BÀI CA
BÀI CA
akian”. Từ Avar này có hai nghĩa: âm điệu và trạng thái, tâm trạng của con người, sự yên bình của thế giới. Khi muốn nói: “Anh chơi cho tôi nghe một bài hát nào đi”, người ta dùng chữ “bakian”. Khi muốn hỏi: “tâm trạng anh hôm nay thế nào?”, người ta cũng lại dùng “bakian”. Vậy là “tâm trạng” và “bài ca” đã hòa nhập làm một trong ngôn ngữ chúng tôi.
Trên cây đàn panđur có khi thấy ghi dòng chữ:
Dao găm làm người khỏe nằm xuống quan tài
Đàn panđur dựng người chết nằm trong quan tài dậy
Lời nói lọc qua tấm rây sẽ tán thành sẽ hóa thành bài hát. Đem thù hằn căm giận, tình yêu lọc qua tấm rây sẽ hóa thành bài hát. Sự kiện, việc làm của con người và cả cuộc đời lọc qua tấm rây cũng sẽ thành bài hát.
“Đặc biệt anh cảm thấy rất thân thiết với một bài ca miền Tavơlin. Lời bài ca không nhiều, nhưng tất cả vẻ đẹp của bài ca nằm trong điệp khúc: “Ai, đai! Đalalai!” Êrôska đã dịch lời bài hát đó: ‘Chàng trai đã xua cừu từ làng lên núi, quân Nga đến đốt làng, đánh đập đàn ông, bắt hết đàn bà đi. Chàng trai từ núi trở về: nơi trước đây là làng giờ là bãi đất không, không mẹ, không anh em, không nhà, không cửa, chỏ còn lại một cái cây. Chàng trai ngồi xuống bên gốc cây và khóc. Cũng như cây thôi, cây ơi, ta chỉ còn lại một mình. Và chàng trai cất tiếng hát “Ai, đai! Đlalai!” (Lép Tônxtôi, truyện “Những người Kazắc” )
…Ai, đai, đala-lai, đanla, đanla, đunla, đunla-lai, đunlalai! Hỡi những bài ca thân yêu, những bài cai buồn rầu của núi rừng, người đã sinh ra từ bao giờ và từ đâu vậy? Vì lẽ gì mà người đẹp thế, kỳ diệu thế?
Lời ghi trên cây đàn Panđur:
Những âm điệu này đâu chỉ riêng đàn rung
Mà những âm thanh sinh từ trái tim anh đấy!
Lời ghi trên dao găm:
Hai phía lưỡi dao, hai bài hát đối:
Cái chết của quân thù. Tự do của quê hương
Lời ghi trên nôi:
Không một ai trên đời
Nằm trong nôi thuở bé
Lại không nghe lời ru
Đầy dịu dàng của mẹ
Lời ghi trên phiến đá ven đường:
Con đường và bài ca là số phận chàng trai dũng cảm
Đường đi không tận cùng, bài ca không thể ngừng!
Lời ghi trên tấm bia mộ:
Anh đã hát cho bao nhiêu người nghe
Bây giờ anh mới được nghe người khác hát!
Những bài ca xưa, và những bài ca mới…Những bài hát bên nôi, những bài hát đám cưới, bài ca chiến đấu. Nhưng bài hát dài và bài hát ngắn. Những bài hát buồn và bài hát vui.
Khắp trái đất này đâu cũng hát những bài ca. Lời ca hạt cườm xâu trên dây bạc. Lời ca xuyên sâu tựa đinh cắm vào gỗ. Lời ca bay đi và lao vào trúng đích như mũi tên do cánh tay nhà thiện xạ bật đi. Bài ca kết lại, đưa đi xa như con đường mòn trên triền núi, theo đó có thể đi đến tận cùng thế giới.
Khoảng cách giữa nhưng dòng thơ khác nào đường phố có ngôi nhà người anh yêu. Nó như bờ ngăn trên ruộng của cha ông. Như thời khắc mặt trời lên và mặt trời khuất bóng ngăn cách đêm với ngày.
Bài ca ghi trên giấy và bài ca chưa được ghi. Nhưng cho dù bài ca ấy là thế nào đi nữa, nó cũng đều sẽ phải vang lên. Bài ca không hát khác nào cánh chim không bay, khác nào trái tim không đập.
Ở miền cao chúng tôi thường nói: khi người chăn cừu hát thì cừu thôi không gặm cỏ. Nhưng một khi bài ca vang lên trên sườn núi tươi màu cỏ xanh, thì đến cả những chú cừu non mới sinh ra cũng bỗng biết kiếm ăn.
Có một người yêu cầu bạn mình hát một bài bằng tiếng mẹ đẻ. Không biết vị khách vì không biết bài hát nào hay vì không biết hát, mà lại nói rằng ở miền anh ta không có bài hát nào.
- Như vậy thì anh cần phải xem lại chính bản thân anh có ở trên đời này không. Một dân tộc không thể tồn tại mà lại thiếu bài ca!
Ai, đai, đalalai! Đala-đala, đunla-lai! Bài ca là chiếc chìa khóa để mở kho báu của ngôn ngữ. Ai, đai, đalalai! Đala-đala, đunla-lai!
Tôi xin kể chuyện một bài ca đã ra đời như thế nào. Về chuyện này từ lâu tôi đã có bài thơ. Bài thơ đó như sau:
CON DAO VÀ CÂY ĐÀN KUMUZ
Thuở xưa có chàng trai
Sống sau đèo êm ả
Chàng trồng một cây vả
Chàng có một con dao
Chàng chăn một con dê
Thênh thang trên đồng cỏ
Rồi bỗng nhiên một lần
Chàng phải lòng công chúa
Chàng chăn một con dê
Không phải ngốc nghếch gì
Nhưng nghe chàng dạm hỏi
Đức vua chỉ cười khì:
Thôi về mà chăn dê
Sống cuộc đời như cũ
Yên tâm cùng cây vả
Yên tâm cùng con dao
Vui chỉ gả công chúa
Cho kẻ nào sang giàu
Có vàng như mây nổi
Có cừu đầy thung cao
Chàng trai buồn bã quá
Lòng như lửa cồn cào
Cánh tay chàng buông thõng
Đặt ngay vào chuôi dao
Chàng đem mổ con dê
Dâng lên trời hiến tế
Rồi một mình một dao
Hạ nốt cây yêu quý
Chàng đẽo gọt thân cây
Thành cây đàn kumuz
Và xoắn chặt ruột dê
Thành dây đàn óng chuốt
Tiếng đàn chàng dạo vang
Trong sương mù bí ẩn
Từng âm thanh thiêng liêng
Như lời kinh cầu khẩn
Thế là nàng công chúa
Si mê quyết lấy chàng
Chỉ vì hai vật báu
Con dao và cây đàn
Từ đó làng vùng núi
Áp vào thành đá cao
Ai cũng treo trên vách
Cây đàn và con dao
Cây đàn và dao găm. Trận chiến và bài ca. Tình yêu và chiến công. Lịch sử nhân dân tôi. Người miền cao đã dành vị trí trang trọng nhất cho hai vật đó.
Trong các ngôi nhà, trên tấm thảm treo tường, cây đàn và con dao găm bắt chéo nhau như một tấm quốc huy. Người ta cầm hai vật ấy một cách thận trọng, nâng niu với vẻ đầy kính nể. Không bao giờ tự nhiên mà lấy xuống. Nếu anh cầm con dao găm, một người lớn tuổi hơn anh đứng đằng sau anh sẽ nói: “Cẩn thận đấy, không lại làm đứt dây đàn panđur!” Nếu anh cầm lấy cây đàn thì một người nào đó lớn tuổi hơn đừng đằng sau sẽ nói: “Cẩn thận đấy, kẻo lại bị đứt tay!”. Người ta đúc hình cây đàn panđur. Trên tấm thắt lưng bạc của người con gái, trên đồ trang sức đeo trước ngực bao giờ cũng in hình cây đàn và con dao, như vẫn thấy trên tường, trên tấm thảm. Và khi ra trận, người ta mang theo cả dao găm lẫn đàn. Vị trí trang trọng nhất trong nhà - trên tường, nơi treo tấm thảm - bỗng trơ trọi, trống trải.
- Anh mang đàn ra trận làm gì?
- Thế này nhé! Chỉ cần chạm tay vào dây đàn, chỉ cần khẽ gảy cây đàn là ngay lập tức hiện ra trước mắt anh làng quê thân yêu và ngôi nhà của mẹ. Mà chính là vì tất cả những cái đó mà đi chiến đấu, vì những cái đó mà dám hy sinh thân mình.
