CHƯƠNG 6 XUNG QUANH THẾ GIỚI
VÀ TRÊN KHÔNG
TỈNH BOHEMIA, LIÊN MINH CHÂU ÂU
[Nó có tên gọi là Kost, nghĩa là “Khúc Xương,” và chỉ riêng tính kiên cố của nó thôi cũng đã thừa đủ để bù đắp cho vẻ ngoài không lấy gì làm thẩm mỹ lắm. Trông như thể được mọc thẳng lên từ nền đá rắn, tòa lâu đài thế kỉ mười bốn được xây dựng theo lối kiến trúc Gôtíc này phủ lên thung lũng Plakanek một cái bóng rất uy vệ. Đó là hình ảnh David Allen Forbes đang muốn lưu lại trên giấy bút. Đây sẽ là cuốn sách thứ hai của ông, Những Tòa Lâu Đài Trong Cuộc Đại Chiến Zombie: Trên Lục Địa. Người đàn ông mang quốc tịch Anh ấy ngồi dưới một gốc cây, bộ quần áo vá víu cùng thanh gươm Scotland của ông càng làm như tô điểm thêm cho cái khung cảnh thời vua Arthur này. Ông đột ngột thay đổi phong thái ngay khi tôi đến, chuyển từ một người nghệ sĩ thong dong sang thành một người kể chuyện đầy lo lắng.]
Khi nói rằng trong lịch sử các nước thuộc Tân Thế Giới không tồn tại các thành trì kiên cố như của chúng tôi, ý tôi chỉ muốn nhắc đến Bắc Mỹ. Tất nhiên là dọc khu vực Caribbean có các pháo đài ven biển của Tây Ban Nha, và còn cả những tòa thành chúng tôi cùng phía bên Pháp xây dựng ở Lesser Antilles. Rồi còn cả những di tích của người Inca ở dãy Andes, mặc dù họ chưa trực tiếp bị bao vây bao giờ.[53] Thêm nữa là khi tôi nói “Bắc Mỹ,” tôi không tính gộp cả các di chỉ của người Maya và Aztec ở Mexico — có cái Trận chiến ở Kukulcan, dù chắc giờ nó được gọi là Toltec, đúng không? Mấy người ở đó họ ngăn được bước tiến của từng đấy con Zed[54] ngay trước thềm của cái kim tự tháp tuyệt vời ấy. Vậy nên khi tôi nói “Tân Thế Giới,” thực chất là tôi đang nói về Mỹ và Canada.
Đây không phải là phí báng gì, anh hiểu chứ, xin đừng nghĩ theo chiều hướng như vậy. Cả hai đều là những đất nước còn trẻ, các anh không có lịch sử bị hỗn loạn thể chế như các nước Châu Âu chúng tôi sau khi La Mã sụp đổ. Các anh lúc nào cũng có một chính phủ quốc gia thường trực với đủ lực lượng để bảo vệ trật tự và luật lệ.
Tôi biết điều này không đúng trong cuộc hành trình mở rộng về phương Tây hoặc trong cuộc Nội Chiến của các anh, và cũng xin phép được nói là tôi không loại trừ những chiến lũy thời tiền Nội Chiến hay trải nghiệm của những người đã phải bảo vệ nó. Tôi hi vọng một ngày nào đó được tham quan Pháo đài Jefferson. Tôi nghe bảo những người sống sót ở đó đã phải trải qua cả một thời kì nhiều giông tố. Tất cả những gì tôi đang muốn nói là, trong lịch sử Châu Âu, chúng tôi có đến ngót triệu năm hỗn loạn mà đôi khi sự an toàn chỉ đến trụ tường châu mai thành lũy lãnh chúa của anh là dừng. Nghe thế có nghĩa lí gì không? Tôi lại nói năng lăng nhăng rồi; ta nói lại từ đầu nhé?
Không sao, không sao, thế cũng được mà. Xin ông cứ tiếp tục.
Anh sẽ loại đi những đoạn vớ vẩn chứ?
Dạ vâng.
Ờ rồi. Lâu đài. Xem nào… Tôi không muốn phóng đại tầm quan trọng của chúng trong cuộc chiến. Thực chất, nếu đem chúng ra so sánh với bất cứ loại thành trì cố định nào, hiện đại, đã được sửa đổi và đại loại vậy, những gì chúng đóng góp dường như không đáng kể mấy, trừ khi anh là người như tôi thì chính những đóng góp đó sẽ cứu mạng anh.
Điều này không có nghĩa là bát cứ pháo đài to lớn nào cũng trở thành Đấng cứu thế của chúng tôi. Đầu tiên, anh phải hiểu được cái sự khác biệt cố hữu giữa một tòa lâu đài và một cung điện. Rất nhiều nơi được gọi là lâu đài nhưng thực chất chỉ là mấy tòa nhà to lớn đồ sộ, hoặc là đã bị chuyển thành như thế sau khi giá trị phòng ngự của chúng trở nên lỗi thời. Những pháo đài bất khả xâm phạm một thời giờ có quá nhiều cửa sổ ở tầng trệt, đến mức nếu lấy gạch ra bít lại chắc đến mọt đời. Thà ở trong một khu chung cư hiện đại loại bỏ hết thang còn tốt hơn. Và nếu những cái cung điện kia chỉ được xây dựng để thể hiện đẳng cấp, những nơi như “Lâu đài” Chateau Ussé hay Prague, chúng chẳng khác nào bẫy tử.
Cứ nhìn vào điện Versailles đi. Đó là một thảm họa điển hình. Bảo sao chính phủ Pháp quyết định xây đài tưởng niệm quốc gia trên tàn dư của nó. Anh đã đọc cái bài thơ của Renard chưa? Cái bài viết về những bông hồng giờ mọc ở vườn tưởng niệm, cánh chúng nhuộm đỏ máu những kẻ bị nguyền ấy?
Không phải chỉ cần có tường cao kiên cố là đủ để sinh tồn lâu dài. Cũng như bất cứ địa điểm phòng ngự cố định nào khác, lâu đài ẩn chứa nhiều nguy hiểm đến từ bên trong cũng như bên ngoài. Cứ nhìn vào lâu đài Muiderslot ở Hà Lan đi. Chỉ cần một người viêm phổi là đủ. Thêm vào đó là một mùa thu ẩm ướt, lạnh lẽo, thiếu ăn, thiếu thốn thuốc thang tử tế… Thử tưởng tượng xem mọi thứ sẽ như thế nào, bị kẹt bên trong những bức tường đá cao chót vót, mọi người xung quanh ốm thập tử nhất sinh, biết rằng mình cũng chẳng còn bao lăm nữa, biết rằng hi vọng mong manh duy nhất là phải trốn thoát. Các đoạn nhật kí của một số những người đang hấp hối có ghi lại chuyện con người ta tuyệt vọng đến hóa dại, nhảy thẳng vào con hào đặc nghẹt Zed.
Và còn cả các vụ hỏa hoạn như ở Braubach và Pierrefonds; hàng trăm người bị kẹt không biết chạy đi đâu, chỉ biết ngồi đợi bị ngọn lửa thiêu cháy đen thui hay bị khói làm cho chết ngạt. Còn có cả mấy vụ nổ bất ngờ nữa, có người chẳng hiểu làm sao mà lại tìm thấy bom mìn nhưng chẳng biết xử lí hay thậm chí bảo quản thế nào. Ở Miskolc Diosgyor, Hungary, theo như tôi hiểu là có ai đó kiếm được nguyên cả một kho chất nổ sử dụng natri quân sự. Đừng có hỏi tôi chính xác thì nó là cái gì và tại sao mà họ có được nó, nhưng có vẻ chẳng ai biết nước mới là chất xúc tác chứ không phải lửa. Người ta kể là có ai đó hút thuốc trong kho vũ khí, gây ra một vụ hỏa hoạn nhỏ hay gì gì đó. Cái bọn đần kia tưởng chúng ngăn được cháy nổ bằng việc lấy nước ra dội vào mấy cái thùng đấy. Nó đục nguyên một lỗ to tổ chảng trên tường và bọn thây ma cứ thế mà tràn vào như vỡ đập vậy.
