CON NGƯỜI
CON NGƯỜI
on người” và “Tự do” - hai khái niệm đấy được gọi chung bằng cùng một từ trong tiếng Avar. “Uzđen” nghĩa là “Người” và đồng thời cũng có nghĩa là “Tự do”. Bởi vậy, khi nói đến “con người”-“uzđen”, đương nhiên là ám chỉ rằng con người đó “tự do”
Trên một tấm bia mộ có dòng chữ khắc:
Kẻ nằm đây chưa phải bậc thông thái
Chưa có chiến công lừng lẫy một thời
Nhưng ai đi qua, hãy nghiêng đầu vĩnh biệt
Kẻ nằm đây là một con người!
Trên cán dao găm có ghi bài thơ:
Phải gặp mặt ai trên đường đời, bất kể
Dù gặp với hận thù, hay gặp với lời chào
Thì hãy gặp, như đến với Con người đích thực
Hãy nhớ kỹ điều này, rồi hãy mang dao
Khi một người dân miền cao nào đó đi đâu xa lâu ngày trở về, người ta hỏi anh:
- Thế nào, vùng anh tới thế nào, phép tắc ở đấy ra sao?
- Tôi đã đến với “uzđen” - anh ta trả lời ngắn gọn
Có lần, khi Khátgi-Murát bất hòa với Samin, một số người buông lời chê trách Samin, định để làm đẹp lòng vị phó tướng, Khátgi-Murát ngăn họ lại bằng một cử chỉ nghiêm khắc và nói:
- Chớ có buông ra những lời như vậy. Samin là một con người và chúng tôi có thể tự giảng hòa ổn thoả với nhau được
Mặc dù sau này Khátgi-Murát bỏ Samin mà đi, nhưng trong trận chiến đấu cuối cùng trên núi Guníp, khi nhớ lại vị phó tướng đầy dũng cảm của mình, Samin đã thốt lên:
- Chẳng bao giờ có thể gặp những người như thế được nữa. Ông ấy quả là một con người.
Đã bao thế kỷ nay, dân miền chúng tôi sống trên núi cao, và bao giờ họ cũng cảm thấy thèm được gặp con người. Cần gặp con người. Không có con người không thể nào sống được.
Người vùng cao thường thề: “Sinh ra là con người sẽ chết đi như một con người!”
Tục lệ của người miền núi: hãy bán nhà bán vườn, mất đồ mất của nhưng chớ bao giờ để mất tính người trong mình!
Lời nguyền rủa của người miền núi: cầu cho cả họ nhà mày không người, không ngựa!
Khi có ai đó bắt đầu kể về một kẻ nhỏ nhen, bẩn thỉu, bần tiện thì người nghe bèn cắt ngang lời:
- Việc gì phải thừa hơi mà nói đến nó. Nó đâu phải là người!
Khi có ai đó bắt đầu nói về một sơ suất, một việc làm trót hỡ hay một nhược điểm thì người nghe bèn cắt ngang lời:
- Thôi bỏ qua cho anh ta, cốt nhất anh ta vẫn còn là một con người!
Về những làng lộn xộn không có phép tắc, những làng chật chội, luộm thuộm, hời hợt hay chành chọe, tranh giành nhanh, người ta thường nói:
- Ở đấy không có người!
Về những làng có phép tắc, yên bình, người ta thường nói:
- Ở đấy có người
Con người là sự cần thiết đầu tiên, là báu vật, là điều kỳ diệu phi thường. Con người ở Đaghextan xuất hiện từ đâu, nó đã nẩy sinh thế nào, đâu là khởi đầu, là cội rễ của bộ lạc những người dân miền núi? Có nhiều câu chuyện, nhiều huyền thoại lưu luyến về điều ấy. Hồi nhỏ tôi đã được nghe một câu chuyện như thế này:
Ngày xửa ngày xưa, trên trái đất này đã có thú rừng, chim muông, chúng đã in dấu vết trên đất, nhưng chưa có dấu chân người, đã lan đi đủ thứ âm thanh nhưng chưa có giọng người. Trái đất không có con người giống như mồm không lưỡi, ngực không tim.