“ Làng quê xích lại gần, khi kiếm kêu loảng xoảng” - trước đây các chàng dũng sỹ đã từng nói như thế. Nhưng không gì thu ngắn đường về làng quê bằng tiếng đàn panđur.
Ai, đai, đanla-lai, Đanla-đanla-đunla-lai!
Makhơmút đã hát trên triền núi Karpát và bên cạnh ông là làng quê, là những dãy núi thân thuộc. Và bên cạnh ông là nàng Mariam của ông, say này Makhơmút đã nhắn gửi lại đời sau:
Trên mộ tôi đừng đắp đất quá dày
Tai tôi sẽ bị nấm mồ che kín
Trái tim tôi không thể còn nghe tiếng
Những bài hát núi rừng vang xuống tự làng quê
Hãy chôn tôi cùng cây đàn panđur
Để tôi mãi hát ca khiến mọi người không ngủ
Để tiếng hát khi lòng tôi tưởng nhớ
Các cô gái làng xinh đẹp mãi còn nghe…
Hình như Makhơmút còn nói thêm rằng:
Khi tôi chơi đàn, núi cao như thấp xuống
Em có động lòng chăng, hỡi tình yêu của tôi, Mariam?
Khi tôi chơi đàn, rắn cũng còn nhảy nhót
Em có động lòng chăng, hỡi tình yêu của tôi, Mariam?
Các bạn có muốn biết, bài cao miền cao đã sinh ra từ đâu không?
Bài ca sinh ra từ ao ước của nhân dân
Ai biết được đâu, ngọn nguồn xuất phát
Ừ giữa lồng ngực của nhân dân bát ngát
Sục sôi trong máu nóng muôn người
Bài ca đến từ những vòm sao cao vời
Từ những xóm làng Đaghextan xa khuất
Và trước lúc anh được nghe bài hát
Đã có hàng trăm thế hệ từng nghe
Bài ca là những dòng suối núi. Bài ca là những kỵ sỹ phóng như bay từ mặt trận báo tin về. Bài ca là những người bạn thân bất ngờ từ xa đến thăm anh. Các bạn hãy cầm lấy cây đàn panđur, cầm lấy sáo, lấy kèn, tiêu, trống to, trống nhỏ; hãy cầm lấy chậu hay đĩa đồng thôi cũng được. Hãy vỗ vỗ bàn tay. Hãy gõ nhịp giày xuống đất. Hãy lắng nghe tiếng gươm khua chạm vào nhau lanh canh. Hãy lắng nghe âm thanh hòn đá cuội nhỏ ném vào cửa sổ nhà cô gái mình yêu. Hãy hát lên và lắng nghe những bài hát của chúng ta. Bài ca là sứ giả của nỗi buồn hay của niềm vui sướng.
Bài ca là tấm chứng minh thư của lòng trung thực và dũng cảm, của ý nghĩ và việc làm. Bài ca biến người trẻ trở thành dũng cảm và thâm thúy, biến người già và thâm thúy thành trẻ trung. Bài ca bắt kỵ sỹ phải tụt khỏi mình ngựa và đi chầm chậm lắng tai nghe. Bài ca bắt người đang say phải tỉnh táo trở lại mà suy ngẫm về số phận của mình, bắt người đang tỉnh phải ngây ngất như người ngà say. Trên thế giớ này còn biết thiếu điều gì không được nhắc đến trong các bài ca!
Hãy để người vùng cao ngồi bên bếp lửa ấm cúng, hãy mang đến cho anh ta sừng rượu sủi bọt, rồi yêu cầu anh ta hát. Anh ta sẽ cất tiếng hát. Và sẽ hát cho đến sáng, chỉ cần bạn nói với anh ta thật ngọt ngào và nói rõ bạn muốn nghe anh hát về gì. Về tình yêu chăng?
Thì sẽ có ngay bài hát tình yêu:
Ai, đai, đalalai!
Tình yêu đỏ rực như máu người, như hoa cẩm chướng
Tình yêu cũng đen như đêm đen, như sự dối lừa
Tình yêu trắng như giải băng trinh bạch
Lại cũng trắng như vải liệm thây ma
Xanh hơn trời xanh, nhưng cũng xanh hơn băng đá
Tình yêu như ánh sao mơ ước tuyệt vời
Tuyết có thể tao, dòng suối có thể vơi
Chỉ có hoa tình yêu không bao giờ tàn lụi
- Cái gì đẹp nhất trên thế giớ này?
- Hoa viôlet tím ngắt trên sườn núi.
- Cái gì đpẹ hơn hoa viôlet trên sườn núi?
- Tình yêu.
- Cái gì rực rỡ nhất trên thế giới này?
- Mặt trời trên đỉnh núi ban mai.
- Cái gì rực rỡ hơn mặt trời trên đỉnh núi ban mai?
- Tình yêu.
- Ai, đai, đalalai! Các bạn muốn tôi hát gì thêm nữa?
- Hát về những cặp tình nhân đã chết vì tình yêu.
- Rômêô và Giuliét, Takhia và Zukhơra, Tơrixtan và Irônđa…
Lẽ nào ở miền Đaghextan chúng ta lại ít chuyện như thế? Ở miền đất chúng ta đã có biết bao nhiêu người yêu nhau mà không được thuộc về nhau!. Ước mơ của họ đã không thành sự thật, đôi môi họ không được kề bên nhau, canh tay họ không được quàng lấy nhau. Chiến tranh đã cướp đi nhiều cuộc đời trẻ trung; nhiều cuộc đời trẻ trung cũng đã bị tình yêu cướp đi. Những chàng trai cô gái ấy đã cháy lên trong lửa, đã lao từ vách đá cheo leo, đã gieo xuống dòng sông sâu chảy xiết. Đất là cô gái làng Azaini và chàng trai ở làng Kumức. Đây là câu chuyện của họ, tình yêu của họ. Tôi xin kể lại đoạn cuối của tình yêu ấy, câu chuyện mà cả Đaghextan ai ai cũng biết.
Chàng trai làng Kumức đến Azaini ngắm nhìn cô gái mình yêu. Nhưng nàng không xuất hiện. Bốn ngày, bốn đêm chàng chờ đợi người yêu. Ngày thứ năm, anh lên ngựa quay trở về làng:
Anh ngó xuống, chỉ thấy đất khô cằn
Anh ngó lên, chỉ thấy trời xanh thẳm
Không hiểu từ đâu mưa thấm
Làm anh thấy ướt ủng đang đi?
Hóa ra trên mái nhà, nàng Mêxêđa
Đang ngồi khóc đầm đìa không dứt
- Suốt bốn đêm ngày, anh chờ em mỏi mắt
Sao em không xuống cùng anh?
- Nghe vó ngựa anh từ xa lộp cộp
Các chàng trai liền nhốt chặt em vào
Bốn lần cửa, bốn lần khóa kín
Bốn ngày em ngồi, không biết tính sao
Nhưng đến ngày thứ năm, tim em không chịu nổi
Em phá vỡ tung cả bốn khóa rồi
Tình yêu cho em sức mạnh tuyệt vời!
Anh biết đâu người ta đang tính toán
Đem bán em đi như món hàng đơn giản
Cho kẻ không yêu giàu có tham lam
Anh xuống yên đi, và ở lại cùng em…
….Nhưng chàng thanh niên làng Kumức không muốn ở lại:
- Anh đã lên yên không mặt nào tháo cơi
Bè bạn xóm giềng biết chuyện nghĩ sao?
Bạn anh chúc anh thẳng đường tiến bước
Anh về không còn mặt mũi nào!
Hay anh sẽ đi, nhưng để trái tim anh lại
- Các anh của em sẽ cấu xe ngay giờ!
- Hay anh để lại cho em đôi mắt?
- Các anh của em sẽ chọc nó đui mù!
Anh hãy cho ngựa đến cuối làng
Ngoảnh đầu lại, nhìn em lần cuối
…Mưa sẽ là nước mắt em tuôn chảy
Tuyết mịt mùng là nỗi khổ của lòng em
Chàng thanh niên kiêu hãnh làng Kumức ba lần quất ngựa, ba lần ngoảnh lại nhìn rồi rời khỏi Azaini. Ba tuần lễ trôi qua. Tuyết phủ khắp núi đồi. Nàng Mêxêđa bất hạnh không muốn làm vợ người mình không yêu đã lao từ trên vách đá. Đêm trước hôm ấy, bố và các anh trai đã xua đuổi nàng Mêxêđa bướng bỉnh ra ngoài trời đang bão tuyết
Vào đêm ấy nàng đã cất tiếng hát:
Hãy đẻ lấy một trăm con gái
Để cho cha gả bán thỏa lòng
Để có dịp chơi bời nhậu nhẹt
Chìm nghỉm luôn giữa đống bạc vàng!
