CUỐN SÁCH
CUỐN SÁCH
ừ “ Tiéh” trong tiếng Avar có hai nghĩa. Nghĩa thứ nhất là tấm da cừu, nghĩa thứ hai là cuốn sách.
Người ta nói: “Mỗi người cần gìn giữ lấy đầu và chiếc mũ trên đầu”. Như chúng ta đều biết, mũ thường làm bằng da cừu. Còn cái đầu của người miền cao thì hàng trăm năm nay đã là cuốn sách chưa viết trong đó chứa đựng tiếng nói, lịch sử, chuyện cổ tích, chuyện huyền thoại của chúng ta - nghĩa là tất cả những gì nhân dân đã sáng tạo nên.
Hàng thế kỷ nay tấm da cừu đã sưởi ấm, gìn giữ cuốn sách chưa viết về Đaghextan - đó là cái đầu của người miền cao.
Nhiều điều đã lưu truyền lại và giữ được đến ngày nay, nhưng cũng nhiều điều thất lạc, biến mất trên đường đi, diệt vong, không bao giờ thấy lại.
Một số trang của cuốn sách này đã mất đi như những anh hùng nằm lại ngoài chiến trận (mũ không thể ngăn cản được đạn bắn và kiếm chém), một số trang khác thì mất đi như những kẻ bộ hành bất hạnh lạc đường, rơi vào bão tuyết, kiệt sức, trượt xuống vực sâu bị tuyết vùi, bị dao đâm của kẻ cướp.
Người ta vẫn nói: những gì bị quên và mất đi là những gì tốt đẹp, cao quý nhất.
Bởi vì khi đang đọc một bài thơ bỗng bị quên mất một câu thì hình như đó là câu thơ cần nhất.
Bởi vì khi nhớ lại con bò cái đã chết thì thường có cảm giác rằng chính con bò đó cho nhiều sữa nhất và sữa của nó béo nhất.
Bố của Makhơmút đã đốt cả hòm bản thảo của con trai mình là nhà thơ. Ông có cảm giác rằng chính những bài thơ ấy đã giết chết người con nông nổi của mình. Bây giờ mọi người đều khẳng định rằng cái hòm ấy đã đựng những bài thơ hay nhất của Makhơmút
Batưrai không bao giờ hát một bài ca của mình đến lần thứ hai. Ông thường hát trong những đám cười khi mọi người đã say. Những bài hát đã vĩnh viễn ở lại đấy chẳng ai gìn giữ. Bây giờ mọi người đều khẳng định rằng đó là những bài hát hay nhất của Batưrai.
Irtri Kazắc đã hát nhiều bài ca trong lâu đài của lãnh chúa nhưng rất ít bài ca rời được lâu đài, vượt qua rào dậu đến với mọi người. Chính Irtri Kazắc đã nói: dù tôi có hát bao nhiêu đi nữa, thì cả lãnh chúa, cả lừa đều không hiểu nổi các bài ca.
Người ta nói rằng những bài ca bị mất đó của Irtri Kazắc là những bài ca hay nhất.
Âm thanh những cây đàn panđur bị cháy đã không đến được chúng ta. Âm điệu những cây đàn trônggua bị ném xuống sông không đến tai chúng ta. Hôm nay tôi buồn tiếc cho những gì đã mất, đã chết, đã bị giết đi hôm qua.
Nhưng khi tôi nghe và đọc những gì còn lại, trái tim tôi cảm thấy sung sướng, tôi thầm cảm ơn tấm lòng những người dân nghèo khổ vùng cao đã mang theo trong chính bản thân mình-và đem đến cho chúng ta hôm nay-những cuốn sách vô giá chưa viết.
Những chuyện cổ tích, những bài ca, những câu chuyện kể ấy hôm nay như nói với những cuốn sách được viết bằng giấy bút rồi được in rằng: “Chúng tôi, chưa từng được viết ra, đã hàng trăm năm nay, vượt qua bao nhiêu trắc trở tai họa và bây giờ đã tới đây. Không biết rồi liệu những cuốn sách được in ra đẹp đẽ như thế này có tới được, cho dù là chỉ đến thế hệ sau không? Rồi xem cái gì sẽ là kho sách đáng tin cậy hơn cả: thư viện, kho sách hay trái tim người?”
Nhiều điều đang bị quên đi. Từ một trăm câu thơ sẽ chỉ còn lại một câu, nhưng nếu còn lại tức là sẽ còn mãi mãi.
Tôi đã nói rằng ngày xưa nhiều đứa trẻ đã chết trong tuổi còn thơ.
Thủ lĩnh Samin đã từng ra lệnh cho những người bị thương phải nhảy xuống sông. Ông không cần đến người tàn phế vì họ không chiến đấu được nữa nhưng lại vẫn phải nuôi họ.
Thời thế đã thay đổi. Trẻ em lớn lên trong sự chăm sóc của mọi người và của các bác sỹ. Các chiến sỹ bị thương được cứu chữa băng bó. Người cụt chân được lắp chân giả. Khi chuyện đó liên quan đến con người thì những thay đổi đó cần phải coi là đẹp đẽ và nhân đạo.
Nhưng có phải điều đó đã xảy ra với cả những suy nghĩ què quặt, những câu thơ ốm yếu, những tình cảm dở sống dở chết và thậm chí với cả những bài ca đã chết ngay từ lúc mới ra đời? Tất cả đều được ghi lại trên trang sách. Tất cả đều được cứu vãn và gìn giữ trong thư viện.
Ngày xưa người ta đã nói: “Lời nói bay đi, lời ghi ở lại”. Thế rồi không khéo mọi chuyện lại xảy ra ngược lại!
Xin đừng nghĩ rằng tôi chê trách sách và chữ viết. Sách và chữ viết đã như mặt trời ló ra trên núi, chiếu sáng khe sâu, xua tan bóng tối ngu dốt.
Mẹ tôi kể cho tôi nghe chuyện cổ tích về chú cáo và con chim. Chuyện như thế này.
Trên cây nọ có một con chim. Chim có một tổ rất ấm và chắc, trong đó chim nuôi một bầy con. Mọi chuyện đều diễn ra êm đẹp. Nhưng một hôm cáo đến, ngồi dưới gốc cây và cất tiếng hát:
Những lèn đá này là của ta
Cánh đồng này ta là chủ
Đất đai này, ta là lãnh chúa
Cây của ta mọc trên đất của ta
Ngươi làm tổ trên cành cây kia
Hãy thanh toán cùng ta món nọ
Bằng cách trả ta một con chim nhỏ
Nếu không chịu, ta chặt cây cho đổ
Con cái người sẽ tan tác cả bầy!
Để cứu cây thân yêu của mình, cứu tổ ấm của mình, cứu bầy con còn lại, chim đã phải trao cho cáo đứa con bé nhất của mình.
Ngày hôm sau cáo lại đến, lại cất tiếng hát bài hát của mình. Chim lại phải hy sinh đứa con thứ hai. Bây giờ chim không còn kịp khóc con mình nữa: ngày nào cũng phải mất một con cho cáo.
Những con chim khác đã biết đến tai họa ấy. Chúng bay đến hỏi cơ sự thế nào. Con chim ngu ngốc nọ kể lại tai họa của mình. Những con chim khôn hát cho nó nghe:
Chính tự ngươi có lỗi
Con chim ngu ngốc kia1
Để mụ cáo ranh mãnh
Lừa bịp mà người nghe!
Nó lấy gì chặt cây
Lấy đuôi mà quật chắc?
Nó làm sao với được
Bầy chim non trên cao?
Hỏi nó lấy rìu đâu?
Hay có cưa đâu nữa?
Chim từ xưa từ xửa
Sống yên trên đó rồi!
Tuy nhiên, cáo không biết gì về chuyện đó và lại đến đe dọa, đòi vật hy sinh mới. Lại hát và dọa rằng sẽ chặt đổ cây và giết hết bầy con. Nhưng những lời trước đây làm chim sợ hãi bây giờ trở lên buồn cười, huênh hoang, rỗng tuếch. Chim trả lời cáo:
Cây có rễ ăn sâu trong đất
Ngươi giỏi thì mang xẻng mà đào!
Thân cây như pháo đài vững chắc
Ngươi đem rìu bổ thử xem sao!
Ta làm tổ trên cành cao tít
Người bắc thang mà tìm lối vào!
