CHƯƠNG 5 MẶT TRẬN MỸ
TAOS, NEW MEXICO
[Arthur Sinclair Junior là hình ảnh đặc trưng cho giới quí tộc của thế giới cũ: cao, gầy, tóc bạc cắt ngắn và mang chất giọng đớt miền Harvard. Ông nói vào hư vô, rất ít khi nhìn vào mắt tôi hay dừng lại cho tôi hỏi. Trong cuộc chiến, ngài Sinclair là giám đốc cục DeStRes mới mở của chính phủ Mỹ, hay nói đầy đủ ra là Department of Strategic Resources[38].]
Tôi chẳng hiểu ai nghĩ ra cái từ viết tắt “DeStRes” hay liệu họ có nhận thấy nó nghe rất giống “distress” không nhưng rõ ràng là không thể nào hợp. Thiết lập tuyến phòng ngự ở Dãy Rocky có thể tạo ra một “khu an toàn” trên lí thuyết nhưng thực tế khu đó chủ yếu chỉ toàn gạch đá và dân tị nạn. Số lượng người bị chết đói, bệnh tật, vô gia cư lên đến hàng triệu. Công nghiệp đang trong tình trạng bất ổn, giao thông vận tải và trao đổi thương mại đã đình trệ hoàn toàn, và vấn đề còn bị lũ thây ma đang tấn công Phòng lũy Rocky cũng như đang bùng phát lại trong vùng an toàn của ta làm phức tạp hóa thêm. Chúng ta phải vực người dân đứng lên lại — cho họ cơm ăn, áo mặc, nhà cửa, và đưa họ trở lại làm việc — nếu không thì cái vùng an toàn này sẽ chỉ để trì hoãn điều không tránh khỏi mà thôi. Đây là lí do DeStRes được thành lập, và như anh có thể tưởng tượng, tôi phải vừa làm vừa học rất nhiều.
Tôi không thể nào tả nổi trong mấy tháng đầu tiên tôi phải nhồi nhét bao nhiêu thứ thông tin vào trong cái bộ não già khô quắt này; nào là giao ban, nào là đi thanh tra… khi mà tôi có thời gian để ngủ, dưới gối bao giờ cũng là một quyển sách, mỗi đêm lại có một quyển mới, từ Henry J. Kaiser cho đến Võ Nguyên Giáp. Tôi cần mọi ý tưởng, mọi câu chữ, mọi gam kiến thức và trí tuệ để giúp tôi hàn gắn mảnh đất hoang tàn này lại và biến nó trở thành cỗ máy chiến tranh hiện đại của Mỹ. Nếu lúc bấy giờ bố tôi mà còn sống, ông chắc sẽ cười vào mặt cái sự đau khổ của tôi. Ông rất ủng hộ chính sách Kinh tế Mới, làm quan chức thân cận của FDR dưới vai trò kiểm soát viên bang New York. Ông sử dụng những cách thức mà bản chất gần như là Mác-xít, cái thể loại tập thể hóa mà có thể khiến Ayn Rand đội mồ dậy và gia nhập hàng ngũ bọn thây ma. Hồi trước tôi luôn tránh xa những bài học mà ông cố tìm cách truyền lại cho tôi, đâm đầu vào tận Phố Wall để không phải học. Giờ tôi đang vắt óc ra để nhớ lại. Có một thứ mà mấy tay Kinh tế mới ấy làm được giỏi hơn bất cứ thế hệ nào trong lịch sử nước Mỹ đó là tìm ra và khai thác được đúng thứ công cụ và tài năng.
Công cụ và tài năng?
Một thuật ngữ có lần con trai tôi nghe được trong phim. Tôi thấy nó tả khá chuẩn nỗ lực tái thiết của ta. “Tài năng” chỉ lực lượng lao động tiềm năng, mức độ chuyên nghiệp của lực lượng ấy, và cách thức tận dụng nguồn lao động đó một cách có hiệu quả. Thẳng thắn mà nói, nguồn tài năng của ta thấp ở mức kinh hoàng. Nền kinh tế của ta mang tính chất hậu công nghiệp hay nói cách khác là kinh tế dịch vụ, phức tạp và chuyên môn hóa cao đến độ mỗi cá nhân chỉ có thể hoạt động được trong khuôn khổ cấu trúc bó hẹp đã được phân hóa của mình. Anh đáng ra phải được đọc về vài cái “chức vụ” liệt ra trong bản điều tra dân số đầu tiên của chúng tôi; ai nấy cũng đều là một kiểu “điều hành viên”, một “nhà đại diện”, một “nhà phân tích” hay một “nhà tư vấn,” tất cả đều rất phù hợp với xã hội thời tiền chiến, nhưng tất cả lại đều không thích hợp với cuộc khủng hoảng hiện nay. Chúng ta cần thợ mộc, thợ xây, thợ máy, thợ làm súng. Vâng, đúng là chúng ta có những người đó nhưng lại không đủ số lượng cần thiết. Cuộc khảo sát lao động đầu tiên nói rõ rằng hơn 65 phần trăm lực lượng lao động dân sự hiện tại được liệt vào dạng F-6, không có nghề thích hợp. Chúng tôi cần có một chương trình tái đào tạo việc làm khổng lồ. Tóm lại, chúng ta cần bắt khá nhiều tay văn phòng đi lấm bùn.
Nó diễn tiến rất chậm. Không có giao thông hàng không, đường bộ và đường sắt đang rối loạn cả lên, và còn nhiên liệu nữa, lạy Chúa nhân từ, đi dọc từ Blaine, Washington đến Imperial Beach, California không kiểm nổi một thùng xăng. Thêm vào đó là việc nước Mỹ thời tiền chiến không những có hệ thống cơ sở hạ tầng dành cho di chuyển xa mà nó còn gây tách biệt kinh tế nghiêm trọng. Có nguyên cả một khu ngoại ô toàn những người làm nghề thuộc tầng lớp thượng trung lưu, chẳng ai có ngay cả cái kiến thức cơ bản nhất để thay một cái cửa sổ vỡ. Những người biết về chuyện đó sống trong khu “ổ chuột” của những người lao động chân tay, đi bằng xe thời tiền chiến mất đến một giờ, nghĩa là nếu đi bộ sẽ mất nguyên ngày. Đừng có tưởng gì lung tung, lúc mới đầu hầu hết mọi người toàn di chuyển dựa vào đôi chân.
Vấn đề cần giải quyết — không, thách thức, không có vấn đề nào ở đây hết — là mấy cái trại tị nạn. Có đến hàng trăm trại, có trại chỉ nhỏ ngang bãi để xe, có trại trải rộng ra đến hàng dặm, phân bố rải rắc khắp các vùng núi và bờ biển, chỗ nào cũng cần trợ giúp của chính phủ, toàn những khoản bòn rút rất kinh đối với các nguồn tài nguyên đang cạn kiệt một cách nhanh chóng. Trước khi lao vào đương đầu với các thách thức khác, việc dọn trống mấy cái trại này phải là ưu tiên số một. Bất cứ ai thuộc loại F-6 nhưng đủ khỏe mạnh trở thành lao động không chuyên: dọn dẹp gạch đá, thu hoạch mùa màng, đào mộ. Cần đào rất nhiều mộ. Bất cứ ai A-1, những người có kĩ năng thích hợp phục vụ cho chiến tranh gia nhập chương trình CSSP của chúng tôi, hay còn gọi là Chương trình Tự cung Tự cấp Cộng đồng (Community Self-Sufficiency Program). Một toán hướng dẫn viên ô hợp được giao nhiệm vụ truyền lại cho đám dân văn phòng suốt ngày ngồi một chỗ, bằng cấp đầy người những kiến thức cần thiết để tự sinh tồn được.
Thành công vang dội. Trong vòng ba tháng lượng yêu cầu trợ cấp chính phủ giảm đáng kể. Tôi không thể nào nói hết được cái này quan trọng đối với chiến thắng của ta như thế nào. Nó giúp chúng tôi chuyển từ nền kinh tế sinh tồn, tổng bằng không sang nền sản xuất chiến tranh toàn diện. Đây chính là Đạo luật Tái giáo dục Quốc gia, qui trình phát triển tự nhiên của CSSP. Tôi có thể nói đây là chương trình huấn luyện việc làm lớn nhất kể từ Chiến tranh Thế giới Thứ hai, thậm chí có thể còn là cấp tiến nhất trong lịch sử nước ta.