Còn các anh, hãy kiếm lấy vợ giàu
Không hôn vợ mình mà hôn đống của
Sống lãnh đạm không tình yêu đôi lứa…
Hỡi tuyết lạnh đang vò xé thân ta
Hỡi nước trong lòng suối chảy chan hòa
Hãy hóa thành bạc đi, thứ bạc ta nguyền rủa
Còn người em yêu, mong sao anh yên ngủ
Anh chỉ nhìn trước thôi, chờ nhìn lại đằng sau
Không hiểu vì nghe được tiếng than của nàng Mêxêđa đang hấp hối, hay vì trái tim đã mách bảo, mà chàng trai làng Kumức đã phóng đến như bay trên mình con ngựa đã sùi bọt mép. Chàng đã biết chuyện đau buồn mới xảy ra. Chàng buông yên cương và rời khỏi ngựa. Cởi thắt lưng và tháo vũ khí ra. Đập mạnh vào đá cho súng mình gãy vỡ. Tiến lại gần người cha và mấy anh trai người yêu vừa mất, chàng trai nói:
“Tôi phá làm chi nhà các người yên ổn
Tôi cũng chẳng mài dao để hại các người
Chẳng muốn dùng thép trả thù cũng không dùng đạn
Chỉ muốn nhìn nàng lần chót mà thôi”
Người cha mở tấm vải liệm lên
Chàng trai tái xanh, tức thì ngã ngất
Họ mở ngực cô gái ra, chàng cúi nhìn một khắc
Rồi nhào xuống bên nàng, chàng tắt thở theo
Số phận của chàng trai và cô gái đã hòa nhập thành một, chỉ có thể xác họ là tách rời. Biết làm gì đây, biết mai táng họ thế nào? Lúc ấy, dân chúng bèn họp nhau lại bàn cách mai táng. Từ khắp miền Đaghextan, nhiều nhà thông thái cũng về làng Azaini.
Những bậc tiên tri nổi tiếng của tình yêu đã nói:
Cuộc sống vụt tắt rồi
Dòng máu đông lạnh lại
Một tình yêu hòa chung
Cho cả đôi trai gái
Hãy đào một mộ chung
Để họ đừng chật chội
Họ bị đời phân chia
Cái chết giờ tụ lại
Áo choàng chung một tấm
Đất vun chung một gò
Bia mộ chung một phiến
Xin mọi người cùng lo!
Mọi người đã làm theo như đã nói. Bên tấm mộ mọc lên một bông hoa màu đỏ. Tuyết rơi cũng không làm cánh hoa héo lại. Tuyết vừa chạm vào hoa tiền tan thành nước. Hệt như bông hoa đỏ ấy là ngọn lửa. Dưới chân mộ, một mạch nước trong vắt tuôn ra. Người ta đã uống dòng nước ấy. Hai bên mộ còn mọc lên hai cây. Ngay trong truyện thần thoại cũng chưa từng có thứ cây nào đẹp thế.
Khi gió lạnh thổi tới - những cành cây rời ra. Khi gió ấm thổi về - cành cây chụm lại, hệt như đó là hai người yêu nhau đang ôm choàng lấy nhau - chàng trai làng Kumức và cô gái làng Azaini.
Tôi cũng định hát thêm bài ca về chàng Ali, nhưng bài đó rất dài. Bởi vậy hãy cho phép tôi, cũng giống như trong truyện kể vừa rồi, lúc thì kể bằng thơ, lúc thì kể bằng lời nói của mình.
Tại một làng nọ có chàng trai tên là Ali. Anh có người vợ trẻ đẹp và một người mẹ già. Anh đi vào núi chăn cừu rất lâu.
Có một người tìm đến gặp Ali và truyền lại lời mẹ anh bảo phải bỏ đàn cừu để trở về nhà ngay
Ali cảm thấy có điều gì chẳng lành. Có phải tai họa nào đã xảy đến. Vì sao lại phải cần đến anh? Có tai họa xảy ra thì ai gây ra, nếu chnẳg phải là người vợ trẻ của anh?
Anh hỏi người đưa tin, nhưng người này im lặng. Ali bèn khẩn khoản cầu xin, nổi giận, rút dao găm đe dọa đến lúc đó người kia mới chịu kể với Ali:
Vợ anh xinh đẹp thế, Ali
Đêm yên tĩnh, bốn bề yên ả,
Anh có biết vì sao Ali
Có tiếng cọt kẹt ngoài khung cửa?
Vợ anh còn trẻ quá, Ali
Đêm tuyết phủ bốn bề kín hết,
Anh có biết vì sao, Ali,
Có dấu chân người in trên tuyết?
Không phải gió làm rung cửa sổ
Mà vợ anh mở cửa ai hay
Nàng không đeo chiếc vòng anh tặn
Nhẫn cưới nàng chẳng giữ trên tay!
Tất nhiên là Ali phải chạy vội về làng. Không kịp ghé chào mẹ, Ali đến thẳng ngay buồng người vợ trẻ. Vợ anh muốn cởi cho chồng tấm áo khoác ngoài và chiếc mũ, đưa cốc rượu buza cho anh, muốn anh nghỉ một lúc sau chặng đường xa.
Anh thay áo quần, nhắm rượu buza
Phó mát, bánh mì, em để trong nhà
-Anh cần hỏi em đo thử hai vai ai
Để may áo khi anh đi vắng?
-Anh cởi mũ ra, ông chủ của em
Người dũng sỹ của em, người em yêu tài giỏi
-Em rót rượu buza mời ai
Trong khi anh chăn cừu trong núi?
Ali rút dao găm, đâm hai nhát vào vợ mình.
- Cầu hạnh phúc cho anh, tráng sỹ Ali
Và sống đủ ba trăm năm chẵn
Hãy nhìn kỹ em đây, Ali
Em nằm giữa máu tuôn thành vũng!
Cầu Đức Allah tha tội cho anh
Sức mạnh của anh là ơn huệ Chúa
Anh hãy xốc em lên trên tay
Rồi đặt lên giường cho tử tế
-Tôi sẽ đặt, -Ali nói thế,-
Nếu cô dám nói thật cùng tôi
Quà tặng tôi đâu, chiếc vòng bạc quý
Và nhẫn cưới tôi trao tặng đâu rồi?
-Anh mở hòm rương, tráng sỹ Ali,
Cả nhẫn cả vòng vẫn nằm dưới đáy!
Không có anh ở bên cạnh em
Em đeo làm chi đồ trang sức ấy!
Ali chạy đến bên mẹ:
- Sao mẹ cho gọi con, có chuyện gì xảy ra vậy?
- Vợ con nhớ con, bọn trẻ nhớ con. Ừ mà mẹ cũng nghĩ rằng con sẽ mang thịt cừu tươi về. Lâu lắm ở nhà không được ăn.
Ali ôm đầu chạy lại sang buồng của vợ
Đôi mắt tắt rồi, ánh sáng không còn nữa
Tay đã lạnh, ngực không còn thở nữa
Ali khóc ròng, quỳ bên thây vợ
Cái sống không sao chuộc lại nữa rồi!
Và lần thứ ba, Ali tuốt dao
Lưỡi thép sắc còn ròng ròng máu đọng
Anh quay vào mình, cắm dao thật mạnh
Và ngã theo luôn xuống cạnh nàng
Câu chuyện này đã kết thúc như thế. Người ta đã chôn hai người bên nhau. Hai cây đã mọc lên gần bên mộ họ
Tôi còn hát gì thêm cho các bạn nghe đây? Hay là về Kamalin Basir? Kamalin Basir? Là ai vậy?. Đó là một thứ Đông Gioăng của miền Đaghextan, nếu có thể gọi được như thế. Người ta kể rằng, khi anh ta uống nước thì có thể trông thấy rõ dòng nước trong chảy qua cổ họng. Vì làn da anh vừa mỏng, vừa mịn màng. Và chính bố anh ta đã cắt rời chiếc cổ đó. Vì lẽ gì vậy. Vì lẽ rằng con ông quá đẹp.
Tuy Kamalin Basir chết rồi nhưng người ta vẫn còn hát tiếp về tình yêu như đã hát trước đây.
Đứa trẻ còn đang nằm trong nôi mà người mẹ đã hát bài ca tình yêu.
Một lần nữa, tôi lại phải nhớ đến trò chơi bình dị của nhân dân miền chúng tôi. Trò chơi ấy có tên gọi là “bakiđê rakhin”.