Cáo đành rời gốc cây nọ mà đi, chẳng kiếm chác được gì, và từ đấy thôi không mò đến nữa. Còn chimm thì bây giờ vẫn sống, vẫn nuôi con, chim non vẫn lớn và hót tiếp những bài ca.
Đaghextan đã làm chết biết bao đứa con mình vì lạc hậu, tăm tối, u mê. Để nhận ra chính mình cần phải có sách. Để nhận ra người khác cũng cần phải có sách. Nhân dân không có sách giống như người đi bị bịt mắt - anh ta không nhìn thấy thế giới. Nhân dân không có sách giống như người không có gương - anh ta không thể nhìn thấy được mặt mình.
“Đó là đám dân miền cao lạc hậu, u mê” - các nhà viễn du đến miền Đaghextan đã nói và viết về chúng tôi như vậy. Lời nói ấy chứa đựng nhiều sự thật hơn là cảm giác khinh miệt hay thái độ thiếu thiện chí. “Họ là những đứa trẻ lớn tuổi”, - một người ngoại quốc viết về chúng tôi như vậy.
“Bọn họ không có kiến thức, cần phải lợi dụng điều đó”- kẻ thù của chúng tôi đã nói thế
“Nếu các dân tộc vùng này nắm được nghệ thuật tiến hành chiến tranh thì vị tất đã có ai dám động đến họ”- một vị tướng đã nói như thế.
“Nếu ta đem sự hiểu biết bây giờ cộng thêm vào với lòng dũng cảm của Khátgi-Murát hay tài năng của Makhơmút thì hay biết bao!”- người miền cao bây giờ vẫn nói.
- Thưa thủ lĩnh, sao ta phải dừng lại? - có lần Khátgi-Murát hỏi Samin - Tim đang sôi lên, dao nhọn đang trong tay. Còn phải chờ gì nữa? Hãy mở đường mà tiến về phía trước!
- Khoan đã, đừng vội, Khátgi-Murát, những con suối chảy xiết đâu có đến biển được. Để ta thử hỏi sách xem sách sẽ nói với ta điều gì. Sách là vật thông minh lắm.
- Có thể rằng cuốn sách của thủ lĩnh rất thông minh, nhưng bây giờ chúng ta lại cần đến lòng dũng cảm. Hãy đặt nó lên đầu ngọn kiếm, hãy đặt nó lên mình ngựa.
- Cũng có nhiều cuốn sách dũng cảm
Sách…Từng chữ, từng dòng, từng trang. Tưởng rằng đó chỉ đơn thuần là một trang giấy. Nhưng trang giấy ấy là nhạc điệu của lời nói, là chất ngọt ngào của ngôn ngữ, là ý tưởng. Chính là tôi đã viết lên trang giấy ấy, là những người khác mà tôi đã viết về họ và họ đã tự viết về mình; trang giấy ấy là mùa hè nóng bỏng, là bão tuyết mùa đông, là sự kiện hôm qua, mơ ước ngày nay, công việc ngày mai.
Lịch sử thế giới, cũng như số phận mỗi con người nên chia thành hai phần: trước khi có sách xuất hiện và sau khi có sách. Thời kỳ thứ nhất là đêm, thời kỳ thứ hai là ngày rạng rỡ. Thời kỳ thứ nhất là khe núi tối tăm, chật chội. Thời kỳ thứ hai là bình nguyên thay cho đỉnh núi cao.
“Có thể nói rằng sự ngu dốt đã là tội ác nếu vì điều đó mà lịch sử đã trừng phạt chúng ta lâu dài và nặng nề đến thế”, - bố tôi đã nói như vậy
Hai giai đoạn, - có sách và chưa có sách. Nhưng bây giờ thì sách đến với con người rất sớm, dưới dạng cuốn sách vỡ lòng, khi con người vừa mới bắt đầu chập chững biết đi. Thế mà sách thì lại đến với Đaghextan khi Đaghextan đã hàng nghìn tuổi. Đaghextan bắt đầu học đọc, học viết thật là muộn, quá muộn.
Trước đó, đã hàng bao thế kỷ, đối với người miền cao, bầu trời đã là trang giấy và các vì sao đã là các con chữ. Những đám mây đen sẫm đã là bình chứa mực, nước mưa là mực, mặt đất là giấy, cỏ cây và hoa lá - khác nào những mặt chữ, còn chính ngọn núi cao thì như đã nghiêng mình bên trang sách ấy mà đọc. Những tia sáng mặt trời hồng đã là những chiếc bút chì. Chúng đã viết lên vách đá lịch sử đầy rẫy những lầm lạc của chúng tôi.
Thân mình người đàn ông là bình chứa mực, máu là mực, dao găm là cái bút chì. Và lúc ấy cuốn sách của sự chết chóc đã được viết nên, ngôn ngữ của nó mọi người đều hiểu, không cần ai phải dịch.
Nỗi bất hạnh của người phụ nữ là bình chứa mực, nước mắt là mực, gối là trang giấy, và lúc ấy cuốn sách của nỗi đau khổ đã được viết nên, nhưng nào có ai xem được; người phụ nữ miền cao không muốn ai nhìn thấy nước mắt của mình.
Sách và chữ viết …Đó là hai vật báu mà vị sứ giả phân phát tiếng nói nọ đã quên ban cho chúng ta.
Sách là cách cửa sổ mở trong ngôi nhà, thế mà chúng tôi lại bị ngồi trong bốn bức tường kín mít…Từ cửa sổ đã có thể nhìn thấy những khoảng trời đất, biển bao la và những con tàu tuyệt vời lướt đi trên sóng nước. Chúng ta đã giống những con chim chẳng hiểu vì lẽ gì lại ở lại mùa đông và vào ngày băng giá gõ mỏ vào cửa kính xin trú nhờ chút ấm áp. Những cặp môi nóng bỏng, héo khô vì khát của người miền núi…Những cặp mắt đói thèm, cháy bỏng của chúng ta.
- Nếu chúng ta biết dùng giấy bút thì chắc đã chẳng phải cẩm đến dao găm nhiều thế.
Chúng ta chưa từng bao giờ chậm muộn khi phải đeo kiếm lên mình, thắng yên cương ngựa, nhảy lên mình nó, phi ra bãi chiến trường. Trong chuyện này chúng ta chẳng hề có ai thọt chân, điếc tai, mù mắt. Nhưng chúng ta đã quá muộn màng trong việc sử dụng những con chữ bé nhỏ tưởng chừng như vô nghĩa. Thế mà mọi người đều biết rằng: kẻ nào trí tuệ bị què quặt thì đến gậy vùng Unxukun cũng chẳng giúp ích được gì.
Cách đây 1500 năm, Mêxrốp Mastôx một chiến binh Armênia nổi tiếng, đã nảy ra ý nghĩ cho rằng chữ viết mạnh hơn vũ khí, và ông đã sáng tạo nên chữ viết Armênia.
Tôi đã đến Matênađaran nơi gìn giữ những bản chữ viết cổ xưa nhất.
Ở đây tôi đã buồn rầu nghĩ tới Đaghextan; Đaghextan đã bỏ phí hàng nghìn năm không có sách và chữ viết.
Lịch sử đã trôi qua tấm lưới thời gian, và chẳng để lại dấu vết gì. Chỉ còn lại những truyền thuyết mơ hồ nhiều khi không lấy gì làm xác thực và những bài ca truyền qua cửa miệng, truyền qua những tấm lòng.
Những chuyện kể làm nhớ lại
Một thời cổ tích xa xôi
Trong kho chuyện kể mẹ tôi
Một chuyện làm tôi nhớ mãi;
Chuyện kể một người miền núi
Can trường, lập lắm chiến công
Đức vua uy nghi vô cùng
Nghe tiếng có lần gọi đến
Và trước lâu đài xuất hiện
Người anh hùng họ Xêlim
Mấy tầng cánh cửa uy nghiêm
Rộng mở cho vua đón khác
Nào thảm, đèn, vòi phun nước,
Bốn bề như ánh ngọc châu
Vị vua cho xem khắp lượt
Bảo tàng kho báu muôn màu…
Không kể xiết, không nhớ hết
Những gì vị khách được xem
Chỉ biết trên đời đủ thứ
Lâu đài không thứ gì quên!
Vua già tỏ ra hào phóng
Nói cùng người khách vùng cao:
Người muốn thứ gì cứ lấy
Ngươi suy nghĩ chọn đi nào!
Ngươi xem, thứ nào cũng tốt
Nhưng ta hạn định từ đầu
Ngươi hãy cho cho kỹ lưỡng
Kẻo rồi lại hối về sau!