Thỉnh thoảng đã có lúc ông nhắc đến những vấn đề NRA phải đối mặt…
Tôi đang chuẩn bị nói đến phần đấy đây. Ngài tổng thống trao cho tôi quyền lực tôi cần để đối mặt với bất cứ thách thức nào về mặt vật chất cũng như hậu cần. Thật không may, thứ mà ngay cả ngài ấy cũng như bất cứ ai trên đời không thể trao cho tôi đó là quyền lực thay đổi cách nghĩ của người khác. Như tôi đã giải thích, nước Mỹ có một nguồn lực lao động bị phân hoá và trong nhiều trường hợp, sự phân hóa đó có bao hàm chút yếu tố văn hóa. Trong số các huấn luyện viên của chúng tôi, rất nhiều người là dân nhập cư thế hệ đầu. Đây là những người biết tự lo cho mình, biết cách sinh tồn với rất ít nguồn lực và lao động dựa trên những thứ sẵn có. Đây là những người sân sau có vườn tược, những người tự sửa nhà, những người giữ được cho đồ dùng điện máy chạy được lâu hết mức có thể. Việc những người này dạy cho số còn lại cách từ bỏ lối sống tiêu dùng thoải mái, ăn sẵn là tối quan trọng mặc dù chính thành quả lao động của họ lại là thứ đã giúp ta duy trì lối sống đó.
Vâng, phân biệt chủng tộc có tồn tại, nhưng cũng còn có cả phân biệt giai cấp nữa. Anh là luật sư có chức quyền cao cho một công ti. Cả đời anh chỉ xem xét hợp đồng, môi giới các giao dịch, nói chuyện trên điện thoại. Đó là sở trường của anh, đó là thứ đem lại tiền của cho anh và là thứ cho phép anh bỏ tiền ra thuê thợ đến sửa toa lét, giúp anh tiếp tục ngồi nói chuyện điện thoại. Anh càng làm nhiều, anh càng kiếm được nhiều, anh càng thuê được nhiều người để giúp anh không bị lãng phí thời gian và đi kiếm được thêm nhiều tiền hơn. Đời là như vậy đó. Nhưng một ngày kia nó đổi khác. Không ai cần người xem lại một hợp đồng hay môi giới một giao kèo mới. Nó chí cần toa lét được sửa. và đột nhiên người làm công kia lại trở thành thầy giáo hay thậm chí là sếp của anh. Với vài người, điều này còn đáng sợ hơn lũ thây ma.
Có một lần, trong chuyến đi thực tế xuyên LA, tôi ngồi cuối một lớp tái giáo dục. Tất cả học viên đều đã từng nắm giữ các chức vụ cao trong ngành giải trí, một mớ tạp nham bao gồm người đại diện, quản lí, “giám đốc điều hành sáng tạo”, chả hiểu là cái chức gì nữa. Tôi hiểu sự miễn cưỡng, sự kiêu căng của họ. Trước chiến tranh, ngành giải trí là mặt hàng xuất khẩu đáng giá của Mỹ. Giờ họ lại đang được huấn luyện để trở thành bảo vệ cho một cơ xưởng vũ khí ở Bakersfield, California. Có một bà giám đốc tuyển diễn viên nổi khùng lên. Sao họ lại dám sỉ nhục bà ta như vậy! Bà có bằng MFA về lĩnh vực Khái niệm Sân khấu, bà ta đã tuyển diễn viên cho ba bộ phim truyền hình đạt doanh thu cao nhất trong năm phần vừa qua và giảng viên của bà ta có làm suốt mấy đời cũng không thể mơ thấy số tiền bà ta kiếm được trong một tuần! Bà ta cứ liên tục lôi tên cúng cơm của giảng viên minh ra mà réo. “Magda,” bà ta liên tục nói, “Magda, đủ lắm rồi. Magda, cho tôi xin.” Mới đầu tôi tưởng bà ta chỉ đang tỏ thái độ thô lỗ thôi, hạ nhục giảng viên thông qua việc không sử dụng chức danh của cô ấy. Sau này tôi mới biết cô Magda Antonova từng dọn dẹp nhà cửa cho bà này. Vâng, vài người rất khó chấp nhận chuyện đó, nhưng rất nhiều người trong số họ sau này thú nhận rằng công việc mới khiến họ cảm thấy thỏa mãn hơn so với những gì tương tự như nghề cũ của họ.
Tôi có làm quen với một người trên chuyến phà ven biển đi từ Portland đến Seattle. Ông từng làm ở bộ phận cấp phép của một công ti quảng cáo, chuyên quản lí việc mua lại bản quyền các ca khúc nhạc rock kinh điển để dùng cho quảng cáo trên ti vi. Giờ ông là thợ nạo ống khói. Do phần lớn các ngôi nhà ở Seattle đã mất hệ thống sưởi trung tâm và mùa đông giờ ngày càng dài và lạnh, ông rất ít khi phải ngồi không. “Tôi giúp hàng xóm mình giữ ấm,” ông nói đầy tự hào. Tôi biết nói thế này nghe hơi bị Norman Rockwell quá, nhưng tôi liên tục nghe được những câu chuyện như thế. “Thấy mấy đôi giày kia không, tôi làm đấy,” “Nhìn cái áo len kia kìa, làm từ lông lũ cừu nhà tôi đấy,” “Thích mớ ngô chứ? Từ vườn tôi mà ra đấy.” Thành quả này có được nhờ một hệ thống mang tính địa phương hơn. Nó mang lại cho mọi người cơ hội được chứng kiến thành quả lao động của mình, đem lại cho họ cảm giác tự hào cá nhân khi biết họ đang có những đóng góp cụ thể, rõ ràng cho thắng lợi và nó cho tôi cảm thấy mình là một phần trong số đó. Tôi cần cái cảm xúc đó. Nó giúp giữ tôi tỉnh táo để thực hiện những nhiệm vụ khác của mình.
Nói về “tài năng” thế là đủ rồi. “Công cụ” là những vũ khí chiến tranh, và những phương thức để sản xuất ra những thứ vũ khí đó, về mặt công nghiệp hoặc hậu cần.
[Ông xoay ghế, chỉ vào một tấm ảnh phía trên bàn. Tôi nghiêng người gần lại và thấy rằng đó không phải ảnh mà là một cái nhãn được đóng khung.]
Các thành phần:
Mật từ Mỹ
Đại hồi từ Tây Ban Nha
Cam thảo từ Pháp
Vani (rượu whisky ngô) từ Madagascar
Quế từ Sri Lanka
Đinh hương từ Indonesia
Lộc từ Trung Quốc
Dầu tiêu từ Jamaica
Dầu nhựa thơm từ Peru
Và đó mới chỉ đủ cho một chai nước hoa quả trong thời bình. Chúng ta còn chưa đả động đến những thứ như máy tính hay tàu sân bay chạy bằng năng lượng hạt nhân.
Cứ thử hỏi một người bất kì xem quân Đồng minh giành thắng lợi trong cuộc Đại chiến Thế giới lần thứ hai như thế nào. Những ai không biết nhiều sẽ trả lời đó là do quân số hay tài lãnh đạo của ta. Những người không biết gì hết sẽ bảo là nhờ những kì quan công nghệ như ra đa và bom nguyên tử. [Nhăn mặt.] Bất cứ ai với dù chỉ những hiểu biết sơ đẳng nhất về cuộc chiến đó sẽ nêu ra cho anh ba lí do thực sự: đầu tiên đó là khả năng sản xuất ra nhiều trang thiết bị hơn: nhiều đạn dược, đậu, và băng gạc hơn phe địch; thứ hai là các tài nguyên thiên nhiên có sẵn để sản xuất ra các thứ trang thiết bị đó; và thứ ba, các phương tiện hậu cần giúp chuyên chở những thứ tài nguyên đó đến nhà máy và cả chuyên chở những sản phẩm hoàn chỉnh được xuất xưởng ra tiền tuyến. Quân đồng minh có nguồn tài nguyên, có phân xưởng công nghiệp, và nguồn lực hậu cần của cả hành tinh. Mặt khác, phe Phát xít phải sống dựa vào những thứ tài nguyên hiếm hoi chúng kiếm được trong khu vực lãnh thổ của mình. Lần này chúng ta là phe Phát xít. Bọn thây ma kiểm soát phần lớn phần đất liền trên thế giới, trong khi hoạt động sản xuất chiến tranh của nước Mỹ dựa trên những gì thu hoạch được trong phạm vi những bang miền Tây. Đừng mất công nghĩ đến nguyên liệu thô từ các vùng an toàn ở các nước khác; hạm đội tàu giao thương của ta đang mang dân tị nạn chật kín khoang trong khi hầu hết lực lượng hải quân đều đang phải nằm lại ở cảng do thiếu thốn nhiên liệu.
