← Quay lại trang sách

BA VẬT BÁU CỦA MIỀN ĐAGHEXTAN

BA VẬT BÁU CỦA MIỀN ĐAGHEXTAN

hững người dân vùng cao là những khách bộ hành vĩnh viễn, lúc nào cũng ở trên đường. Một số người đi tìm của cải, một số người đi tìm vinh quang, số người còn lại đi tìm sự thật.

Những người đi tìm của cải đã trở về sau khi tìm được nó, và giờ đây đang ngồi hưởng thụ kết quả chuyến đi của mình.

Những người đi tìm vinh quang, sau khi đạt đến thì nay đã hiểu rằng nó chẳng đáng giá gì và thật là hoài công vô ích khi đã phải bỏ nhiều sức lực vào chuyện đó đến thế.

Đối với những người đi tìm sự thật thì con đường của họ hóa ra là dài nhất, dài vô tận. Ai đi tìm sự thật, người ấy không tránh khỏi số phận suốt đời ở trên đường.

Khi người dân miền cao lên đường đi đâu đấy, tất nhiên người đó sẽ dẫn theo cả lừa nữa. Trên lưng con vật hiền lành ấy bao giờ cũng thấy ba vật buộc vào với nhau: một cái bọc lớn căng phồng, liền đấy là một cái túi da cừu, tiếp liền sau đó là một bình sứ nhỏ.

Hàng trăm năm nay, người dân vùng núi ấy đã luôn ở trên đường, đi suốt từ làng này sang làng khác, từ huyện này sang huyện khác. Phía trước anh ra là chú lừa quen thuộc, trên lưng lừa là chiếc bọc, chiếc túi da cừu và bình sứ nhỏ.

Tại một vùng giàu có, khi người dân miền cao nọ cần đi đâu đấy, để lừa đứng lại một mình, thì mấy kẻ vô công rồi nghề no nê bèn dở trò trêu chọc con vật đáng thương. Chúng lấy gậy nhọn, lấy kim chọc vào con vật, bắt nó phải nhảy chồm chồm lên. Bọn đê tiện kia tưởng rằng lừa đang nhẩy múa vì những cú đâm chọc của chúng.

Người miền núi nó nhìn thấy mấy tên trêu chọc con vật trung thành của mình bèn rút dao găm ra.

- Này bọn bay đừng có mà vuốt râu hùm!

Mấy tên vô lại kia phát hoảng, cố nói đủ lời tốt đẹp làm cho anh nọ cuối cùng cất dao găm đi. Khi cuộc nói chuyện hòa bình bắt đầu thì mấy tên kia mới hỏi:

- Anh chất những thứ gì trên lưng lừa thế? Bán cho chúng tôi đi

- Các người không đủ vàng, đủ bạc để mua cái này đâu

- Anh cứ thử xướng giá lên xem nào!

- Cái đó không thể có giá

- Thứ gì đựng trong mấy cái túi đó mà lại không có giá?

- Quê hương ta, Đaghextan của ta

- Quê hương mà lại chất lên lưng lừa ư! - mấy tên nọ cười phá lên. -Nào, nào, cho xem quê hương anh tý nào!

Người dân vùng núi mở bọc ra, và bọn kia nhìn thấy thứ đất bình thường.

Nói cho đúng ra thì thứ đất đó không phải bình thường. Ba phần tư là sỏi đá.

- Có thế thôi à? Chẳng lẽ đó là tất cả tài sản của anh?

- Phải rồi, đó là thứ đất miền núi của ta. Đó là lời nguyện đầu tiên của cha ta, là giọt nước mắt đầu tiên của mẹ ta, lời thề đầu tiên của ta. Đó là cái cuối cùng ông nội ta để lại, cái cuối cùng ta sẽ để lại cho cháu mình.

- Thế cái này là cái gì?

- Để ta buộc bọc lại đã

Thắt buộc lại rồi đặt bao đất lên mình lừa xong, người miền núi ấy mở nắp đậy chiếc bình, và tất cả đều thấy rằng trong đó là một thứ nước bình thường. Nói cho đúng ra, thứ nước đó nếm hơi mằn mặn.

- Sao anh lại đem theo cái thứ nước không thể nào uống được?!

- Đây là nước biển Caxpie. Đaghextan đã soi mình vào biển này như soi vào tấm gương lớn.

- Thế còn cái gì trong túi da cừu kia?

- Đaghextan gồm có ba phần: thứ nhất là đất, thứ hai là biển, thứ ba là tất cả những gì còn lại.

- Thế có nghĩa rằng trong túi kia là mọi thứ còn lại à?

- Phải rồi, đúng thế

- Nhưng mà anh mang các thứ này theo làm gì mới được chứ?

- Để quê hương lúc nào cũng ở bên cạnh ta. Nếu nhỡ ta có bỏ xác dọc đường thì người ta sẽ lấy đất này lấp mộ và nước này để rửa bia đá đặt trên thi hài.

Người dân miền núi nọ lấy một nhúm đất quê hương, xát vào mấy ngón tay, rồi lấy một ít nước trong bình ra để rửa.

- Sao anh lại làm thế?

- Bàn tay mà chạm phải những kẻ vô công rồi nghề thì phải rửa đi như vậy

Người miền núi lại lên đường. Cho đến giờ anh ta vẫn đi tiếp.

Vậy ba vật báu của miền Đaghextan là: đất núi, biển khơi và những gì còn lại.

Và người dân miền núi cũng có ba bài ca. Người cầu nguyện cũng có ba lời khấn. Khách bộ hành cũng có ba mục tiêu: của cải, vinh quang và sự thật.

Hồi còn nhỏ, mẹ tôi vẫn thường nói: Đaghextan là một con chim với ba cái lông quý nơi cánh.

Bố tôi thì nói: ba người thợ giỏi đã dệt lên Đaghextan từ ba báu vật.

Trên thực tế, tất nhiên là Đaghextan đã bao gồm một số vật nhiều hơn rất nhiều. Tôi đã thấy rõ điều này qua kinh nghiệm cay đắng.

Cách đây chừng 25 năm, tôi được giao nhiệm vụ viết kịch bản về Đaghextan và tôi đã viết. Rồi kịch bản này được đưa ra thảo luận. Nhiều ý kiến đã được phát ra lần ấy.

Người thì nói: thiếu hoa, người thì nói thiếu ong, người thì kêu không đủ cây cối. Mỗi người đều thấy thiếu một cái gì đấy. Chỗ thì quá khứ chưa rõ, chỗ thì hiện tại còn mờ nhạt. Và cuối cùng thì phát hiện ra rằng trong kịch bản không thấy nói đến lửa, mà không có lửa thì Đaghextan còn ra làm sao nữa!

Nếu đem quay tất cả những gì mà dạo ấy người ta nói đến thì có lẽ đến giờ cuốn phim vẫn chưa làm xong!

Tuy vậy, Đaghextan vẫn gồm có ba phần: đất núi, biển (Caxpie) và những gì còn lại.

Phải rồi, đất là núi, là khe sâu, là những con đường nhỏ chạy quanh trên đó, là những vách đá cheo leo. Tuy thế đó vẫn là mảnh đất quê hương sau này còn thấm sâu thêm dòng máu cha ông. Không biết máu hay mồ hôi, cái nào đã đổ nhiều hơn trên mảnh đất này. Những cuộc chiến tranh dài dằng dặc và những lần đụng độ ngắn ngủi, những lần trả nợ máu…Trong suốt bao thế kỷ, dao găm treo trên tường nhà người miền núi đâu phải chỉ để trang trí.