Dạo ấy, giữa bầu trời trên dải đất này đã có chim ưng bay lượn, loài chim dũng mãnh, gan dạ. Vào cái ngày mà câu chuyện này xảy ra, tuyết bỗng rơi nhiều vô kể, tưởng như có ai đó vặt hết lông chim trên trái đất rồi quăng đi theo chiều gió. Mây che kín bầu trời, tuyết phủ kín mặt đất, vạn vật nhòa đi hết, không thể nào hiểu được, đâu là đất, đâu là trời. Vào lúc ấy chim ưng bay về tổ của mình, cánh chim nhưng lưỡi kiếm, mỏ chim như dao găm.
Chẳng hiểu chim quên mất trời cao hay trời cao quên chim, chỉ biết đang bay chim bỗng đâm vào vách đá. Người Avar nói rằng chuyện này xảy ra ở trên núi Guníp: người Lắc kể lại rằng, chuyện đó ở Sắcđác. Dù chuyện xảy ra ở đâu thì vách đá vẫn là vách đá, chim ưng vẫn là chim ưng. Chẳng phải vô cớ mà người ra nói: “Đập đá vào chim - chim chết, đập chim vào đá - chim chết”
Không phải chỉ có một vài chim ưng đã chết khi lao đầu vào đá. Nhưng riêng chú chim ưng có đôi cánh như lưỡi kiếm và mỏ như dao găm thì đã chỉ bị thương. Đôi cánh bị gãy, nhưng trái tim vẫn đập, chiếc mỏ nhọn còn nguyên, còn nguyên đôi móng sắc.
Chim đã phải tìm mọi cách mà kiếm sống. Không có cánh thật khó tìm thức ăn, không có cánh thật khó chọi lại kẻ thù. Cứ mỗi ngày, chim lại cố trèo cao lên một ít, từ tảng đá này sang tảng đá khác, từ vách đá này sang vách đá khác, cố đặt chân lên lại vách đá mà trước đây chim đã từng ưa thích đậu, từ đó đưa mắt nhìn khắp vùng núi xung quanh.
Không có cánh thật khó kiếm thức ăn, thật khó tự bảo vệ mình, tìm lên chỗ cao và xây tổ. Thế rồi trong lúc phải làm mọi việc ấy, những cơ bắp của chim cũng biến đổi theo. Và khi tổ xây xong, nó bỗng biến thành nhà, còn chim ưng không canh ấy thì hóa thành người dân miền cao.
Nó đứng thẳng trên hai chân, thay vào đôi cánh gẫy là đôi cánh tay rắn chắc, một nửa trên của nó biến thành chiếc mũi bình thường khá to, nửa dưới biến thành con dao găm đeo bên thắt lưng người vùng núi. Chỉ có trái tim là không thay đổi, vẫn là trái tim ngày trước, trái tim chim ưng.
- Con thấy chưa, con ngoan của mẹ - mẹ tôi nói thêm, khi kết thúc câu chuyện kể - trước khi hóa thành người, chim ưng đã phải sống khổ sở thế nào. Điều này con phải tự biết lấy.
Tôi không rõ sự thật có chuyện đó không, nhưng có một điều hiển nhiên là: trong số những loài có lông vũ, người vùng cao quý nhất là chim ưng. Khi con trai ra đời, người bố thốt lên: tôi vừa sinh ra chim ưng. Khi cô con gái từ đâu xa trở về nhanh nhẹn, thoăn thoắt, người mẹ nói: chim ưng của mẹ đã bay về.
Vào thời kỳ Chiến tranh Vệ quốc, đã có một cuốn sách viết về những anh hùng của Đaghextan, cuốn sách mang tên “Chim ưng đỉnh núi”
Trên cánh cửa những ngôi nhà cổ, trên nôi, nơi chuôi dao găm thường thấy chạm khắc hình chim ưng.