Tráng sỹ vùng cao cảm tạ
Trả lời đúng phẩm cách mình:
“Thần chỉ dám xin Bệ hạ
Gươm, dao, chú ngựa phi nhanh.
Hòm rương chất đồ vô giá
Thần không cần thiết phải xin
Khi có thanh gươm, yên ngựa
Muốn gì thần tự làm nên!”
Ôi người anh hùng tổ tiên
Người đã sai lầm tự đó
Khi lấy thanh gươm, yên ngựa
Mà không lấy sách mang về!
Tâm hồn Người dù trong sáng
Kiến thức trong đầu rỗng không
Ngươi chưa biết rằng sách vở
Còn hơn dao nhọn, sắt nung!
Con cháu Người theo vết cũ
Nên không hiểu nổi ngọn ngành
Con chữ sắc hơn dao sắc
Và nhanh hơn ngựa phi nhanh
Chữ truyền cho mọi khôn ngoan
Vẻ đẹp trên đời có đủ …
Tiếc mình chậm mấy trăm năm
Lạc hậu vì chưa có nó!
Như người học trò học chậm
Bước qua ngưỡng cửa vào sau
Trong khi các dân tộc khác
Đã ngồi trong lớp từ lâu!
Bên cạnh, sau dãy núi là Gruzia. Nhiều thế kỷ trước, Sôta Ruxtaveli đã sáng tạo và dâng tặng người Gruzia bản trường ca bất tử của mình về chàng dũng sỹ khoác da hổ…Người ta đã đi tìm mộ ông rất lâu, đi khắp miền Đông. Một người phụ nữ đã nói: “Chẳng nơi nào có mộ ông, nhưng nơi nào cũng thấy trái tim ông đang đập”.
Nhân loại đang còn đọc thiên truyện về chàng Prômêtê bị trói ghì vào vách đá Kapkazơ.
Đã hàng nghìn năm nay người Ả Rập còn nhỏ nước mắt lên những trang thơ.
Nghìn năm trước đây, người Ấn Độ đã viết lên lá cọ những chân lý và lầm lạc của mình. Tay run run, tôi chạm vào những chiếc lá ấy và đưa lại gần mắt mình.
Và còn những bài ba câu đầy chất thơ duyên dáng của Nhật Bản nữa! Còn nước Trung Hoa cổ, nơi sau mỗi chữ tượng hình chứa ẩn cả một khái niệm!
Nếu các hoàng đế Iran đã đến Đaghextan không phải với lửa và với kiếm, mà với sự thông thái của Phiđôuxi, với tình yêu của Haphizơ, với lòng dũng cảm của Xaađi, triết lý của Avixenna thì các vị đó đã không phải cắm đầu bỏ chạy.
Ở Nisapur tôi có thăm mộ Ômar Haiam, Bên nấm mộ tôi đã nghĩ: “Hỡi bạn Haiam của tôi! Nếu dạo ấy không phải vua mà là anh đã đến, thì dân vùng núi đã vui sướng đón anh thế nào!”
Ngành Đại số học đã hình thành mà chúng tôi còn chưa biết đếm. Những bản trường ca hùng vĩ đã vang lên mà chúng tôi còn chưa biết viết chữ “Mẹ”
Mới đầu chúng tôi biết đến quân lính Nga rồi sau này mới biết các nhà thơ Nga. Nếu người miền cao đã đọc được Puskin và Lécmôntốp trước thì có thể chính lịch sử của họ đã diễn ra theo cách khác.
Khi một người miền cao được nghe đọc truyện “Khátgi-Murát” của Lép Tônxtôi, người đó đã nói: “Cuốn sách hay như vậy chỉ thượng đế mới viết nổi chứ không thể là con người”
Chúng ta đã có tất cả những gì mà sách cần có. Tình yêu nồng nàn, các anh hùng dũng cảm, các tấn bi kịch, thiên nhiên khắc nghiệt - tất cả đều có chỉ trừ sách là không có
Ở đây xiết bao tai họa khổ đau
Những người chồng ghen cũng đầy uất ức
Khi xiết chặt trong tay con dao bạc
Thét lớn xông vào những Đexđêmôna!
Hàng trăm năm trên mái nhà thế giới
Đã có bao nhiêu nhân vật diệu kỳ:
Hamlét, Ôphêlia hay Giuliét
Có đủ, chỉ trừ không có Sếchxpia!
Và âm nhạc của núi rừng vang vọng
Ầm ã những dòng sông, ríu rít những bầy chim
Chỉ không ai ghi thành nốt đàn của Bách
Không ai tạo thành xô -nát Bêtôven!
Và khi đi tới kết cục bi thương
Giuliét với cuộc đời ngắn ngủi,
Không có một bài ca, chỉ viên đạn chì nóng hổi,
Không có một nhà thơ, chỉ có một kẻ thù!
Sau trận chiến đấu ác liệt với quân Timua ở gần làng Kumukha, khi thu nhặt chiến lợi phẩm, dân miền cao đã tìm được trong túi một tên giặc bị giết một cuốn sách. Mọi người lật lật các trang sách, cúi nhìn các hàng chữ. Nhưng trong số họ chẳng một ai biết đọc. Bấy giờ họ bèn quyết định đốt hay xé vụn, ném theo chiều gió. Nhưng lúc ấy nàng Partu-Patimát dũng cảm và thông minh đã bước ra nói với họ:
- Hãy giữ cuốn sách đó cùng với vũ khí đã đoạt được từ tay kẻ thù.
- Để làm gì mới được? Nào có ai trong chúng ta biết đọc nó đâu!
- Nếu chúng ta không biết đọc nó thì con cháu chúng ta sau này sẽ đọc. Chúng ta đâu biết cuốn sách chứa đựng điều gì trong đó. Có thể rằng trong đó là số phận chúng ta.
Trong trận chiến đấu giữa Xurakát Tanuxinxki với quân Ả Rập, một tù binh Ả Rập đã nộp lại cho dân miền cao ngựa, vũ khí, mộc. Nhưng cuốn sách dấu trong ngực thì anh ta không muốn đưa. Xurakát trả lại ngựa và vũ khí cho tên tù binh nhưng ra lệnh hắn phải nộp cuốn sách. Xurakát nói:
Ả-rập Ta có thừa ngựa thừa kiếm rồi, nhưng sách thì chẳng có cuốn nào. Còn dân Ả Rập các người thì thiếu gì sách. Vì lẽ gì mà mi tiếc rẻ một cuốn sách ấy?
Quân lính đều ngạc nhiên và hỏi vị chỉ huy của mình:
Ả-rập Chúng ta cần sách mà làm gì? Chúng ta không biết đọc mà thậm chí còn không biết cầm nó thế nào cho đúng. Lẽ nào lại đi bỏ ngựa, bỏ vũ khí, mà đổi lấy sách được sao?
Ả-rập Rồi sẽ đến lúc mọi người sẽ đọc. Rồi sẽ đến lúc, với người miền núi chúng ta, nó sẽ quan trọng hơn áo dài, mũ cao, ngựa và dao găm.
Khi thấy tình thế đạo quân xâm lược Đaghextan của mình đã nguy ngập, Hoàng đế Iran quyết định đem chôn xuống đất tất cả của cải mà y luôn đem theo. Nơi hố đào có đặt một tấm bia, trên tấm bia có đánh mộng móng sắt.
Tất cả những người chứng kiến việc đó đều bị vua đem giết chết. Tuy vậy, lãnh chúa Murtazali vẫn tìm được hố đó và tìm ra những hòm lớn chứa vàng bạc, ngọc ngà, châu báu- tất cả những gì mà hoàng đế Iran đã cướp bóc được. Số của cải đó đã phải dùng tới hai mươi con la để chở. Trong số các vật báu còn có một ít sách Ba Tư. Sau khi nhìn ngắm cả tài sản đó, bố lãnh chúa Murtazali là ông Xurkhát cụt tay đã nói:
-Con ạ, con đã tìm được một kho báu lớn. Con hãy phân phát cho các chiến binh, hay nếu muốn thì bán đi cũng được. Nhưng rồi đằng nào rồi kho báu đó cũng sẽ cạn. Nhưng một trăm năm sau dân miền cao sẽ còn tìm thấy những viên ngọc quí ẩn trong những cuốn sách này. Con đừng đem cho ai. Những cuốn sách đó quí hơn cả mọi thứ vàng bạc, châu báu.