Trong dân gian có bài ca:

Gieo một đầu hạt ở đâu

Ở đó phải mười chàng trai đổ máu

Còn nếu muốn gieo tới năm đầu hạt

Thì phải tới một trăm chàng trai đổi mạng của mình!

Bố tôi viết về quê hương:

Bao nhiêu thi hài đã chôn trong đất

Người bị giết nhiều hơn những kẻ chết già!

Trong cuốn sách giáo khoa địa lý có in tư liệu ngắn nói rằng một phần ba diện tích Đaghextan là những vùng sỏi đá không trồng trọt được.

Tôi cũng đã viết về truyện đó:

Ở đây nhiều thung lũng xám tro

Cây tua tủa như sừng trâu trơ trụi

Núi gồ giề - lưng lạc đà cằn cỗi

Và những bờ, lũ xói lở dốc nghiêng

Sóng những dòng sông sủi bọt cuồng điên

Như lũ sói kéo bầy cuồn cuộn

Thác trắng xóa, hệt bờm sư tử dựng

Còn suối nước trong, giống như mắt chim non

Những con đường chen giữa đá chon von

Đường như thể tẽ ra từ ruột núi

Và lời hát véo von nhờ đá truyền tiếng dội

Vang xa hàng cây số trước con người

Buổi sáng đài phát thanh báo rằng, tuyết rơi ở Khunzắc, mưa ở Áctắc, mơ miền Đécbent nở hoa còn ở Kumukha thì nóng bức.

Cùng một lúc, bốn mùa: đông, thu, xuân, hạ diễn ra trên mảnh đất Đaghextan nhỏ bé. Những dãy núi đá hùng vĩ, cao nghiêm, đã sừng sững cách ngăn “ bốn mùa trong năm” đó.

Chữ Meer trong tiếng Avar có hai nghĩa: Meer nghĩa là núi mà Meer nghĩa là mũi.

Bố tôi đã từng chơi chữ: núi cao đã “đánh hơi” thế giới, đã “ngửi” từng sự kiện, từng đổi thay thời tiết.

Đồng bằng đã nhô lên để nhìn xem ai đến với nó.Và núi đã sinh ra như vậy. Đó là lời của Khátgi-Murát.

Mẹ tôi đã từng khẽ hát bên nôi: hãy lớn cao lên như núi.

Khi trông thấy những người dân miền Balkhara bán bình sứ, nồi, đĩa bằng sành, mẹ tôi còn nói rằng: “Sao họ dùng nhiều đất thế mà không biết tiếc nhỉ? Thà mắt đừng trông thấy mấy người bán đất ấy còn hơn!”

Đương nhiên, người dân vùng Balkhara là những người thợ khéo tay, nhưng ở miền cao, nơi đất rất hiếm, bao giờ người ta cũng cho rằng bản thân đất còn quý hơn các thứ bình nặn từ đất.

Ngày xưa, có lần người báo tin khẩn cấp phi ngựa như bay vào làng. Lúc ấy tất cả đàn ông trong làng còn đang làm lễ đọc kinh Hồi giáo. Kị sỹ đi nguyên đôi giày bện cỏ (anh ta vốn làm nghề chăn cừu), chạy vào nhà thờ.

- Ê, kẻ ngu xuẩn vô đạo kia - vị giáo sỹ Hồi giáo quát to, - mày làm sao thế, không biết trước khi vào nơi thờ cúng phải cởi giầy ra sao?

- Trên giầy tôi có đất, có bụi miền núi quê hương. Thứ đất đó quý hơn mọi tấm thảm này, vì kẻ thù đã đặt chân lên miền đất ấy.

Người người đàn ông miền núi bèn chạy ra khỏi điện thờ và nhảy ngay lên ngựa.

“Khách xa là khách quý”. - Abutalíp thường thích nói như vậy. Phải là một niềm vui lớn, một tình yêu lớn hay một tai họa lớn mới bắt được người khách xa đi đến. Kẻ dửng dưng không bao giờ cất công đi xa.

Có phong tục như thế này: nếu trong nhà anh, khách thích vật gì thì dù có tiếc đứt ruột cũng phải đem tặng khách. Người ta còn kể rằng có một chàng trai còn tặng bạn cả người vợ sắp cưới của mình vì cô ta đã lọt vào mắt bạn bên nguồn nước của làng. Nhưng chàng trai nọ, cần nói rằng, hẳn là một người dân vùng núi đến hai trăm phần trăm, vì anh ta quả là một “người - siêu - vùng - núi”.

Khách vô liêm sỉ, tham lam bao giờ cũng có thể lợi dụng phong tục xưa này của dân miền núi. Nhưng bây giờ họ cũng đã trở nên thông minh hơn: những vật nào đẹp họ cất xa, tránh cặp mắt dòm ngó của khách.

Cách đây rất lâu rồi, có một vị khách từ Kumukha đến làng thăm và lần lượt tấm tắc khen mọi thứ trong nhà. Chủ nhà tặng tất cả các thứ ấy làm cặp mắt khách sáng lên. Tuy vậy trước khi tiễn khách, chủ đã bắt anh ta phải cạo đất bám ở giầy lại.

“Đất thì chúng tôi không cho đâu - chủ nhà người miền núi nói, - bản thân chúng tôi cũng thiếu đất. Nếu ai cũng mang đất bám vào giầy mà đi khắp nơi như thế thì chúng tôi biết trồng lúa mì vào đâu nữa?”

Một người ngoại quốc gọi xứ sở của tôi là cái túi bằng đá.

Phải rồi, đất ở đây chẳng mấy nơi mềm mại. Trên núi, chẳng mấy chỗ thấy cây. Các ngọn núi trông giống như cái đầu cạo trọc của Murít, giống như lưng voi thoai thoải, nhẵn thín. Không có nhiều đất để cấy cầy, mùa màng thu hái được cũng chẳng nhiều nhặn gì cho cam.

Ngày xưa người ta thường nói: “Lúa của nhà nghèo này chẳng nhét đầy lỗ mũi hàng xóm”.

Nó cho đúng ra thì quả tình mũi của người miền núi nào có nhỏ bé gì! Kẻ thù từ đằng xe nghe thấy tiếng ngáy như kéo bễ cũng có thể biết dân làng đang ngủ. và vì thế mà nhiều khi chúng đã bất ngờ đánh úp

Có lần, khi nhìn thấy một gương mặt rỗ chằng rỗ chịt vì bị đậu mùa. Abutalíp đã nói: tất cả hạt lúa từ ruộng bố tôi in vào mặt người nghèo khổ này, để dấu vết lại ở đấy.

Miền đất của người vùng cao rất nghèo và nhỏ hẹp. Về điều này có hẳn cả một câu chuyện có thể đã được kể nhiều lần, vì từ lâu nó đã lưu truyền từ tiếng này sang tiếng khác, từ ngôi nhà này sang ngôi nhà khác. Nhưng đến lượt mình, tôi cũng không thể không kể lại chuyện đó.. Thôi thì ai nghe rồi, cứ việc chửi bới tôi!