Đó là một thứ thi đua về thơ, một cuộc đua tài về trí thông minh sắc sảo, về khả năng tìm thật nhanh chữ dùng cần thiết và thích đáng - trò chơi đó là như vậy.
Làng nào ở Đaghextan cũng biết trò chơi này. Vào những buổi tối mùa đông dài dẵng các chàng trai cô gái trong làng lại tụ tập nhau ở một ngôi nhà nào đó. Họ không uống rượu vốtka, không đánh bài sát phạt nhau, không tí tách cắn hạt dưa, không chơi đùa cớt nhả mà chơi “trò chơi làm thơ”. Đó chẳng phải là một điều đẹp đẽ sao?
Một chiếc đũa nhỏ xuất hiện. Một cô gái cầm trên tay. Cô gái chạm đũa vào một chàng trai và hát:
Anh cầm lấy đũa này, anh xinh đẹp nhất
Và chọn cô nào xinh đẹp nhất ở đây
Chàng trai chọn ra cô gái mà anh cho là xinh xắn nhất, cô gái ngồi xuống chiếc ghế đẩu. Giữa hai người bắt đầu diễn ra cuộc đối đáp bằng những lời thơ:
Em xinh đẹp, hỡi em xinh đẹp
Em tên gì, gốc gác ở đâu?
Mọi người xung quanh hòa theo nhịp vỗ tay và hát: “Ai, đai, đalalai!”
Em không nói tên em cho anh
Mà chỉ nói cho người khác
Em không hứa tình yêu với anh,
Mà chỉ hứa cùng người khác!
Mọi người vỗ tay theo và hát “Ai, đai, đalalai!”
Cô gái rời ghế đứng dậy, giơ đũa chỉ chọn chàng trai sẽ ngồi xuống thế vào chỗ cô. Lại một đôi trai gái nữa bắt đầu hát đối đáp. Cô gái:
Tuyết phủ trắng núi đồi
Không thấy con đường nhỏ
Hỡi chú cừu lông tơ
Biết chốn nào gặm cỏ?
Chàng trai:
Tuyết sẽ tan, chảy hết
Như dòng bạc long lanh
Còn chú cừu anh thả
Lên ngực em mát lành!
“Ai, đai, đalalai!” Một đôi mới lại ra
Cô gái:
Cái giếng kia mát lạnh
Bờ đá có rồng ngồi
Con dê vàng bé bỏng
Không uống nổi nước rồi!
Chàng trai:
Cái giếng kia mát lạnh
Rồng không dọa nổi ai
Con dê con uống nước
Trong mắt em tươi ngời!
“Ai, đai, đalalai!” Một đôi mới khác
Chàng trai:
Hang đá rền bão tuyết
Băng đống dày trên sông
Anh yêu em muốn cưới
Anh xây nhà được không?
Cô gái:
Anh hãy chọn người yêu
Trong một làng nào khác
Em là gà gô dại
Không nuôi được trong chuồng!
“Ai, đai, đalalai!” Mọi người vỗ tay theo và cười rộ. Những buổi tối mùa đông dài đã trôi đi như vậy.
Những bài ca Đaghextan về tình yêu! Khi chàng trai này đang ngỏ lời xin lấy cô gái, thì những kẻ khác đã trơ tráo đánh cắp mất cô gái!
Khi chàng trai này đang nhẹ nhàng gõ vào cửa nhà người yêu thì kẻ khác đã trèo qua cửa sổ.
Các thế kỷ trôi đi, và các bài ca vẫn sống mãi, sống mãi. Các ca sỹ làm nên bài ca, nhưng những bài ca cũng đã làm nên ca sỹ.
Liệu có thể có đám cưới thiếu bài ca, có thể có ngày nào trôi qua không tiếng hát, có thể nào con người sống thiếu bài ca?
Ở miền Đaghextan, người ta thường nói: “Ai không biết đến bài hát nào, kẻ đó nên sống dưới chuồng bò”.
Người ta kể chuyện về Makhơmút thế này! Trong thời kỳ chiến tranh thế giới thứ nhất, ông ở mặt trận Karpát cùng với trung đoàn kỵ binh Đaghextan. Ở đất ông đã làm bài ca nổi tiếng “Mariam”, và các bạn chiến đấu của ông đã hát bài hát đó mỗi lần nghỉ lại trên đường hành quân. Lịch sử của bài hát này như sau:
Trong một trận chiến đấu ác liệt, quân Nga đã chiếm được một làng, đuổi được quân Áo ra khỏi đó. Truy kích theo quân địch bỏ chạy. Makhơmút tới bên một nhà thờ. Một tên lính Áo hoảng hốt vụt chạy ra khỏi nhà thờ, nhưng khi nhìn thấy Makhơmút với vẻ mặt bừng bừng căm giận ngồi trên mình ngựa, thì thụt ngay vào nhà thờ.
Mới cách đây mấy ngày, người anh của Makhơmút vừa bị giết nên ông đang hăm hở trả thù. Ngay lập tức, Makhơmút nhảy khỏi mình ngựa, rút dao găm lao theo tên lính Áo và tưởng tượng rằng chỉ lát nữa thôi là sẽ băm vằm tên lính đó ra. Nhưng vừa chạy vào trong nhà thờ Makhơmút bèn đứng sững lại.
Ngay trước mặt mình, Makhơmút trông thấy tên lính Áo đang quỳ xuống làm dấu khấn trước tấm ảnh Đức mẹ Maria.
Ở Đaghextan không bao giờ dao đâm kẻ đang quỳ, hơn nữa lại đang khấn nữa. Thêm vào đấy, Makhơmút bị sửng sốt bởi vẻ đẹp của người phụ nữ mà tên lính Áo đang khấn khứa.
Bất chợt, Makhơmút bỗng nhìn thấy trước mặt mình là nàng Mu-i, người con gái ông yêu - nhìn thấy đôi mắt nàng, nỗi buồn đọng trong khóe mắt nàng, dáng vẻ, quần áo nàng. Con dao găm tuột rơi khỏi tay ông. Không rõ sau này, tên lính Áo kia đã kể lại câu chuyện này thế nào, chỉ biết rằng người lính kỵ binh lúc nãy vừa tỏ ra dữ tợn thế bây giờ cũng quỳ xuống bền cạnh, vụng về dơ tay làm dấu theo kiểu đạo Thiên chúa. Makhơmút không biết tên lính Áo đã biến đi lúc nào. Khi tỉnh lại, ông đã làm bài thơ bất tử “Mariam” có nghĩa là bài thơ về nàng Maria.
Đối với ông, Mu-I mà Maria đã nhập hòa lại thành hình ảnh duy nhất. Ông viết về Maria mà nghĩ về nàng Mu-i; ông viết về nàng Mu-i mà nghĩ về Đức mẹ Maria.
Từ ngày ấy, trên đời này Makhơmút chỉ còn biết đến tình yêu. Tâm hồn ông không chứa được các bài hát khác. Trong số các nhà thơ Đaghextan, chưa từng người nào đạt đến đỉnh cao của tình yêu mãnh liệt như ông, chưa từng có ai đạt đến độ sâu sắc như các bài thơ của ông. Ông không hề nhận thấy rằng mình đang làm thơ, rằng đang nói lên bằng thơ, không phải là nói mà là hát. Dường như có ai đã nói và hát thay cho ông. Những gì tốt lành làm được ông đầu nói là nhờ tình yêu với nàng Mu-i. Nếu bạn ông không nói với ông về nàng Mu-i thì ông không buồn nghe bạn nói nữa.
Bố tôi có kể về Makhơmút như thế này
Từ đấy, rất nhiều người tìm đến gặp Makhơmút. Họ toàn là những người đang yêu. Họ hiểu sức mạnh lời nói của ông và đề nghị ông làm thơ cho họ. Đã đến gặp ông, chàng trai lần đầu tiên phải lòng cô gái mà không biết nói thế nào với cô về tấm tình của mình. Đã đến gặp ông, chàng trai có người yêu bỏ đi lấy người khác và bây giờ chàng trai bất hạnh đó không biết sống thế nào với nỗi buồn giằng xé ngày đêm. Đã đến gặp ông, chàng trai đem lòng yêu người góa bụa lòng vẫn một mực hướng về người chồng đã khuất, chàng trai không biết làm thế nào nhen lại ngọn lửa lòng cho nàng. Đã tìm đến với ông, nhưng người bị người tình phụ bạc. Đến với ông là những người bị mối tình vô vọng thiêu đốt con tim. Đến với ông là những người đang bị rối trí trong tình ái. Đến với ông là những người xích mích trong tình yêu. Đến với ông là những người sống trong cảnh biệt ly. Bao nhiêu người yêu nhau bấy nhiêu tình yêu khác nhau.