Samin có một người thư kí tên là Mahômét Tagiran-Karahi. Samin không bao giờ cho ông này đến chỗ nguy hiểm. Mahômét Tagir rất không bằng lòng về chuyện đó. Có lần ông nói:
- Thưa thủ lĩnh, có thể thủ lĩnh không tin tôi chăng? Xin hãy cho tôi ra chiến trường!
- Nếu tất cả đều hi sinh thì một mình anh phải sống. Chiến sĩ cầm kiếm thì ai cũng có thể thay thế được, còn kẻ cầm bút thì không! Anh hãy viết cuốn sách về cuộc chiến đấu của chúng ta.
Mahômét Tagir chưa viết xong cuốn sách đã mất, nhưng con trai ông đã hoàn thành công trình của người cha. Đó là cuốn “Ánh gươm lấp lánh của thủ lĩnh trong chiến trận.”
Bản thân Samin cũng có một tủ sách lớn. Hai mươi lăm năm liền ông cho chở sách trên mình mười con la từ chỗ này sang chỗ khác. Không có sách, ông không thể nào sống được. Sau này, trên núi Gunip, khi bị bắt làm tù binh, Samin yêu cầu để lại cho ông sách và kiếm. Khi sống ở Caluga, ông luôn luôn yêu cầu đưa sách đến. Ông nói: “Nhiều trận đánh bị thua vì lỗi của kiếm, nhưng không có trận đánh nào bị thua vì lỗi của sách cả.”
Khi Giamalutđin từ nước Nga trở về, thủ lĩnh Samin bắt con phải mặc y phục miền núi, nhưng sách của con mang theo thì không động tới. Với những ai khuyên ông vứt “sách của những kẻ ngoại đạo” xuống sông, ông trả lời: “Những cuốn sách này không bắn chúng ta trên đất nước của chúng ta. Những cuốn sach ấy không đốt làng của chúng ta, không giết người. Kẻ nào làm nhục sách sẽ bị chính sách làm nhục lại.”
Đến đây, tôi muốn biết: Giamalutđin đã mang những sách gì từ Pêtécbua dạo ấy về?
Vốn không có chữ viết riêng, người Đaghextan đôi khi viết dăm ba chữ bằng tiếng nước khác lên nôi trẻ, trên chuôi dao găm, lên trần nhà, trên bia mộ. Họ viết bằng tiếng Ả- rập, tiếng Thổ Nhĩ Kỳ, tiếng Gruzia, tiếng Facxi. Những dòng chữ ngoằn ngoèo như những đường trang trí ấy rất nhiều, không sao sưu tập hết được. Chỉ có điều không thể đọc được bằng tiếng mẹ đẻ. Không biết viết tên họ của chính mình như thế nào, người vùng cao mô tả cái đó bằng hình vẽ kiếm, ngựa, chim, núi.
Một số lời ghi trên mộ có thể dịch ra như thế này:
“Đây là mồ chôn người phụ nữ có tên là Bugơ-Bai, người đã sống đến tuổi bà mong ước và chết khi bà hai trăm tuổi”. “Đây là mồ chôn ông Kuba-Ali, người đã chết trong trận chiến đấu với lãnh chúa miền Atgiaria khi ông ba trăm tuổi.”
Những mảnh vụn thảm hại, những lời nói ngắn ngủi thế vào cuốn lịch sử ngàn tập.
Khi tôi học ở trường đại học văn học, giảng môn lịch sử văn học cổ Hy Lạp là ông già phúc hậu người nhỏ nhắn: Xecgây Ivanôvich Rátxích. Ông thuộc lòng những tác phẩm văn học cổ, đọc cho chúng tôi nghe từng đoạn dài bằng tiếng Hy Lạp cổ. Ông yêu những người Hy Lạp cổ, thích nói về ấn tượng mà họ đã gây ra cho ông. Ông đọc thơ của người xưa với cảm giác như tác giả ấy đang ngồi nghe, ông sợ rằng nhỡ mình đọc sai câu nào chăng, giống như kẻ theo đạo Hồi cuồng tín sợ đọc nhầm thơ trong kinh Côran. Ông nghĩ rằng tất cả những gì ông đang nói tới, chúng tôi đã biết rõ từ lâu rồi. Thậm chí ông không thể nghĩ được rằng có ai đó lại không biết đến Iliát hay Ôđixê. Ông nghĩ rằng những chàng thanh niên vừa từ mặt trận về này suốt bốn năm vừa qua chỉ làm có mỗi một việc là nghiên cứu Hôme, Etsin, Ơripít!
Có lần, khi thấy chúng tôi biết văn học cổ quá ít, ông gần như phát khóc.
Đặc biệt tôi làm ông rất ngạc nhiên. Những người khác dù sao cũng còn biết ít nhiều. Khi ông hỏi tôi về Hôme thì tôi quay sang kể về Xulâyman Xtanxki vì nhớ rằng Mắcxim Gorki đã từng gọi Xulâyman là Hôme của thế kỉ XX. Vị giáo sư thương hại nhìn tôi và hỏi:
- Anh sinh trưởng ở đâu vậy mà thậm chí đến Ôđixê cũng không đọc?
Tôi trả lời rằng tôi lớn lên ở Đaghextan, nơi mới có sách cách đây không lâu. Để giảm nhẹ tội lỗi của mình, tôi còn không e dè gì tự gọi mình là một người miền núi vô học. Lúc đó, vị giáo sư bèn nói với tôi những lời không bao giờ quên được:
- Anh bạn trẻ ạ, nếu anh chưa đọc Ôđixê thì còn lâu anh mới có thể dược gọi là người miền núi vô học. Anh mới chỉ là một kẻ mông muội, một người nguyên thủy!
Sau này, mỗi khi tôi ở thăm Hy Lạp hay Italia, tôi thường nhớ lại vị giáo sư của tôi, lời nói của ông và thái độ của ông đối với văn học cổ.
Nhưng làm sao mà tôi có thể biết đến Hôme, Xôphốc, Arixtốt, Hêliốt khi lúc ấy tôi chỉ mới bập bẹ nói tiếng Nga, đọc tiếng Nga một cách khó nhọc? Nhiều điều trên thế giới này Đaghextan đã không hiểu được, nhiều của quí trên đời này đã xa lạ với Đaghextan.
Tôi lại phải kể thêm chuyện bà nghệ sĩ Mắcxacôva đã khóc thế nào khi khi nghe giọng hát của ca sĩ Tatam Murađốp. Murađốp không được học hành gì cả, và khi đó ông đã gần sáu mươi tuổi. Mọi người tưởng rằng giọng hát của ca sĩ đã làm bà xúc động, nhưng bà nói:
- Tôi khóc vì thương xót. Thật là một giọng tuyệt đẹp. Ông đã có thể làm kinh ngạc cả thế giới nếu trước đây đã được học hành đến nơi đến chốn. Còn bây giờ thì không thể được nữa rồi!
Tôi thường nhớ đến lời nói này, khi nghĩ đến số phận của Đaghextan. Lời đó không chỉ nói về Tatam. Đã có biết bao nhiêu ca sĩ, chiến binh, họa sĩ, đô vật nằm xuống mộ rồi mà chưa làm gì cho thế giới biết đến tài năng của mình! Tên tuổi của họ cuối cùng không ai biết đến. Và chắc là chúng ta cũng đã có những Saliapin, những Pốtđúpnưi của riêng mình. Chắc Ôxman Apđurắcmanốp, vị thần Écquyn của chúng tôi, cũng đã trở thành vô địch nếu anh ta có thêm kĩ thuật và tài nghệ. Nhưng anh ta đã không có thầy giáo huấn luyện. Chúng ta đã không có nhạc viện, nhà hát, trường đại học, viện Hàn Lâm và thậm chí không có đến cả trường học.
Những người kể về các thế kỉ xa xưa không có nữa rồi
Thật đáng tiếc. Nhưng chúng tôi không dừng bước.
Những câu chuyện tổ tiên chỉ kể bằng giáo mác
Thì tôi ghi tiếp bằng ngọn bút chì!
Người dân vùng cao đã không biết cầm bút trong tay, không biết viết thành chữ. Muốn bảo giặc đầu hàng, dân vùng cao chỉ biết dơ nắm đấm ra dọa, na ná như người Kôzắc vùng Dapôrôgiê vẫn làm. Hoặc là vẽ một hình gì mạnh hơn thế rồi gửi cho quân giặc.