Một người dân miền núi quyết định đi cầy thửa ruộng của mình. Thửa ruộng cách làng khá xa và anh ta đã đi từ chập tối, để sáng sớm hôm sau có thể bắt tay ngay vào việc. Khi tới nơi, người đó giải tấm áo choàng ra và nằm xuống ngủ. Sáng sớm anh ta trở dậy, cần bắt tay vào việc mà chẳng thấy thửa ruộng đâu cả. Tìm loanh quanh một lúc vẫn chẳng thấy ruộng đâu. Chẳng biết có phải Đức Allah đã trừng phạt tội lỗi của anh ta mà tước ruộng đi chăng, hay ma quỷ đã giấu đi để cười cợt con người hiền lành kia?

Chẳng biết làm thế nào nữa. Anh chàng nọ bèn quyết định ravề. Anh ra cuốn tấm áo lại, thì - cha mẹ ơi! - thửa ruộng của anh hóa ra là đã nằm dưới tấm áo!

Tôi xin kể một trường hợp nữa, chỉ có điều đây là chuyện thật chứ không phải truyền thuyết.

Như khắp nơi trên đất nước, ở vùng cao dạo ấy người ta cũng bắt đầu vẫn động thành lập nông trường. Thời kỳ đó quả đã có rất nhiều dao động, hoài nghi, nghĩ ngợi và bàn cãi. Nhiều người giết gia súc vì nghĩ rằng: thà mổ quách đi mà ăn còn hơn đem hiến vào cái tổ chức khó hiểu có tên gọi là “nông trường”. Đặc biệt những người dân vùng núi cao heo hút thì lại rất cương và tranh cãi nhau. “Của anh là của anh, của tôi là của tôi, việc gì anh lại phải muốn lấy thêm của tôi, để của tôi cũng thành của anh à?”

Trong một làng nhỏ, có tới hai trăm cán bộ được phái về - thế mà công việc cũng không nhích lên được. Dân làng người thì tránh mặt, người thì tranh cãi lại. “Trên đời này thiếu gì cái là của chung rồi, - họ nói. - Bầu trời là của chung, mặt trời là của chung, rồi mưa, tuyết, mùa xuân, dòng sông, con đường, nghĩa địa…nữa cũng thế. Của chung như thế đủ rồi. Cứ để cho những thứ còn lại là của riêng thì đã sao?!”

Khi người ta nói với dân làng rằng nông trường sẽ được cấp máy móc, xe hơi, thì dân làng liền lắc đầu gọi lại cho nhau nghe câu chuyện về chú cáo.

Có con cáo đang chạy trong khe núi bỗng thấy có miếng khấu đuôi cừu mỡ màng rơi xuống đường. Nó định chạy tới vớ lấy ăn “Thôi - con cáo nghĩ lại. - Chẳng phải tự nhiên mà lại có miếng khấu đuôi này rơi xuống đường. Chắc là có chuyện gì uẩn khúc đây”

Người ta cũng nói với dân làng rằng nông trường sẽ được cấp những bãi cỏ ruộng ở đồng bằng để chăn nuôi. Lúc ấy, có một ông già đứng dậy nói, tay tỳ vào chiếc gậy:

- Chúng tôi chẳng muốn đem những làng nhỏ như tổ chim trên núi của mình, những miếng đất hẹp thảm hại và những con đường nhỏ bé ngoằn nghoèo của mình để đổi lấy tất cả những bình nguyên của thế giới. Miền đất này là của chúng tôi. Đã hàng trăm năm nay chúng tôi chăm sóc nó như chăm sóc đứa trẻ ốm o. Chúng tôi đã mang đất lên các vách đá, trải bằng ra ở đấy. Thế rồi chúng tôi đem nước tới tưới. Lúa mì của chúng tôi ít ỏi, nhưng mỗi hạt lúc đều quý vô ngần. Chính vì vậy mà ở miền đất này mọi người đều cúi mình trước miếng bánh mỳ…

Tuy thế cuối cùng người ta vẫn lập được nông trường ở cái làng bướng bỉnh ấy. Vậy thì bằng cách nào người ra đã thuyết phục được những người dân miền cao đầu óc lúc ấy còn u tối?

Cuối cùng thì dân làng mới biết rằng không phải tất cả đất đai đều thành của nông trường, rằng một phần đất đai vẫn được sử dụng riêng dưới hình thức ruộng phần trăm.

- Số ruộng ấy có nhiều không? - Những người dân miền cao bướng bỉnh hỏi.

- Theo điều lệ của nông trường thì số ruộng mỗi nhà được giữ lại là 25 xốtka.[12]

- Thế mỗi xốtka là rộng bao nhiêu?

Khi cán bộ đội lên công tác vừa giải thích xong thì tất cả đều nhao nhao lên nói:

- Thế thì ghi tên chúng tôi vào nông trường thôi chẳng phải nói năng gì nữa!

Hóa ra phần đất dành cho mỗi người theo điều lệ nông trường còn lớn hơn cả số ruộng mỗi người đã có!

Mảnh đất vùng cao đầy sỏi đá ấy thật là vô giá đối với người dân ở đây cho dù cuộc sống nơi này thật là gian nan. Khách bộ hành kinh ngạc nhìn lên những mảnh vườn lọt vào giữa những tảng đá, những đàn cừu kiếm ăn dọc con đường nhỏ nằm chênh vênh bên thành vực dựng đứng với vẻ điêu luyện của những nhà làm xiếc trên dây.

Những cảnh vô cùng đẹp mắt ấy được tạo ra dường như để ca ngợi trong thơ thì dễ, chứ để sống và kiếm ăn thật là khó.

Tuy nhiên nếu bạn thử sức đề nghị người vùng cao rời núi xuống đồng bằng sinh sống thì người ta sẽ tiếp nhận lời mời mọc của bạn như một sự lăng mạ. Có chuyện kể lại rằng một người con trai từ thành phố trở về bắt đầu thuyết phục ông bố già rời làng trên núi xuống.

“Thà con cứ đâm dao vào bụng bố còn hơn là nói những lời hành hạ bố như thế” - Ông già vùng cao đã trả lời con như vậy.

Vấn đề này đang tồn tại và nó rất rắc rối. Từ nhiều năm nay một khẩu hiệu đẹp đẽ đã được tung vào các bản làng: “Hãy chui ra khỏi các hang đá và xuống sống trên các thảm hoa!”

Khẩu hiệu này cũng đã được nhắc đến tại cái làng bướng bỉnh mà dạo nào đã có hai trăm cán bộ về tổ chức nông trường.

Khi xây dựng nông trường cảnh tượng cũng không huyên náo ồn ào như bây giờ khi nghe tin di chuyển chỗ ở. Mỗi người dân đều nói lên ý kiến của mình về chuyện đó.

Dưới đây là một vài câu nói:: “Dù có bị xiềng lại mà lôi đi, chúng tôi cũng không chịu xuống đồng bằng!” “Chúng tôi như những cái đinh đã đóng sâu vào những vách đá này. Không ai có quyền kéo chúng tôi ra khỏi tổ ấm của chúng tôi”. “Mồ mả cha ông chúng tôi sẽ nứt toác ra nếu chúng tôi bỏ đây mà đi nơi khác ở”.

“Đầu tôi chỉ gối lên gối của tôi mới thích thôi!” “Ngủ ở vách đá quê nhà còn khoái hơn trăm lần ngủ đệm êm nơi lạ”.

“Lúc ấy thì tôi biết kiếm đá ở đâu mà ném chó?”