Thật ra thì cũng còn nhiều huyền thoại khác
Khi nghĩ đến những điều trớ trêu của số phận trong cuộc đời này, khi người cha hồi tưởng tới những đứa con hy sinh xa quê hương hay người con nhớ đến cha ngã xuống nơi miền xa lạ, đôi khi người ta cho rằng không phải chim ưng đã hóa thành người dân vùng cao mà chính người dân vùng cao đã hóa thành chim ưng.
- Bay trên những dòng sông những sườn núi dốc
Chim ưng sinh từ đâu? Máu huyết tụ từ đâu?
- Từ bao người trẻ trung, can trường ngã xuống
Chúng tôi chính là trái tim Người, đã mọc cánh bay cao!
- Còn Ngươi nữa, những tinh cầu nhấp nháy
Ngươi dệt nên từ đâu, mà chi chít khắp trời đêm?
- Từ bao người trẻ trung can trường ngã xuống
Chúng tôi chính là con mắt Người tỏa sáng đến vô biên!
Bởi thế mà bao giờ người xứ Đaghextan cũng ngước nhìn lên trời cao với vẻ dịu dàng, tha thiết, với niềm hy vọng. Họ cũng nhìn như vậy những đàn chim bay đến bay đi. Người dân miền cao yêu trời xanh biết mấy!
Tôi nhớ lại năm 1942, Quân đội của chuẩn thống chế Đức Klâyxtơ đã chiếm được một số đỉnh cao ở miền Kapkazơ. Không quân oanh tạc những tháp khoan dầu quanh thành phố Grôznưi. Từ những đỉnh núi cao miền Đaghextan có thể nhìn rõ nhưng đám khói cháy.
Vào những ngày ấy, đại diện thanh niên vùng Kapkazơ đã họp nhau lại tại Grôznưi. Trong đoàn đại biểu Đaghextan có cả tôi. Tại cuộc mít tinh. Anh hùng Liên Xô, một phi công nổi tiếng, một người miền Lêzghin, tên là Valentin Êmirốp đã lên phát biểu. Tôi không sao quên được lời anh nói từ trên diễn đàn, cũng như câu chuyện ngắn ngủi giữa anh với tôi sau cuộc mít tinh. Khi ra về, anh ngước mắt lên trời và nói:
- Tôi phải vội bay lên đấy. Ở đấy cần tôi hơn là dưới đất
Hai tuần sau, có tin anh hy sinh. Người con quanh vinh của xứ Đaghextan đã hy sinh, đã biến thành đuốc lửa. Nhưng mỗi lần nhìn thấy chim ưng vừa kêu vừa bay trên đầu tôi, tôi đều tin rằng nó đang mang trong mình trái tim nóng hổi của Valentin
Năm 1945, Matxcơva ngày nào bọn sinh viên chúng tôi cũng tới trụ sở phái đoàn đại diện của Đaghextan để biết những tin tức mới từ miền núi quê hương, từ Makhatkala. Vào thời gian ấy, Đaghextan đang chuẩn bị kỷ niệm 25 ngày thành lập. Có lần tôi gặp Nabi Amintaép ở đấy. Khắp miền Đaghextan chắc khôgn ai là không biết đến anh, một người Lắc. Là một chàng “kị sỹ trên bầu trời”, chàng trai khiêm nhường ấy đã nhiều lần nhảy dù xuống vùng địch và lần nào cũng bình yên trở về.
- Bây giờ hết chiến tranh rồi, anh trở về Đaghextan thôi chứ - tôi nói với anh
- Bầu trời vẫn còn anh ạ
Vài ngày sau báo Sự thật đăng ảnh anh. Dưới ảnh có dòng chữ: “Nabi - Amintaép - người lập kỷ lục thế giới về nhảy dù. Amintaép đã dâng kỷ lục của mình để tặng miền Đaghextan”
Vài ngày sau nữa, tôi lại gặp Nabi
- Chúng ta về Đaghextan chứ?
- Bầu trời đang chờ tôi. Tôi không thể sống thiếu bầu trời.