Ít nhất đó là do thiếu hiểu biết. Tôi không thể nào tha thứ được chuyện xảy ra ở Chateau de Fougeres. Họ bị cạn kiệt nhu yếu phẩm, nghĩ rằng mình có thể đào hầm chui bên dưới những kẻ đang tấn công mình. Họ nghĩ đây là cái gì, Cuộc Đào Thoát Vĩ Đại à? Họ có khảo sát viên chuyên nghiệp nào đi cùng không? Họ có biết tí gì về lượng giác cơ bản không? Cái chỗ ra khỏi hầm chết tiệt ấy bị thiếu mất hơn nửa cây, tòi lên ngay chính giữa tổ mấy thứ đồ khốn kiếp ấy. Cái lũ ngốc này thậm chí còn không nghĩ đến chuyện trang bị thuốc nổ vào trong hầm.
Vâng, có quá nhiều thảm họa, nhưng cũng đã có một số thành công đáng kể. Nhiều tòa thành chỉ bị vây hãm ngắn hạn nhờ may mắn tọa lạc ở vị trí chiến lược. Một số chỗ ở Tây Ban Nha, Bayern hay Scotland phía bên trên bức tường Antonine[55] chỉ phải trụ vài tuần, hay thậm chí là vài ngày. Với một số chỗ như Kisimul người ta chỉ việc trải qua một đêm khá mệt mỏi. Nhưng rồi cũng có một số chiến thắng đích thực, như tòa thành Chenonceau ở Pháp, một lâu đài kì lạ hơi mang phong thái của Disney, được xây dựng trên một con cầu bắc qua sông Cher. Khi đã chặt đứt cả hai điểm kết nối với đất liền và có tính toán chiến lược tương đối, họ trụ lại được ở đó suốt mấy năm liền.
Họ có đủ đồ dùng trong suốt mấy năm sao?
Ôi lạy Chúa, không. Họ chỉ đơn giản là ngồi đợi khi tuyết bắt đầu rơi, sau đó đi lùng sục các vùng nông thôn lân cận. Theo như tôi nghĩ, gần như ai bị vây hãm cũng đều phải làm thế, dù có ở trong lâu đài hay không. Tôi chắc rằng những người ở trong “Vùng Xanh Dương” chiến lược của các anh cũng làm tương tự, ít nhất là những người sống ở phía trên đường tuyết rơi. Chính vì lí do này mà chúng tôi thấy rất may mắn khi phần lớn Châu Âu đóng băng vào mùa đông. Rất nhiều người tôi nói chuyện đã đồng ý rằng khi mùa đông đến, mặc dù nó dài lê thê và rất khắc nghiệt, lại trở thành một lệnh ân xá trời ban. Chỉ cần không bị chết cóng, rất nhiều người sống sót đã tranh thủ lúc bọn Zed còn đang đóng băng đi sục sạo các vùng xung quanh để kiếm bất kì thứ gì cần thiết cho mấy tháng ấm hơn.
Chẳng có gì ngạc nhiên khi nhiều người chọn ở lại trong thành trì của mình ngay cả khi có cơ hội trốn thoát, cho dù là Bouillon ở Bỉ hay Spis ở Slovakia hay thậm chí ở cả quê nhà như Beaumaris ở Wales. Trước chiến tranh, những nơi này chẳng khác nào hiện vật trong bảo tàng, chỉ là một cái vỏ trống rỗng gồm những gian phòng không mái và các bức tường đồng tâm cao. Hội đồng thành phố đáng ra phải được Huân chương Chữ thập Victoria cho những gì họ đã đạt được, tổng hợp tài nguyên, tổ chức lại dân chúng, khôi phục lại ánh hào quang xưa cho những phế tích này. Họ chỉ có vài tháng trước khi cuộc biến động lan đến vùng họ sống tại Anh. Thậm chí còn ấn tượng hơn đó là câu chuyện về Conwy, vừa là một lâu đài vừa là một bức tường bảo vệ cả thị trấn. Dân cư ở đây không chỉ được sống an toàn và khá thoải mái trong giai đoạn chiến tranh bế tắc, nhờ có đường ra biển mà Conwy còn trở thành bàn đạp cho lực lượng của chúng tôi một khi chúng tôi bắt đầu tái chiếm lại đất nước mình. Anh đã đọc Camelot Mine chưa?
[Tôi lắc đầu.]
Anh đi mua ngay một bản đi. Một cuốn tiểu thuyết cực hay, dựa trên trải nghiệm của chính tác giả khi còn là một trong những người bảo vệ thành trì Caerphilly. Khi chuyện xảy đến ông còn đang ở trên tầng ba căn hộ của mình ở Ludlow, Wales. Khi hết đồ dùng và tuyết đã bắt đầu rơi, ông ta quyết định đi tìm chỗ ở nào đó cố định hơn. Ông ta vô tình bắt gặp một phế tích, nơi ấy đã từng được bảo vệ một cách nửa mùa và kết cụ là công cốc. Ông ta chôn mấy cái xác, đạp bể sọ vài tên Zed đóng băng và bắt đầu một mình khôi phục lại tòa thành này. Ông làm việc không mệt mỏi, xuyên suốt cái mùa đông khắc nghiệt nhất trong lịch sử. Đến tháng năm, Caerphilly đã sẵn sàng cho cuộc vây hãm mùa hè, và đến mùa đông năm sau, nó đã trở thành nơi trú ẩn cho vài trăm người sống sót khác.
[Ông cho tôi xem một bản phác thảo của mình.]
Thật là một kiệt tác, đúng không, lớn thứ hai trên toàn bộ Quần đảo Anh.
Cái nào lớn thứ nhất vậy?
[Ông ngập ngừng.]
Windsor.
Windsor là tòa thành của ông.
Ờ thì, đâu phải của riêng gì tôi.
Ý tôi là ông đã có mặt ở đó.
[Lại thêm một khoảng lặng.]
Về mặt phong ngự mà nói, nó gần như là hoàn hảo. Trước chiến tranh, nó là tòa thành có người ở lớn nhất Chấu Âu, rộng gần mười ba mẫu. Nó có giếng nước riêng và đủ chỗ chứa thức ăn để dùng cho nguyên cả một thập kỉ. Kể từ vụ hỏa hoạn năm 1992, một hệ thống phòng cháy chữa cháy tối tân đã được thiết lập, và sau này do e ngại các mối đe dọa khủng bố, hệ thống an ninh đã được nâng cấp lên ngang tầm bất cứ nơi nào khác ở UK. Ngay cả công chúng cũng không biết số tiền thuế của mình được đem đổ vào đâu: kính chống đạn, tường gia cố, chấn song rút ra rút vào được và tấm cửa sắt được giấu rất khéo trong các khung cửa sổ cũng như cửa ra vào.
Nhưng trong số những kì tích thực hiện được ở Windsor, không gì có thể sánh bằng chuyện lấy dầu thô và khí tự nhiên từ các mỏ ở dưới móng lâu đài. Hồi những năm 1990 người ta đã phát hiện ra các mỏ này nhưng không khai thác được vì một số lí do chính trị và môi trường. Nhưng còn chúng tôi thì chẳng có gì phải ngần ngại cả. Đội ngũ kĩ sư hoàng gia của chúng tôi lập một giàn giáo bắc ngang qua tường và mở rộng ra đến tận địa điểm khoan dầu. Thật là một thành quả đáng khâm phục, và giờ chắc anh đã hiểu vì sao nó trở thành xuất phát điểm cho các đường cao tốc được gia cố của chúng tôi. Về mặt cá nhân mà nói thì tôi chỉ quan trọng chuyện có phòng ốc ấm áp, đồ ăn nóng hổi và, trong trường hợp khẩn cấp… bom xăng và hào lửa. Công nhân đó không phải cách chặn bọn Zed hiệu quả gì cho cam, nhưng nếu có thể khiến chúng mắc kẹt và cầm chân chúng phía trong ngọn lửa thì… với cả ngoài ra, khi đạn dược đã hết sạch và chẳng còn gì khác ngoài một đống vũ khí cận chiến thời trung cổ thì còn biết làm gì nữa đây?
Mấy thứ khí giới đó không phải hiếm, trong các bảo tàng, các bộ sưu tập của tư nhân… và không một cái nào là hàng giả đem trang trí. Chúng đều là đồ thật, rất bền bỉ và đã kinh mùi chiến trận. Chúng lại một lần nữa trở thành một phần của đời sống con dân nước Anh, những công dân bình dị đi tuần tiễu cùng với cây thương, chiếc kích hoặc rìu chiến hai lưỡi. Bản thân tôi cũng đã sử dụng khá thuần thục thanh gươm hai lưỡi này, mặc dù nhìn vào chắc anh không nghĩ thế đâu.