“Ở cạnh bếp lò đầy khói trên núi còn thích hơn là ở cạnh lò đẹp xây dưới đồng bằng”. “Ai lo cho cái bụng thì đi xuống dưới, ai lo cho con tim thì ở lại đây”. “Chúng tôi chẳng giết người, đốt nhà, sao lại xua đuổi chúng tôi?”

“Ở đây máy cũng làm được”. “Đèn điện cũng có thể mắc trên cột dựng ở đây”. “Điện báo đánh đi từ đây cũng được”. “Chúng tôi sinh ra không phải để nuôi ruồi và muỗi”. “Khói phân khô còn thơm hơn mùi xăng cháy:. “Hoa trên núi đẹp hơn”. “Nước nguồn trong mát hơn nước máy”. “Chúng tôi chẳng bỏ đây mà đi đâu hết!”

Mỗi người dân vùng cao đã đáp lại như vậy trước khẩu hiệu: “Hãy chui ra khỏi các hang đá và xuống sống trên các thảm hoa!”

Ngày trước dân làng cũng đã từng đến gặp bố tôi để hỏi ý kiến nên đi hay ở lại? Bố tôi sợ không dám khuyên bảo rạch ròi.

“Khuyên họ ở lại rồi lỡ khi sau họ biết sống ở dưới ấy sướng thì họ lại chửi mình. Khuyên họ chuyển đi sau này lỡ cuộc sống chẳng ra sao, họ cũng lại chửi mình cho mà xem!”

- Các ông các bà cứ tự nghĩ lấy thì tốt hơn, - lúc ấy Gamzát Xađax đã nói với họ như vậy.

Thời thế thay đổi, cuộc sống cũng vậy. Không phải chỉ mũ đội trên đầu thay kiểu (mũ lưỡi trai hay cho mũ lông hình ống), mà cả ý nghĩ nằm dưới mũ cũng thay đổi trong đầu óc những người trẻ tuổi.

Những dòng máu khác nhau pha trộn, những bộ tộc, dân tộc khác nhau hòa cuộc sống với nhau.

Nấm mộ những người con càng ngày càng xa cách làng bản của cha ông…Khắp miền cao đâu đâu cũng thấy những đá là đá, đá lớn, đá nhỏ, đá trong, đá sắc. Để có thể trồng cây trên đó, người ta đã phải mang cả túi mà lấy đất từ dưới đem lên. Mùa thu và mùa đông, người ta đốt những thảm cỏ ven sườn núi cho đât thêm màu mỡ. Tôi còn nhớ cả ngày hội xuống đồng đi luống cầy đầu tiên. Đó là vào mùa xuân. Các cụ già ném đất vào nhau.

Về người năng nổ, dân miền chúng tôi thường nói: “Anh ra đã vượt qua nhiều núi, nhiều đèo”. Về người vô công rồi nghe chúng tôi thường nói: “Nó chưa từng chạm thuổng vào đá”

“Chúc cho lúa ruộng anh chắc hạt nặng bông” - đó là khát vọng tha thiết nhất của những người sống ở miền núi.

“Cầu cho ruộng mày nứt nẻ, khô cằn” - đó là lời rủa độc nhất.

“Xin thề với mảnh đất này” -đó là lời thề thiêng liêng nhất.

Lừa chạy vào ruộng người khác là có thể bị đánh chết mà không sao cả. Một người dân miền núi đã gào lên: “Đến lừa của Khátgi -Murát có dẫm chân vào ruộng của tao cũng phải coi chừng nữa là!”

Mỗi làng đều có phép tắc riêng của mình. Nhưng ở đâu cũng vậy, tội chịu phạt nặng nhất là tội làm hỏng ruộng, hỏng đất.

Xin nói thêm là lịch sử miền núi chúng tôi cuối cùng cũng đã trừng phạt nghiêm khắc đối với những kẻ đã âm mưu dày xéo mảnh đất Đaghextan.

Tôi còn nhớ mẹ tôi đã từng kể lại:

“Khi vua Iran là Nađir bị đại bại tại miền núi Đaghextan thì, để thỏa thuận những điều kiện hòa bình, để thương lượng với vua Iran, những người dân miền núi đã cử một ông già thọt chân xấu xí, nghèo khổ nhất đi và đặt ông ngồi lên một con la quặt quẹo, ốm yếu.

- Chẳng lẽ người Avar không tìm được ai giầu sang, tử tế hơn ông để đề cử tới gặp ta sao?

- Những người giàu có, oai vệ ở nước ta còn hàng vạn, hàng nghìn, - ông già miền cao trả lời, -nhưng những người quan trọng ấy đang bận làm những việc quan trọng hơn. Họ quyết định rằng để gặp người như Ngài chỉ cần ta đi là đủ.

- Con la của ông bao nhiêu tuổi rồi? - Nhà vua định nói đùa

- Định tuổi của vua và của lừa là việc rất khó, - ông già đáp

- Ai là chủ tướng của ông? - kẻ ngoại bang hỏi

- Đây, kìa là những tướng soái của chúng tôi, - ông già bình thản đáp rồi khoát rộng tay chỉ ra phía những vách đá và ngọn núi cao vút xung quanh, ra phía những cánh đồng và nghĩa địa. - Đó là những cái đã chỉ đường cho chúng tôi tiến về phía trước.

- Điều kiện ông đưa ra là thế nào?

- Chỉ có một điều kiện: Đất của người vùng cao hãy để yên lại cho người vùng cao, còn về phần Ngài xin quay lại cho chúng tôi xem lưng, cái đó chúng tôi thích nhìn hơn là nhìn mặt Ngài!

Nhà vua đã buộc phải rút lui và quay về nước Iran. Y đã được cảnh báo: “Chúng tao để cho mày và quân của mày được sống là chỉ cốt để về nước kể lại chiến thắng của chúng tao. Để cho mày sống mà báo tin: - người vùng cao chúng tôi thường nói như vậy. Lần khác thì sẽ chém chết không sót một đứa nào”

Tháng tám năm 1859, trên núi Guníp, thủ lĩnh Samin đã rời khỏi mình ngựa và tiến đến đứng trước công tước Bariachinxki như một tù binh vĩ đại. Chân trái bước ra và đặt lên một phiến đá, tay phải đặt lên đốc kiếm, mắt buồn rầu nhìn lên những vùng núi chung quanh. Samin nói:

- Thưa ngài tổng trấn! Đã 25 năm nay tôi chiến đấu giữ gìn niềm vinh sự cho những dãy núi này, cho những người dân vùng cao. Mười chín vết thương của tôi còn đang tấy đau và không bao giờ lành lại. bây giờ tôi xin khuất phục ngài và trao lại mảnh đất của mình cho ngài.

- Chẳng phải tiếc rẻ làm gì. Mảnh đất của nhà người có đẹp đẽ gì cho cam: toàn đá là đá!

- Thưa ngài tổng trấn, vậy thì xin ngài hãy nói ra, ai trong chúng ta đúng hơn trong cuộc chiến tranh này: chúng tôi, những người sẵn sàng chết vì mảnh đất mà chúng tôi coi là đẹp đẽ, hay là các ngài, những người cũng có thể chết vì mảnh đất mà các ngài cho là xấu xí?

Người ta giải tù bình Samin lên Pêtécbua suốt một tháng liền mới tới.