Chúng ta cũng có vài lợi thế. Căn cứ nông nghiệp ở California ít nhất cũng có thể xóa bỏ nạn đói nếu tái cấu trúc lại được. Mấy tay trồng quýt không chịu yên lặng ra đi, cả đám chủ trang trại cũng thế. Mấy trùm thịt bò nắm trong tay rất nhiều đất màu mỡ có tiềm năng nông nghiệp mới là tệ hại nhất. Anh đã nghe đến cái tên Don Hill chưa? Đã xem bộ phim Roy Elliot làm dựa trên hắn chưa? Khi ấy bệnh dịch lây đến thung lũng San Joaquin, bọn thây ma tràn quà hàng rào nhà hắn, tấn công lũ gia súc, xé xác chúng ra như kiến lửa Châu Phi vậy. Và hắn đứng ngay giữa trung tâm, vừa bắn vừa gào rống như Gregory Peck trong phim Duel in the Sun. Tôi làm việc với hắn một cách rất công khai, trung thực. Cũng như với những người khác, tôi đưa cho hắn hai lựa chọn. Tôi nhắc cho hắn nhớ rằng mùa đông đang đến và vẫn còn đang rất nhiều người chết đói lang thang ngoài kia. Tôi cảnh báo hắn rằng khi đám người tị nạn đói khát đến hoàn thành nốt công việc bọn thây ma đã khởi xướng, hắn sẽ không được chính phủ bảo hộ. Hill là một tay cứng đầu, gan dạ nhưng hắn không ngu. Hắn đồng ý giao lại đất đai và đám gia súc của hắn với điều kiện là không ai đụng vào con giống của hắn và những người khác. Chúng tôi đồng ý.
Thịt nướng mềm mại, ngon ngọt — anh còn có thể nghĩ ra một biểu tượng nào khác thích hợp hơn cho cái lối sống thời tiền chiến của ta không? Và chính cái lối sống ấy đã trở thành lợi thế thứ hai của ta. Nguồn tài nguyên của ta chỉ có thể được bổ túc bằng cách tái chế. Điều này chẳng có gì là mới cả. Bên Israel đã bắt đầu thực hiện chuyện ấy ngay khi họ đóng cửa biên giới và kể từ đó quốc gia nào cũng áp dụng hình thức này không theo cách này thì cách khác. Tuy nhiên, khối lượng tái chế dự trữ của họ không thể nào sánh với những gì ta có. Cứ thử nghĩ về cuộc sống ở nước Mỹ thời tiền chiến đi. Ngay cả những người thuộc dạng trung lưu cũng đều được tận hưởng hoặc coi là dĩ nhiên một mức độ tiện nghi về vật chất mà bất cứ quốc gia nào ở bất cứ giai đoạn nào trong lịch sử đều chưa từng nghe đến. Chỉ tính riêng ở lưu vực Los Angeles, số lượng áo quần, đồ làm bếp, đồ điện tử, xe cộ đã gấp ba lần số dân thời trước chiến tranh rồi. Mỗi ngôi nhà, mỗi khu vực đều có đến hàng triệu chiếc xe ra vào. Chúng ta có cả một ngành công nghiệp với hơn trăm ngàn người làm việc ba ca một ngày, bảy ngày một tuần: thu thập, phân loại, tháo dỡ, lưu trữ và chuyển các bộ phận, mảnh miếng đến các nhà máy ở ven biển. Cũng có chút rắc rối, như mấy tay chăn gia súc, chẳng ai lại muốn đem giao nộp chiếc Hummer hay mấy chiếc xe Ý cổ. Buồn cười thật, chẳng còn tí xăng nào để chạy chúng nhưng người ta vẫn cứ cố giữ lấy. Tôi cũng không bận tâm chuyện đó mấy. So với mấy căn cứ quân sự thì đối phó với họ đúng là một ân huệ.
Trong số các đối thủ của tôi, đám khó nhằn nhất có lẽ là những người mặc quân phục. Tôi không có quyền kiểm soát trực tiếp bất cứ bộ phận R&D nào của họ, họ được thoải mái bật đèn xanh cho bất cứ thứ gì họ muốn. Nhưng do hầu hết các chương trình của họ đều được giao cho các nhà thầu dân sự và các nhà thầu ấy lại cần đến nguồn tài nguyên do DeStRes kiểm soát, tôi mới là người nắm quyền kiểm soát thực sự. “Ông không thể đem vứt xó chỗ Máy bay Ném bom Tàng hình của chúng tôi được,” họ gào lên. “Ông là cái của khỉ gì mà dám ngưng việc sản xuất xe tăng của chúng tôi?” Mới đầu tôi còn tìm cách tranh luận với họ: “Mấy chiếc M-1 Abram có động cơ phản lực. Anh lấy đâu ra nhiên liệu cho nó bây giờ? Tại sao lại cần máy bay tàng hình để chống lại một kẻ địch không có ra đa?” Tôi cố làm cho họ hiểu rằng cứ dựa trên những gì ta có so với những gì chúng ta đang phải đối mặt, đơn giản là lượng vốn bỏ ra phải đem lại mức lợi nhuận cao nhất, còn theo cách nói của họ là đáng đồng tiền bát gạo nhất. Họ thật không thể chịu đựng nổi, cứ gọi điện liên tục hoặc xông thẳng lên văn phòng tôi mà không thèm hẹn trước. Chắc tôi cũng không thể trách cứ gì được họ, nhất là sau cái cách chúng ta đối xử với họ sau cuộc xung đột biên giới vừa rồi, và đặc biệt không thể sau khi họ bị giần cho tơi bời ở Yonkers. Họ đang đứng trên bờ vực sụp đổ, và rất nhiều người cần chỗ xả giận.
[Ông cười tự tin.]
Tôi bắt đầu sự nghiệp của mình trên sàn giao dịch ở NYSE, vậy nên tôi có thể quát to và dai ngang bất cứ ông trung sĩ huấn luyện chuyên nghiệp nào. Sau mỗi “cuộc họp”, tôi lại trông chờ một cuộc gọi, cái cuộc gọi mà từ lâu tôi đã vừa sợ hãi vừa hi vọng được nhận: “Ông Sinclair, tổng thống đây, xin cảm ơn sự cống hiến của ông và bây giờ chúng tôi sẽ không còn cần… ” [Cười.] Cuộc gọi ấy chẳng bao giờ đến. Chắc chẳng ai ham hố công việc này.
[Nụ cười ông tắt dần.]
Tôi không có ý nói rằng tôi không phạm sai lầm. Tôi biết tôi hơi cứng nhắc đối với Bộ phận Khinh khí cầu của không lực. Tôi không hiểu nổi các giao thức an ninh của họ cũng như khinh khí cầu có người lái thì giúp ích được gì trong chiến tranh chống thây ma. Tôi chỉ biết rằng do nguồn khí heli có quá ít, thứ khí nâng đạt hiệu quả chi phí cao nhất là hidro và tôi sẽ không đời nào phung phí nhân mạng hay của cải vào vào một cái hạm đội Hindenburg thời hiện đại. Tôi cũng phải được đích thân ngài tổng thống thuyết phục cho mở lại dự án nhiệt hạch lạnh đang thử nghiệm ở Livermore. Ông nói rằng cho dù ít nhất cũng phải mấy thập kỉ nữa mới có bước đột phá thì “lên kế hoạch cho tương lai sẽ cho người dân thấy họ vẫn có tương lai.” Tôi quá bảo thủ đối với một số dự án, trong khi với các dự án khác tôi lại quá phóng khoáng.
Dự án Áo Vàng — Giờ tôi vẫn thấy day dứt mỗi khi nghĩ về nó. Mấy tay đầu to mắt cận ở Thung lũng Silicon Valley, toàn các thiên tài trong lĩnh vực của mình, chính họ đã thuyết phục tôi rằng họ có một “vũ khí kì diệu” mà trên lí thuyết có thể giúp giành chiến thắng chỉ trong vòng bốn mươi tám tiếng kể từ khi được triển khai. Họ có thể chế tạo những tên lửa tí hon, hàng triệu quả, kích thước ngang cỡ đạn rimfire 22 mili, có thể được phóng dàn trải ra từ máy bay chuyên chở và rồi dùng vệ tinh nhắm vào não của mọi con zombie ở Bắc Mỹ. Nghe kêu phết, đúng không? Cá nhân tôi thấy thế.