[Ông hơi ngượng nghịu ra dấu về phía thanh kiếm cao gần như ngang ông.]
Nó cũng không thực sự lí tưởng cho lắm, đòi hỏi kĩ năng phải rất khéo léo, những dần dần anh cũng hiểu ra mình làm được gì, những gì anh chưa bao giờ nghĩ mình hay những người xung quanh lại có khả năng.
[David do dự trước khi nói tiếp. Rõ ràng là ông ta đang cảm thấy không thoải mái. Tôi chìa tay ra.]
Rất cảm ơn ông đã dành chút thời gian…
Vẫn… còn một thứ nữa.
Nếu ông thấy không tiện…
Không, không sao, nói ra cũng được mà.
[Hít một hơi.] Bà ấy… bà ấy không chịu rời đi, anh hiểu chứ? Bất chấp sự phản đối của Quốc hội, bà ấy vẫn quyết định ở lại Windsor “trong giai đoạn này,” theo như cách nói của bà ấy. Tôi cứ ngỡ đó chắc là do cái tính vương giả không phải lối, hoặc có thể là do bà ta sợ quá không muốn rời đi. Tôi cố hết sức làm cho bà ấy hiểu, gần như quì hẳn xuống mà van xin bà ấy. Chẳng phải khi biến tất cả các tài sản của bà trở thành vùng được bảo vệ cho những ai có thể đến được và phòng thủ được chúng thông qua Nghị định Balmoral là bà đã làm quá đủ rồi sao? Tại sao không đi ẩn náu cùng với gia đình ở Ai Len hay đảo Man? Hoặc nếu bà nhất quyết ở lại Anh, sao không ít nhất đi đến trụ sở chỉ huy tối cao phía bắc bên kia bức tường Antonine?
Bà ấy đã nói gì?
“Sự khác biệt lớn nhất của chúng ta là những gì ta làm cho người khác.”[Ông hắng giọng, môi hơi thoáng run rẩy.] Cha của bà đã nói như vậy; đó là lí do vì sao trong cuộc Đại Chiến Thế Giới lần hai ông không chạy sang Canada, lí do mẹ bà trong suốt mùa bão tuyết đi thăm những người dân thường đang phải chen chúc nhau trong các ga điện ngầm ở London. Cũng chính vì lí do đó mà cho đến nay, chúng tôi vẫn còn là Vương quốc Liên hiệp Anh. Nhiệm vụ họ gánh vác, sứ mệnh mà họ gánh vác là phải trở thành hiện thân cho những gì tốt đẹp nhất của tinh thần dân tộc chúng tôi. Họ phải luôn là một tấm gương cho những người khác, là người mạnh mẽ nhất, can đảm nhất và vĩ đại nhất. Hiểu theo một cách khác, chính họ mới là người bị chúng ta cai trị chứ không phải ngược lại, và họ phải hi sinh tất cả, tất cả mọi thứ, chỉ để mang trên vai cái gánh nặng kinh khủng này. Nếu không thì họ để làm gì? Cứ quẳng hết cái mớ truyền thống chết tiệt này đi, lôi cái máy chém ra và coi như xong chuyện. Tôi thấy họ cũng như mấy cái lâu đài: những di tích cũ nát, lỗi thời, không có một chức năng hiện đại nào khác ngoài thu hút du khách. Nhưng khi bầu trời trở nên đen tối và Tổ quốc bắt đầu kêu gọi, cả hai đều tìm lại được ý nghĩa cho sự tồn tại của mình. Một thứ bảo vệ thân xác của chúng tôi, thứ còn lại che chở tâm hồn chúng tôi.
ĐẢO SAN HÔ ULITHI, HIỆP CHỦNG QUỐC MICRONESIA
[Trong Thế Chiến Thứ II, hòn đảo san hô rộng lớn này là một trong những căn cứ tiến công chính của Hạm đội Thái Bình Dương Mỹ. Trong Thế Chiến Z, nó không chỉ coi giữ các chiến hạm Mỹ mà còn cả hàng trăm loại tàu bè dân sự. Một trong số đó là tàu UNS Ural, trạm phát thanh đầu tiên của đài Radio Free Earth. Giờ với tư cách một viện bảo tàng dành cho các thành tựu của dự án này, nó là tâm điểm của bộ phim tài liệu Ngôn từ Chiến tranh của Anh. Một trong những đối tượng được phỏng vấn trong bộ phim tài liệu này là Barati Palshigar.]
Thiếu hiểu biết là một thứ giặc. Các thứ dối trá, mê tín, thông tin sai lệch, thông tin bóp méo. Đôi khi, nó lại là sự thiếu hụt thông tin. Thiếu hiểu biết đã giết chết hành triệu người. Thiếu hiểu biết đã gây ra cuộc Đại Chiến Zombie. Tưởng tượng thử xem mọi chuyện sẽ khác như thế nào nếu hồi đó chúng ta biết những thứ như bây giờ. Tưởng tượng thử xem mọi thứ sẽ ra sao nếu ta biết về virút thây ma rõ như bệnh lao chẳng hạn. Tưởng tượng thử xem mọi chuyện sẽ diễn tiến thế nào nếu tất cả mọi công dân trên thế giới, hay ít nhất là những người có nhiệm vụ bảo vệ những công dân đó, biết được chính xác mình đang phải đối mặt với cái gì. Ngu dốt là một thứ giặc, và các bằng chứng chính xác sẽ là vũ khí.
Khi tôi mới tham gia vào Radio Free Earth, nó vẫn mang tên là Chương trình Cung cấp Thông tin về Sức khỏe và An toàn Quốc tế. Cái tên “Radio Free Earth” là do những cá nhân và cộng đồng giám sát các buổi phát thanh của chúng tôi.
Đây là dự án quốc tế đầu tiên, tổ chức chỉ vài tháng sau khi Kế hoạch Nam Phi được triển khai, và trước cuộc hội nghị ở Honolulu mấy năm. Cũng như cách cả thế giới xây dựng chiến lược sinh tồn dựa trên Kế hoạch Redeker, chúng tôi được hình thành dựa trên nền tảng của Radio Ubunye.[56]
Radio Ubunye là gì vậy?
Các bản phát thanh dành cho những công dân bị cô lập của Nam Phi. Vì chính phủ họ không đủ nguồn lực để hỗ trợ về mặt vật chất, họ chỉ có thể hỗ trợ bằng thông tin. Họ là quốc gia đầu tiên, ít nhất là theo như tôi biết, bắt đầu phát những bài phát thanh đa ngôn ngữ một cách thường xuyên. Bên cạnh việc cung cấp những kĩ năng sinh tồn thiết thực, họ thậm chí còn đi thu thập và đề cập đến tất cả mọi thứ thông tin sai lệch đang lan truyền trong các tầng lớp nhân dân. Chúng tôi lấy khuôn mẫu ấy của Radio Ubunye và đem áp dụng cho cộng đồng thế giới.
Tôi được đưa lên bong ngay đúng lúc mọi thứ bắt đầu, theo đúng nghĩa đen luôn. Khi ấy các lò phản ứng của tàu Ural vừa mới được đưa vào hoạt động lại. Ural vốn là một chiến hạm Xô-viết, sau đó được sung vào lực lượng Hải quân Liên bang của Nga. Hồi đó SSV-33 đã phải đóng nhiều vai trò: tàu chỉ huy, trạm theo dõi tên lửa, chiến hạm theo dõi điện tử. Thật không may, con tàu này lại hoàn toàn không có giá trị, bởi vì, như họ nói với tôi, hệ thống của nó phức tạp đến mức ngay cả thủy thủ đoàn của nó cũng phải bó tay. Phần lớn quãng đời của nó bị buộc vào cột ở căn cứ hải quân Vlapostok, hỗ trợ cũng cấp điện cho căn cứ. Tôi không phải kĩ sư nên chẳng biết làm thế nào mà họ thay thế được các thanh nhiên liệu đã cạn kiệt trên tàu hay chỉnh lại các hệ thống liên lạc cồng kềnh của nó để kết nối được với hệ thống vệ tinh toàn cầu. Tôi chuyên về ngôn ngữ, đặc biệt là các thứ tiếng ở vùng Tiểu lục địa Ấn Độ. Chỉ có hai người chúng tôi, tôi cùng với ông Verma, phải lo cho cả tỉ con người… ờ thì… ít nhất lúc đó vẫn còn là tỉ.