Ở Pêtécbua Sa hoàng đã hỏi ông:

- Thế nào, dọc đường nhà người thấy thế nào?

- Nước Nga rộng lắm, thật là một nước rất rộng.

- Thế thì nhà ngươi hãy trả lời xem, khi nhà ngươi đã biết rằng quốc gia của ta rộng lớn và hùng mạnh đến thế, nhà ngươi còn dám chống lại lâu thế hay khôn ngoan và kịp thời hạ súng đầu hàng?

- Thì chính các ngài cũng đã phải đánh chúng tôi lâu đến thế, mặc dầu biết rằng nước chúng tôi nhỏ yếu ngần nào!

Bố tôi còn giữ được một bức thư của Samin, đúng hơn là lời vĩnh biệt của ông. Bức thư đó như sau:

“Hỡi những người dân miền cao của tôi! Hãy yêu lấy những vách đá trơ trọi, hoang dại của mình. Chúng chẳng mang lại cho các bạn lợi lộc gì nhiều, nhưng nếu không có những vách đá ấy thì đất nước của các bạn sẽ không còn giống đất nước của các bạn nữa, mà không có đất nước thì làm sao có được tự do cho những người vùng cao bất hạnh. Hãy chiến đấu vì chúng, hãy giữ gìn lấy chúng. Cầu mong cho tiếng gươm loảng xoảng của các bạn sẽ ru cho giấc ngủ dưới mồ của ta”

Samin đã nhiều lần được nghe tiếng gươm khua của người miền núi, mặc dầu họ đã chiến đấu vì một sự nghiệp khác. Ngày nay Tổ quốc của những người Đaghextan đã rộng lớn hơn nhiều. Những nấm mồ của họ đã rải ra trên những cánh đồng xa xôi thuộc miền Ucraina, Bêlôrútxia, Ngoại vi Matxcơva, Hungari, Balan, Tiệp Khắc, thuộc miền Karpát và vùng Bancăng và cả gần Beclin.

- Vì lẽ gì ngày xưa dân một làng đánh nhau?

- Vì thửa đất nằm giữa ruộng của hai người, vì một vạt đồi, vì một tảng đá chắn!

- Vì lẽ gì ngày xưa dân hai làng lân bang đánh nhau?

- Vì một thửa đất nằm giữa ruộng của hai làng

- Vì lẽ gì ngày xưa Đaghextan đã đánh nhau với các dân tộc khác?

- Vì một thửa đất nằm ngay trên biên giới của Đaghextan.

- Vì lẽ gì sau này Đaghextan lao vào cuộc chiến đấu?

- Vì giải đất nằm trên biên giới của Đất nước Xô Viết vĩ đại

- Vì lẽ gì mà ngày nay Đaghextan đang đấu tranh?

- Vì hòa bình trên toàn thế giới

Hai con trai của Samin cũng bị bắt với ông Số phận hai người con ấy sau này khác nhau. Người con út tên là Mahômet-Saphư trở thành sỹ quan cấp tướng của Sa hoàng. Còn người con lớn tên là Gazi-Mahômet thì sống ở Thổ Nhĩ Kỳ

Có lần, một người phụ nữ đứng tuổi ăn vận theo kiểu Thổ Nhĩ Kỳ tìm đến gặp tôi. Bà vốn là người xứ Gruzia, hồi trẻ lấy chồng Thổ Nhĩ Kỳ và sống ở Xtambun bốn mươi năm. Sau khi chồng chết, một thân một mình, bà quay về Gruzia. Và rồi tìm đến gặp tôi. Lý do của lần tìm gặp ấy như sau:

Dạo sống ở Xtămbun bà đã chơi thân với con cháu Samin theo dòng người con út.

- Mấy người đó sống thế nào? - tôi hỏi

- Buồn lắm

- Vì sao vậy?

- Vì họ không có Đaghextan. Nếu ông biết ở đấy họ buồn rầu đến thế nào! Đôi khi bọn quan chức địa phương sỉ nhục họ, đe dọa lấy lại số đất mà hộ đang sở hữu. “Cứ việc lấy lại đi, - mấy con cháu của thủ lĩnh Samin đã nói. -Đằng nào thì chúng tôi cũng chẳng có Đaghextan mà đất khác thì chúng tôi chẳng quý gì”.

Biết tôi sắp trở về nước, - người đàn bà Gruzia nói tiếp, - họ yêu cầu tôi đến thăm Đaghextan, tới làng quê của Samin, tới triền núi, nơi Samin đã chiến đấu, và tìm gặp cả ông nữa. Họ đưa cho tôi tấm khăn này để ông gói một ít đất Đaghextan vào đó và gửi sang cho họ

Tôi trải tấm khăn ra. Tăm khăn đó có dòng chữ thêu “Samin” bằng tiếng A-rập

Câu chuyện của người phụ nữ Gruzia làm tôi xúc động mạnh. Tôi hứa sẽ gửi đất sang đấy. Tôi đã đem câu chuyện này hỏi ý kiến các cụ già.

- Có nên gửi đất của ta sang cho những người sống ở nước ngoài không?

- Với người khác thì không nên gửi, nhưng với con cháu Samin thì cứ gửi - các cụ già trả lời.

Một cụ già mang đến cho tôi nắm đất từ làng quê của Samin, chúng tôi gói vào tấm khăn có thêu tên ấy. Cụ già nói:

- Anh gửi chỗ đất này cho họ nhưng nhớ nói với họ rằng mỗi hạt đất này đều vô giá. Anh viết thư thêm báo cho họ biết rằng cuộc sống trên mảnh đất này giờ đã thay đổi, những ngày mới đã đến. Anh kể lại mọi chuyện cho họ biết nhé.

Nhưng tôi đã không phải viết thư. Ít lâu sau tự tôi đã tới Thổ Nhĩ Kỳ. Mang theo cả món quà vô giá.

Tôi đi tìm con cháu Samin, nhưng tôi không gặp họ được. Người ta nói với tôi rằng cháu nội của Samin không rõ đi đâu, gần như là tới tận Mếcka. Hai cháu gái Nagiavát và Naghát cũng không đến gặp tôi. Người ta nói rằng một bà thì bị đau đầu, bà kia thì lên cơn đau tim.

Vậy thì tôi biết đem cho ai nắm đất Đaghextan? Ở đây còn có một số người Avar khác nữa, nhưng những người này tự nguyện rời bỏ Đaghextan.

Đến lúc ấy tôi hiểu rằng Samin của họ và Samin của tôi là những Samin khác nhau.

Ở chốn Thổ Nhĩ Kỳ xa xôi tôi mang theo mình nắm đất Đaghextan. Trong nắm đất nhỏ này tôi nhìn thấy những làng bản của chúng tôi. Guníp, Trirkây, Actư, Kumukha, Khunzắc, Xađa, Xunta, Trarađa…Đó là đất nước chúng tôi.

Tôi đã viết rất nhiều và sẽ còn viết nhiều về miền đất ấy. Bây giờ thì không thể lấy tấm áo khoác ngoài mà phủ kín miền đất ấy như câu chuyện nực cười xưa từng xảy ra với anh thợ cấy xấu số nọ.

Vật báu thứ hai của Đaghextan là biển

Có những cuộc nói chuyện qua điện thoại giữa Matxcơva và Guníp như thế này đây

- Alô, có phải đấy là Guníp không? Omar đấy à? Cậu có nghe mình nói rõ không? Sao, hôm nay có đẹp trời và cậu có vui vẻ không?