Nhưng cuộc đời của anh thật ngắn ngủi. Ít lâu sau, dây dù đã làm hại anh: Nabi của chúng ta đã ngã xuống và hy sinh, giống như con chim ưng gãy cánh. Từ dạo ấy nhiều năm đã qua, nhưng mỗi lần khi nghe vọng từ trên trời cao tiếng chim ưng bay qua, tôi lại nghĩ chim đang mang trong mình trái tim nóng hổi của Nabi.
Tôi còn nhớ tới nàng Rêzêđa xinh đẹp. Cô đã nhảy dù từ trên trời Đaghextan xuống núi Guníp. Bao nhiêu cây đàn Panđur đã nỉ non dưới cửa sổ nhà cô dạo ấy!
Chẳng có nhà thơ trẻ nào không làm thơ tặng cô. Đã có bao nhiêu cặp mắt nhìn vào khung cửa sổ ngôi nhà gạch nhỏ trong thành phố Buinắcxcơ! Đã có bao nhiêu chàng trai ở Khunzắc, Guníp, ở Kumukha thắng yên cương, nhảy lên mình ngựa phi tới đó, mong bắt được cô gái với đôi bím tóc dài. Nhưng rồi một chàng trai từ Lêningrát tới, đặt Rêzêđa lên máy bay rồi đem đi mất. Từ trên trời cao, cô gái đã vẫy khăn từ biệt tất cả các chàng trai phải lòng mình đứng trơ lại dưới mặt đất…
Các nhà thơ của chúng tôi há hốc mồm kinh ngạc nhìn theo, và sau đó bắt đầu làm những bài thơ về con bồ câu bị chim ưng bắt mất.
Rêzêđa ở Lêningrát được ít lâu thì chiến tranh nổ ra. Cô gái viết thư về: “Ở thành phố này giờ đây không phải chỉ không còn đêm trắng mà đến cả ngày cũng trở thành đen. Cả Lêningrát chìm trong khói lửa. Tôi cũng nằm trong đấy. Qua khói lửa tôi nhìn lên bầu trời. Chiến tranh xảy ra cả trên đó. Anh Xêít, chồng tôi, đã nhiều lần đi vào vùng địch hậu. Đến nay tôi đã nhận được ba nguồn tin báo rằng anh ấy đã hy sinh. Anh ấy vốn là một bác sỹ nhảy dù. Nhnưg người được anh ấy cứu sống vẫn đến thăm tôi”
Rêzêđa trở về Đaghextan, và mỗi lần khi nghe vọng xuống từ trên bầu trời quê hương tiếng chim ưng bay qua, cô gái lại nghĩ nó đang mang trong mình trái tim nóng hổi của Xêít chồng cô.
Tôi nhớ lại Akhintri, người anh trai của tôi. Anh đã học ở ngôi trường gắn liền với đất nhất, trường đại học nông nghiệp…Thế rồi khi tòng quân, anh đã chọn bầu trời - đã thành chiến sỹ lái máy bay. Anh hy sinh trên Hắc Hải. Lúc ấy anh mới 22 tuổi. Bản thân tôi biết rằng chẳng bao giờ anh trở về mái nhà thân thuộc. Nhưng cứ mỗi lần, trên đầu tôi vọng tiếng chim ưng, tôi lại tin rằng đó là trái tim của anh đang gửi lời chào anh em cho tôi…
Nhưng con chim ưng vẫn bay lượn trên bầu trời Đaghextan. Nơi đấy chim ưng nhiều vô kể. Còn có biết bao dũng sỹ đã ngã xuống vì mảnh đất của cha ông. Và mỗi tiếng chim kêu - là một bài ca chiến đấu.