Trước đây người ta đã từng nói về Đaghextan: “Giống như một bài ca chưa viết, chưa hát, đất nước này nằm yên trong chiếc hòm bằng đá. Ai sẽ chiếm được nó, ai sẽ viết nên và cất tiếng hát bài ca ấy?”
Lời nói, chữ viết cuốn sách là chìa khóa khóa chiếc hòm kia. Vậy thì tay ai đã giữ chìa khóa của ổ khóa nặng nề giam hãm hàng thế kỉ Đaghextan?
Nhiều người khác nhau đã tìm đến ổ khóa đó và thậm chí đã mở nắp ghé nhìn vào bên trong. Bản thân người Đaghextan còn chưa cầm bút trong tay, mà nhiều vị khách, nhiều nhà du lịch, nhiều nhà học giả nghiên cứu đã viết về Đaghextan bằng nhiều thứ tiếng: Ả Rập, Ba Tư, Thổ Nhĩ Kỳ, Hy Lạp, Gruzia, Armênia, Pháp, Nga,…
Xin cảm ơn các khách viễn du, Tuy họ không thể hiểu hết chiều sâu phong phú miền Đaghextan nhưng dù sao, họ chính là những người đầu tiên đã đưa cái tên ấy vượt ra ngoài những triền núi của chúng ta.
Tiếp đó đến lượt lời thơ của Puskin, Lécmôntốp:
Trong thung lũng Đaghextan nóng bức
Tôi nằm yên, ngực mang vết đạn chì…
Thật là những dòng thơ tuyệt đẹp! Còn Bêxtugiép-Marlinxki thì viết cuốn Ammalátbếch. Đến ngày nay, trên nghĩa địa vùng Đécbent còn nguyên tấm bia đá mà ông đã đặt trên nấm mộ người vợ chưa cưới của mình.
Alếchxăng Đuyma đã từng đến miền Đaghextan. Và cả Pôlegiaép nữa, người đã sáng tác các bản trường ca “Écpê-li” và “Trir-Iurtơ”. Nhiều người đã viết về Đaghextan nhưng không ai có thể viết về miền đất sâu xa, đầy xúc động như chàng trai trẻ Lécmôntốp và ông già Tônxtôi. Trước hai con người vĩ đại ấy tôi xin cúi mái đầu đã điểm bạc của mình và sách của hai người tôi đã đọc như kẻ tu hành theo đạo Hồi kính cẩn đọc kinh thánh Côran.
Ngày đặt tên cho con trai là ngày vui lớn. Cũng phải là ngày vui lớn thế khi những đứa con của Đaghextan lần đầu tiên viết về miền đất ấy những cuốn sách bằng tiếng mẹ đẻ của mình. Tôi còn nhớ tôi đã phạm sai sót thế nào khi cô giáo đầu tiên của tôi là Vêra Vaxiliépna gọi tôi lên bảng và bảo tôi viết tên đất nước tôi. Tôi đã viết: “đaghextan”. Vêra Vaxiliépna đã giải thích cho tôi rằng “Đaghextan” là tên riêng và cần phải viết hoa chữ cái đầu tiên. Lúc đó tôi lại viết “Đđaghextan”. Tôi tưởng rằng cần phải có cả chữ “đ” lớn và cả chữ “đ” nhỏ. Và đó cũng là sai. Đến lần thứ ba tôi mới viết đúng”Đaghextan”.
Có phải Đaghextan đã được học viết tên mình như thế?
Có phải Đaghextan đã được học kể lại chuyện mình như thế?
Nhiều lần Đaghextan đã phải bắt đầu lại từ đầu. Phải chọn chữ cái, chọn kiểu chữ viết. Đã từng phải viết bằng chữ cái Ả Rập, Latinh, chữ cái Nga.
Đã từng mắc nhiều sai sót. Bởi vì chúng ta đã viết bằng chữ nhỏ khi lẽ ra phải viết chữ hoa.
Chỉ đến lần thứ ba Đaghextan của tôi mới bắt đầu viết đúng. Đây là tên gọi của những sách báo tạp chí Đaghextan đầu tiên: “Ngôi sao buổi sớm”, “Tia nắng mới”, “Người miền núi đỏ”, “Giâyman”, “Tục ngữ vùng cao”, “Cổ tích Kumức”, “Âm điệu Lắc”, “Truyện Đarghin”, “Thơ Lêzghin”, “Đaghextan Xô Viết”. Tất cả các sách báo đó đều xuất bản bằng tiếng mẹ đẻ. Đó không phải chỉ là những tên gọi đơn thuần. Đó là những đôi cánh.
Vào năm 1921, sau lần gặp gỡ nói chuyện với đoàn đại biểu Đaghextan, Lênin đã phái đến miền núi ba thứ cần thiết với nhân dân ở đây: bột mì vải, và chữ in. Đaghextan đã có ngựa và dao găm. Cùng với bánh mỳ Lênin đem lại cho Đaghextan cả sách nữa. Cách mạng đã cúi xuống bên nôi Đaghextan. Đaghextan đã nhìn thấy biển, nhìn thấy chính mình, nhìn thấy quá khứ và tương lai của mình. Và Đaghextan đã bắt đầu tự viết về mình.
Xulâyman Xtanxki có hỏi Mắcxim Gorki: “Hai ta đều già cả rồi. Đã sống nhiều rồi, đã trải đời, hiểu thế giới này rồi. Cả hai đều có sách. Nhưng anh thì viết trên giấy, vì anh biết viết. Còn tôi thì hát thành lời. Vì tôi không biết viết. Chúng ta tượng trưng cho nước Nga và Đaghextan. Nước Nga thì có học. Còn ở Đaghextan thì phần lớn mọi người chưa viết nổi tên họ của mình. Phải dùng ngón tay điểm chỉ thay cho chữ ký. Liệu anh có thể cử một đoàn nhà văn đến miền chúng tôi để họ kể lại cho cả nước, cả thế giới nghe về những người Đaghextan chúng tôi được không?”
Câu chuyện giữa Xulâyman Xtanxki và Mắcxim Gorki đã được Épfenđi Kapiép dịch lại. Gorki hứa sẽ thực hiện yêu cầu của Xulâyman nhưng ông lại chỉ vào Kapiép, vừa nói thêm rằng bây giờ ở Đaghextan đã có một lớp thanh niên tài năng, đầy học thức, rằng sẽ tốt hơn rất nhiều nếu chính người Đaghextan viết về mảnh đất của mình bằng các thứ tiếng của nước cộng hòa. Bởi vì, Mắcxim Gorki nói tiếp, - như chúng ta vẫn thường nói: “Chẳng ai biết rõ căn nhà hơn bốn bức tường của nó”.
Những người trẻ tuổi mà Gorki nhắc đến giờ đã già nua. Họ đã viết và sẽ còn viết những cuốn sách về Đaghextan. Ngày xưa đời cha để lại cho đời con thanh kiếm và đàn panđur. Bây giờ là cây bút và cuốn sách. Không có ngày nào ở Đaghextan không sinh ra thêm một đứa con trai. Cũng không có ngày nào không xuất hiện thêm trên đời một cuốn sách mới. Bố tôi đã viết hơn 50 năm. Không đủ thời gian để viết. Bây giờ tôi lại viết. Và cả tôi nữa cũng không viết hết những điều muốn viết. Bởi vậy, thế vào con dao găm đặt dưới gối đứa trẻ trong nôi, tôi đặt cây bút và cuốn vở toàn giấy trắng. Bố tôi và tôi đều có chung một Đaghextan. Nhưng Đaghextan của bố tôi và của tôi đã khác nhau đến thế nào dưới ngòi bút của chúng tôi! Mỗi người đều có riêng cách viết, có riêng nét bút, có riêng giọng điệu của mình. Như vậy đấy, vẫn là cái xe ấy mải miết đi trên con đường xa, chỉ có điều đã thay người xà ích.
Bố tôi nói: “Hãy viết về những gì anh biết và có thể viết. Còn những gì không biết thì hãy tìm đuọc trong sách của người khác”
CUỐN SÁCH
Con làm bạn với sách đi. Những trang giấy trắng
Bao giờ cũng trung thành đón đợi mắt con nhìn
Dù con giàu sang, hay không một xu dính túi
Sách không bao giờ bội phản, phụ lòng tin!