Verma gặp tôi trong một trại tị nạn ở Sri Lanka. Ông ta là một biên dịch viên, còn tôi là thông dịch viên. Trước đó vài năm chúng tôi đã có làm việc cùng nhau tại đại sứ của đất nước chúng tôi ở London. Hồi đó chúng tôi tưởng việc thế là đã kinh lắm rồi; đúng là một lũ ếch ngồi đáy giếng. Khối lượng công việc nặng không thế tưởng tưởng tượng nổi, một ngày làm mười tám tiếng, đôi khi lên đến tận hai mươi. Tôi chẳng hiểu bọn tôi ngủ vào lúc nào. Cứ mỗi phút là lại có một đống thông tin thô, một đống các thứ thư từ được gửi đến. Chúng phần lớn liên quan đến các kĩ năng sinh tồn cơ bản: cách lọc nước, tạo nhà kính trong nhà, cách nuôi trồng và chế biến bào tử mốc để làm penicillin. Đống tài liệu khổng lồ này sẽ thường có các dữ kiện và thuật ngữ mà tôi trước giờ chưa từng nghe tới. Tôi chưa từng biết đến “quisling” hay “trẻ hoang”; tôi không biết “Lobo” là cái giống gì cũng như chưa từng nghe đến vụ thuốc chống zombie giả Phalanx. Tôi chỉ biết rằng đột nhiên có một người mặc quân phục đến tống cho tôi một mớ chữ và nói rằng “Chúng tôi cần dịch chỗ này ra Marathi trong vòng mười lăm phút nữa để thu âm.”
Mọi người phải đính chính những loại thông tin sai lệch nào?
Anh muốn tôi bắt đầu từ đâu đây? Y học? Khoa học? Quân sự? Tâm linh? Hay tâm lí? Cá nhân tôi thấy tâm lí là cái hạng mục dễ điên đầu nhất. Người ta cứ muốn nhân cách hóa cái đám dịch bệnh biết đi ấy. Trong chiến tranh, chiến tranh thông thường ấy, chúng ta dành ra rất nhiều thời gian để bôi nhọ kẻ thù, tạo ra khoảng cách về mặt cảm xúc. Chúng ta sẽ bịa chuyện hoặc gán cho đối phương những cái tên mang tính xúc phạm… cứ nhớ lại chuyện hồi trước bố tôi hay gọi dân Đạo Hồi là gì… và giờ trong cuộc chiến này, dường như mọi người lại lao đầu đi tìm sự tương đồng giữa mình và kẻ thù, tìm cách gán chút nhân tính cho cái thứ rõ ràng không còn là giống người nữa.
Anh có thể nêu cho tôi vài ví dụ được không?
Có rất nhiều thứ quan niệm sai lệch: zombie có trí tuệ; chúng biết cảm nhận và thích nghi, biết cách sử dụng công cụ và thậm chí là một số vũ khí của con người; chúng vẫn còn lưu giữ kí ức hồi còn sống; hoặc là có thể giao tiếp với chúng cũng như huấn luyện chúng trở thành thú cưng. Thật là đau lòng khi cứ phải liên tục đính chính lại hết tin đồn này đến tin đồn khác. Cuốn cẩm nang sinh tồn dân sự có hỗ trợ được chút ít nhưng vẫn còn rất nhiều hạn chế.
Thật vậy sao?
Tất nhiên. Căn cứ vào các phần đề cập đến SUV và các loại hỏa khí cá nhân, anh có thể thấy rõ ràng tác giả là một người Mỹ. Nó không tính đến khác biệt văn hóa gì hết… không tính đến một loạt các giải pháp mà người bản địa tin rằng sẽ bảo vệ họ khỏi lũ thây ma.
Chẳng hạn như…?
Tôi không muốn đưa ra quá nhiều thông tin, làm thế thì khác gì lên án kín cả cái cộng đồng nơi “giải pháp” này bắt nguồn. Là một người Ấn Độ, tôi phải đối mặt với rất nhiều khía cạnh của chính văn hóa nước mình, những thứ nay đã trở nên rất tai hại. Có cái vụ ở Varanasi, một trong những thành phố cổ nhất trên Trái Đất, gần nơi được cho là Đức Phật đã có bài thuyết pháp đầu tiên. Đó cũng là nơi mỗi năm hàng nghìn người hành hương theo dòng Hindu đến nhắm mắt xuôi tay. Trong thời tiền chiến, khắp dọc con đường sẽ nhan nhản xác. Giờ đống xác đấy đã bắt đầu đứng lên lại và đi tấn công. Varanasi là một trong những Vùng Trắng nóng bỏng nhất, một tổ thây ma. Cái tổ này trải rộng khắp gần hết dọc sông Ganges. Trước khi chiến tranh nổ ra khoảng vài chục năm, công năng chữa bệnh của con sông này đã được khoa học chứng minh, do độ ô-xi hóa cao của nước hay sao đó.[57] Thật là bi kịch. Hàng triệu người đổ xô đến hai bên bờ con sông, khiến tình hình càng lúc càng trầm trọng. Ngay cả sau khi chính phủ rút về trong dãy Himalayas, khi hơn 90 phần trăm đất nước đã chính thức bị thây ma chiếm đóng, cuộc hành hương ấy vẫn tiếp tục. Nước nào cũng phải đối mặt với tình huống tương tự. Ai trong đội ngũ nhân viên trên khắp toàn cầu của chúng tôi cũng đã ít nhất một lần phải đối mặt với những sự thiếu hiểu biết chết người như thế này. Một gã người Mỹ có kể cho chúng tôi về một giáo phái mang tên “Những Con Cừu của Chúa”. Họ tin rằng cuối cùng thời kì hoàng kim cũng đã đến và nếu càng mau bị nhiễm bệnh thì càng nhanh được lên thiên đường. Có một chị — tôi sẽ không nói chị ta là dân nước nào — đã phải tìm mọi cách xóa bỏ cái quan niệm rằng quan hệ tình dục với một trinh nữ có thể “tẩy trừ” cái “lời nguyền.” Tôi chẳng biết bao nhiêu cô gái hay bé gái đã bị hãm hiếp chỉ để “tẩy trần.” Ai cũng rất căm giận nhân dân nước mình. Ai cũng cảm thấy tự xấu hổ. Một đồng nghiệp người Bỉ của tôi còn so sánh nó với bầu trời đang ngày một tối tăm hơn. Anh ta gọi đó là “cái xấu ẩn chứa trong tâm hồn tất cả chúng ta.”
Tôi cũng không cho rằng mình có quyền phàn nàn. Tính mạng tôi chẳng bao giờ bị đe dọa, dạ dày tôi lúc nào cũng có cái để cho vào. Tôi có thể ngủ không nhiều nhưng ít nhất có thể ngủ mà không cần lo lắng. Quan trọng hơn, tôi không phải làm ở ban IR của tàu Ural.
IR?
Information Reception – Ban Tiếp Nhận Thông Tin. Những thông tin chúng tôi đưa lên sóng đâu phải bắt nguồn từ tàu Ural. Nó đến từ khắp nơi trên thế giới, từ các chuyên viên và nhóm chuyên viên ở các vùng an toàn trực thuộc chính phủ nhiều quốc gia. Họ gửi những phát kiến của mình cho các nhân viên IR để chuyển lại cho chúng tôi. Phần lớn lượng thông tin này được truyền qua các băng tần dân sự mở ngỏ thông thường. Và trong số đó, rất nhiều băng tần đặc kín tiếng người kêu cứu. Có đến hàng triệu sinh mạng bất hạnh rải rác trên khắp thế giới, tất cả đều đang kêu gào van lạy vào trong máy vô tuyến của mình khi con cái họ chết đói hoặc thành lũy tạm của họ bị cháy rụi, hoặc khi bọn thây ma tràn qua tuyến phòng ngự của họ. Ngay cả nếu anh không biết tiếng của họ, và thực tế là rất nhiều nhân viên trực không biết, cái chất thống khổ trong giọng nói ấy không thể lẫn đi đâu được. Họ cũng không được phép đáp trả; không có thời gian cho việc đó. Mọi thứ truyền phát thông tin đều phải được dành hết cho công việc chính. Tôi chẳng muốn biết các nhân viên IR cảm thấy ra sao về việc đó đâu.