Tôi biết rằng đây là một câu chuyện cổ tích đẹp, một chuyện tưởng tượng ra. Người ta muốn trong cuộc đời thật đã có những chuyện như thế. Nhưng tôi cũng biết một người dân Anđi đã nói với anh chàng đứng ở nơi thật cao như thế này:
- Đến cả chim ưng lúc muốn thành người cũng phải đậu xuống đất. Vậy thì anh hãy tụt từ trên cao xuống đi. Ai ai cũng đều sinh ra ở dây, dưới đất này. Chúng ta được gọi tên là dân vùng cao cũng bởi vì chúng ra là người của núi rừng, người của đất. Còn trong truyện cổ tích, trong các bài ca thì cứ để cho con người bay. Miền chúng tôi ưa dùng từ “bay”. Kỵ sĩ phi nhanh như bay. Bài ca bay đi bốn phương…Phần lớn các bài ca của chúng tôi là bài hát về chim ưng.
Nhiều lần tôi bị phê bình là trong cái bài thơ tôi đã nhắc đến chim ưng quá nhiều. Biết làm thế nào được nếu loài chim này tôi thích hơn hết thảy các loài chim khác. Chúng bay rất xa và rất cao, trong khi đó các loài chim khác chỉ biết thích thú kêu lên, xúm quanh đống hạt kê. Tiếng kêu của nó vang xa rành rẽ. Các loài chim khác chỉ vừa thấy khí lạnh phảng phất là đã bỏ Đaghextan mà bay tới miền xa lạ. Còn chim ưng thì dù thời tiết thế nào, dù đạn bắn đe dọa chúng ra sao, chúng cũng không rời những đỉnh cao thân thuộc.
Chim ưng chẳng có nơi nghỉ ngơi, các loài chim khác lúc nào cũng ru rú dưới đất, nhảy từ mái nhà này sang mái nhà khác, từ ống khói này sang ống khói khác, từ thửa ruộng này sang thửa kia. Khe núi nào quá nhỏ, ở miền chúng tôi gọi là khe “tổ chim”. Những vách đá nào sừng sừng cao nghiêm chúng tôi gọi là “vách chim ưng”
Mỗi người khi sinh ra còn chưa phải là người. Chim bay trên trời đâu phải là chim ưng cả.
CHIM ƯNG NÚI
Xứ sở tôi mạnh mẽ và cao thượng
Chim tỏa rộn ràng trăm giọng hót vui
Nhưng cao hơn hết, thiêng liêng hơn hết
Là chim ưng, được truyền tụng muôn đời
Muốn nhìn chim, phải xông ra bão tố
Trèo lên cao, can đảm ngắm quanh trời
Chim ưa chọn cho mình nơi tạm trú
Nhưng mỏm đá mịt mù, chân không bước tới nơi
Có lúc chim tung cánh cao kiêu hãnh
Cánh sải dài như muốn xé sương mù
Có lúc cả bầy tránh trời sấm động
Lần lượt biến vào biển biếc, phiêu du…
Chim như bơi trên tầng cao khí quyển
Mắt tinh tường canh cho đất bình yên
Chỉ nghe thoáng tiếng chim ưng vỡ giọng
Quạ trốn dài, không dám ngẩng đầu lên
Tôi có thể đứng hàng giờ không chán
Trên đỉnh trắng phau chờ ngắm chim ưng
Như tuổi nhỏ, ngó lên trời, ước muốn
Dáng kiêu hùng, bay lượn tít tầng không!
Đối với người Nhật Bản, sếu là loài chim quý nhất. Người Nhật Bản cho rằng nếu ai bị ốm mà cắt được một nghìn con sếu bằng giấy thì sẽ khỏi. Người Nhật Bản gắn niềm vui và nỗi buồn, chia ly và hội ngộ, mơ ước và hồi tưởng thân thiết của mình với cảnh đàn sếu bay, nhất là khi đàn sếu bay qua núi Phú Sỹ.
Tôi cũng yêu loài sếu. Nhưng khi người Nhật Bản hỏi loài chim nào tôi thích nhất và tôi gọi tên loài chim ưng thì họ đã không tán đồng.
Thật ra, ít lâu sau, khi đô vật Ali Aliép đoạt danh hiệu vô địch thế giới trong cuộc thi đấu ở Tôkyô thì một bạn Nhật Bản đã nói với tôi:
- Chim ưng của các anh cũng khá đấy chứ, thật đúng không phải loài chim xoàng!