Makhơmút đã làm thơ cho riêng từng cảnh ngộ tình yêu. Và những người yêu nhau đã tìm được tới nhau, những ai giận nhau thì thuận hòa trở lại, người quả phụ buồn rầu, nghiêm nghị thấy mình đỡ cô quạnh hơn, chàng thanh niên mới lớn trở lên bạo dạn hơ, kẻ bạc tình tự thấy xấu hổ, người bị lừa sẵn sàng tha thứ.
Có lần, người ta hỏi Makhơmút:
- Làm sao anh có thể làm đủ các bài thơ hợp với tâm trạng của nhiều người khác xa nhau nhất?
- Số phận của một người có thể chứa trọn trong một trái tim người. Có phải tôi đã làm thơ về họ chăng?
Làm thơ về tình yêu, về nỗi đau của họ chăng? Không, tôi làm thơ về chính mình. Là con một người thợ đốt than, thời trẻ tôi đã yêu nàng Mu-i ở làng Bétli, Sau đó Mu-i đi lấy người khác. Trái tim tôi rớm máu. Rồi chồng Mu-i bị chết, nàng trở thành góa bụa. Vẫn như trước đây, lòng tôi chẳng chút nào được thanh thản…Không, tôi đã nếm trải hết tình yêu, và không việc gì tôi phải làm thơ về tình yêu của người khác.
Người ta kể rằng nhiều người mẹ mất con, chị mất em, vợ mất chồng ngoài mặt trận cũng tìm đến Makhơmút yêu cầu ông làm bài thơ khóc than. Nhưng ông đã không làm nổi một bài thơ nào như vậy. Ông trả lời:
- Làm sao giữa làng xóm bình yên tôi lại có thể làm thơ về chiến trận, trong khi ngay ở ngoài chiến trận tôi cũng chỉ làm thơ về tình yêu?
Nhân đây cũng xin dẫn ra thêm mấy lời dân miền cao thường nói về chuyện đó: “Chỉ khi có chiến tranh, mới biết quý bài hát yên lành”. Và đây nữa: “Hãy ra ngoài chiến trận để thử thách tình yêu của mình”
Con dao găm có hai lưỡi sắc: một là tình yêu đất nước quê hương, hai là lòng căm thù giặc. Cây đàn puđur cũng có hai dây: một dây ca hát căm thù, dây kia ca bài hát tình yêu.
Người ta thường nói: người thanh niên miền cao khi nằm thì một tay ôm người bạn gái, tay kia giữ lấy chuôi dao. Chẳng phải ngẫu nhiên mà nhiều bài ca và câu chuyện xưa đã kết thúc bằng cảnh chàng trai trở về làng trên mình ngựa với cô gái ngồi trong lòng mình.
Khi bốc những ngôi mộ xưa trên núi, người ta tìm thấy dao găm và lưỡi kiếm:
- Tại sao không thấy đàn panđur?
- Đàn panđur không bao giờ bị chết, để cho người sống còn hát mãi những bài ca về các anh hùng đã khuất. Vậy là nếu mọi thứ vũ khí trên đời này biến mất, sẽ chẳng còn lại một dao găm nào, thì bài hát cũng không bao giờ biến mất.
Bố tôi nói rằng vị khách bình thường là khách của nhà anh. Nhưng vị khách là nhà thơ, vị khách là nhạc sỹ thì đó là khách của cả làng. Cả làng đón và tiễn người khách như thế.
Chẳng hạn như Makhơmút, đâu đâu ông cũng được tiếp đón thịnh tình ở các vị tổng đốc. Có thể vì vậy mà các ngài tổng đốc không ưa các ca sỹ tự do chăng?
Bố tôi kể lại rằng trước đây có hai khách bộ hành đi trên miền Đaghextan. Khi chiều xuống, một người cất tiếng nói:
- Này, có lẽ ta nghỉ lại thôi? Trời sắp tối rồi. Mình thấy cậy mỏi mệt và lạnh cóng rồi đấy. À, mà kìa, có một làng nhỏ đấy. Ta rẽ vào xin ngủ lại đêm đi.
- Mình quả là mỏi mệt và lạnh cóng rồi. Có lẽ mình ốm rồi cũng nên. Nhưng mình không muốn dừng lại làng này đâu.
- Sao vậy?
- Đây là làng buồn tẻ. Chưa từng ai nghe thấy có tiếng người hát ở đây
Có thể rằng các vị khách bộ hành nọ đã gặp phải một cái làng như thế. Nhưng không ai có thể nói với nhau như sau về cái miền Đaghextan: đây là xứ sở không nghe tiếng hát, bởi thế chúng ta nên tránh đi qua.
Bêxtugiep-Marlinxki đã đưa vào cuốn sách của mình nhiều bài ca Đaghextan, và Biêlinxki đã nhận xét rằng các bài ca ấy còn có giá trị hơn cả bản thân cuốn sách. Ông nói rằng đến Puskin cũng chẳng phải ngượng ngùng gì nếu gọi đấy là tác phẩm của mình. Chàng thanh niên Lécmôntôp cũng đã nghe bài ca của người miền cao ở vùng Temir-Khan-Sura. Mặc dù không hiểu tiếng nói của chúng ta, nhưng chàng vẫn say sưa thưởng thức. Giáo sư Uxlar nói rằng giai điệu miền Guníp là một món quà tuyệt đẹp tặng cho loài người.
Ai đã đem lại cho chúng ta những bài ca và những âm thanh ấy? Ai dạy cho người miền cao những cảm xúc đấy?
Đó là chim ưng và ngựa, kiếm và cỏ cây, nôi trẻ và bốn dòng sông Kôixu, sóng biển Caxpie và nàng Mariam của chàng Makhơmút, cả lịch sử của Đaghextan, tất cả các tiếng nói tồn tại trong đó, cả Đaghextan này.
Có lần người ta hỏi Abutalíp:
- Ở Đaghextan có bao nhiêu nhà thơ?
- Có lẽ đến ba bốn triệu nhà thơ?
- Sao, sao? Tất cả số dân chỉ mới đầy một triệu thôi mà?
- Anh nên nhớ, mỗi người dân có tới ba bốn ca sỹ ẩn mình trong đó. Chỉ có điều không phải ai, không phải lúc nào người ta cũng hát. Không phải mọi người đều biết như vậy.
- Tuy nhiên những ai là ca sỹ hay nhất?
- Bao giờ cũng tìm được ca sỹ hay hơn ca sỹ hay nhất. Nhưng tôi có thể gọi tên một ca sỹ hay nhất.
- Là ai vậy?
- Đó là người mẹ Đaghextan. Nói chung là người miền cao chỉ có ba bài hát
- Những bài hát gì?
- Bài hát thứ nhất là bài hát mẹ ru khi ngồi bên nôi người con trai mới chào đời
- Thế còn bài hát thứ hai?
- Bài thứ hai là bài người mẹ hát khi mất đứa con trai
- Thế còn bài hát thứ ba?
- Bài hát thứ ba - đó là tất cả các bài còn lại.
Phải rồi, người mẹ…Người minh chứng chân thực - cho dù có thiên kiến - của những gì nở rộ và héo tàn, sinh trưởng và diệt vong, những gì đang đến và đang đi. Người mẹ khẽ đung đưa nôi, người mẹ bế con trên tay, người mẹ ông choàng đứa con đã vĩnh viễn bỏ mẹ mà đi.
Đó là vẻ đẹp, là sự thật, là lòng trung thực
Trên đời này có kẻ xấu, người tốt, thậm chí bài ca cũng có bài hay nhiều, hay ít. Nhưng người mẹ và bài ca của mẹ bao giờ cũng đẹp
Những bài ca mẹ ru tôi trên nôi lẽ tự nhiên là tôi không nhớ được. Nhưng sau đó tôi đã được nghe trong nhiều làng nhiều bài ca đẹp đẽ kể cả các bài hát ru. Đây chỉ là một bài trong số đó:
Con hãy lớn lên thành người sức vóc
Đủ sức giật mồi từ răng sói ra!
Con hãy lớn lên thành người khéo léo
Gỡ lại chú chim từ vuốt báo ra!
Con hãy lớn lên thành người hiểu biết
Biết nghe người già, biết kết bạn bè
Con hãy lớn lên thành người thông minh
Biết giang canh vượt khỏi nôi cha mẹ
Con là con trai của mẹ ruột rà
Là con rể với một người mẹ khác
Đối với vợ con, con chỉ làm chồng
Đối với đất nước, con phải thành bài hát!