[Ông tự lẩm bẩm.]
Cứ khi nào nghĩ về những gì mình đã đổ vào đó, những gì đáng ra chúng ta đã có thể sản xuất được… ôiii… giờ nuối tiếc cũng vô ích.
Đáng ra trong suốt giai đoạn chiến tranh tôi đã phải đối đầu với quân đội, nhưng tôi rất mừng là cuối cùng tôi đã không phải làm vậy. Khi Travis D’Ambrosia trở thành chủ tịch Bộ Tham Mưu, ông ấy không chỉ đề ra tỉ lệ tài-nguyên-trên-hiệu-suất-tiêu-diệt, viết tắt là RKR[39] mà còn đưa ra cả một chiến lược bao hàm để thực hiện nó. Tôi luôn lắng nghe mỗi khi ông bảo tôi một loại vũ khí nào đó nắm vai trò chiến lược. Tôi rất tin cậy ý kiến của ông về những vấn đề như Quân phục Chiến đấu mới hay Súng trường Bộ binh Tiêu chuẩn.
Điều tuyệt vời nhất đó chính là văn hóa RKR bắt đầu được lan truyền dần trong hàng ngũ quân đội. Trên các con phố, quầy rượu, trên tàu anh có thể nghe thấy lính tráng bàn tán; “Tại sao phải dùng X khi với cùng một giá sản xuất ra được chục cái Y mà lại có thể giết được nhiều Z hơn đến hàng trăm lần.” Hội nhà binh bắt đầu tự phát kiến ra những ý tưởng, chế tạo ra nhiều công cụ đem lại hiệu quả chi phí cao hơn bất cứ thứ gì chúng tôi hình dung ra được. Tôi nghĩ họ khoái như thế lắm — sáng chế, thích ứng lại, nghĩ xa hơn đấm quan chức chúng tôi. Bên lục quân làm tôi ngạc nhiên nhất. Tôi trước giờ vẫn cứ nghĩ họ toàn lũ Neanderthal đầu khấc trán ngắn, vung tay đánh đấm, mồm mép cứng đơ, dư thừa testosterone. Tôi không ngờ nổi rằng lực lượng này luôn phải lấy đồ ở bên thủy quân, và vì các vị đô đốc chẳng bao giờ mặn mà gì lắm với chiến tranh trên cạn nên ứng biến luôn là một trong những phẩm chất được trọng vọng nhất của họ.
[Sinclair chỉ về phần tường đối diện phía trên đầu tôi. Trên đấy có treo một cây gậy sắt nặng trịch, phía đuôi là một thứ gì đó lai tạp giữa xẻng và rìu chiến hai lưỡi. Tên chính thống của nó là Dụng cụ Đào hào Bộ binh Tiêu chuẩn, tuy nhiên phần lớn lại gọi nó là “Gậy thông não” hay đơn giản chỉ là cái “Thông não.”]
Hội lính lục quân chế ra cái đó đấy, chỉ dùng có mỗi thép tái chế được từ xe hơi. Trong thời chiến chúng ta sản xuất ra hơn hai mươi ba triệu chiếc.
[Ông mỉm cười đầy hãnh diện.]
Và bây giờ chúng vẫn được sản xuất thêm.
BURLINGTON, VERMONT
[Mùa đông năm nay đến muộn hơn. Kể từ khi chấm dứt chiến tranh, năm nào nó cũng đến muộn như vậy. Tuyết phủ trắng các ngôi nhà cũng như các khu nông trại quanh đó, đóng băng cây cối lại và che đi con đường đất cạnh bờ sông. Nơi đây mọi thứ trông đều thật thanh bình, ngoại trừ cái người đàn ông đang đi bên cạnh tôi. Ông nhất quyết bắt tôi gọi ông là “lão khùng” bởi vì “ai cũng gọi tôi như thế, khách khí làm gì?” Ông bước đi rất nhanh nhẹn và mạnh bạo, chiếc gậy mà vị bác sĩ (kiêm vợ ông) đưa cho chỉ được dùng để khua khoắng lung tung.]
Thật tình mà nói, tôi chẳng ngạc nhiên khi mình được đề cử vào vị trí phó tổng thống. Ai cũng biết một đảng liên hiệp là điều không thể tránh khỏi. Tôi là một ngôi sao sáng, ít nhất là cho đến khi tôi “tự hủy.” Họ nói tôi như thế đúng không? Toàn lũ chết nhát và đạo đức giả, thà chết chứ không dám nhìn một người đàn ông thực thụ thể hiện đam mê của mình. Nếu tôi không phải chính trị gia đệ nhất thế giới thì đã sao? Tôi nói những gì tôi cảm nhận được, và tôi không ngại nói toạc móng heo ra. Đây là một trong những lí do chính khiển tôi trở thành một lựa chọn hợp lí cho vi trí phụ lái. Chúng tôi phối hợp rất ăn ý; ông ấy là nguồn sáng, tôi là nguồn nhiệt. Đảng phái khác nhau, tính cách khác nhau, và nói thẳng ra là cả màu da cũng khác nhau nữa. Tôi biết mình không phải lựa chọn số một. Tô biết bên đảng của tôi muốn ai lên. Nhưng nước Mỹ chưa sẵn sàng đi xa đến thế, mặc dù nó nghe thật là ngu si, xuẩn ngốc và cực kì cổ hủ. Họ thà để một tay cấp tiến phổi bò lên làm phó tổng thống còn hơn ai đó trong số “những người kia.” Vậy nên tôi không ngạc nhiên chuyện mình được đề cử. Tôi ngạc nhiên với tất cả mọi thứ khác.
Ý ông là các cuộc bầu cử à?
Bầu cử? Honolulu vẫn chẳng khác nào cái nhà thương điên; binh lính, thượng nghị sĩ, người tị nạn, ai nấy đều cứ chạy loạn hết cả vào với nhau để kiếm thức ăn, chỗ ngủ hay tìm hiểu xem cái quái gì đang xảy ra. Và so với khu vực đất liền thì đây còn là thiên đường. Phòng tuyến Rocky vừa mới được thiết lập; toàn bộ khu vực phía Tây của nó là vùng chiến sự. Tại sao phải mất công bầu cử lằng nhằng nếu có thể bắt Quốc hội bỏ phiếu ủng hộ gia hạn quyền lực trong trường hợp khẩn? Tổng chưởng lí đã thử cách này khi hắn còn là thị trưởng New York, và cũng tí nữa thì thành công. Tôi giải thích với tổng thống rằng chúng ta không có đủ nhân lực cũng như tài nguyên để làm bất cứ thứ gì khác ngoài đấu tranh sinh tồn.
Ông ấy nói gì?
Ờ thì, đại khái là thuyết phục tôi thay đổi suy nghĩ.
Ông có thể giải thích thêm không?
Tôi giải thích được, nhưng tôi không muốn trích sai lời ông ấy. Đống nơ-ron già cỗi này giờ không còn hoạt động được như xưa nữa.
Xin ông hãy cứ thử.
Anh sẽ đến thư viện kiểm chứng lại chứ?
Tôi xin hứa.
Rồi… chúng tôi đang ở trong văn phòng tạm thời của ông, cái khách sạn đóng vai “dinh tổng thống”. Ông vừa được tuyên thệ nhậm chức trên chiếc Không Lực Hai. Sếp cũ của ông ta đang được nghỉ dưỡng ở phòng bên cạnh. Từ cửa sổ anh có thể chứng kiến khung cảnh hỗn loạn trên phố, cảnh thuyền ngoài khơi xếp hàng chuẩn bị cập cảng, cảnh máy bay hạ cánh cứ ba mươi giây một chiếc và đội thợ máy dưới mặt đất đưa chúng ra khỏi đường băng để lấy chỗ cho các chiếc khác. Tôi chỉ về phía đó, vừa chỉ trỏ vừa lớn giọng thể hiện cái nhiệt huyết trứ danh của mình. “Chúng ta cần có một chính phủ ổn định, và cần gấp!” Tôi nói đi nói lại. “Trên lí thuyết thì bầu cử cũng ổn nhưng giờ không phải lúc lôi lí tưởng cao xa ra.”
