá to nhất là con cá nhảy ra ngoài lưới, con dê rừng béo nhất là con bắn trượt, người đàn bà đẹp nhất là người đã bỏ anh mà đi.

Nhiều trang bản thảo của tôi đã cháy trụi! Bây giờ tôi có cảm tưởng đó là những trang hay nhất của tôi.

Hơn nữa, con cá nhảy ra khỏi lưới không phải là của tôi. Con dê rừng bắn trượt không phải của tôi. Người đàn bà bỏ đi cũng không phải của tôi. Nhưng những trang bản thảo bị cháy thì lại là của tôi. Tôi đã nghĩ ra chúng, đã dằn vặt, khổ sở vì chúng. Đã bao đêm tôi mất ngủ, đã bao ngày tôi mất công mất sức vì những trang viết ấy. Vì vậy mà mất những trang ấy, tôi khổ tâm vô cùng. Vì vậy mà tôi nghĩ đó là cuốn sách hay nhất của tôi.

Tôi lập tức cảm thấy mình trơ trọi như một cánh đồng mới gặt mà người ta đã đem hết các bó lúa về nhà hay như một bó lúa cuối cùng mà người ta để quên ngoài đồng.

Mỗi một chữ trong những trang bị cháy tôi đều có cảm giác là một viên ngọc. Các dòng chữ trong đó lấp lánh trong trí tưởng tượng của tôi như một chuỗi hạt trai.

Tôi bị choáng váng đến mức hai năm liền tôi không thể ngồi viết lại cuốn sách bị cháy. Và khi đã bình tâm trở lại ngồi viết thì tôi hiểu rằng tôi có thể viết về những điều na ná như trước, nhưng phục hồi hoàn toàn những trang ấy là điều không sao làm được.

Cũng hệt như đôi vợ chồng nào đó bị mất đứa con yêu, ít lâu sau họ lại sinh được đứa bé khác và cũng yêu đứa bé này không kém, nhưng nó vẫn là một đứa bé khác, không phải là đứa mà họ đã mất.

Người ta thường nói thơ rất sợ nước. Thơ là lửa, và sáng tác của nhà thơ là sự cháy lên. Phải rồi, tất nhiên thơ không thể là nước lã. Nhưng cầu trời phù hộ cho thơ khỏi phải chịu ngọn lửa như bản thảo của tôi đã gặp phải trong căn phòng khách sạn.

Nhà Abutalíp đã bị mất trộm như thế nào. Tôi cũng không biết chuyện xảy ra thế nào, vì sao hôm ấy lại không có ai ở nhà và kẻ nào đã lọt vào, chỉ biết là có lần nhà Abutalíp bị mất trộm. Mọi người vội vã kiểm lại xem mất những gì: đồng hồ vàng của con gái không còn, nhẫn vàng bị mất, đôi hoa tai và mấy đồ trang sức không còn. Quần áo, giày dép, bành tô, tiền nong mất sạch... Vợ của Abutalíp gần như ngất xỉu, con gái ông thì gieo mình xuống sập khóc nức nở. Còn Abutalíp thì đi sang buồng bên cạnh, ngồi xuống sàn nhà và bắt đầu thổi kèn zurna.

Bà vợ chạy bổ sang kêu rầm lên:

- Khổ nhục thế mà anh còn thổi kèn ư, chạy đến công an mà báo chứ còn chờ gì nữa!

- Gì mà khổ! Thơ của tôi vẫn nguyên chỗ cũ. Giấy má của tôi vẫn nằm nguyên xi trên bàn. Bọn trộm không sờ đến chúng. Thế thì việc gì tôi phải buồn!

- Ai cần đến cái thứ thơ của anh, lại còn viết bằng tiếng Lắc nữa chứ!

- Ổ, bà không biết gì đâu! Có những người gọi là nhà thơ hẳn hoi thế mà chỉ chuyên đi ăn cắp thơ người khác. Nhờ trời thơ tôi vẫn còn nguyên, cả năm trời nay, tôi đã mất bao công sức để làm những bài thơ đó, nếu tôi bị mất thì đó mới thật là điều khổ sở. Hơn nữa cây kèn zurna cũng không mất. Thế thì bảo sao tôi lại không mừng mà thổi lên vài bài?

Không để ý đến những tiếng kêu gào của vợ và con gái, Abutalíp tiếp tục thổi kèn.

Éfenđi Kapiép kể cho tôi. Có lần vào một ngày hè đẹp trời, Xulâyman Xtanxki nằm trên mái nhà nhìn lên trời. Chung quanh chim hót, suối reo. Mọi người đều tưởng là Xulâyman đang nằm nghỉ. Vợ ông cũng nghĩ như vậy. Bà trèo lên mái nhà và gọi ông xuống.

- Món khinkal đã dọn ra bàn rồi. Đến giờ ăn thôi!

Xulâyman không trả lời và thậm chí cũng không quay đầu lại.

Một lúc sau, bà Aina lại lên gọi chồng lần thứ hai:

- Khinkal nguội tanh nguội ngắt rồi, chốc nữa thì chỉ còn có đổ đi thôi!