Khi buổi phái thanh cuối cùng được truyền đến từ Buenos Aires, khi cô ca sĩ người La-tinh nổi tiếng hát cái bài hát ru Tây Ban Nha đó, một nhân viên trực của chúng tôi chịu không nổi nữa. Nó không phải quê ở Buenos Aires, nó thậm chí còn không phải dân Nam Mỹ. Nó chỉ là một thằng bé thủy thủ người Nga mười tám tuổi đời, tự bắn não mình văng tung tóe khắp loa đài. Thằng nhóc ấy là người đầu tiên, và kể từ khi chiến tranh kết thúc, tất cả các nhân viên IR khác đều có kết cục tương tự. Giờ không ai trong số họ còn sống. Người cuối cùng là anh bạn Bỉ của tôi. “Anh sẽ mang những giọng nói đó theo mình,” một buổi sáng anh ta nói với tôi như vậy. Chúng tôi đang đứng trên boong, nhìn về phía lớp sương nâu bẩn, ngóng đợi một bình minh cả hai đều biết sẽ không bao giờ lên. “Những tiếng kêu khóc ấy sẽ đi theo tôi suốt đời, không bao giờ yên nghỉ, không bao giờ nhạt nhòa, không bao giờ ngừng kêu gọi tôi xuống nhập bọn với họ.”
KHU PHI QUÂN SỰ: NAM TRIỀU TIÊN
[Hyungchol Choi, phó giám đốc Cơ quan Tình báo Trung ương Triều Tiên, chỉ về phía phần đất khô cằn, đồi núi trập trùng và không có gì đặc biệt ở phía Bắc chỗ chúng tôi. Có thể dễ dàng nhầm nó với Nam California nếu không có mấy cái xe tải bỏ hoang, bảng quảng cáo đã phai hình và hàng rào dây kẽm gai chạy về hai phía chân trời.]
Chuyện gì đã xảy ra? Không một ai biết. Không một quốc gia nào lại có khả năng đẩy lùi căn đại dịch này như Bắc Triều Tiên. Phía Bắc có sông, phía Đông và Tây có biển, và về phía Nam [ông chỉ tay vào Khu Phi Quân Sự], đường biên giới được canh gác cẩn mật nhất trên Trái Đất. Anh có thể thấy địa hình núi non hiểm trở thế nào, rất dễ bảo vệ, nhưng còn cái anh không thể thấy đó là trên những ngọn núi kia có nguyên cả một khu hạ tầng cơ sở liên hợp quân sự-công nghiệp khổng lồ. Chính phủ Bắc Triều đã học được một bài học rất thấm từ sau chiến dịch đánh bom của chúng tôi hồi những năm 1950. Kể từ đó họ đã làm việc cật lực để tạo ra cả một hệ thống ngầm dưới lòng đất, cho phép họ khơi mào chiến tranh từ một địa điểm an toàn.
Dân số họ bị quân sự hóa rất mạnh, được huấn luyện sẵn sàng đến mức so với họ thì Israel chẳng khác nào Iceland. Hơn một triệu đàn ông và phụ nữ hiện đang phục vụ trong quân ngũ và có thêm năm triệu nữa trong lực lượng dự bị. Thế là gần một phần tư dân số rồi, chưa kể đến việc gần như ai thuộc quốc gia đó cũng đều đã có một lần trong đời trài qua đào tạo quân sự cơ bản. Nhưng quan trọng hơn cả việc đào tạo, và quan trọng nhất đối với thể loại chiến tranh như thế này, là mức độ kỉ luật quốc gia gần như siêu phàm. Dân Bắc Triều Tiên ngay từ nhỏ đã được dạy rằng mạng sống của họ là vô nghĩa, rằng họ tồn tại chỉ để phục vụ Tổ quốc, phục vụ Cuộc Cách Mạng, và phục vụ Lãnh Đạo Tối Cao.
Điều này gần như trái hoàn toàn với Nam Triều Tiên. Xã hội chúng tôi rất thoáng. Chúng tôi phải như thế. Bán buôn quốc tế là nguồn sống chính của chúng tôi. Chúng tôi theo chủ nghĩa cá nhân, mặc dù chắc không được như người Mỹ các anh, nhưng chúng tôi cũng có đủ kiểu biểu tình và gây rối trật tự công cộng. Xã hội chúng tôi tự do và phân tách đến mức suýt chút nữa thì không thực hiện được Điều lệ Chang[58] trong giai đoạn Đại Loạn. Đối với Bắc Triều Tiên, mấy vụ khủng hoảng nội bộ như thế này là điều không tưởng. Họ là một dân tộc mà ngay cả khi chính quyền gây nạn đói trầm trọng, sẽ thà ăn thịt trẻ con[59] chứ không chịu hở ra một câu chống đối. Sự phục tùng này ngay cả Adolf Hitler cũng chỉ dám mơ đến. Nếu cho mỗi người dân một khẩu súng, một hòn đá, hay thậm chí chỉ làm nắm tay không, chỉ họ về phía lũ zombie đang tới gần và nói “Đánh!”, từ bà già cho đến trẻ nhỏ sẽ đều răm rắp tuân theo. Đây là đất nước sinh ra cho chiến trận, đã lên kế hoạch, chuẩn bị, và đứng ở thế sẵn sàng kể từ ngày 27 tháng bảy, 1953. Nếu muốn tìm ra một đất nước không chỉ sống sót qua được chuỗi ngày tận thế ta phải đối mặt mà còn dành được chiến thắng vang dội, đó chỉ có thể là Nhà nước Cộng Hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên.
Nếu thế thì chuyện gì đã xảy ra? Khoảng chừng một tháng trước khi bên chúng tôi bắt đầu xuất hiện vấn đề, trước khi trận bùng phát dịch đầu tiên được phát hiện ở Pusan, Bắc Triều đột nhiên cắt đứt mọi quan hệ ngoại giao một cách rất bí hiểm. Không ai báo cho chúng tôi biết tại sao tuyến đường sắt, tuyến đường bộ kết nối duy nhất giữa hai bên, lại bất thình lình bị đóng cửa. Cũng không ai hiểu tại sao một số công dân phía bên tôi, những người đã đợi cả mấy chục năm để gặp lại họ hàng bên phía Bắc, lại đột nhiên bị một cái dấu cao su đạp tan mơ ước của mình. Không có bất cứ lời giải thích nào hết. Tất cả những gì chúng tôi nhận được chỉ là cái cớ “vấn đề an ninh quốc gia” cũ mèm của họ.
Không như những người khác, tôi không tin rằng đây là bước dạo đầu của một cuộc chiến mới. Mỗi lần phía Bắc dọa sử dụng vũ lực, họ luôn phát những tín hiệu giống nhau. Không một dữ kiện vệ tinh nào, của chúng tôi hay của phía Mỹ, cho thấy dù chỉ một động thái thù địch. Không có điều động quân, không tiếp thêm nhiên liệu cho máy bay, không triển khai chiến hạm hay tàu ngầm. Nếu có bất cứ thứ gì khác thường thì đó chính là việc lực lượng chúng tôi dọc Khu Phi Quân Sự bắt đầu để ý thấy quân số bên kia biến mất dần. Lính biên phòng chúng tôi nhẵn hết mặt. Trong suốt mấy năm liền, chúng tôi đã chụp lại hết mặt mũi của họ, đặt cho họ các thứ biệt danh như Mắt Rắn hay chó Bun, thậm chí còn tổng hợp cả hồ sơ về đọ tuổi, lai lịch và đời sống riêng tư. Giờ họ cứ lặn dần, biến đi đằng sau hệ thống hầm hào được che kín.
Máy đo địa chấn của chúng tôi cũng yên ắng như vậy. Nếu phía Bắc đã khởi công đào hầm hay tích lại các thứ xe cộ ở phía bên kia khu “PQS,” nó đã đến tai chúng tôi như ở Nhà hát Opera Quốc gia.
Panmunjom là khu vực duy nhất dọc khu PQS để cho hai bên gặp nhau thương lượng trực tiếp. Chúng tôi chia nhau quyền cai quản các phòng hội thảo, và quân hai bên đứng canh cách nhau có mấy mét trên một cái sân rộng. Lính canh được luân chuyển liên tục. Một đêm nọ, phân đội Bắc Triều Tiên bước vào trong trại lính, không thấy đơn vị thay thế nào bước ra. Cửa nẻo được đóng chặt. Đèn đuốc tắt ngóm. Và chúng tôi không còn gặp lại họ nữa.