Tôi có kể lại cho dân làng miền cao nghe trận giao đấu trên bầu trời Thổ Nhĩ Kỳ giữa chim ưng và cò. Khi tôi nói rằng kết cục trận đấu, chim ưng bị thua, thì dân làng đều ngơ ngác không hiểu nổi, thậm chí có người còn bực tức. Họ không muốn tin vào lời kể của toi. Nhưng mà chuyện gì đã xảy ra quả thật đã xảy ra.
- Anh nói không đúng đâu. Raxun ạ, - cuối cùnh một người dân trong bọn nói. -Chim ưng chắc chắn là không thua trận, chẳng qua là chịu chết cả mà thôi. Nhưng mà đó lại là chuyện khác hoàn toàn.
Tôi có một người bạn lừng danh là Ăcmetha Xuntan, hai lần Anh hùng Liên Xô. Bố anh là người Đaghextan còn mẹ là người Tácta. Anh sống ở Matxcơva. Người Đaghextan nhận anh là anh hùng của mình, người Tácta cũng vậy!
- Thế thì anh là của ai? - có lần tôi hỏi
- Tôi không phải là anh hùng của Tácta, cũng chẳng phải của Đaghextan -Ăcmetha trả lời. - Tôi là Anh hùng Liên Xô. Còn con ai ư? Con của cha và mẹ. Chẳng lẽ lại có thể tách riêng cha và mẹ được sao? Tôi là một con người.
Có lần Samin hỏi người thư ký của mình là Mahômét Taghir -an - Karakhi:
- Miền Đaghextan có bao nhiêu người? Mahômét Taghir bèn vớ lấy quyển sổ thống kê dân sốc rồi trả lời:
- Ta chỉ hỏi về những con người thực sự cơ mà! - Samin bực tức nói.
- Nhưng tôi đâu có giữ những số liệu đó
- Trong trận chiến đấu sắp tới, anh chớ quên tính đến số người đó, - vị thủ lĩnh Hồi giáo ra lệnh
Người miền cao thường nói: “Để biết giá trị mỗi con người cần phải hỏi bẩy điều sau đây:
1. Hỏi tai họa
2. Hỏi niềm vui
3. Hỏi phụ nữ
4. Hỏi gươm
5. Hỏi của cải
6. Hỏi bình rượu
7. Hỏi chính con người đó”
Phải rồi, con người và lòng yêu tự do, con người và niềm vinh dự, con người và lòng dũng cảm -tất cả cần phải nhập hòa lại một. Người dân vùng cao không thể nào hình dung nổi chim ưng lại hai mặt, hai lòng. Tượng trưng cho hai mặt hai lòng với người cùng cao là giống quạ. Con người không phải chỉ đơn giản là tên gọi, đó còn là danh hiệu, một danh hiệu cao cả mà đạt đến, đâu phải dễ dàng!
Cách đó không lâu, ở làng Bôtlích tôi có nghe một phụ nữ hát về người đàn ông tồi tệ những lời thế này:
Anh có chút gì giống ngựa
Có chút gì giống cừu
Có chút gì giống diều hâu
Có chút gì giống cáo
Có chút gì giống cá
Thế thì còn đâu lòng dũng cảm?
Còn đâu niềm vinh dự của Con người?
Tôi còn nghe được bài hát khác của người phụ nữ nói tới anh chàng lừa đảo, bạc tình:
Tôi ngỡ anh lòng dạ con người
Tôi đã tin còn tiếc anh gì nữa
Tôi đã tin cái vỏ lạc khô không củ
Và thân tôi giữa đường bơ vơ
Biết ra, muộn rồi, tội tôi, tôi chịu
Chỉ tiếc cho anh, anh chưa chịu hiểu
Rằng anh là chiếc áo khoác ngoài mà cụt mất thân
Là cái mũ đủ chóp đủ vành mà cái đầu đã cụt
Một cô gái đi tìm người chồng tương lai của mình mãi không được bèn than:
- Nếu em chỉ đi tìm cái giá đội mũ thì đã tìm được từ lâu rồi. Nếu em chỉ đi tìm một thân hình có ria mép thì cũng đã thấy từ lâu rồi. Em đi tìm một con người kia!