Ngài tổng thống rất bình tĩnh, bình tĩnh hơn tôi nhiều. Chắc nhờ được huấn luyện trong quân đội… ông nói với tôi, “Đây là lúc duy nhất ta cần viện đến lí tưởng cao xa bởi vì giờ ta chỉ còn có những lí tưởng ấy mà thôi. Chúng ta không chỉ đẩu tranh để bản thân được sống sót, mà còn phải đấu tranh để nền văn minh của chúng ta vẫn còn tồn tại được. Chúng ta không có trụ cột nâng đỡ. Chúng ta không có di sản kế thừa chung, không có lịch sử hàng triệu năm. Gắn kết chúng ta chỉ có những mơ ước và hứa hẹn. Tất cả những gì chúng ta có… [cố hồi tưởng lại]… tất cả những gì chúng ta có là những gì chúng ta muốn trở thành.” Anh hiểu ý ông ấy chứ. Đất nước này chỉ tồn tại bởi vì nhân dân tin vào nó, và nếu nó không đủ mạnh mẽ để bảo vệ chúng ta trong lúc nguy biến như thế này thì nó còn tương lai gì để mà hi vọng gì được nữa? Ông ấy biết nước Mỹ cần có một Caesar, nhưng trở thành một người như thế sẽ đặt dấu chấm hết cho nước Mỹ. Họ nói thời thế tạo anh hùng. Tôi không tin thế. Tôi đã chứng kiến rất nhiều sự yếu đuối, rất nhiều những thứ nhơ bẩn. Những người đáng ra phải xông pha gánh vác thì lại không thể hoặc không dám làm. Lòng tham, nỗi sợ hãi, sự ngu xuẩn, và lòng căm thù. Tôi đã chứng kiến những điều ấy từ trước đến nay, bây giờ tôi vẫn bắt gặp. Sếp tôi là một con người vĩ đại. Chúng ta thật may tận mạng mới có được ông ấy.
Việc bầu cử đã định hướng cho toàn bộ bộ máy chính quyền của ông. Rất nhiều đề xuất ông đưa ra mới đầu nghe rất điên rồ, nhưng một khi chúng ta đi qua được lớp lang đầu tiên, anh sẽ nhận ra rằng dưới đó tồn tại một lôgíc cốt lõi không thể bác bỏ được. Cứ nhìn vào đống luật trừng phạt mới xem, cái mớ đó làm tôi phát điên. Nhốt người ta vào cũi? Vụt roi công khai ngay giữa quảng trường!?! Quái gì đây, Old Salem à, Afghanistan của Taliban à? Nghe thật mọi rợ, thật không giống bản chất người Mỹ chút nào, nhưng khi thực sự đầu tư suy nghĩ về các lựa chọn thì lại khác. Biết làm gì với lũ trộm cắp bây giờ, tống chúng vào tù à? Làm thế giúp gì được cho ai? Sao lại có thể bắt những công dân có khả năng lao động đi nuôi ăn, nuôi mặc và canh gác các công dân có khả năng lao động khác? Quan trọng hơn, tại sao lại loại bỏ hình phạt trong khi chúng có thể trở thành vật cản hữu dụng đến vậy? Vâng, người ta sợ đau đớn — sợ đòn roi, sợ gậy gộc — nhưng nó chưa là gì khi so với bị lăng nhục trước công chúng. Ai cũng sợ tội lỗi của mình bị phanh phui. Khi mọi người đang đoàn kết lại, giúp đỡ lẫn nhau, tìm cách bảo vệ và chăm lo cho nhau, không hình phạt gì có thể tệ bằng việc dắt người ta ra giữa quảng trường với cái biển to đùng ghi chữ “Tôi Trộm Củi Của Hàng Xóm.” Nỗi nhục là một vũ khí rất mạnh, nhưng nó phụ thuộc vào việc liệu mọi người có làm việc tử tế không. Không ai được phép đứng trên pháp luật, và được chứng kiến cảnh một thượng nghị sĩ ăn mười lăm roi do trục lợi chiến tranh có thể giúp giảm tỉ lệ phạm tội tốt hơn là cho cảnh sát đứng trực khắp các nẻo đường. Ừ thì cũng có các băng nhóm, nhưng đây là lũ hay tái phạm, đã được cho rất nhiều cơ hội rồi. Tôi vẫn nhớ quan chưởng lí có đề xuất rằng chúng ta tống hết chúng vào vùng bị nhiễm bệnh, đỡ cho ta phải hao phí nhân lực và không phải lo đối phó với những mối hiểm họa tiềm tàng khi chúng còn ở đây. Cả ngài tổng thống và tôi đều phẩn đối đề xuất ấy; tôi phản bác dựa trên cơ sở đạo đức, của tổng thống dựa trên cơ sở thực tiễn. Đây vẫn là đất thuộc lãnh thổ của Mỹ, đúng là có bị nhiễm bệnh đấy, nhưng ta vẫn hi vọng có một ngày giải phóng được. “Chúng ta thực sự không muốn,” ông nói “phải đối đầu với mấy tay tù tội này khi chúng đã trở thành Tân Lãnh Chúa của Duluth.” Tôi cử tưởng ông đang đùa nhưng về sau, khi đã được chứng kiến chuyện đó xảy ra ở một số nước khác, chứng kiến cảnh những phạm nhân bị đày ra ngoài lên nắm quyền kiểm soát những thái ấp cô lập và trong vài trường hợp là hùng mạnh, tôi nhận ra chúng tôi vừa né được một một phát đạn rất hiểm. Đám băng nhóm là cả một vấn đề đối với chúng tôi về mặt chính trị, xã hội và cả kinh tế nữa, nhưng chúng tôi còn biết làm gì với những kẻ không muốn hợp tác với người khác?
Ông có sử dụng hình phạt tử hình đúng không?
Chỉ những trường hợp cực đoan quá thôi: kích động nổi loạn, phá hoại, âm mưu li khai chính trị. Zombie không phải kẻ thù duy nhất, ít nhất hồi đầu là vậy.
Còn những người theo trào lưu chính thống thì sao?
Chúng tôi cũng có một số tay tôn giáo chính thống, có nước nào không có đâu? Rất nhiều tên nghĩ rằng chúng ta đang làm trái với ý Chúa.
[Ông cười khẩy.]
Xin lỗi nhé, tôi phải biết giữ ý hơn, nhưng mà thật tình, chẳng lẽ đáng sáng tạo tối cao của vô vàn vũ trụ lại để kế hoạch của mình bị vài anh Vệ binh Quốc gia Arizona làm cho lung lay à?
[Ông vẩy tay xua suy nghĩ ấy đi.]
Chúng thu hút được chú ý dư luận nhiều hơn mức cho phép, tất cả chỉ vì thằng điên đó định ám sát tổng thống. Thực chất, chúng là mối nguy với chính mình nhiều hơn, cứ nhìn vào mấy vụ tự sát tập thể, mấy vụ giết trẻ con “nhân đạo” ở Medford đó… toàn chuyện kinh khủng. Bọn “Greenies”, phiên bản cánh trái của lũ chính thống cũng chẳng hơn gì. Chúng tin rằng vì thây ma chỉ ăn thịt thú vật nhưng lại không chạm vào cây cối nên ý chỉ của “Thánh Nữ” là phải đặt thực vật lên trên động vật. Chúng gây rối một chút, đỏ thuốc diệt cỏ vào nguồn cung cấp nước của thành phố, đặt bẫy trên cây để ngăn không cho thợ đốn gỗ sử dụng chúng phục vụ sản xuất chiến tranh. Cái thể loại khủng bố sinh thái này lên báo ầm ầm nhưng không ảnh hưởng gì lắm đến an ninh quốc gia. Lũ Rebs thì lại khác: bọn li khai chính trị được vũ trang, có tổ chức. Đây có lẽ là mối họa hiển hiện nhất đối với ta. Đây cũng là lần duy nhất tôi thấy ngài tổng thống lo lắng. Ông không để lộ ra, giấu chúng dưới lớp mặt nạ ngoại giao trang nghiêm. Ở chỗ công cộng, ông coi nó chỉ như một “vấn đề” kiểu chia lương thực hay tu sửa cầu đường. Khi ở chỗ riêng tư ông nói… “Chúng phải được tiễu trừ nhanh chóng, dứt khoát, và bằng mọi biện pháp.” Tất nhiên ông chỉ nói về những tay đang ở trong vùng an toàn khu vực phía Tây. Lũ nổi loạn cực đoan này hoặc là không ưa chính sách thời chiến của chính phủ hoặc đã định li khai từ mấy năm trước rồi và chỉ mượn cuộc khủng hoảng này làm cái cớ. Đây chính là “kẻ thù của quốc gia,” bè lũ thù trong mà bất cứ ai đã từng tuyên thệ bảo vệ tổ quốc đều có nhắc đến trong lời thề của mình. Chúng tôi chẳng cần đắn đo khi tim cách giải quyết thích hợp cho chúng. Nhưng bọn li khai ở phía đông dãy Rocky, lũ đang ở trong các vùng bao vây bị cách li… đây mới là lúc mọi thứ trở nên “phức tạp.”