Hoạt động xâm nhập tình báo của họ cũng ngưng hẳn. Mật thám từ bên phía Bắc trà trộn vào thường xuyên và dễ đoán như mùa màng vậy. Phần lớn nhìn phát là biết ngay, mặc đồ lỗi mốt và hỏi han giá cả các thứ mặt hàng đáng ra phải biết rồi. Hồi trước chúng tôi phát hiện ra cả đống, nhưng kể từ khi các trận dịch bùng phát, số lượng điệp viên giảm xuống còn không.
Thế còn điệp viên của các ông ở phía Bắc thì sao?
Biến mất nốt, tất cả bọn họ, gần như cùng lúc với khi tất cả mọi thứ thiết bị theo dõi điện tử của chúng tôi không còn dò được gì nữa. Ý tôi ở đây không phải là không có tín hiệu radio nào bất thường mà là không còn có chút tín hiệu nào nữa. Dần dần, tất cả mọi kênh từ dân sự đến quân sự đều tắt ngóm. Ảnh chụp từ về tinh cho thấy trên ruộng đồng có ít nông dân hơn, trên phố xá ít người qua lại hơn, các dự án lao động công ích vắng bóng “tình nguyện viên” hơn, điều mà trước giờ chưa từng. Nhoằng một cái, từ Yalu đến tận vùng PQS đã không còn một bóng người. Đứng từ quan điểm tình báo, trông cứ như thể cả đất nước, mọi người đàn ông, đàn bà và trẻ con ở Bắc Triều Tiên đã biến mất.
Điều bí ẩn này làm chúng tôi càng thêm lo, trong khi ở nhà đã có đủ thứ để đau đầu rồi. Tính tới thời điểm đó dịch đã bùng phát ở Seoul, P’ohang, Taejon. Mokpo phải đi sơ tán, Kangnung bị cô lập, và tất nhiên, chúng tôi cũng có một vụ Yonkers ở Inchon. Thêm vào đó, chúng tôi cũng cần phải cắt cử ít nhất một nửa số các sư đoàn hiện tại ra canh biên giới phía bắc. Rất nhiều người trong Bộ Quốc Phòng tin rằng phe Pyongyang rất ngứa ngáy muốn gây chiến, háo hức đợi khi chúng tôi gặp lúc bĩ cực nhất để mà rầm rầm xông qua Vĩ tuyến 38. Giới tình báo chúng tôi cực lực phản đối. Chúng tôi liên tục nói với họ rằng nếu bên kia đang đợi lúc chúng ta gặp bước gian truân kinh khủng nhất, đây chính là thời cơ chín muồi cho họ.
Tae Han Min’guk tí nữa thì sụp đổ hoàn toàn. Người ta đã bắt đầu âm thầm lên kế hoạch tái định cư theo kiểu Nhật Bản. Các biệt đội bí mật đã đi khảo sát sẵn một số địa điểm ở Kamchatka rồi. Nếu Điều lệ Chang mà không công hiệu… nếu chỉ thêm vài đơn vị nữa bị hạ gục, nếu chỉ thêm vài vùng an toàn nữa bị lây nhiễm…
Có lẽ chúng tôi sống sót được là nhờ phía Bắc, hoặc ít nhát là nhờ nỗi sợ người phương Bắc. Thế hệ tôi không coi Bắc Triều Tiên là một mối họa. Tôi đang nói đến dân thường, anh hiểu chứ, những người cỡ tuổi tôi coi họ là một đất nước tụt hậu, đói kém, thất bại. Thế hệ của tôi sinh ra và lớn lên trong thời kì hòa bình, phát triển thịnh vượng. Họ chỉ sợ duy nhất một vụ hợp nhất như kiểu Đức, kéo theo việc hàng triệu tên cộng sản cũ giờ đang vô gia cư nhào đến kiếm chác.
Thế hệ đi trước chúng tôi thì lại không như vậy… bố mẹ, ông bà chúng tôi… những người luôn bị mối họa xâm lược treo lơ lửng trên đầu, những người luôn biết rằng bất cứ lúc nào còi báo hiệu cũng có thể hú lên, ánh sáng có thể sẽ tắt phụt, và những ông chủ nhà băng, các thầy cô giáo và lái xe taxi sẽ bị kêu gọi phải cầm vũ khí lên chiến đấu bảo vệ quê nhà. Tinh thần và tâm trí họ lúc nào cũng cảnh giác. Cuối cùng chính họ chứ không phải chúng tôi đã qui tụ lại được tinh thần dân tộc.
Tôi vẫn đang cố thuyết phục người ta tổ chức một chuyến đi thám hiểm sang bên Bắc Triều Tiên. Tôi đang liên tục gặp chướng ngại. Họ bảo tôi rằng vẫn còn quá nhiều việc phải làm. Đất nước vẫn còn đang bất ổn. Chúng tôi vẫn còn những cam kết quốc tế cần thực hiện, quan trọng nhất là đưa người tị nạn trở về Kyushu…. [Khịt mũi.] Bọn Japsare đấy mắc nợ chúng tôi khá nhiều đấy.
Tôi không cần một lực lượng trinh sát. Chỉ cần cho tôi một chiếc trực thăng, một chiếc thuyền câu cá; chỉ cần mở cổng ở Panmunjom và để tôi đi bộ vào. Nếu ông kích hoạt cái bẫy gì đó thì sao? Họ bác lại. Nếu nó là bẫy hạt nhân thì sao? Nhỡ may ông mở nhầm cổng của cả một thành phố ngầm và hai mươi triệu con zombie cứ thế mà tràn ra thì sao? Lập luận của họ không phải không có lí. Chúng tôi biết khu PQS có rất nhiều thứ bẫy. Tháng trước một máy bay chở hàng bay gần không phận của họ đã bị tên lửa đất đối không nhắm bắn. Bệ phóng hoàn toàn tự động, được thiết kế làm vũ khí trả thù, đề phòng trường hợp toàn bộ dân số đã bị xóa sổ.
Theo lẽ thường thì chắc họ đã di tản hết xuống các khu liên hợp dưới lòng đất. Nếu đó là sự thật thì những ước tính về kích thước cũng như độ sâu của các cơ sở đó bị sai lệch rất nhiều. Có khi toàn bộ dân số giờ đang ở dưới lòng đất, lao động cật lực cho những dự án chiến tranh trong khi “Lãnh Đạo Tối Cao” tiếp tục lấy rượu Tây và phim khiêu dâm Mỹ ra tự trấn an mình. Họ có biết là cuộc chiến đã kết thúc rồi không? Phải chăng lãnh đạo của họ đã lại một lần nữa nói dối họ, bảo họ rằng thế giới họ từng biết đã không còn nữa? Có lẽ họ coi việc xác chết sống dậy là một điều “tích cực”, một cái cớ để siết chặt thêm ách đô hộ đối với một xã hội lấy nô dịch mù quáng làm nền tảng. Lãnh Đạo Tối Cao luôn muốn trở thành thánh sống, và giờ đây với tư cách là chủ sở hữu của không chỉ thức ăn, không khí mà còn cả nguồn sáng của cái mặt trời nhân tạo, có lẽ cuối cùng hắn cũng đã hiện thực hóa được cái ảo tưởng biến thái của mình. Có thể ban đầu kế hoạch là vậy, nhưng rồi có cái gì đó sai lệch trầm trọng. Cứ thử nhìn xem chuyện gì đã xảy đến với “thành phố chuột chũi” bên dưới Paris. Nếu như chuyện đó cũng xảy ra đối với Bắc Triều Tiên, chỉ có điều là ở tầm quốc gia thì sao? Có lẽ trong mấy cái hang động đó đang lúc nhúc hai mươi ba triệu con zombie, lũ rô bốt gầy đét đang hú hét trong bóng tối, chỉ đợi ngày được sổng ra.
KYOTO, NHẬT BẢN
[Trong tấm ảnh cũ của Kondo Tatsumi là một cậu thiếu niên gầy gò, mặt đầy mụn với đôi mắt đỏ cạch, trông lờ đờ và vài sợi tóc vàng nhuộm sáng chạy dọc mái tóc rối bời. Người tôi đang tiếp chuyện trên đầu không một sợi tóc. Đầu tóc cạo gọn gàng, nước da rám nắng và săn chắc, ánh mắt sắc sảo không bao giờ rời khỏi mắt tôi. Mặc dù anh cử chỉ rất thân mật và tâm trạng thoải mái, nhà sư chiến binh này vẫn mang vẻ điềm đạm của một con mãnh thú đang ngơi nghỉ.]