Khi ở vùng núi người ta định chọn mua cừu, người ta sẽ ngắm kỹ bộ lông, xem mông, nắn thịt. Khi mua ngựa, người ta xem mặt, xem chân, xét cả vóc dáng toàn thân. Thế nhưng đánh giá con người thì bằng cách nào?
Phải căn cứ vào những gì? Phải xét vào tên tuổi và công việc của người đó…Nhân thể cũng nói luôn là trong tiếng Avar, chữ “tên” cũng có hai nghĩa.
Nghĩa thứ nhất là “tên người” theo nghĩa bình thường. Nghĩa thứ hai là sự nghiệp, công trạng, chiến tích của người đó. Khi nhà ai có con trai ra đời, người ta thường nói “Xiar Bughep, Xiar Bataghi” nghĩa là: “Cầu cho niềm vinh quang đem lại tên cho nó” “Tên” không kèm sự nghiệp gì gắn với nó, thì chỉ là một âm thanh trống rỗng.
Mẹ tôi thường dạy dỗ tôi: “Con hãy nhớ chẳng có phần thưởng nào lớn hơn tên tuổi, chẳng của cải nào quý hơn đời người. Con hãy ráng giữ gìn lấy nó”
Trên vỏ cái sừng lớn đựng rượu có ghi mấy dòng thơ:
Từ khi biến thành người
Con đường đi dài lắm
Nhưng say mèm nát rượu
Người lại hóa khỉ liền!
Khi Samin trụ lại phòng thủ trên núi Guníp, chẳng kẻ nào có thể bắt được ông. Nhưng đã có kẻ phản bội chỉ cho kẻ thù lối mòn bí mật đi lên núi. Chuẩn thống chế công tước Bariachinxki đã thưởng vàng cho tên đó.
Ít lâu sau, khi Samin đã ở Kaluga, tên phản bội trở về nhà bố. Nhưng bố ý đã nói:
-Mày là đứa phản bội, không phải là dân miền núi, không phải con người. Mày không phải con tao.
Nói xong lời ấy, ông giết chết đứa con phản phúc, cắt đầu nó, rồi cùng với vàng ông ném từ vách đá xuống dòng sông. Bản thân người cha cũng không thể sống ở làng quê được nữa, không dám nhìn thẳng vào mặt dân làng. Ông cảm thấy xấu hổ vì đã đẻ ra đứa con trai như vậy. Ông bỏ làng ra đi và từ đấy chẳng ai nhắc đến tên ông nữa.
Đến tận bây giờ, khi dân vùng cao đi qua nơi ném đầu tên phải bội, họ vẫn còn ném đá xuống đấy. Người ta nói rằng đến cả loài chim, khi bay qua vách đá ấy cũng kêu lên “Đồ phản phúc, đồ phản phúc!”
Có lần Makhat Đakhađaép đi về một làng để tuyển quân vào đơn vị mình. Ngoài đình làng, ông nhìn thấy hai người đang đánh bài.
- Axxlam Alâykum, xin chào hai vị. Đàn ông trong làng đâu cả rồi, làm ơn tập hợp lại dùm tôi với.
- Ngoài hai chúng tôi ra, trong làng không còn ai là đàn ông nữa.
- Lạ thật! Làng mà không có đàn ông? Thế họ đâu cả rồi?
- Họ đi ra trận cả rồi.
- Ra thế! Vậy thì ở làng anh mọi người đều là đàn ông trừ hai anh thôi!
Abutalíp từng gặp phải một chuyện thế này. Ông mang đồng hồ đến thợ nhờ chữa. Vào lúc đó, người thợ đang bận chữa đồng hồ của một thanh niên ngồi ngay cạnh đó.
- Xin mời bác ngồi, -người thợ nói với Abutalíp.
- Thôi, tôi thấy trong quầy anh đang có người, để lần khác tôi ghé lại vậy
- Người ở đâu mà bác thấy? - người thợ chữa đồng hồ ngạc nhiên hỏi:
- Đây, anh thanh niên này này.