Tại sao vậy?
Bởi vì, như người ta nói là “Chúng tôi không bỏ rơi nước Mỹ. Nước Mỹ bỏ rơi chúng tôi.” Nó cũng có nhiều cái đúng. Chúng ta đã bỏ rơi họ. Đúng, chúng ta có để lại một số chiến sĩ Biệt Kích tình nguyện, cố thử tiếp tế cho họ bằng đường không và đường biển, nhưng đứng trên quan điểm đạo đức, họ thực sự đã bị bỏ rơi. Tôi không thể trách chuyện họ muốn tự đi theo con đường của mình, chẳng ai có quyền làm thế. Đó là lí do khi bắt đầu thu hồi lại những vùng lãnh thổ bị mất, chúng ta đều cho các vùng đất li khai cơ hội tái nhập hòa bình.
Nhưng bạo lực đã có xảy ra.
Giờ tôi vẫn còn gặp ác mộng, những nơi như Bolivar và Black Hills. Tôi chưa từng được tận mắt thấy mấy bức ảnh, không thấy cảnh bạo lực hay hậu quả của nó. Tôi lúc nào cũng thấy sếp mình, một con người cao lớn, mạnh mẽ, tràn đầy sinh lực càng lúc càng yếu ớt, xanh xao. Ông đã trải qua rất nhiều, vác trên vai cả một gánh nặng lớn lao. Anh có biết ông không hề thử tìm hiểu xem chuyện gì đã xảy đến với họ hàng mình ở Jamaica không? Thậm chí còn không thèm hỏi. Ông dồn toàn tâm toàn trí vào vận mệnh quốc gia, quyết tâm bảo vệ giấc mơ đã tạo nên nó. Tôi không biết liệu thời thế có tạo ra anh hùng không, nhưng tôi biết nó có thể giết chết họ.
WENATCHEE, WASHINGTON
[Nụ cười của Joe Muhammad toe toét, rộng như đôi vai của anh vậy. Mặc dù công việc chính của anh là chủ tiệm chủ hàng sửa xe đạp của thị trấn, anh dành thời gian rảnh rỗi điêu khắc kim loại nóng chảy, biến chúng thành những tác phẩm nghệ thuật tinh tế. Anh nổi tiếng nhờ bức tượng đồng đặt phía trên khu thương xá ở Washington, D.C., đó chính là Đài tưởng niệm Đội An ninh Khu vực bao gồm hai công dân đang đứng thẳng, và một người đang ngồi trong chiếc xe lăn.]
Cái cô tuyển dụng trông lo ra mặt. Cô ta cố tìm cách thuyết phục tôi từ bỏ ý định. Tôi đã nói chuyện với đại diện bên NRA chưa? Tôi đã biết về những công việc cần thiết phục vụ cho chiến tranh khác chưa? Mới đầu tôi chẳng hiểu gì cả; tôi lúc bấy giờ đang làm trong một nhà máy tái chế. Đây chính là mục đích của Đội An ninh Khu vực mà, đúng không? Đây là một dịch vụ tình nguyện bán thời gian sau khi đi làm về. Tôi thử giải thích điều này với cô ta. Chắc có gì đó tôi không hiểu. Trong khi cô ta còn đang viện ra những lí do nửa mùa vớ vẩn, tôi để ý thấy cô ta đánh mắt về phía cái xe lăn của tôi.
[Joe bị tàn tật.]
Anh tin nổi không? Nạn diệt chủng đang đến tận nhà gõ cửa mà con mụ này còn muốn cư xử sao cho không khiếm nhã cơ à? Tôi cười. Tôi cười thẳng vào mặt mụ ta. Sao, mụ ấy nghĩ tôi vác xác đến đây mà không biết trước nhiệm vụ mình phải làm gì à? Cái con mụ đần độn này có thèm đọc cẩm nang an ninh của mình không vậy? Tôi đọc rồi. Cái chương trình NST này mục đích là để tuần tra khu phố của mình, đi bộ hoặc, như trong trường hợp của tôi, lăn bánh dọc quanh các vỉa hè, dừng lại kiểm tra mỗi nhà. Nếu vì bất cứ lí do gì mà phải đi vào trong nhà, ít nhất phải có hai thành viên đứng đợi ngoài phố. [Chỉ về phía mình.] Đây! Và mụ ta nghĩ chúng ta đang phải đối mặt với cái gì? Mình đâu phải nhảy rào hay chạy băng qua sân bãi để đuổi theo chúng. Chúng tự mò đến chỗ chúng ta. Và khi chúng làm vậy, cứ giả sử là chúng đến đông quá xử lí không nổi đi nhé? Mẹ kiếp, nếu tôi không lăn nhanh được hơn bọn zombie, tôi sao mà thọ được đến tận bây giờ? Tôi bình tĩnh trình bày trường hợp của mình một cách rất mạch lạc, và thậm chí tôi còn thách mụ ta đưa ra một tình huống mà thể trạng của tôi sẽ là một vấn đề. Mụ ta chịu. Mụ lẩm bẩm gì đó về việc phải hỏi lại ý kiến CO của mụ, và hỏi rằng liệu mai tôi có thể quay lại không. Tôi không chịu, tôi bảo với mụ rằng cứ gọi CO của mụ đi, và gọi cả CO của hắn hay bất cứ ai, đến ngay cả lão Gấu[40] cũng được, nhưng tôi sẽ không đi đâu hết cho đến khi nào có được cái áo cam. Tôi quát to đến mức ai nấy trong phòng đều nghe thấy hết. Mọi ánh mắt đều đổ dồn về phía tôi, rồi về phía mụ ta. Thế là xong. Tôi được nhận áo và đi ra khỏi đó sớm hơn bất cứ ai khác trong ngày.
Như tôi đã nói, An ninh Khu vực là phải tuần tra khu phố. Đây là một đơn vị bán quân sự; chúng tôi phải đi nghe giảng và tham gia khóa huấn luyện. Có chỉ huy và các điều lệ, nhưng chúng tôi chẳng bao giờ phải giơ tay chào hay gọi người ta là “ngài” hay thứ gì đại loại như thế. Gàn như cũng không có qui định gì về việc vũ trang cả. Hầu hết là đồ đánh giáp lá cà — rìu, gậy, mấy cái xà beng và dao phay — chúng tôi lúc đó chưa có cái Thông não. Trong đội ít nhất phải có ba người mang súng. Tôi mang khẩu AMT Lightning, súng cạc bin bán tự động bắn đạn.22 mili. Nó không bị giật nên tôi có thể bắn mà không cần phải khóa bánh lại. Đây là một khẩu súng tốt, nhất là khi đạn dược được tiêu chuẩn hóa và vẫn còn có bán.
Nhân sự các đội thay đổi tùy theo lịch của mọi người. Hồi đó mọi thứ khá hỗn loạn, DeStRes đã tái cơ cấu mọi thứ. Ca đêm khá khó nhằn. Người ta đã quên rằng ban đêm nó thực sự tối như thế nào khi không có đèn đường. Cũng chẳng có mấy ánh đèn từ nhà dân rọi ra. Hồi đó mọi người đi ngủ sớm lắm, thường cứ tối trời là lên giường rồi, vậy nên ngoài mấy ánh nến hoặc nếu ai đó có giấy phép sử dụng máy phát điện, nếu chẳng hạn họ đang làm công việc cần thiết phục vụ cho chiến tranh tại gia, thì nhà nào cũng tối om. Đến cả trăng sao còn chẳng có, khí quyển chứa nhiều thứ rác rưởi quá rồi. Chúng tôi dùng đèn pin đi tuần, loại đèn dân sự mua ngoài hàng; hồi đó vẫn còn pin, đầu dán giấy bóng kính đỏ để bảo vệ tầm nhìn đêm. Chúng tôi dừng lại ở mỗi khu nhà, gõ cửa, hỏi người đang ca gác xem có vấn đề gì không. Mấy tháng đầu thì có hơi đáng sợ chút vì cái chương trình tái định cư. Có nhiều người ra trại đến mức mỗi ngày có đến hàng chục người hàng xóm mới, thậm chí là bạn ở cùng nhà.