- Mình nghe rõ. Ở chỗ bọn mình rất tốt. Từ sáng sớm đã nhìn thấy biển.

Hoặc là:

- Alô, Guníp đấy phải không? Phatima, em đấy à? Sao, công việc thế nào, em, em có vui không?

- Cũng vậy vậy thôi, sương mù, chẳng thấy biển.

- Bố ạ, con không nhìn thấy biển đâu, - cả Giamalutđin, con trai của Samin cũng đã nói như vậy.

Giamalutđin, con trai của Samin từng làm con tin trong tay Sa hoàng: anh ta được học tại trường sỹ quan và sau khi trở lại quê hương thì cho rằng cuộc khởi nghĩa chống nhà vua của cha mình là vô ích.

- Rồi con sẽ thấy biển, con ạ - Samin trả lời, - chỉ có điều là hãy nhìn bằng cặp mắt của bố!

Từ núi Guníp đến biển là một trăm năm mươi cây số. Bầu trời phải trong sáng thế nào, biển phải xanh biếc thế nào, cặp mắt phải tinh tường thế nào, đỉnh núi phải cao thế nào, để có thể trả lời đơn giản: “Có nhìn thấy biển”.

Thậm chí ở những làng từ đó không thể nào nhìn thấy biển, khi được hỏi về tâm trạng đôi khi người ta vẫn trả lời: “Tuyệt lắm, cứ như thể là thấy biển trước mặt”

Không biết ai tôi điểm cho ai: Biển Caxpie tô điểm cho Đaghextan hay Đaghextan làm đẹp thêm cho biển Caxpie? Ai tự hào về ai: Người miền núi tự hào có biển, hay biển tự hào có người miền núi bên mình?

Khi tôi nhìn thấy biển, nghĩa là tôi nhìn thấy cả thế giới. Khi biển nổi sóng to gió lớn, có cảm giác cả thế giới này tiết trời bất an và giông bão. Khi biển im lặng, có cảm giác rằng khắp nơi đều thanh vắng.

Từ lúc còn là một chú bé tôi đã đến với biển, lần theo con đường mòn ngoằn ngoèo thoai thoải hạ thấp dần bên sườn núi. Từ dạo ấy, cửa dổ nhà tôi bao giờ cũng hướng về phía biển. Và cửa sổ của chính miền Đaghextan cũng nhìn về phía đó.

Khi không nghe thấy âm thanh biển, khó khăn lắm tôi mới ngủ được.

- Còn người, hỡi Đaghextan, sao người không ngủ?

- Sóng biển không rì rầm, không thể nào ngủ được

Mầu sáng rực rỡ, chúng ta thường nói “rực rỡ như biển”. Âm thanh náo động, chúng ta thường nói “Ầm ào như biển”. Những đồng lúc rộng mênh mông, chúng ta thường ví “bát ngát như biển khơi”

Trí tuệ và tâm hồn sâu sắc chúng ta cũng nói “sâu thẳm như biển”

Đến cả bầu trời trong xanh đôi khi chúng ta cũng nói “xanh ngắt như biển khơi”

Khi con bò cái của nhà cho thật nhiều sữa, mẹ tôi thường gọi nó là “biển của tôi”

Tôi nhớ lại mẹ tôi thường đứng ngoài ban công, tay cầm chiếc bình đựng kem tươi. Bà đang ép để làm bơ: lúc ấy chúng tôi đang chơi đùa quanh bà. Trên cổ chiếc bình nọ có quàng một chiếc vòng làm bằng ốc biển.

- Làm thế thì sẽ được nhiều bơ hơn, các con ạ, - mẹ tôi giải thích. Mẹ tôi còn nói rằng những con ốc biển ấy còn giúp cho người ta tránh được những cặp mắt xấu xa.

Dải ngực đá miền Đaghextan cũng đã được trang sức bằng chiếc vòng kết từ ốc biển, chiếc vòng kết từ những tảng đá dọc biển, chiếc vòng của những làn sóng ngày đêm nhè nhẹ vỗ vào bờ.

Đaghextan đã quá quen với tiếng sóng biển Caxpie, Đaghextan vật mình trăn trở vào những đêm biển lặng, và nó sẽ hoàn toàn thức trắng nếu bỗng dưng bị tước biển đi

Sóng biển bạc đầu, hãy thổ lộ ta hay

Ngươi nói với ta bằng thứ ngữ ngôn nào vậy?

Dưới chân núi, ngươi ầm ào bốc dậy

Tiếng lao xao của phiên chợ đông người

Phiên chợ vùng cao, bốn mươi thứ tiếng chào mời

Bốn mươi thứ tiếng hét vào tai nhau, đến trời cũng không hiểu nổi!

Biển rì rầm, vuốt ve, biển cũng biết gào lên dữ dội

Biển nói với ta bằng thứ ngữ ngôn nào?

Nhưng ta biết trái tim ra đã quen nhịp biển trào

Từng biến thái nhỏ nhoi đến tận tầm sâu của biển…

Đoàn tàu đi từ Matxcơva tới Makhátkala vào lúc tảng sáng. Đêm trước giờ tới ga là đêm dài vô tận đối với tôi. Giữa đêm khuya tôi trở dậy, nhìn vào khoảng không đen sẫm ngoài cửa sổ. Ngoài ấy, vẫn còn là thảo nguyên. Đoàn tàu vẫn ầm ầm chạy đi, gió vẫn rít ngoài thành toa.Tôi trở dậy lần thứ hai và lại nhìn qua cửa sổ - vẫn là thảo nguyên. Cuối cùng, đến lần thứ ba tôi mới nhìn thấy biển. Có nghĩa là tàu đã tới Đaghextan của tôi.

Cảm ơn Người, hỡi biển xanh, khoảng nước bao la! Trước tất cả, Người đã báo cho tôi biết rằng tôi đã về tới nhà!

Bố tôi thường thích nói: “Ai có biển, người đó sẽ có nhiều khách đến”

Abutalíp nói họa theo: “Ai có biển, người ấy sẽ sống thoải mái, sung túc. Chỉ núi mới có thể đẹp hơn biển, mà núi ở miền chúng ta cũng có”

Hai ông già ấy - bố tôi và Cụ Abutalíp - nhiều khi gặp nhau, chẳng nói chẳng rằng, cứ thế lặng lẽ cùng đi ra phía biển. Hai người trèo lên một ngọn đồi, từ đó có thể nhìn thấy mọi con tàu cập bến cảng. Từ phía ấy thoang thoảng đưa về hương vị của muối và cá. Hàng giờ liền họ yên lặng ngồi im chỉ để cho một mình biển “nói”

Hãy để biển nói thôi, còn anh hãy im đi

Đừng vội thở than, đừng vội để niềm vui phát lộ

Hãy biết lặng thinh, như Đăngtê vĩ đại

Khi để biển mênh mông dâng sóng dưới chân mình

Hay như Puskin nói, bao lời vàng ngọc, thông minh

Bao giờ cũng chỉ lặng im, khi biển hát

Bố tôi thường nói: lúc lắng nghe biển hãy cố hiểu xem biển đang nói gì. Biển gặp rất nhiều chuyện, biết rất nhiều điều.

Biển nói ta nghe, vì sao Ngươi mặn vậy?