Tôi đã từng là một thằng “otaku.” Tôi biết thuật ngữ này mang những nghĩa rất khác nhau đối với nhiều người, nhưng đối với tôi nó chỉ đơn thuần mang nghĩa “kẻ ngoại đạo.” Tôi biết người Mỹ, đặc biệt là lớp trẻ, luôn thấy bị áp lực xã hội ràng buộc. Con người ai chẳng thế. Tuy nhiên, nếu cách hiểu của tôi về văn hóa đất nước các anh là đúng thì chủ nghĩa cá nhân luôn được khích lệ. Các anh tôn trọng những “kẻ nổi loạn,” những “kẻ quậy phá,” những người tự hào đứng tách biệt hẳn khỏi đám đông. Đối với các anh anh, tính cá nhân là một cái huân chương danh dự. Đối với chúng tôi, đó lại là một cái ruy băng đầy nhục nhã. Trước chiến tranh, chúng tôi sống trong một ma trận rất phức tạp và gần như vô tận, xây dựng từ những phán xét của người ngoài. Diện mạo của anh, cách nói năng của anh, tất cả mọi thứ từ sự nghiệp cho đến cách anh hắt xì đều phải được lên kể hoạch và điều phối sao cho phù hợp với giáo lí cứng nhắc của Khổng Tử. Một số người có đủ dũng khí, hoặc vì thiếu dũng khí, nên đã chấp nhận sống với giáo lí ấy. Những người khác, như tôi chẳng hạn, chọn cách sống lưu đày ở một thế giới tốt đẹp hơn. Thế giới đó chính là không gian ảo, và nó được thiết kế dành riêng cho tầng lớp otaku Nhật Bản.
Tôi không dám nói về hệ thống giáo dục của các anh hay bất cứ quốc gia nào khác, nhưng hệ thống của chúng tôi gần như dựa hoàn toàn vào khả năng ghi nhớ các dữ kiện. Ngay từ ngày đầu tiên khi chúng tôi đặt chân vào một lớp học, trẻ con Nhật Bản thời tiền chiến bị nhồi cho hàng đống thứ dữ kiện và số liệu không có chút ứng dụng nào trong đời sống thường nhật. Những dữ kiện này không có chút ý nghĩa bài học, không bối cảnh xã hội, không gì liên kết với thế giới con người bên ngoài. Chúng không có lí do nào để tồn tại ngoài việc có nắm chắc mới lên lớp được. Trẻ em Nhật thời tiền chiến không được dạy cách tư duy, chúng tôi được dạy cách ghi nhớ.
Chắc anh cũng hiểu một hệ thống giáo dục như thế này có thể dễ dàng dẫn đến việc con người ta rút vào cư ngụ trong thế giới ảo. Trong một thế giới chỉ có thông tin mà không có bối cảnh, nơi địa vị được quyết định bởi những gì thu thập và sở hữu được, những người thuộc thế hệ tôi chẳng khác nào thần thánh. Tôi là một sensei, một chuyên gia về tất cả những lĩnh vực tôi tìm hiểu, cho dù đó có là nhóm máu của nội các thủ tướng, hóa đơn thuế của Matsumoto và Hamada[60] hay là vị trí và tình trạng của tất cả các thanh kiếm shin-gunto trong cuộc Chiến Tranh Thái Bình Dương. Tôi chẳng phải lo về diện mạo, phép xã giao, điểm số hay tiền đồ. Không ai có thể đánh giá tôi được, không ai có thể làm tôi tổn thương. Trong thế giới này tôi có quyền lực và quan trọng hơn, tôi được an toàn!
Khi cuộc khủng hoảng lan sang đến Nhật Bản, đám bọn tôi cũng như tất cả những người khác, đều quên hết đi những thứ ám ảnh cũ của mình và dành toàn bộ sức lực cho bọn thây ma. Chúng tôi nghiên cứu sinh lí, hành vi, yếu điểm của chúng cũng như phản ứng của thế giới đối với cuộc tấn công của chúng. Cái chủ đề cuối cùng là sở trường của một đứa trong đám bạn tôi, khả năng hạn chế dịch trong phạm vi các hòn đảo gốc của Nhật. Tôi thu thập số liệu dân số, các mạng lưới giao thông, chủ trương của cảnh sát. Tôi ghi vào đầu tất cả mọi thứ từ quy mô hạm đội tàu buôn của Nhật cho đến số lượng đạn tối đa một khẩu súng trường quân đội Type 89 chứa được. Không một thông tin nào là quá vụn vặt hoặc quá vu vơ. Chúng tôi đang thực thi một sứ mệnh, chúng tôi ngủ rất ít. Khi trường học đóng cửa, chúng tôi gần như có thể ngồi máy tính hai mươi bốn tiếng một ngày. Tôi là người đầu tiên xâm nhập được vào ổ cứng máy tính cá nhân của Tiến sĩ Komatsu và đọc được chỗ dữ liệu thô cả một tuần lễ trước khi ông ta trình bày với Nghị viện những phát hiện của mình. Điều này đã làm dậy sóng giang hồ. Nó giúp nâng cao thêm vị thế của tôi trong mắt những người hiện vốn đang ngưỡng mộ tôi sẵn rồi.
Có phải Tiến sĩ Komatsu là người đầu tiên đề xuất việc di tản?
Đúng vậy. Cũng như chúng tôi, ông cũng đã thu thập những dữ liệu tương tự. Nhưng trong khi bọn tôi tìm cách ghi nhớ chúng, ông ta phân tích chúng. Nhật Bản là một quốc gia bị quá tải dân số: một trăm hai tám triệu người chen chúc nhau trên chưa đến ba trăm bảy mươi ngàn kilômét vuông đất, hoặc là đồi núi hoặc là các đảo bị đô thị hóa quá mức. Do có tỉ lệ tội phạm thấp, lực lượng cảnh sát Nhật rất mỏng và được trang bị cực sơ sài nếu so với các nước công nghiệp khác. Nhật gần như là một quốc gia phi quân sự. Nhờ sự “bảo hộ” từ phía Mỹ, lực lượng phòng vệ nước tôi chưa một lần được lâm chiến kể từ năm 1945.
Ngay cả lực lượng được triển khai ở Vùng Vịnh cũng chỉ mang tính làm hàng, chẳng bao giờ phải đánh đấm gì ra trò và phần lớn thời gian chiếm đóng họ ngồi yên vị bên trong bốn bức tường được canh phòng nghiêm ngặt của căn cứ. Chúng tôi tiếp cận được tất cả những thứ thông tin này, nhưng lại không đủ khả năng để nhận ra chúng mang ý nghĩa gì. Vậy nên tất cả chúng tôi đều rất bất ngờ khi Tiến sĩ Komatsu tuyên bố công khai rằng tình hình hiện đang rất vô vọng và Nhật Bản cần phải được sơ tán khẩn cấp.
Nghe thế chắc anh thấy hãi lắm.
Không hề! Nó tạo nên cả một cơn sốt. Mọi người đua nhau tìm kiếm xem dân chúng sẽ tái định cư ở đâu. Liệu rằng đó sẽ là phía Nam, trên các đảo san hô ở trung tâm và Nam Thái Bình Dương, hay chúng ta sẽ di tản lên phương Bắc, định cư ở vùng Kuriles, Sakhalin, hay ở một địa điểm nào đó thuộc Siberia? Bất cứ ai tìm ra được câu trả lời sẽ trở thành otaku vĩ đại nhất trong lịch sử thế giới ảo.
Anh không lo cho sự an nguy của chính bản thân sao?
Tất nhiên là không rồi. Nhật Bản đã đến lúc diệt vong rồi, nhưng tôi không sống ở Nhật. Tôi sống trong thế giới thông tin trôi nổi tự do. Bọn siafu,[61] thuật ngữ chúng tôi dùng để chỉ những người bị lây nhiễm, không có gì đáng sợ cả, chúng cần phải được nghiên cứu. Anh không thể hiểu nổi tôi xa rời thực tại đến cỡ nào đâu. Tất cả mọi thứ từ văn hóa của tôi, cách tôi được nuôi dạy, và bây giờ là cả cái lối sống otaku của tôi đều đã cô lập tôi hoàn toàn. Kệ cho Nhật Bản đi sơ tán, kệ cho Nhật Bản bị hủy diệt, tôi vẫn sẽ bình chân như vại ngồi trên đỉnh núi thế giới ảo của tôi mà quan sát tất cả.