Hồi trước chiến tranh, khi còn sống ở khu ngoại ô Stepford, tôi không hề nhận ra chúng ta sung sướng thế nào. Tôi có thực sự cần một căn nhà rộng gần nghìn mét vuông với ba phòng ngủ, hai phòng tắm, một căn bếp, một phòng khách, một phòng làm việc và nguyên cái văn phòng không? Tôi sống một mình được mấy năm thì đột nhiên một ngày có cả một gia đình sáu người từ Alabama đến với thư từ của Bộ Gia Cư. Mới đầu kể cũng hơi sợ sợ nhưng rồi quen nhanh lắm. Tôi không thấy phiền hà gì với gia đình nhà Shannon, tên cái gia đình đó đó. Chúng tôi chung sống cũng hòa thuận, và khi có người đứng gác tôi ngủ ngon hơn. Đây là một đạo luật mới cho những người ở nhà. Luôn phải có một người làm gác đêm. Chúng tôi có ghi danh hết họ lại để đẳm bảo đây không phải phường trộm cắp. Chúng tôi xem chứng minh thư, xem mặt, hỏi xem mọi thứ quanh đây có yên ắng không. Thường thì họ bảo là có, hoặc báo lại mấy tiếng ồn mà chúng tôi phải đi kiểm tra. Đến năm thứ hai, khi người tị nạn không còn xuất hiện thêm nữa và mọi người quen nhau hết rồi, chúng tôi chả buồn kiểm tra danh sách với chứng từ gì hết nữa. Khi ấy mọi thứ bình ổn hơn. Còn cái năm đầu tiên, khi bên cảnh sát vấn còn đang cải tổ lại và khu an toàn vẫn chưa hoàn toàn được bình định…
[Rùng mình tạo hiệu ứng.]
Vẫn còn khá nhiều nhà bị bỏ hoang, lỗ chỗ vết đạn hoặc bị đột nhập vào hoặc chỉ đơn giản là rỗng tuếch, cửa nẻo mở toang. Chúng tôi dấn băng cảnh sát lên khắp các cửa, kể cả cửa sổ. Nếu có cái nào bị đứt, điều ấy nghĩa là trong nhà có zombie. Chuyện đó có xảy ra mấy lần rồi. Tôi đợi ở ngoài, súng lên đạn sẵn. Thỉnh thoảng có nghe thấy tiếng hét, đôi khi là tiếng súng. Có lúc còn nghe thấy tiếng rên, tiếng xô đây, rồi sau đó đồng đội anh chui ra, cầm theo thứ vũ khí dính đầy máu và một cái đầu vừa bị chặt. Bản thân tôi cũng đã phải hạ vài con. Đôi lúc khi mà đồng đội tôi đang ở trong nhà và tôi ở ngoài phố canh chừng, tôi nghe thấy tiếng động, tiếng vật lộn, tiếng chà xát, như thế có thứ gì đang lết mình đằng sau bụi rậm. Tôi chiếu đèn vào đó, gọi hỗ trợ và rồi hạ gục nó.
Có lần tí nữa tôi dính chưởng. Chúng tôi đang vào dọn dẹp một căn nhà hai tầng: bốn phòng ngủ, bốn phòng tắm, đã bị sập mất ở chỗ cửa sổ phòng khách, nơi có ai đó đã phóng nguyên cả con xe jíp Liberty qua. Cộng sự của tôi xin phép đi giải quyết. Tôi để cô ấy chui ra sau chỗ bụi rậm. Tại tôi cả. Tôi quá phân tâm, quá để ý đến những gì đang diễn ra trong nhà. Tôi không chú ý đằng sau lưng. Đột nhiên tôi thấy xe mình bị giật giật. Tôi quay lại, nhưng bánh phải đang bị cái gì đó tóm lấy. Tôi quành người, rọi đèn vào chỗ đó. Một con “lê lết,” loại bị mất hết chân cẳng. Nó nằm trên đường gầm gừ dọa tôi, tìm cách trèo lên xe. Cái xe lăn ấy đã cứu mạng tôi. Nó cho tôi vừa đủ mấy giây để rút khẩu cạc bin ra. Nếu lúc ấy tôi đang đứng, có thể nó đã tóm được mắt cá tôi hay thậm chí còn xin nguyên một miếng. Đây là lần cuối cùng tôi buông lơi công việc của mình.
Zombie không phải là vấn đề duy nhất của chúng tôi. Còn có cả bọn trộm cắp, không phải loại ra tù vào tội đã quen mà chỉ là những người đang tìm cách sinh tồn. Đám lấn chiếm đất đai cũng vậy; hai trường hợp này thường được giải quyết êm thấm. Chúng tôi đưa họ về, cung cấp những thứ họ cần, để ý chăm lo cho họ cho đến khi người bên Gia Cư đến giải quyết nốt.
Cũng có mấy tay trộm thực thụ, dân chuyên hẳn hoi. Đó là lần duy nhất tôi bị thương.
[Anh vạch áo xuống, để lộ ra vết sẹo tròn to cỡ đồng mười xu thời tiền chiến.]
Đạn chín li, xuyên qua vai phải. Đồng đội tôi đuổi hắn ra khỏi căn nhà. Tôi ra lệnh cho hắn đứng lại. Đó là lần duy nhất tôi phải giết người, thật là ơn Chúa. Khi đạo luật mới được đưa vào áp dụng, mấy thứ tội phạm thông thường gần như tiệt hết.
Rồi còn cả bọn trẻ hoang nữa, anh biết đấy, mấy đứa nhóc vô gia cư mồ côi cha mẹ. Chúng tôi thường thấy chúng nằm co quắp trong tầng hầm, tủ quần áo, dưới gầm giường. Rất nhiều đứa đi bộ đến đây từ tận mạn phía đông. Đứa nào cũng dặt dẹo, suy dinh dưỡng, ốm yếu. Rất nhiều lần chúng bỏ chạy. Đó là những lần duy nhất tôi thấy không vui khi, anh biết đấy, mình không đứng dậy đuổi theo được. Có người khác sẽ đuổi theo, đuổi kịp khá nhiều, nhưng không phải lúc nào cũng thế.
Vấn đề lớn nhất là bọn quisling.
Quisling?
Ừ, anh biết đấy, cái lũ hóa dại xong bắt đầu hành xử như lũ zombie.
Anh có thể giải thích rõ hơn không?
Ờ thì, tôi không phải bác sĩ tâm lí nên tôi không biết nhiều thuật ngữ lắm.
Thế cũng được.
Thì theo như cách hiểu của tôi, có một loại người không thể đối mặt với những tình huống đánh-lại-hay-chết. Họ luôn bị thu hút về phía những gì họ sợ hãi. Thay vì chống lại, họ muốn làm chúng hài lòng, muốn gia nhập hàng ngũ của chúng, muốn trở thành chúng. Chắc đó là chuyện xảy ra trong các vụ bắt cóc, anh biết đấy, như vụ của Patty Hearst hay hội chứng Stockholm, hoặc là như trong chiến tranh bình thường, khi người dân nước bị xâm lược lại gia nhập quân đội kẻ thù. Bọn cộng tác viên này đôi khi còn cực đoan hơn cả những người chúng bắt chước, như lũ Phát xít Pháp đấy, một trong số những quân đội cuối cùng của Hitler. Có lẽ đó là lí do chúng ta gọi bọn đấy là quisling, hính như đây là từ gốc Pháp thì phải.[41]
Nhưng trong cuộc chiến này không thể làm thế được. Anh không thể cứ giơ tay đầu hàng và nói, “Ê, đừng giết tôi, tôi về phe các người.” Trong cuộc chiến này không có vùng trung lập, không có chuyện đi lại. Chắc người ta không chấp nhận được điều đó. Nó đẩy họ đi quá mức chịu đựng. Họ bắt đầu hành xử như lũ zombie, rên rỉ như chúng, thậm chí còn tấn công và tìm cách ăn thịt người khác. Chúng tôi phát hiện trường hợp đầu tiên như vậy đó. Hắn là một gã đàn ông trưởng thành, tầm ngoài ba mươi. Hắn trông bẩn thỉu, loạng choạng lê bước dọc vỉa hè. Chúng tôi tưởng hắn chỉ đang bị sốc thôi, cho đến khi hắn cắn vào tay một người trong đội tôi. Mấy giây ấy thật kinh khủng. Tôi hạ thằng Q ấy với một phát súng vào đầu và rồi quay sang phía đồng đội mình. Anh ta sụp xuống bên vệ đường, chửi bới loạn xạ, nước mắt nước mũi tùm lum, mắt không dứt ra được khỏi cái vết cắn nham nhở chỗ cẳng tay. Đây là án tử và anh ta biết điều đó. Anh ấy đang chuẩn bị tự xử thì chúng tôi phát hiện ra ở chỗ đầu cái tên tôi vừa bắn hạ đang có máu đỏ phun ra xối xả. Khi sờ thử người thì thấy hắn vẫn còn ấm! Anh phải chứng kiến cảnh tay đồng đội tôi tí thì phát điên. Đâu phải ngày nào cũng được đấng tối cao trên trời ban phước lành. Nản cái là tay này cũng tí nữa thì ngỏm. Thằng kia mồm nhiều vi khuẩn đến mức súy khiến tay kia tử vong do nhiễm khuẩn tụ cầu.