Bao nước mắt con người hòa trong sóng không khô!

Biển nói ta nghe, sao đáy Ngươi dữ dằn lởm chởm?

Trong lòng tôi, bao thành quách san hô!

Biển nói ta nghe, sao biển hay giận hờn gào thét?

Trong lòng tôi, bao con người can đảm chôn vùi

Hai người dân miền cao tóc đã bạc, hai nhà thơ, ngồi trên đỉnh đồi như hai con chim ưng già. Ngồi bất động, lặng im lắng nghe biển. Và biển đang rì rào bắt phải nghĩ suy về cuộc đời - cuộc đời cũng giống như biển khơi, cũng cần phải vượt qua từ bờ này sang bờ khác cho dù giữa khoảng không nguy hiểm của cuộc đời có gặp phải sóng to gió lớn. Khác với biển, trong cuộc đời chẳng làm gì có những vịnh nước yên ả, những bến bờ có thể dừng lại. Dù muốn hay không muốn, cũng phải bơi đi. Sẽ chỉ có một vịnh nước duy nhất, cuối cùng, sẽ chỉ có một bến bờ duy nhất, cuối cùng.

Biển Caxpie đang rì rầm, biển Khơvalưn đang xôn xao. Nhiều dòng sông đã đổ về biển ấy, phía này có sông Vônga, Uran, phía kia có sông Kura, Têrếch, Xulắc. Chúng hòa lẫn vào nhau và ở đấy không có ai có thể tách bạch chúng ra được nữa. Đối với những dòng sông ấy, biển cũng trở thành một bến bờ cuối cùng. Mặc dù vậy, dòng nước những dòng sông ấy không chết, không mất đi, không lặng lẽ, dòng nước ấy còn trôi đi, còn dâng theo những đợt sóng màu xanh Và những con tầu lớn nương theo những con sóng ấy còn lênh đênh đến tận cùng thế giới này

Những người dân miền núi, những người con của Đaghextan, lẽ nào số phận của các bạn lại không giống số phận những dòng sông ấy. Các bạn cũng đã kết lại, hòa nhập vào trong biển lớn của các đại gia đình các dân tộc chúng ta.

Biển Caxpie vẫn rì rầm. Hai người tóc bạc im lặng đứng bên nhau, hai nhà thơ, và bên cạnh là tôi khi ấy còn là một thiếu niên. Sau đó, khi chúng tôi trở về nhà, cụ Abutalíp nói với bố tôi:

- Con ông đang thành người lớn rồi đấy. Hôm nay nó vừa nếm trải một tình cảm lớn

- Chẳng ai có thể nhỏ bé được ở nơi mà chúng ta vừa đứng, -bố tôi trả lời Abutalíp

Bây giờ, mỗi lần ra ngoài bờ biển, lúc nào tôi cũng có cảm giác mình đang đứng gần bên bố

Người ta nói rằng biển Caxpie mỗi năm một cạn dần đi. Bây giờ có những ngôi nhà thành phố sừng sừng mọc lên trên mảnh đất mới ngày nào còn chìm dưới sóng nước. Chắc sự thật đang diễn ra như vậy. Nhưng tôi không tin rằng biển sẽ thôi không làm biển nữa.

Có thể rằng nó đang thu nhỏ lại, nhưng sẽ chẳng bao giờ nhỏ nhen.

Tôi bao giờ cũng nói với mọi người: hãy đừng nhỏ nhen, cho dù số người của anh rất ít:

Nhà bác học lắc đầu. Nhà thơ đau khổ

Nhà báo, nhà văn hết sức cảm thương

Rằng mực nước biển Caxpie cứ rút

Biển cứ cạn dần, biển sắp gặp tai ương!

Tôi cứ nghĩ, đôi khi, rằng đời người quá ngắn

Để ngồi lo biển cạn, biết bao giờ!

Cái nông cạn của hồn người đang sống

Đã báo động cho người thực sự biết lo chưa?

Makhát cũng đã từng nói về biển. Ông là chủ tịch ủy ban cách mạng đầu tiên của Đaghextan, và tên ông đã được đặt cho thủ đô của nước cộng hòa chúng tôi. Trước kia thành phố có tên là Cảng Pêtơrốpxcơ. Trong thời kỳ nội chiến, Makhát đã biến thành phố thành một pháo đài bất khả xâm phạm

Makhát đã nói về biển như thế này: “Dù giặc có đông bao nhiêu đi nữa, chúng tôi cũng quẳng tất cả xuống biển. Biển rất sâu, đáy của nó còn thừa chỗ chứa!”

Khi những người dân miền núi cao tụ tập nhau trong đình làng hay dưới bóng cây cổ thụ để đàm luận về chuyện đời thì chúng tôi gọi đó là những buổi gôđêkan. Trong một buổi gôđêkan có lần một câu hỏi được đặt ra trước tất cả mọi người: âm thanh nào nghe êm dịu nhất. Mọi người nghĩ ngợi một lúc, rồi lần lượt trả lời:

- Tiếng nhạc trầm bổng, du dương

- Tiếng ngựa hí

- Giọng nói của cô gái mình yêu

- Tiếng móng ngựa gõ xuống con đường đá trong khe núi

- Tiếng cười con trẻ

- Bài hát ru của mẹ

- Tiếng nước róc rách

Một người dân miền cao lúc ấy đã trả lời:

- Âm thanh của biển là êm dịu nhất. Bởi vì trong ấy chứa đựng mọi âm thanh mà các người vừa kể

Lại một lần khác, trong buổi gôđêkan người ta hỏi nhau: sắc màu nào gần gũi nhất với tâm hồn? Những người dân vùng cao nghĩ ngợi một lát rồi trả lời:

- Mầu trời trong xanh

- Đỉnh núi phủ đầy tuyết trắng

- Ánh mắt mẹ hiền

- Mầu tóc đứa con trai

- Cây mận ra hoa

- Cây liễu mùa thu

- Nước trong nguồn suối

Và một người dân miền cao lại nói:

- Sắc mầu của biển. Bởi vì trong đó chứa đựng mọi sắc màu các người vừa kể.

Trong các buổi gôđêkan, mỗi lần đặt câu hỏi tương tự về hương vị, về thứ nước uống hay về một điều gì khác nữa, câu chuyện bao giờ cũng quy về với biển.

Biển đã thấm sâu vào trong các chuyện cổ tích tuyệt với của dân gian về chàng trai hay cô công chúa Thủy Cung về con chim màu xanh biếc đặt mỏ xuống đâu là dòng nước trong phun ra từ đấy.

Tất nhiên là trong các buổi gôđêkan, ai cũng khen con ngựa của riêng mình. Liệu có phải tôi cũng đang làm một việc như thế khi đi khen biển Caxpie của mình?

Đôi khi tôi được nghe nói: anh cứ thử nghĩ mà xem, Caxpie là gì. Thực ra thì đó đâu phải là biển, chẳng qua chỉ là một cái hồ lớn. Hắc hải mới là biển thật sự

Đúng rồi: biển Caxpie không mềm mại, hiền hòa như biển Hắc Hải, như biển Ađơriatích hay biển Inôích nào đó. Nhưng chẳng phải là người ta đã đến những biển ấy để nghỉ ngơi, trong khi người ta đến biển Caxpie chủ yếu là để làm việc. Biển của người dân chài, của người thợ mỏ dầu, biển của người lao động. Và bởi thế mà tính khí của nó cũng mạnh mẽ, nghiêm khắc. Biết làm thế nào được, mỗi con bò đều có riêng tính nết. Mỗi người đàn ông đều có cách cư xử riêng, mỗi biển đều có tính tình của nó…Chẳng lẽ núi miền Đaghextan lại không khác núi miền Gruzia, miền Ápkhazia và các miền khác nữa sao?