Hãy áp trán chuyên cần trước mỗi trang sách mở
Mỗi dòng chữ chứa đầy vị mật ngọt thông minh
Hãy khao khát tri thức đi, không bao giờ thừa đủ
Trí tuệ chỉ đầy thêm khi thu nhận hết mình
Đó là thứ vũ khí con không nên rời bỏ
Là người bạn đáng tin, dù trách móc, nghi ngờ
Cuốn sách chẳng bao giờ giận hờn hay tủi hổ
Dù con có quăng đi, hay dằn dỗi, hững hờ
Hãy làm bạn tri thức đi, trong lòng nó rất giàu,
Tặng vật chứa rất nhiều, vườn quả dày chi chít,
Con vào đó tự do, được chiều như thượng khách,
Tha hồ hái quả chín đầy tay!
Con hãy trao gửi sách - ước mơ và cuộc sống
Giữa trái tim con sẽ xuất hiện hồn thơ
Hãy chia sẻ cùng thơ những gì xáo động
Thơ hào hứng tìm ra những giải không ngờ!
Khi các nhà thơ trẻ mang thơ mình đến cho bố tôi xem, trước tiên bố tôi bao giờ cũng xem nét chữ. Bởi vì: “Chủ ruộng thế nào, đường cày thế ấy”. Sau đó, ông sửa lỗi văn phạm, chính tả, đánh dấu ngắt câu. Ông lắc lắc đầu như muốn nói: hãy đọc viết cho đúng cái đã. Một vài vị nhà thơ trẻ rụt rè nhắc rằng đến “Hôme của thế kỷ XX” cũng còn không biết viết nữa là. “Chuyện đó tôi không biết!”. - Bố tôi nói với ông muốn làm “Hôme trẻ tuổi”.
Những ông “Hôme” như vậy bây giờ còn rất nhiều ở Đaghextan. Thậm chí các lỗi ngữ pháp trong thơ bao giờ cũng làm bố tôi bực tức. Khi thấy các bài thơ của mình in lên báo bị rất nhiều lỗi, ông đã làm bài thơ:
Bài thơ thật không may
Có ngờ đâu lại thế?
Tôi gửi cho báo đăng
Vừa đúng ngày đại lễ
Y như bột kiều mạch
Nó được giã, được nghiền!
Y như ai vác gậy
Phang cho một thôi liền!
Hay giống như trên đường
Gặp dăm tên nát rượu
Chúng cưỡi ngay lên lưng
Mà múa may đủ điệu!
…Bốn câu thơ tơi tả
Bị bợp đầu véo tai
Đến nỗi không thể hiểu
Ý ban đầu đúng, sai?
Đoạn kết thúc bài thơ
Bị quất roi điệu tới
Nên chúng sợ mất hồn
Chỉ còn cơ hấp hối!
Sơ sơ mỗi số báo
Vài chục “vật hy sinh”
Làm “anh hùng lộn chữ”
Các anh thật xứng danh!
Nhưng nếu tự phê bình
Đủ xoa trơn mọi sự
Thì mong báo chịu khó
Đăng cho bài thơ này!
Bố tôi…Những ai biết bố tôi, chắc mỗi người đều hình dung ra ông theo cách riêng của mình.
Tất nhiên, ông đã từng cày ruộng, cắt cỏ, chất rơm lên xe, cho ngựa ăn, cưỡi ngựa. Nhưng tôi chỉ thấy ông cầm sách trong tay. Ông cầm sách trong tay có vẻ như đó là con chim sẵn sàng vụt bay khỏi tay. Vốn là người mến khách, ông bao giờ cũng cảm thấy lúng túng, bối rối, khi có ai đến làm ông phải ngừng đọc sách, hệt như bắt ông phải cắt ngang lễ cầu nguyện. Vào những lúc bố tôi đọc sách, mẹ tôi bao giờ cũng đi rón rén, ngón tay lúc nào cũng đặt lên môi, bắt chúng tôi phải nói thì thào:
- Đừng làm ồn, các con, bố đang làm việc đấy!
Bà đã hiểu rất đúng rằng đối với nhà văn thì đọc sách là làm việc
Bản thân bà thỉnh thoảng đánh bạo lại gần ông xem ông có cần gì không, xem mực trong bình có còn không. Bà rất để ý theo dõi bình mực của ông và không bao giờ để nó cạn.
Nếu trong đời bố tôi, cho dù chỉ có hai ngày vui thì đó là nhờ sách đem lại.
Nếu trong đời bố tôi, cho dù chỉ có hai ngày buồn, thì đó là ngày do sách gây ra.
Đó là những cuốn sách mà ông đã đọc, và những cuốn sách mà ông đã viết.
Dù mọi người có yêu cầu ông điều gì, ông không bao giờ từ chối ai được. Nói “không” khi trên thực tế là “có” ông coi đó là điều dối trá nhất, là tội lỗi nặng nề nhất. Ông quả là rơi vào tình trạng bất hạnh thật sự khi có ai đó xin ông cuốn sách mà ông yêu quý. Sách đã đem cho, đã rơi vào tay người lạ, nhưng đôi tay của bố tôi vẫn còn dang ra về phía ấy. Khi người ta mang sách đi lâu ngày không trả lại, bố tôi viết thư cho anh ta: “Tôi rất buồn nhớ bạn của tôi, người bạn mà lần trước anh đã mang đi. Liệu bạn tôi có định trở về không?”
Bố tôi là con trai duy nhất trong một gia đình có tám người con (người con duy nhất trong nhà đội mũ). Và tất cả tám chị em ấy đều sớm thành mồ côi. Bố tôi phải rời làng quê từ lúc còn ít tuổi. Ông bác đỡ đầu mấy đứa cháu mồ côi đã đưa bố tôi sang làng khác, nói rằng: “Ở làng to thì cũng lắm trí khôn hơn!”. Từ ngày ấy bố tôi lang thang khắp làng nọ sang làng kia, trên vai lúc nào cũng khoác cái túi hình quả bầu - một bên đựng sách, một bên đựng bột mì rang. Phải nói rằng, khi trở về ông đã trở nên một người giàu có. Suốt những tháng năm phiêu bạt đó đây, ông đã làm giàu thêm bao nhiêu vốn hiểu biết của mình. Dạo ấy, trong buổi họp ngoài đình, dân làng đã nói với ông: nếu anh đem tài năng và kiến thức của mình mà buộc vào cỗ xe để kéo cỗ xe đi thì hành trình sẽ rất dài.
Và dân làng đã không nhầm. Tên tuổi bố tôi trở nên nổi tiếng. Nhiều dòng thơ của ông đã lưu truyền khắp nơi như những câu thành ngữ, phương ngôn.
Bố tôi viết rất nhiều, cả cho người lớn, cả cho trẻ con, cho những người đến với cuộc đời và cho những người từ giã cuộc đời. Ông làm thơ, viết trường ca viết kịch, viết ngụ ngôn, truyện cổ tích. Nét chữ của ông đều dặn, bình thản. Ngôn ngữ của ông cũng vậy. Bản thân con người ông cũng vậy. Hồi còn trẻ, ông luôn được đề nghị chép những tài liệu quan trọng như các nghị quyết, các lời kêu gọi nhân dân. Ông đã viết bằng các thứ chữ: Ả Rập, Latinh, Nga. Biết viết từ phải sang trái và từ trái sang phải.
Người ta hỏi ông:
- Sao lại viết từ trái sang phải?
- Bên trái là trái tim, bên trái là nhiệt hứng. Tất cả những gì yêu quý, chúng ta đều áp lên ngực trái.
- Thế vì sao lại viết từ bên phải sang?
- Bên phải là sức mạnh của con người. Là tay phải. Khi nhắm bắn cũng dùng mắt phải.
Đó tất nhiên là những lời nói đùa, nhưng việc học viết các thứ chữ khác nhau ấy thì không phải chuyện đùa. Riêng về thơ thì hầu như bao giờ ông cũng làm bằng tiếng mẹ Avar.
Có một số bài thơ làm bằng tiếng Ả Rập. Chủ yếu là những bài thơ rất riêng tư. Không một ai trong gia đình có thể đọc được. Nhưng số lượng các bài thơ ấy rất ít. Về nguyên tắc, ông chống lại thứ thơ như thế. Ông nói: “Thơ không thể là thứ thơ không đọc cho mẹ, cho chị, cho con gái nghe được. Tôi không thích thứ phim không cho trẻ em dưới 16 tuổi xem”.