Thật là cả một niềm tin mãnh liệt! Bố tôi đã nói: chưa từng có người mẹ nào không biết hát. Không có người mẹ nào mà tự trong đáy lòng mình không phải là nhà thơ.
Cơn mưa trong mùa khô hạn - là con
Mặt trời trong mùa ẩm ướt - là con
Môi con là hai tầng mật ong
Mắt còn là hai trái nho chín mọng
Tên còn còn ngọt hơn mật ngọt
Mắt con vuốt ve ánh mắt mẹ nhìn,
Con là nhịp đập trái tim
Con cũng là chìa khóa mở trái tim của mẹ
Con là hòm rương bịt bạc
Con cũng là vàng ròng mẹ cất ở trong rương
Con hôm nay là chiếc bánh nhỏ mềm
Mai đây con sẽ là viên đạn
Con sẽ thành búa tạ
Đập vỡ tảng đá to
Con sẽ thành mũi tên chính xác
Không đi trượt đích bao giờ
Con lớn lên sẽ múa giỏi tuyệt vời
Có giọng hát ngọt ngào như mật
Con sẽ thành người chạy nhanh bậc nhất
Thành tráng sỹ tài ba phi ngựa như bay
Dưới vó ngựa của con, bụi sẽ bốc dày
Như mây tỏa trên bầu trời vần vũ…
Kẻ nào không được nghe tiếng mẹ hát ru thì cũng có thể như là mồ côi, bố tôi nói thế. Và ai lớn lên thiếu cha thiếu mẹ nhưng được nghe hát từ trong nôi những bài hát miền Đaghextan thì không thể gọi là mồ côi. Ai có thể cất tiếng hát nếu chưa từng có mẹ, chưa từng có cha? Chính Đaghextan đã hát, chính núi cao đã hát, dòng suốt đổ xuống từ núi cao đã hát, những con người sống giữa núi rừng đã hát.
Con gái ơi, con là bó chỉ vàng
Con là dải băng gài đầu bằng bạc
Con là mặt trăng trên núi
Con là con dê con thung thăng khắp mỏm cao
Kẻ ươn hèn hãy tránh cho khuất mắt
Con gái ta không thể gả cho mi!
Kẻ nhát sợ đừng loao hoay bén mảng
Con gái ta không thể gả cho mi!
Con gái ơi con là đóa hoa xuân
Con là vòng hoa kết liền đẹp nhất
Con là tấm thảm dệt bằng cỏ mượt
Con gái ngọc ngà yêu quý của ta
Dầu ai đổi cho ta đến ba đàn cừu
Lấy đôi lông mày con gái ta, không đổi!
Dầu ai đem cho ta ba bọc vàng ròng
Lấy đôi má con gái ta, không đổi!
Đừng nói gì đôi má hồng con gái
Đến cái nùm đồng tiền trên má cũng không!
Một người mẹ khác lại hát khác:
Ai chỉ cầm thanh củi mà giết chết con báo
Thì ta gả con gái cho,
Ai chỉ dùng nắm tay đập vỡ tan tảng đá
Thì ta gả con gái cho,
Ai chỉ dùng cái roi mà pháo đài bị hạ
Thì ta gả con gái cho,
Ai nhai được mặt trăng như nhai phó mát
Thì ta gả con gái cho,
Ai ngăn nổi con sóng giữa sông,
Thì ta gả con gái cho,
Ai ngắt được ngôi sao như ngắt hoa trước mắt
Thì ta gả con gái cho,
Ai dám buông cương mà phi trước gió
Thì ta gả con gái cho,
Con gái ta như quả táo thơm má đỏ
Hay đây là một bài hát cầu mong:
Bông hoa chưa kịp nở
Con gái ra đã trưởng thành rồi
Dòng suối chưa kịp trôi
Con gái ta đã đến thời tết tóc
Chưa sang mùa giá tuyết
Đã có người đến dạm hỏi con.
Đến dạm hỏi con, họ mang lễ vật
Khiêng tới nhà ta đầy chum mật
Cả bầy cừu lớn nhỏ lùa theo
Trả ơn cha vất vả đã nhiều
Hãy bảo họ gắng thêm chút nữa
Cha con rất thích nuôi bầy ngựa!
Hay như bài hát ru bên nôi tỏ nỗi ước mong:
Trước cả tiếng chim ríu rít tinh mơ
Đã thấy con gái tôi ngoài ruộng lúa
Trước lúc con cu gù cúc cu trong rừng
Đã thấy con gái tôi ngoài bãi cỏ
Bỏ mặc các cô gái đẹp làm duyên
Con gái tôi đã mang bình ra suối
Nếu như không có những bài hát ru, có thể là trên đời này không có bài hát khác. Đời con người sẽ buồn tẻ, vô vị hơn, các chiến công sẽ ít hơn, chất thơ trong cuộc đời sẽ ít hơn.
Các bà mẹ là những nhà thơ đầu tiên nhất. Mẹ đã gieo vào tâm hồn con trai con gái của mình những hạt giống thơ cả để rồi những hạt giống đó sau này sẽ đâm chồi, nảy lộc, nở hoa, kết trái. Vào những giờ phút nặng nề, khó khăn, kinh khủng nhất của đời mình sau này là những người đàn ông sẽ còn nhớ lại bài hát mẹ ru bên tôi
Khátgi-Murát đã nói với một chiến sỹ nhát gan: “Chắc là mẹ anh không ru anh bên nôi”.
Còn chính khi Khátgi-Murát phản bội Samin, bỏ theo quân Nga, thì Samin đã khinh bỉ nói qua kẽ răng: “Anh ta đã quên bài hát ru của mẹ”.
Mà bài bát ru của mẹ anh ta là thế này:
Con hãy nghe mẹ hát
Với nụ cười trên môi
Về con người dũng cảm
Biết tự hào không nguôi
Chàng mang một thanh gươm
Đi giữ gìn phẩm giá
Nhẹ nhàng nhảy lên yên
Dạy thuần ngay chú ngựa!
Chàng qua mọi biên giới
Như dòng sông vùng cao
Chặt đứng ngang dải núi
Bằng tia chớp lưỡi dao
Cây gỗ sồi trăm tuổi
Một tay chàng uốn cong…
Mong con mẹ lớn khôn
Khỏe như chàng dũng sỹ!
Người mẹ nhìn vào gương mặt trẻ thơ đang mỉm cười và tin vào lời bài hát của mình. Và bà không thể biết được những thử thách nào đang chờ con trai bà, Khátgi-Murát.
Khi nghe tin Khátgi-Murát rời bỏ Samin và đi sang phía kẻ thù, bà mẹ lại hát một bài hát khác:
Con đã nhảy từ mỏm cao xuống vực
Khi không còn biết sợ mỏm cao nào
Hố sâu thắm chỉ một lần lao xuống
Con không bao giờ quay lại nổi đâu!
Trong đêm tối, con nhiều phen táo tợn
Tập kích xong mau mắn trở về nhà.
Nhưng lần này tự nộp mình cho địch
Con sẽ không trở lại nổi bao giờ!
Ngày tháng, mẹ nhìn hóa thành đen tối
Vừa đớn đau vừa trống rỗng không ngờ,
Còn thân con đã rơi vào vuốt sắt
Con sẽ không trở lại nổi bao giờ
Coi khinh đức vua, coi khinh thủ lĩnh,
Mới chỉ đáng nửa thôi mọi tai họa đang chờ.
Nhưng tới lúc con coi khinh xứ sở
Con sẽ không trở lại nổi bao giờ!
Sau đó, như ta biết, Khátgi-Murát định rời bỏ người Nga và một lần nữa quay trở lại phía quân mình. Nhưng ông ta không trốn thoát và đã bị giết. Người ta đã chặt cái đầu của Khátgi-Murát sau khi ông ta chết. Trong rừng núi lại xuất hiện một bài ca khác của bà mẹ:
Họ vung tay, đầu con lìa khỏi cổ
Nhưng mẹ chẳng tin vào những lời đồn
Bao việc họp bàn, bao trận giao tranh nóng bỏng,
Chiếc đầu con hẳn còn cần!
Thân con không đầu, dọc đường vùi lấp,
Nhưng mẹ chẳng tin vào những lời đồn
Cả vùng cao còn sục sôi chiến trận
Cánh tay và đôi vai con còn cần!
Hãy hỏi súng, hỏi gươm sắc nhọn
Phó tướng của Samin đã mất hay còn?