Thế còn cha mẹ anh thì sao?
Họ thì sao? Chúng tôi sống chung một nhà nhưng rất ít khi nói chuyện. Chắc họ nghĩ tôi đang học. Ngay cả khi trường đóng cửa hết rồi tôi vẫn bảo họ rằng tồi cần ôn thi. Họ chẳng hỏi han gì hết. Tôi và cha tôi hiếm khi nói chuyện với nhau. Sáng ra mẹ tôi sẽ để khay đồ ăn ở cửa phòng tôi và cả tối cũng vậy. Lần đầu tiên bà không để khay thức ăn ở đó, tôi chẳng để tâm lắm. Sáng đó tôi thức dậy như thường; tự tưởng thưởng cho mình như thường; bật máy như thường. Mãi đến trưa tôi mới bắt đầu đói. Tôi ghét mấy cái cảm xúc đó, đói hay mệt hay tệ nhất là ham muốn nhục dục. Đó là những thứ gây mất tập trung về thể xác. Chúng khiến tôi khó chịu. Tôi miễn cưỡng rời mắt khỏi màn hình máy tính và mở cửa phòng. Không có đồ ăn. Tôi gọi mẹ. Không ai đáp. Tôi vào bếp, vớ lấy ít mì sống và lại chạy vào bàn. Tối đó tôi lại phải làm vậy, và cả sáng hôm sau cũng thế.
Anh không thắc mắc rằng cha mẹ mình ở đâu à?
Lí do duy nhất khiến tôi quan tâm đó là bởi tôi phải lãng phí thời gian tự kiếm đồ ăn. Trong thế giới của tôi quá nhiều thứ hay ho đang diễn ra.
Thế còn những otaku khác thì sao? Họ không bàn tán nỗi sợ hãi của mình à?
Chúng tôi chia sẻ thông tin chứ không phải cảm xúc, ngay cả khi họ bắt đầu biến mất dần. Tôi có để ý thấy ai đó đã ngưng trả lời thư điện tử hoặc lâu rồi không đăng gì lên cả. Tôi có thể thấy rằng hôm đó họ không lên mạng hoặc máy chủ của họ không còn hoạt động nữa.
Và điều đó có khiến anh thấy sợ không?
Nó khiến tôi thấy bực mình. Tôi không chỉ mất đi nguồn tin mà còn đang mất đi những lời khen tiềm năng. Khi đăng lên một tin gì đó về các cảng di tản của Nhật mà chỉ có mỗi năm mươi người trả lời chứ không phải sáu mươi là tôi đã khó chịu rồi, rồi khi chúng tụt từ năm mươi xuống bốn lăm, rồi xuống đến ba mươi…
Chuyện này kéo dài trong vòng bao lâu?
Khoảng ba ngày. Bài gửi cuối cùng từ một otaku ở Sendai có nói rằng bọn thây ma giờ đang tràn ra từ Bệnh viện Đại học Tohoku, ở cùng cho với căn hộ của cậu ta.
Và việc ấy có làm anh lo không?
Tại sao lại phải lo? Tôi còn đang bận nghiên cứu mọi thứ có thể về qui trình di tản. Cách nó được thực thi, các cơ quan chính phủ nào sẽ có liên quan? Liệu rằng các trại tị nạn sẽ ở Kamchatka hay Sakhalin, hay cả hai? Và cái nạn tự tử đang hoành hành trong cả nước mà tôi đọc được này là sao đây?[62] Có quá nhiều câu hỏi, quá nhiều dữ liệu cần phải khai thác. Đêm đó tôi tự nguyền rủa mình vì dám tắt đèn đi ngủ.
Khi tôi tỉnh dậy, màn hình trống trơn. Tôi thử bật lên. Không gì xảy ra. Tôi thử khởi động lại máy. Không gì xảy ra. Tôi để ý thấy mình đang chạy pin dự trữ. Không thành vấn đề. Tôi có đủ nguồn năng lượng dự trữ cho mười tiếng đồng hồ làm việc liên tục. Tôi cũng để ý thấy mình không còn vạch sóng nào. Tôi tin không nổi mắt mình. Kokura nói riêng và Nhật bản nói chung có một hệ thống mạng không dây rất tối tân mà đáng ra không thể sập được. Một may chú có thể bị sập, thậm chí còn có thể là một vài, nhưng toàn bộ mạng lưới mà bị sập á? Tôi nhận ra chắc chắn đây là do máy mình rồi. Không chạy đi đâu được. Tôi lấy máy xách tay ra bật lên. Không tín hiệu. Tôi chửi thề và đứng dậy đi bảo với cha mẹ tôi cần mượn máy của họ. Họ vẫn chưa về. Điên tiết, tôi bốc máy thử gọi vào di động mẹ tôi. Đây là loại điện thoại không dây, chạy bằng năng lượng trên tường. Tôi rút thử di động mình ra. Không có sóng.
Anh có biết chuyện gì xảy đến với họ không?
Không. Ngay đến tận ngày hôm này tôi vẫn mù tịt. Tôi biết chắc rằng họ không bỏ rơi tôi. Chắc cha tôi đang ở cơ quan thì bị thây ma tóm được, mẹ tôi chắc khi đi chợ thì bị kẹt ở đâu đó. Có thể cả hai bị mất tích khi đang cùng nhau đi đến hay về từ văn phòng tái định cư. Bất cứ chuyện gì cũng có thể xảy ra. Chẳng có tí giấy thông báo hay bất cứ thứ gì cả. Tôi đã cố gắng tìm hiểu kể từ hồi đó.
Tôi quay trở vào phòng bố mẹ để kiểm tra lại cho chắc rằng họ đi vắng thật. Tôi lại thử gọi điện. Lúc đó vẫn chưa sao. Tôi vẫn kiểm soát được. Tôi thử vào mạng lại lần nữa. Thế có nực cười không? Điều duy nhất tôi nghĩ tới đó là tìm cách trốn tránh thực tại, quay trở lại với thế giới của tôi, được an toàn. Không có gì xảy ra cả. Tôi bắt đầu phát hoảng. “Nhanh lên nào,” Tôi bắt đầu nói, tìm cách đấu trí với cái máy. “Nhanh lên, nhanh lên, NHANH LÊN! NHANH LÊN! NHANH LÊN!” Tôi bắt đầu nện cái màn hình. Nắm tay tôi gãy đánh rắc. Tôi hoảng sợ khi nhìn thấy máu của chính mình. Hồi nhỏ tôi không chơi thể thao, chưa một lần bị chấn thương, thế này thật quá sức chịu đựng. Tôi nhấc cái màn hình lên và quăng nó vào tường. Tôi khóc như một đứa bé, kêu gào, hít thở hổn hển. Tôi quằn quại nôn thốc tháo ra khắp sàn. Tôi đứng dậy khật khừ đi ra phía cửa chính. Tôi chẳng biết mình cần tìm cái gì mà phải đi ra ngoài. Tôi mở cửa nhìn vào trong bóng tối.
Anh có thử gõ cửa nhà hàng xóm không?
Không. Lạ thật đấy nhỉ? Ngay cả khi đã tuyệt vọng đến cùng cực, cái thói e ngại giao tiếp của tôi vẫn còn là một rào cản lớn đến mức tôi không dám chạm mặt ai cả. Tôi đi vài bước, trượt chân và ngã bổ vào một cái gì mềm mềm. Nó lạnh lẽo, ẩm ướt, dính bầy nhầy vào tay, vào quần áo tôi. Nó hôi thối kinh tởm. Toàn bộ cái hành lang này nồng nặc mùi xú uế. Đột nhiên tội nhận ra cái tiếng ma sát nhẹ nhẹ, đều đều, nghe như thể có thứ gì đang lết xác tiến về chỗ tôi.
Tôi gọi với ra, “Ai đó?” Tôi nghe thấy một tiếng kêu lào khào, yếu ớt. Mắt tôi bắt đầu nhìn quen bóng tối. Tôi bắt đầu nhìn ra cái hình hài ấy, to lớn, mang dáng người, đang bò sấp bụng. Tôi ngồi ngay đơ ra đó, muốn bỏ chạy nhưng đồng thời cũng muốn… muốn biết chắc hẳn. Cản