Chúng tôi cử tưởng mình vừa phát hiện ra điều gì mới lạ nhưng hóa ra chuyện này đã có lâu rồi. Phía CDC đang sắp sửa công bố rộng rãi cho toàn dân. Họ thậm chí còn cử cả một chuyên gia đến từ Oakland để hướng dẫn cho chúng tôi biết phải làm gì khi gặp chúng. Tôi sững sờ luôn. Anh có biết quisling chính là lí do khiến nhiều người nghĩ họ miễn nhiễm không? Chúng cũng là nguyên nhân giúp mấy thứ thần dược vớ vẩn kia được thổi phồng đến thế. Thử nghĩ mà xem. Có ai đó dùng Phalanx, bị cắn nhưng vẫn sống sót. Hắn còn biết nghĩ gì nữa? Hắn chắc còn chẳng biết quisling là cái giống gì. Chúng cũng hung bạo như zombie và đôi lúc thậm chí còn nguy hiểm hơn.
Tại sao vậy?
Xem nào, đầu tiên là chúng không bị đóng băng lại. Ý tôi là, ừ thì nếu chúng tiếp xúc lâu với cái lạnh thì cũng có, nhưng trong điều kiện khí hậu lạnh vừa vừa, nếu chúng vẫn còn mặc quần áo ấm thì chẳng sao hết. Chúng cũng khỏe lên khi ăn thịt người khác. Không giống bọn zombie. Chúng có thể cầm cự lâu dài được.
Nhưng anh có thế hạ gục chúng dễ dàng hơn mà.
Đúng và sai. Ta không cần phải nhắm vào đầu chúng; có thể nhắm vào phổi, vào tim, vào bất cứ đâu và cuối cùng chúng sẽ chảy máu đến chết. Nhưng nếu bắn một phát không hạ được chúng, chúng sẽ tiếp tục xông lên cho đến khi nào chết thì thôi.
Chúng không thấy đau sao?
Còn lâu. Cái kiểu ý chí vượt trên tất cả ấy, khi anh dồn toàn tâm toàn trí vào một việc gì đó thì anh có thể ngăn tín hiệu truyền lên não hãy đại loại thế. Tốt nhất anh nên nói chuyện với một chuyên gia.
Xin cứ nói tiếp đi.
Được rồi, thì đấy, đó là lí do chúng tôi không bao giờ có thể thuyết phục được chúng. Chẳng còn có thể nói năng gì được nữa. Họ là zombie, có lẽ về bề ngoài thì không phải, nhưng về phía trong thì không khác biệt gì hết. Thậm chí ngay cả nhìn bên ngoài cũng khó đoán nếu chúng trông bẩn thỉu vừa đủ, máu me vừa đủ, bệnh hoạn vừa đủ. Zombie không nặng mùi lắm đâu, nhất là nếu chúng đi tách bầy và vẫn còn mới. Làm thế nào mà phân biệt được mấy tên giả mạo này với mấy cái bị thịt thối rữa kia? Sao làm được. Bên quân đội có cho chúng tôi chó nghiệp vụ hay cái gì đâu. Anh phải dùng mắt mà dò.
Thây mà không chớp mắt, tôi cũng chẳng hiểu vì sao. Chắc bởi vì giác quan nào chúng cũng dùng ngang nhau nên não chúng không đánh giá cao thị lực. Có thể bởi vì cơ thể chúng không có nhiều dịch nên chúng không thể cứ dùng để làm ướt mắt. Ai mà biết được, nhưng chúng không chớp mắt còn quisling thì lại có. Đó là cách nhận ra chúng; lùi lại vài bước và đợi mấy giây. Lúc tối thì dễ hơn, chỉ cần chiếu đèn vào mặt chúng. Nếu chúng mà không chớp mắt là hạ ngay.
Còn nếu có chớp thì sao?
Lệnh của chúng tôi là phải bắt sống bọn quisling nếu có thể, và chỉ sử dụng vũ lực gây chết người khi cần phải tự vệ. Nói cái này ra nghe thật điên rồ, bây giờ nó vẫn thế, nhưng mà chúng tôi có tóm được vài đứa, trói gô cổ lại và đem giao nộp cho cảnh sát hoặc Vệ binh Quốc gia. Tôi chẳng rõ họ làm gì với chúng. Tôi có nghe về Walla Walla, anh biết chứ, cái nhà tù nơi có đến hàng trăm tên như vậy được cho ăn mặc và thậm chí còn chữa trị ấy. [Anh đảo mắt lên trời.]
Anh không tán thành chuyện này sao.
Này này, tôi không muốn đả động gì đâu nhé. Anh muốn bới móc cái đống bầy nhầy ấy thì cứ đi mà đọc báo đi. Năm nào cũng có một tay luật sư hay linh mục hay chính trị gia tìm cách đổ thêm dầu vào lửa để phục vụ mục tiêu của mình. Cá nhân tôi thì không quan tâm. Tôi chẳng có tí cảm xúc gì đối với chúng cả. Tôi nghĩ điều đáng buồn nhất ở bọn này là chúng đã từ bỏ quá nhiều thứ và rồi cuối cùng mất tất cả.
Tại sao vậy?
Bởi vì mặc dù chúng ta không phân biệt được chúng, bọn zombie thật lại có thể. Còn nhớ hồi mới bước vào cuộc chiến, khi mọi người còn đang tìm cách khiến cho lũ thây ma chống lại nhau không? Có cái “tài liệu minh chứng” về các cuộc đấu đá nhau — có một số nhân chứng và thậm chí cả một thước phim về hai con zombie ăn thịt lẫn nhau. Quá ngu xuẩn. Đấy là bọn zombie tấn công quisling, nhưng nhìn thì ai mà biết được. Quisling không hề kêu la. Chúng cứ nằm im đấy, thậm chí không thèm đánh lại, chậm rãi, cứng nhắc quặn quại, bị chính cái sinh vật chúng muốn trở thành ăn tươi nuốt sống.
MALIBU, CALIFORNIA
[Tôi chẳng cần nhìn ảnh cũng nhận ra đây là Roy Elliot. Chúng tôi cùng đi uống cà phê ở quán Malibu Pier Fortress mới được khôi phục lại. Những người ngồi quanh chúng tôi cũng nhận ra ông, nhưng khác với thời tiền chiến, họ tôn trọng đứng cách ông ra.]
ADS, đó là kẻ thù của tôi: Hội chứng Suy sụp Vô triệu chứng[42], hoặc là Hội chứng Tuyệt vọng Ngày tận thế[43], tùy theo người anh tiếp chuyện. Dù tên nó có là gì đi chăng nữa thì trong mấy tháng đầu tiên, nó cướp đi nhiều sinh mạng ngang ngửa nạn đói, bệnh dịch, xung đột giữa người với người hay lũ thây ma. Mới đầu không ai hiểu chuyện gì đang xảy ra. Chúng ta vừa mới bình ổn được dãy Rocky, chúng ta đã dọn sạch vùng an toàn, và vậy mà hàng ngày số người chết vẫn lên tới gần cả trăm. Đây không phải tự