Những tảng đá quanh đây còn tỏa mùi thuốc đạn
Và mặt đất khỏi bay còn ghi dấu đời con
Tên con như tên chim ưng đỉnh núi
Tiếc thay cuối đời đã bị lu mờ,
Chỉ lấy gươm chúng thực lòng ngay thẳng
Và lấy gươm xóa nỗi nhuốc nhơ!
Bài ca của mẹ là sự khởi đầu, là ngọn nguồn của mọi bài ca con người. Nụ cười đầu tiên và giọt nước mắt cuối cùng - bài ca của mẹ đã là như thế.
Bài ca sinh ra từ trong trái tim, trái tim truyền lại cho miệng hát, miệng hát truyền lại cho mọi trái tim và mọi trái tim truyền mọi bài hát cho muôn đời sau.
Đến đây, kể chuyện thêm vầ bài hát đó nữa nghĩ cũng đúng chỗ.
BÀI CA CỦA MẸ SAMIN
“Người ta thường tìm trong một bài ca một thứ - hoặc là nụ cười, hoặc là nước mắt. Thế nhưng người miền cao chúng ta bây giờ chẳng cần cả hai thứ đó. Chúng ta đang chiến đấu. Lòng dũng cảm không thể than van, khóc lóc cho dù thử thách có ác liệt đến đâu. Mặt khác, chúng ta cũng chẳng có gì để vui mừng. Nỗi buồn rầu, u sầu đang trĩu nặng lòng ta. Hôm qua ta đã xử phạt mấy người trẻ tuổi vì tội đã múa hát cạnh bên điện thờ. Bọn họ thật ngu ngốc. Ta còn thấy cảnh đó lần nữa, ta sẽ phạt lần nữa. Nếu các người cần đến thơ thì hãy lấy kinh Côran ra mà đọc. Hãy học thuộc lòng bài thơ của đấng tiên tri. Thơ của ông đã được khắc vào bên cổng Caaba”
Samin đã cấm mọi người ở Đaghextan hát như thế đấy. Đàn bà hát sẽ bị đánh bằng chổi phất trần, đàn ông hát sẽ bị roi vọt. Mệnh lệnh là mệnh lệnh. Không ít ca sỹ về thời đất đã phải chịu đòn roi.
Nhưng lẽ nào lại có thể bắt bài ca im tiếng? Có thể bắt ca sỹ im lặng nhưng không thể bắt bài ca im tiếng. Chúng ta đã thấy nhiều tấm bia đặt trên mộ người chết. Nhưng đã ai thấy mộ chôn bài ca?
Trên mặt tấm bia mộ tôi đọc được dòng chữ: “Đã chết như mọi người đang chết và sẽ chết”. Về bài ca, thì có thể nói: “Đã không chết, không lụi tàn, và không bao giờ biến mất”. Người ta đã xử sự tàn nhẫn với bài ca đến thế nào trong những năm chiến tranh vì giữ đạo Hồi ấy, tuy vậy nhiều bài ca vẫn sống, lưu truyền lại đến tận ngày nay và bây giờ, trớ trêu thay, lại được gọi là “bài ca của Samin”
Bây giờ xin nói về bài ca của mẹ Samin…Vào những ngày ấy quân địch chiếm được làng Akhungô. Trận chiến đấu này đã sản sinh ra nhiều anh hùng, nhưng tất cả đã nằm lại bãi chiến trường. Những người bị thương không muốn đầu hàng, đã nhảy xuống dòng sông Kôixu Avar. Trong số những người bị bao vây có cả em gái của Samin cùng mấy đứa con.
Vào những ngày thê thảm nặng nề đó, thủ lĩnh Samin, mình đầy thương tích mệt mỏi quay trở về làng quê Ghimrư. Chưa kịp trao dây cương cho quân lính, ông đã nghe thấy tiếng hát. Hay đúng hơn là tiếng khóc:
Hãy khóc đi dân các làng miền núi,
Hãy khóc người hy sinh và tưởng niệm đời đời!
Pháo đài Akhungô, kẻ thù đã chiếm,
Dưới đó không còn sống sót một người!
Tiếp đó bài hát kể hết tên các anh hùng đã chết. Người làm bài hát xin mọi người hãy mặc áo tang đen. Người ta nói rằng, biết được tin đau buồn ấy, mọi dòng suối trên núi đều khô cạn. Bài hát còn cầu xin Đức Allah phù hộ cho người miền cao, cổ vũ sức mạnh cho thủ lĩnh Samin, giữ gìn yên lành sinh mệnh của Giamalutđin, đứa con nhỏ 8 tuổi của Samin hiện đang bị giam giữ làm con tin trong cung vua của Hoàng đế Nga ở Pê téc bua.
Samin ngồi xuống phiến đã, ngón tay để vào bộ râu rậm rạp, đưa mắt dò xét nhìn mọi người đứng quanh rồi hỏi:
- Iunút, bài hát này bao nhiêu câu tất cả?
- Thưa thủ lĩnh, một trăm linh hai câu
- Hãy tìm người làm bài hát này và đánh đúng 100 roi. Còn 2 roi để lại cho ta
Người lính hầu vội vàng rút roi ra:
- Ai làm bài hát này?
Tất cả mọi người đều im lặng
- Ta hỏi lại: ai làm bài hát này?
Ngay lúc đó người mẹ già của Samin, lưng đã còng, vẻ mặt buồn rầu bèn bước tới, tay cầm chổi phất trần.
- Con trai của mẹ, mẹ đã làm bài hát này. Nhà mình hôm nay có tang. Con hãy cầm chổi phất trần này. Hãy tự mình thi hành mệnh lệnh của mình.
Thủ lĩnh Samin cúi đầu nghĩ ngợi. Sau đó ông lấy chổi phất trần từ tay người mẹ, đặt vào chân tường rồi nói:
- Thôi mẹ về nhà đi.
Quay lại nhìn con, bà mẹ trở về nhà. Khi bà vừa đi khuất sau ngõ, Samin tháo nhanh kiếm, trút bỏ dây lưng, cởi chiếc áo dài.
- Không thể đánh mẹ được. Lỗi của bà ta, là con Samin phải nhận.
Cởi trần đến thắt lưng, Samin nằm xuống đất và nói với người lính hầu:
- Sao anh lại giấu roi đi? Lấy roi ra và thi hành ngay điều ta vừa nói:
Người lính hầu do dự. Thủ lĩnh cau mày: người lính hầu biết rõ hơn ai hết điều gì sẽ xảy ra tiếp theo.
Anh ta bắt đầu quất roi xuống mình thủ lĩnh, nhưng quất roi nhẹ, không phải trừng phạt mà là xoa dịu, Samin bất thần đứng dậy và quát:
- Nằm xuống thay ta!
Người lính hầu nằm xuống chiếc ghế băng dài. Samin cầm lấy chiếc roi từ tay anh ta và quất ba roi rất mạnh. Trên lưng người lính hằn lên ba vết đỏ.
- Đấy, phải đánh như thế, hiểu chưa? Bây giờ thì bắt đầu đi và chớ có dở thói láu vặt nữa đấy.
Người lính hầu quất mạnh xuống lưng thủ lĩnh, vừa đánh vừa đếm
- Hai mươi tám, hai mươi chín…
- Không, mới hai mươi bảy thôi, Đừng có đếm nhảy cóc, ăn gian như vậy nghe chưa!
Mồ hôi vã ra trên trán người lính; anh ta giơ ống tay áo lên lau. Tấm lưng Samin bây giờ trông giống như một dãy núi với những con đường rạch qua ngang dọc hệt như một ngọn đồi bị nhiều đàn ngựa xéo nát.
Cuối cùng, nhục hình kết thúc. Người lính hầu tránh sang một bên, miện thở phì phò. Samin đóng bộ vào, đeo vũ khí bên mình, Quay về phía mọi người, ông nói:
- Hỡi đồng bào, chúng ta cần chiến đấu. Chúng ta không còn lúc nào để làm bài hát, để hát và kể chuyện cổ tích nữa. Hãy để cho kẻ thù phải hát ca ngợi chúng ta. Các thanh kiếm của chúng ta sẽ dạy cho chúng làm việc đó. Hãy lau khô nước mắt, hãy mài sắc gươm dao. Chúng ta mất Akhungô, nhưng Đaghextan còn sống, và cuộc chiến tranh chưa kết thúc.
Tiếp sau ngày hôm ấy, Đaghextan còn chiến đấu thêm 25 năm nữa, cho đến lúc tiếng súng trong trận chiến đấu cuối cùng ngưng bặt. - căn cứ trên núi Guníp bị rơi vào tay giặc.