Xulâyman nằm yên không nhúc nhích.

Bà vợ bèn mang thức ăn lên mái nhà cho Xulâyman, để nếu ông muốn thì ăn luôn ở trên đó. Bà đưa thức ăn cho ông và nói:

- Từ sáng đến giờ ông đã ăn gì đâu. Ông thử nếm xem món khinkal này tôi nấu cho ông ngon lành thế nào.

Xulâyman nổi cáu, Ông chồm dậy và quát bà vợ mẫn cán:

- Lúc nào bà cũng quầy rầy tôi, không cho tôi làm việc!

- Ông đang nằm nghỉ, có làm việc gì đâu. Tôi cứ tưởng...

- Không, tôi đang làm việc. Đừng quấy rầy tôi nữa!

Quả thật là hôm đó, Xulâyman đã làm được một bài thơ mới.

Vậy là nhà thơ làm việc ngay cả khi nằm ngửa nhìn trời.

Nhà thơ viết tặng vợ bài thơ:

“Em là ánh sáng của anh, là ngôi sao, là bình minh hé rạng...

Anh cảm thấy ngọt ngào khi có em bên cạnh

Anh cảm thấy đau buồn khi không được nhìn em!

Nhưng đến khi bà vợ - ngôi sao và ánh sáng -

Vừa mới bước qua ngưỡng cửa, lại gần,

Thì nhà thơ la lên: “Trời ơi, em lại đến,

Để anh làm việc đi! Anh đang bận quá chừng!”

Bố tôi kể cho tôi. Có lần, nhà thơ tình vĩ đại Makhơmút đến chơi nhà một người đáng kính. Mấy người khách khác cũng đến. Suốt tối cho tới khuya nhà thơ đã cho mọi người thưởng thức những bài thơ tuyệt diệu. Sau đó ai nấy đều đi ngủ. Người ta dành căn buồng đẹp nhất cho Makhơmút. Chủ nhân đặt sẵn chậu nước cho ông rửa mặt, chúc ông ngủ ngon và đi ra.

Sáng sớm, sợ Makhơmút ngủ quá giờ cầu nguyện buổi sớm, chủ nhân rón rén ghé nhìn vào buồng Makhơmút. Ông trông thấy nhà thơ không hề nằm ngủ. Ngồi quỳ trên tâm thảm, ông đang làm thơ, lẩm nhẩm đọc.

- Makhơmút, đến giờ cầu nguyện buổi sáng rồi, ông gác thơ ca lại đi đã!

- Đây chính là lời cầu nguyện của tôi, - Makhơmút trả lời,

Vậy là nhà thơ làm việc ngay cả lúc cầu nguyện.

Rút trong sổ tay. Bây giờ tôi sẽ kể chuyện về một nhà thơ Avar. Tôi sẽ không nêu tên anh, tôi không muốn các bạn sẽ chỉ trỏ vào anh ta mà cười. Vì ở đây cũng có điều đáng buồn cười.

Nhà thơ lấy vợ. Đám cưới được tổ chức. Khách khứa đã về hết, trong căn phòng dành riêng cho đêm tân hôn, chỉ còn lại hai vợ chồng mới cưới. Cô dâu đã nằm lên giường và chờ chú rể. Tuy vậy, thay vì đến bên giường cô gái, anh ta ngồi vào bàn và bắt đầu làm thơ. Anh làm thơ suốt đêm và đến sáng thì làm xong một bài thơ tràng giang đại hải về tình yêu, về người vợ mới cưới, về đêm tân hôn.

Liệu chúng ta có nên rút ra kết luận: “Vậy là nhà thơ làm việc cả vào đêm tân hôn” không? Nếu tôi cũng làm việc như nhà thơ Avar đó thì có lẽ tôi đã cho in được một số thơ nhiều gấp 50 lần số thơ tôi đã có. Nhưng tôi cho rằng đó sẽ là những bài thơ giả tạo.

Người nào ngồi vào bàn làm việc khi vợ mới cưới đang nóng lòng được âu yếm, người nào không gạt giấy bút sang một bên khi có cô gái xinh đẹp ngồi cạnh, thì người đó, theo tôi, chỉ là một kẻ đạo đức giả. Cho dù anh ta có viết nhiều hơn lên 10 lần, 20 lần, thì trong ngần ấy trang giấy sẽ không có được một chút chân thành nào.

Đúng, cần phải làm việc! Có một nhà thông thái nằm dưới gốc cây chờ táo rơi vào mồm. Và táo vẫn còn nguyên trên cây.

Nhưng có lẽ đối với nhà thơ, cần thiết nhất là sự chân thành, điều này cần hơn cả sự làm việc, thậm chí cần hơn cả tài năng. Sự chân thành trước mọi người và trước chính mình.

Người ta nói: Người dũng cảm hoặc là ở trên yên, hoặc là ở dưới đất.

Người ta nói:

- Điều gì ghê tởm nhất, kỳ cục nhất trên đời này?

- Một người đàn ông run lên vì sợ.

- Còn điều gì ghê tởm hơn, kỳ cục hơn thế không?

- Một người đàn ông run lên vì sợ.