Nhưng quả tình riêng tôi bao giờ cũng thấy tất cả các biển đều giống nhau. Khi tôi lênh đênh trên Hắc hải, tôi nhớ đến biển Caxpie, khi đi trên biển Caxpie, có khi tôi lại nhớ đến cả đại dương. Biển miền chúng tôi chẳng thua kém biển khác về bất cứ điều gì. Người ra cũng ném những đồng xu lưu niệm xuống đấy để rồi một lúc nào đó sau này sẽ còn quay lại đó.

Bố tôi nói: nếu ai thấy biển xấu thì có nghĩa rằng người đó xấu

Có ai đó nói với Abutalíp rằng:

- Biển hôm nay réo khó chịu quá!

- Thế thì anh hãy lắng nghe bằng tai của tôi.

Vậy là các bạn hãy nhìn biển Caxipe bằng đôi mắt của Đaghextan, các bạn sẽ thấy đó là một biển tuyệt vời.

Chiến công của thuyền trưởng tàu ngầm là trung tá Mahômet Gatgiép - một người quê ở làng Mêghép miền Đaghextan - là chuyện mà cả hải quân ai cũng biết. Anh đã chiến đấu ở vùng biển Bantích, biển Bắc, biển Barenxơ. Nhiều chiến hạm của bọn phát xít đã bị chôn vùi vĩnh viễn dưới làn nước lạnh vì những trái ngư lôi của Mahômet Gatghép. Trong lịch sử chiến tranh vệ quốc vĩ đại, tàu của anh là tàu đầu tiên trực tiếp đương đầu với cả một đoàn chiến hạm của bọn phát xít. Anh tự đặt cho mình một cái lệ: nếu chưa bắn chìm một tàu của bọn địch thì chưa cạo ria mép.

Có một lần tôi nhìn thấy Mahômét Gatghép. Dạo ấy tôi học ở Trường sư phạm Buinắcxcơ mang tên Abasilốp. Mahômet Gatghép được về phép và chúng tôi đã mời anh đến trường. Chúng tôi hỏi:

Sao anh sinh trưởng ở miền núi rồi lại thành thủy thủ?

- Hồi còn nhỏ, từ trên một đỉnh núi rồi đã nhìn thấy biển Caxpie và không dám tin vào mắt mình. Lúc nào biển cũng thúc dục tôi tới đấy, và thế là tôi rời làng ra đi. Không thể ngoảnh mặt làm ngơ trước tiếng gọi của biển.

Người dân vùng cao Mahômet Getgiép, Anh hùng Liên Xô, đã hy sinh tại biển Barenxơ. Bức tượng đài kỷ niệm anh ở Makhátkala dựng trước cổng nhà máy mang tên anh hướng quay ra ngoài biển khơi Caxpie. Ở thành phố Xêverơmorxcơ có trường học mang tên anh.

Chỉ những người dũng cảm mới chọn nghề trên biển: nhưng không phải ai ra biển cũng đều trở về. Bởi vậy mà người dân vùng cao ném xuống biển những bông hoa xuân đầu tiên để tưởng nhớ tất cả những ai đã hy sinh. Những bông hoa của tôi cũng đã nhiều lần bập bênh trôi trên sóng nước.

Tại biển Barenxơ, các con tầu, mỗi khi đi qua nơi Gatghép cùng đồng đội của anh hy sinh, đều dừng lại để tưởng nhớ đến anh.

Ở biển Caxpie cũng có truyền thống ấy. Dừng lại và mặc niệm ba phút để tưởng nhớ tất cả những ai đã hy sinh.

Thành phố Makhátkala của chúng tôi giống như con tàu cập bến. Từ công viên chạy dọc bên bờ, Puskin đã nhìn ra biển: cách đấy không xa là tượng Xylâyman Xtanxki: cuối phố lớn còn có tượng bố tôi cũng đang đứng nhìn ra biển Caxpie.

Người ta kể lại rằng, nơi bây giờ là biển, ngày xưa vốn là một sa mạc trơ trụi. Sau đó sa mạc bỗng nhìn thấy núi, sung sướng quá bèn nằm phục dưới chân núi và biến thành màu xanh biếc.

Người ta kể lại rằng, xưa kia những dãy núi vốn là những con rồng đánh nhau. Sau đó chúng bỗng nhìn thấy biển, ngạc nhiên quá, rồng bấtdđộng hóa thành núi đá.

Mẹ đã ru tôi bên nôi:

Con hãy lớn nhanh con

Đo tầm cao với núi

Con hãy lớn nhanh con

So lòng vào biển dội!

Cô gái đã hát cho chàng kị sỹ trẻ tuổi

Anh chắc sinh trên núi

Cao ngất lòng tự hào

Lật mũ bay sau gáy

Nhìn em chẳng quay chào!

Chàng kị sỹ trẻ tuổi đã hát cho cô gái vùng cao xinh đẹp

Có phải em lên núi

Từ đáy biển san hô

Sắc đẹp em rạng rỡ

Làm anh thốt ngẩn ngơ!

Trong một buổi họp, tôi đã được nghe có người nói thế này:

- Sao chúng ta cứ nói đi nói lại mãi biển với núi, hết núi rồi biển? Chúng ra còn có nhiều thứ núi, thứ biển nữa cũng cần được nói đến. Chúng ra có những biển vườn hoa quả của vùng Lêzghin, có những biển cừu và những núi len dạ

Nhưng người ta đã nói rất đúng rằng: “Đừng hát cả ba bài hát, hãy để lại một bài cho chúng tôi. Đừng khấn cả ba điều, hãy để lại một điều cho chúng tôi”

Tôi đã kể về phần chính làm nên Đaghextan. Phần thứ ba là tất cả những gì còn lại. Chẳng lẽ chỉ có thể nói được ít ỏi về những con đường và những dòng sông, về những hàng cây và ngọn cỏ? Suốt một đời cũng không đủ để kể về tất cả.

Với các bài ca cũng vậy. Trên thế giới này chỉ có ba bài hát: bài thứ nhất là bài ca của mẹ, bài thứ hai cũng là bài ca của mẹ, bài thứ ba mới là mọi bài hát còn lại.

Khi mời khách đến nhà, người miền cao thường nói: “Mời các bạn đến thăm chúng tôi. Núi, biển chúng tôi, trái tim chúng tôi thuộc về các bạn. Ở miền chúng tôi đất là đất, nhà là nhà, ngựa là ngựa, con người là con người. Giữa những cái đó không có cái thứ ba nào hết”

Chú Thích:

([12]) 1 xốtka =1% hécta (tức là 1 xốtka =100m2). (ND)

Đánh máy: Thích Là Bụp - otofun.net; Ongrungf; lurang
Nguồn: tve-4u - Nhà xuất bản Cầu vồng - Mátxcơva1984
Người biên tập: Bùi Văn Hòa
Họa sĩ: Enkônina N. M.
Được bạn: Mọt Sách đưa lên
vào ngày: 1 tháng 7 năm 2016