Bố tôi thường dùng chữ Ả Rập hơn cả. Ông rất thích những chữ cái ấy, cách viết ấy, nhìn thấy trong đó vẻ đẹp lạ thường. Ông không thể chịu được lối viết ngoằn ngoèo, cẩu thả. Có lần ông nhận được bức thư của người bạn cũ viết bằng chữ Ả Rập rất cẩu thả, ông liền làm một bài thơ chế giễu:
Chữ này trông như trống lục lạc long đai
Mỗi cái chấm thành một hòn đá tảng
Chữ khác y như cái nhà kho mái thủng
Chỉ còn trơ cái cột cái kèo
Chữ kia đáng thương như mỏm đá cheo leo
Lại bị trên đầu một lèn đè nặng!
Chữ thứ tư như mũ trùm kín trán,
Cứ mỗi dòng đủ nguệch ngoạc cả trang
Như dùng vuốt mèo cào giấy cho hăng!
Chữ thành bụi cây xơ, thơ như rừng gặp bãi,
Chỉ còn cách anh thợ rừng vác rìu vào dẹp ráo
Thật kinh lạ cho anh: Học lối viết ở đâu ta?
Hồi ấy, những câu thơ này đã làm nhiều người phật ý. Một số người phật ý vì đã không hiểu đúng ý của bài thơ, một số người khác giận vì đã hiểu quá rõ ý bài thơ. Một số người lại cho rằng Gamzát đã không giễu cợt nét chữ quái dị của người viết và giễu cợt chính hình thù quái dị của các chữ cái Ả Rập.
Nhưng bố tôi không có ý định phê phán hệ thống chữ cái nói chung. Ông đã “ném đá vào vườn rau” của những kẻ bằng sự cẩu thả của mình đã làm hỏng nó, đã không biết sử dụng nó. Chưa bao giờ bố tôi chê bai một thứ chữ viết nào. Những kẻ dè bỉu một thứ chữ nào đó bố tôi đều khinh.
“Quân Ả Rập đã tấn công vào Đaghextan, đó là một sự thật, - bố tôi nói, - nhưng chữ viết Ả Rập chẳng có lỗi gì ở đây cả, và các cuốn sách Ả Rập cũng thế”.
Thường thường sau bữa ăn xế trưa, nhiều người trong làng đến tụ tập trên mái bằng nhà tôi. Bố tôi đã đọc cho họ nghe những câu chuyện, những bài thơ kỳ lạ. Âm điệu nhịp nhàng của các vần thơ Ả Rập đã vang lên.
Bố tôi không biết tiếng Nga. Ông phải đọc Tsêkhốp, Tônxtôi, Rômanh Rôlăng qua tiếng Ả Rập. Dạo ấy người miền cao chưa hề có khái niệm về một ai đó trong số đó. Ông yêu Tsêkhốp hơn tất thảy các nhà văn khác, ông đặc biệt yêu thích truyện “Con kỳ nhông” và ông thường hay đọc lại truyện đó.
Nhìn chung, tiếng Ả Rập ngày trước rất phổ biến ở miền chúng tôi. Một số người đã viết bằng tiếng Ả Rập vì Đaghextan chưa có chữ viết của mình; một số khác - thì vì cho rằng ngôn ngữ này phong phú hơn, giàu hình ảnh hơn các thứ tiếng Đaghextan. Tất cả các giấy tờ chính thức, các văn kiện điều được viết bằng tiếng Ả Rập. Tất cả các dòng chữ khắc trên bia mộ chí cũng là bằng tiếng Ả Rập. Bố tôi đọc rất thạo những dòng chữ ấy và giảng giải chúng.
Sau đó đến thời kỳ tiếng Ả Rập bị coi là tàn tích của chế độ tư sản. Những người biết đọc, biết viết tiềng Ả Rập đã phải chịu tai vạ. Các cuốn sách cũng bị vạ lây. Nhiều thư viện đã bị tổn thất lớn, những thư viện mà các nhà khai sáng Đaghextan Alibếch-Takhô-Gôđi và Giêlan Cormaxốp đã dày công sưu tập. Giêlan từng theo học ở Xoócbon, biết 12 thứ tiếng, từng là bạn của Antôn Frăngxơ. Ông đã đi khắp các làng vùng cao sưu tập sách cổ, bằng cách đem vũ khí, ngựa, bò, mà đổi lấy sách; sau này có khi công còn lấy bột mì, lấy vải để đổi nữa. Nhiều bản thảo quý cũng bị mất đi. Thật là một sự mất mát chua xót, không gì bù đắp được.
Bằng nhiều nét chữ, bằng nhiều thứ chữ trên nhiều thứ tiếng khác nhau người ta đã viết cuốn sách chứa đựng bao nỗi đau khổ của miền Đaghextan! Đã viết bởi vì không thể không viết, đã viết một cách vô tư, không đòi hỏi phải được đền bù, phải trả nhuận bút. Và người xuất bản cuốn sách đó là Cách mạng.
Đã xuất hiện tờ báo “Núi đỏ” mà sau này có lúc gọi là “Người vùng núi”, có lúc gọi là “Người bônsêvích vùng núi”. Trên tờ báo này, thơ của bố tôi lần đầu tiên đã được đăng. Trong nhiều năm, không những ông chỉ cộng tác với báo, mà còn làm thư ký tòa soạn. Dạo đó tôi rất ngạc nhiên thấy báo ấy đã kịp đăng thơ nhanh đến thế. Làm sao mà lại không ngạc nhiên được khi bài thơ hôm qua bố tôi vừa viết trước mắt tôi hôm nay lại có thể đọc trên báo rồi!. Sau đó các bài thơ gộp lại thành quyển sách. Bốn tập sách đầy nặng đã chứa đựng trong mình cả cuộc đời bố tôi, cả công việc của ông.
Ông đã mất trong phòng làm việc của mình, bên những cuốn sách của mình, bên cây bút, trang giấy đã viết và trang giấy còn trắng tinh mà ông chưa kịp viết. Những người khác sẽ viết tiếp trang giấy ấy. Đaghextan đang học, Đaghextan đang đọc, Đaghextan đang viết.
Còn bây giờ tôi xin kể chuyện tôi đã học thế nào. Đúng hơn là nên nói: tôi đã bị mọi người bắt học thế nào.
Hồi ấy tôi lên 5. Cả Đaghextan đều ngồi vào bàn học. Các trường đua nhau mở ra. Người già, trẻ con, đàn ông, phụ nữ đều đi học. Tôi còn nhớ cuốn tập đánh vần đầu tiên mà bố tôi đã mua cho tôi. Tự ông cũng đi khắp các làng vận động mọi người đi học. Ông đã phải buồn khổ bao nhiêu khi thấy Đaghextan vì thiếu chữ viết mà bị ngăn cách với nền văn hóa Nga vĩ đại
Ông nói: “Đaghextan là một phần đất nước vĩ đại của chúng ta. Đaghextan cần phải biết đất nước ấy, phải biết toàn thể nhân loại, phải biết đọc cuốn sách cuộc đời của nhân loại, hiểu được chữ của loài người”
“Con đường mới”, “Thế giới mới”, “Con người mới”- đó là khẩu hiệu của thời kỳ ấy. Bố tôi cũng đã để các con mình đón gặp tiếng gọi ấy của thời đại. Cái mới đã không dễ dàng tìm được cho mình đường đi. Nhiều cửa sổ trường học dạo ấy đã bị đập phá. Kẻ thù của giáo dục đã nói: “Thế giới này là cái gì khi kẻ chăn cừu thì đọc sách còn tên xay bột thì học bài? Chúng nó phải chăn cừu và xay bột!”. Còn có những chuyện tệ hại hơn. Tôi còn nhớ viên đạn nhằm bắn vào thày giáo và cắm phập vào tấm bản đồ treo trên tường nhà trường; và nhân chuyện này, bố tôi đã nói: “Suýt nữa thì tên cướp đã làm thủng cả thế giới này bằng một phát đạn!”.
Vào những năm đầu tiên ấy, trong nhiều làng, người ta đã cố kết hợp kiểu học mới với kiểu học tôn giáo cũ. Đã có nhiều trường hợp kết hợp như vậy. Thật khó mà phân biệt được đâu là cửa hàng mậu dịch còn đâu là chợ; đâu là Ali, còn đâu là Ômar. Mấy anh trai lớn của tôi thì được đến Trường thanh niên cộng sản. Tôi ghen tỵ với các anh, nhưng vẫn đành phải chơi bời lêu lổng, ngày ngày nóng lòng chờ đợi các anh về. Tôi rất thèm được đi học. Nhưng lúc ấy, tôi chưa đầy 7 tuổi.