- Nếu anh ta là người thật thì anh ta đã đứng dậy nhường chỗ cho bác ngay khi bác mới vào…Xứ Đaghextan này sẽ chẳng làm sao hết, nếu đồng hồ của anh chàng vô công rồi nghề này bị chậm, còn đồng hồ của bác thì phải chạy đúng chứ!
Sau này, Abutalíp có nói rằng khi được tặng danh hiệu Nhà thơ nhân dân của Đaghextan, cụ cũng không lấy làm mừng như lúc ở hiệu chữa đồng hồ hôm ấy.
Ở Đaghextan có tới 30 dân tộc khác nhau cùng sinh sống, nhưng một số người thông thái thì lại khẳng định rằng ở Đaghextan chỉ có hai người
- Sao, anh nói sao?
- Thế này này: một người tốt, và một người xấu.
- Nếu nói như anh thì ở Đaghextan chỉ có một người sống thôi - mấy người nghe bèn lý sự lại. - Bởi vì người xấu đâu phải là người nữa!
Những người thợ làng Kusin chuyên may mũ lông. Nhưng có người thì đội chúng lên đầu, có người thì lại treo trên mắc.
Người thợ rèn miền Amguzin rèn đúc ra dao găm. Nhưng có người thì giắt chúng vào thắt lưng, có người treo vào đinh đóng trên tường.
Người thợ làng Anđi may áo khoác ngoài. Nhưng có áo khoác lên người khi trời trái gió, có cái lại cất vào rương.
Con người cũng vậy, Có người lúc nào cũng làm việc bận rồi, cũng đứng ngoài nắng gió, trong khi có kẻ lại giống như chiếc áo khoác cất trong rương, giống mũ trên trên mắc, giống dao treo trên tường.
Dường như có ba nhà thông thái để mắt theo dõ miền Đaghextan. Họ sống hàng thế kỷ nay rồi, điều gì cũng biết, cái gì cũng gặp. Một người trong số họ, đi ngược vào lịch sử xưa kia, ngắm nhìn những nghĩa địa cổ kính, suy ngẫm về những đàn chim bay qua trên trời và nói: “Ngày xưa đã có người ở xứ Đaghextan”. Người thứ hai, ngắm nhìn thế giới hôm nay, chỉ ra tên những người dũng cảm và nói: “Đang có người ở xứ Đaghextan “.
Ông già thứ ba, tự hình dung ra tương lai, xem xét nền tảng mà hôm nay chúng ra đã xây dựng cho ngày mai và cũng nói: “Sẽ có người sống ở Đaghextan”
Theo tôi, cả ba ông già thông thái ấy đều nói đúng. Cách đây không lâu nhà du hành vũ trụ lừng danh là Anđrian Nhicôlaép đã đến thăm miền Đaghextan. Anh có ghé vào nhà tôi. Con gái nhỏ của tôi hỏi tôi:
- Bố ơi, thế Đaghextan không có nhà du hành vũ trụ hở bố?
- Chưa có con ạ - tôi trả lời
- Thế sẽ có không hở bố?
- Sẽ có chứ!
Chắc chắn sẽ phải có vì những đứa trẻ đang tiếp tục ra đời, vì chúng ra đã đem lại tên cho chúng, vì chúng sẽ lớn lên cùng với bước đi của đất nước. Mỗi lúc chúng càng tiến gần đến đích mong đợi hơn. Và hãy để cho khắp nơi nói tới Đaghextan như chúng tôi đã nói tới, nơi mọi người sống yên vui, hạnh phúc. Ở đấy có con người!
Đánh máy: Thích Là Bụp - otofun.net; Ongrungf; lurang
Nguồn: tve-4u - Nhà xuất bản Cầu vồng - Mátxcơva1984
Người biên tập: Bùi Văn Hòa
Họa sĩ: Enkônina N. M.
Được bạn: Mọt Sách đưa lên
vào ngày: 1 tháng 7 năm 2016