Trong lúc trận đánh Guníp kép dài mấy ngày đang diễn ra ác liệt, thủ lĩnh Samin bước tới điện thờ làm lễ cầu nguyện.
- Tai họa này chưa bao giờ Đaghextan biết đến!- Nàng Patimát, người vợ cả của Samin thốt lên.
- Mình nhầm rồi Patimát ạ, Đaghextan trước đó cũng đã gặp một tai họa khác.
- Tai họa nào vậy?
- Ấy là lúc mặc dầu có người vợ như mình rồi, ta còn lấy thêm nàng Suainát.
Thủ lĩnh Samin cười vang lên. Những chiến sỹ bị thương nằm ngay trong điện thờ cũng cười vang. Có cảm tưởng như cả Đaghextan cùng cười khi lần đầu tiên nghe thấy tiếng cười vị thủ lĩnh của mình.
Samin đã cười vào giờ phút khó khăn nhất với cả Đaghextan, khi tất cả những gì ông đã cố công xây đắp nên và tự hào, vào thời khắc này đang sụp đổ. Ông đã cười mấy giờ trước khi bị bắt làm tù binh
Bỗng Samin im lặng, vẻ mặt ra chiều tư lự. Ông bảo cả ba người vợ của mình ngồi lên những phiến đã núi Guníp và nói:
- Các cô hãy hát cho ta nghe bài hát mà người mẹ quá cố của ta đã làm.
Ba nàng Patimát, Napixát, Suainát cùng cất tiếng hát:
- Hãy khóc đi dân các làng miền núi…
Những âm thanh cuối cùng của bài ca vừa dứt. Trăng trên trời cao chiếu sáng. Vị thủ lĩnh ra chiều buồn bã…
- Hát lại lần nữa cho ta…
Ba nàng Patimát, Napixát, Suainát lại cất tiếng hát. Đến lần này bài ca lại bay xa hơn. Những vách đá buồn bã hiện ra dưới ánh trăng, những tán cây liễu rủ, những hàng bạch dương trên núi rừng Guníp đều lắng nghe tiếng hát.
- Hát lại lần nữa cho ta!…- Samin nói to như quát.
Âm thanh bài ca lại càng bay xa. Bây giờ thì cả những xóm làng quanh Guníp đang bốc cháy, những xóm làng yên ắng trên triền núi xa, và cả những người lính hy sinh đã nằm sâu dưới mộ cũng lắng nghe bài hát. Nhưng rồi một ngày mới lại đến, trận chiến đấu lại tiếp diễn, - trận chiến đấu cuối cùng. Và khi tiếng đại bác cuối cùng đã ngừng nổ, thì tiếng hát cũng không còn nghe thấy nữa.
Thủ lĩnh Samin biến thành một tù binh danh dự. Quân Nga trao lại cho ông vũ khí và ngựa, giữ nguyên ba người vợ cho ông, nhưng chỉ không để lại Đaghextan cho ông; chúng mang ông đi thật xa, lên tận cùng phía Bắc. Với ông, chỉ còn lại từ Đaghextan duy nhất một bài ca mà người mẹ già đã sáng tác thủa nào. Mới đầu ba người vợ ông đã hát cho ông nghe bài hát đó. Sau đấy chỉ còn lại nàng Napixát và Suainát. Rồi cuối cùng, trên sa mạn Aravia, lúc sắp từ giã cuộc đời, Samin đã nghe bài ca ấy từ miệng nàng Suainát, người vợ cuối cùng, bài ca cuối cùng của ông.
Khi mọi người kể chuyện nàng Suainát, bố tôi nói: “Nàng là người phụ nữ xinh đẹp nhất trong nhà Samin. Nàng là người vợ sau cùng của Samin và là tình yêu đầu tiên của ông. Thủ lĩnh Samin, cũng như nhiều người dân vùng cao khác, đã lấy nhiều vợ như tập quán ở đây thường thấy. Thế nhưng…nàng Suainát thì quả thật với ông đã là một phần thưởng tuyệt vời. Khi vị phó tướng dũng cảm nhất của Samin là Acvécđin Mahômét tấn công vào Môz-đốc, anh ta đã bắt được người con gái đẹp là Anna, con một lái buôn, người Armênia. Chuyện đó xảy ra vào ngày trước đám cưới của nàng. Acvécđin đem “chiến lợi phẩm” bọc kín trong tấm áo choàng ra, vị thủ lĩnh không nhìn thấy gì khác hơn là đôi mắt mở tô màu biếc xanh tưởng như kết lên từ bầu trời Đaghextan. Đôi mắt ấy không một chút sợ sệt nhìn thẳng vào vị thủ lĩnh. Đôi mắt ấy nhìn thấy đôi ủng da cao mỏng mềm màu đỏ, nhìn thấy vũ khí, bộ râu, đôi mắt của ông. Cô gái Armênia con trẻ ấy đã nhìn thấy trước mặt mình một người không thể gọi là trẻ trung hay đẹp đẽ. Nhưng có cái gì thật hấp dẫn, cuốn hút trong dáng vẻ bên ngoài của ông. Bên cạnh vẻ uy nghi, lẫm liệt, còn toát ra vẻ dịu dàng, đôn hậu. Đôi mắt hai người gặp nhau. Người chiến binh khắc khổ ấy thoáng thấy lòng mình mềm yếu. Cảm giác ấy thật mới lạ với ông và ông cảm thấy sợ hãi. Ngay lúc đó vang ra giọng nói đầy uy quyền của ông:
- Hãy lên ngựa và đem cố gái này về nơi anh đã bắt được
- Thưa thủ lĩnh, việc gì phải thế? Nàng rất đẹp. Tất cả đều sẵn sàng rồi
- Ta biết vì lẽ gì phải thế, còn việc của anh là thắng yên cương
- Thế phải lấy tiền chuộc bao nhiêu?
- Anh cứ việc đem trả, không bắt chuộc gì cả.
Acvécđin Mahômét kinh ngạc. Chưa từng bao giờ Samin trả tù binh mà không bắt chuộc. Nhưng không thể tranh cãi với ông được.
Mahômét nói với cô gái tù nhân của mình rằng:
- Bây giờ ta sẽ đưa nàng về với bố mẹ. Bố mẹ nàng chắc sẽ rất mừng. Nàng hãy nói với bố mẹ rằng Samin không phải là một tên cướp.
Khi người ta dịch lại cho Anna nghe lời nói của Mahômét thì nàng kinh ngạc nhìn lên Samin. Mọi người đều nghĩ rằng nàng không thể tin được vào hạnh phúc bất ngờ vừa đến.
Người ta nhắc lại với nàng lần nữa.
- Thủ lĩnh chúng tôi rất lấy làm tiếc về việc đã xảy ra. Ông ra lệnh đưa nàng về nguyên quán mà không đòi ai phải chuộc gì cả
Lúc ấy, người đẹp bỗng hướng về Samin mà nói:
- Hỡi thủ lĩnh Đaghextan! Chẳng ai nghĩ bắt em về đây cả. Đấy là em tự đến với chàng để thành tù nhân của chàng
- Sao, sao?
- Để được nhìn thấy vị anh hùng mà cả miền Kápkazơ, cả thế giới đã nói đến. Chàng muốn làm gì thì làm, nhưng em muốn tự nguyện làm tù nhân của chàng và sẽ chẳng đổi điều gì để lấy bất cứ cái gì khác. Em chẳng rời đây đi đâu cả.
- Không, tốt hơn hết là nàng hãy đi khỏi đây
- Chẳng lẽ đây lại là lời của Samin, người mà ai cũng coi là người đàn ông dũng cảm sao?
- Đó là lời của Đức Allah
- Thượng đế không thể nói như vậy
- Đức Allah của ta và Thượng đế của nàng nói khác nhau
- Kể từ giờ em là tù nhân của chàng, hỡi thủ lĩnh Đaghextan! Em là nô lệ của chàng. Kể từ giờ Đức Allah của chàng sẽ là Thượng đế của em. Từ khi còn bé, em đã được nghe nhiều bài ca về chàng và em nhớ một bài ca như thế. Bài ca ấy đã in sâu vào trái tim em.
Cô gái trẻ Acmênia bỗng cất tiếng hát một bài hát đẹp tuyệt vời, với lời ca không ai hiểu cả. Trăng hiện ra từ sau đỉnh núi cao. Và người con gái miền Acmênia vẫn còn hát bài ca về Samin
Acvécđin Mahômét lúc này mới trở lại. Anh ta nói:
- Thưa thủ lĩnh, ngựa đã thắng yên cương. Liệu tôi đã