Vào thời gian ấy, trong làng tôi có mở một trường dành cho những ai không muốn gửi con mình đến học ở thành Khunzắc. Trường học này một nửa là mang tính chất tôn giáo. Trường có tên là “Trường học Gaxan”.
Gaxan là một người tốt bụng nhưng tính khí gàn gàn. Sự gàn dở của anh thể hiện ở chỗ anh tin rằng hầu như có thể dung hòa cái mới và cái cũ. Họa chỉ có trời biết anh đã khéo léo dung hòa được cái mới, cái cũ trong con người mình thế nào! Ở làng này anh làm bí thư Đoàn thanh niên cộng sản, ở làng kia anh lại làm tu sỹ Hồi giáo. Chuyện này kết thúc thế nào thì kể cũng dễ đoán ra thôi: vì tu sỹ đạo Hồi nên người ta khai trừ anh ra khỏi Kômxômôn, và vì anh là đoàn viên Kômxômôn nên người ta không cho anh lảng vảng đến gần điện thờ cúng! Trong thời kỳ nội chiến anh là một du kích đỏ. Do ý muốn của số phận, anh đã là thày giáo đầu tiên của tôi, bởi vậy để các bạn dễ hình dung hơn con người này, tôi xin dẫn ra đây ba câu chuyện nhỏ buồn cười liên quan đến Gaxan.
1. GAXAN VÀ TÊN TÙ BINH
Các chiến sỹ du kích tóm được và bắt làm tù binh một tên lính phản cách mạng. Cần phải áp tải nó đến chỉ huy sở của Muxlim Ataép. Gaxan được giao nhiệm vụ đó. Lúc đầu mọi chuyện diễn ra tốt đẹp. Nhưng rồi đến giờ làm lễ. Gaxna dừng lại bên dòng suối nhỏ và bắt đầu cầu nguyện, còn tên tù binh thì đặt sang bên cạnh, nơi tảng đá. Tên tù binh yêu cầu cởi trói để ý cũng có thế làm lễ cầu nguyện được. Gaxan ngạc nhiên hỏi:
- Mày cầu nguyện làm gì? Mày là tên bạch vệ! Mày có cầu nguyện bao nhiêu đi nữa thì vẫn phải xuống địa ngục.
- Nhưng tôi là kẻ theo đạo Hồi, Muxlim Ataép sẽ không tha thứ tôi, sẽ bắt tôi đứng quay mặt vào tường ngay. Bởi vậy tôi cần phải được làm lễ cầu nguyện lần cuối cùng.
Gaxan cởi trói cho trên tù binh và nói:
- Đấy mày chửi bới Chính quyền Xô Viết là cấm kẻ theo đạo Hồi tin và Đức Allah. Đấy nhé, mày cứ việc khấn vái bao nhiêu mặc sức
Sau đó, Gaxan say sưa cầu nguyện đến mức khi quay lại thì chẳng thấy tên tù binh đâu nữa, y đã bỏ chạy. Lúc ấy, Gaxan nổi giận gào lên:
- Ta thề với Đức Allah, thế với Cách mạng rằng ra sẽ tìm ra mày và sẽ tóm được mày.
Và quả thật anh đã tóm được tên bạch vệ ở một làng nọ và đưa y về nơi quy định.
2. LỜI CẦU NGUYỆN VÀ BÀI CA
Vào những năm đầu tiên của Chính quyền Xô Viết, Gaxan làm thư ký Ủy ban Xô Viết xã. Con dấu Xô Viết xã vào thời kỳ ấy hoàn toàn bị mài mòn, trở nên nhẵn thín vì bất cứ thứ giấy tờ gì Gaxan cũng đóng dấu lên. Nếu gặp phải một vấn đề khó khăn, rắc rối là anh nói:
- Việc này ra nên hỏi ý kiến giáo sỹ và Ủy ban huyện.
Anh còn định chuyển ngày nghỉ từ chủ nhật sang thứ sáu - tức là ngày kiêng cữ của đạo Hồi. Anh rất nhiệt tình giải thích, phổ biến trong nhân dân và thi hành những chủ trương chính sách của Chính quyền Xô Viết. Anh hăng hái thúc đẩy việc sửa chữa điện thờ cúng trong làng đã từng bị đổ nát nhiều trong thời kỳ nội chiến.
Điện thờ cúng đã được sửa chữa xong. Người ta định ngày khánh thành. Đúng vào dịp đó có một đoàn cán bộ văn hóa đông đảo về huyện: nhà văn, họa sỹ, nghệ sỹ, ca sỹ, nhạc sỹ. Cả đoàn cán bộ từ trên huyện kéo về làng nơi Gaxan long trọng làm lễ khánh thành điện thờ cúng.
Khách được đón tiếp thịnh tình tại làng. Họ được xem đua ngựa, đấu vật, chọi gà. Các vị khách cũng không chịu lép một bề: họ cũng đăng đàn diễn thuyết, tường trình về các nhiệm vụ kinh tế sắp tới, biểu diễn nhiều tiết mục văn nghệ.
Giữa lúc buổi liên hoan văn nghệ đang diễn ra say sưa nhất thì một vị tu sỹ bước ra báo cho các người dân ngoan đạo biết rằng đã đến giờ làm lễ cầu nguyện buổi tối.
Lúc đó, Gaxan đứng bật dậy hướng về các vị khách và nói:
- Xin cảm ơn các bạn đã cho chúng tôi hân hạnh được đón tiếp vào một ngày đáng ghi nhớ như thế này, ngày khánh thành điện thờ Hồi giáo của chúng tôi. Xin cảm ơn về các tiết mục văn nghệ nữa. Còn bây giờ chúng tôi đi làm lễ. Các bạn muốn tiếp tục biểu diễn luôn cũng được, muốn chờ chúng tôi rồi hãy biểu diễn cũng được, hãy đi lễ cùng chúng tôi cũng được, tùy các bạn.
Một số dân làng đi sang chỗ điện thờ, một số người ở lại nghe hát tiếp, một số khác thì bối rối đứng lên không biết phải làm gì. Các vị khách càng hoang mang. Sau đó trên nhà mái bằng, được lấy làm sân khấu bước ra mấy ca sỹ nổi tiếng là Arasin, Ômar, Gazi-Mahômét và nữ ca sỹ Patimát ở làng Kêgher. Hai cái mũ, một cái khăn, hai đàn panđur, một trống buben. Và một bài ca mới bay vút trên khắp núi rừng. Đó là bài ca về Lênin, về ngôi sao đỏ, về Đaghextan đỏ. Họ đã hát bài hát ấy, khi thì nâng cao đàn panđur và trống buben lên, khi thì ôm vào ngực.
Bai ca đó đã làm nhiều người đang ở trong nhà cầu nguyện phải bước ra ngoài, và ngược lại, cũng có một số người đang đứng ở ngoài lại đi vào nhà cầu nguyện.
Và chuyện buồn cười ấy đến nay dân làng Gaxan vẫn còn kể lại.
Trong số người tham gia đoàn cán bộ văn hóa lần ấy có cả bố tôi là nhà thơ Gamzát Xađar, ngồi trên yên ngựa đằng trước ông lần ấy là tôi, dạo ấy còn chưa biế tý gì.
Khi chia tay, các vị khách có tặng dân làng một cái máy hát quay tay và chiếc loa phóng thanh.
3. CHIẾC LOA PHÓNG THANH VÀ GAXAN
Tôi không biết ai sử dụng, có lẽ chắc hơn cả là chính Gaxan. Chỉ có chiếc loa phóng thanh do các vị khách tặng là được mắc lên cột điện thoại gần điện thờ Hồi giáo. Từ sáng đến khuya tiếng đài phát thanh kêu ra rả trong làng. Vọng đến các triền núi chung quanh khi là tiếng kèn đội thiếu nhi, khi là tiếng người hát, khi là dàn nhạc nổi lên ầm ầm, khi là giọng người nói, khi thì chỉ rè rè, bục bục.
Đôi lúc giọng người tu sỹ trên giáo đường và tiếng loa hòa lẫn vào nhau, lúc ấy thì chẳng còn biết đầu cua tai nheo thế nào.
Thế rồi có lần, đứng trước lúc tu sỹ ra giáo đường làm lễ, thì chiếc loa câm bặt. Có ai đó đã lập mưu cắt đứt dây loa trên cột. Khi các con chiên ngoan đạo làm lễ xong, Gaxan trèo lên cộ