← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 7 CHIẾN TRANH TỔNG LỰC

TRÊN BOONG KHINH KHÍ CẦU MAURO ALTIERI, CÁCH MẶT HỒ VAALAJARVI, PHẦN LAN CHÍN TRĂM MÉT

[Tôi đứng cạnh đại tướng D’Ambrosia trong khoang CIC[85] của thứ có thể coi như câu trả lời của Châu Âu đối với chiếc khinh khí cầu D-29 điều khiển được của Mỹ. Tất cả các thành viên trong đoàn im lặng làm việc bên màn hình đang tỏa sáng nhờ nhớ của mình. Thỉnh thoảng lại có người nói vào loa trên tai nghe một câu nhận lệnh nhanh chóng, khẽ khàng bằng tiếng Pháp, Đức, Tây Ban Nha hoặc Ý. Viên đại tướng chúi người theo dõi bàn biểu đồ bằng video, giám sát toàn bộ chiến dịch như Chúa trời vậy.]

“Tấn công” — khi mới nghe thấy từ đó, ruột gan tôi rên lên “ôi mẹ kiếp.” Anh có thấy lạ không?

[Trước khi tôi kịp trả lời… ]

Tất nhiên là có rồi. Chắc anh nghĩ đám “trùm sò” nghe thế phải sướng lắm, máu nóng cứ thế mà bốc lên, cái kiểu “giữ mũi chúng để ta ra đá đít.”

[Lắc đầu.] Tôi chẳng biết ai đã tạo ra cái mô týp các vị tướng phải liên tục kêu đánh, đầu óc bã đậu, chẳng khác gì huấn luyện viên trung học. Có lẽ là Hollywood, hoặc báo chí dân sự, hoặc có thể chính chúng tôi đã tạo ra nó khi để mấy thằng hề nhạt nhẽo, tự cao tự đại — bọn MacArthurs và Halseys và Curtis E. LeMays — gây dựng nên hình ảnh của mình trong mắt công chúng. Tôi muốn chỉ ra rằng đấy chính là hình tượng của những người mặc quân phục, và nó khác quá xa sự thật. Việc phải xuất quân tấn công khiến tôi sợ gần chết, chủ yếu bởi vì tôi sẽ không phải mặt tôi sẽ bị trưng ra giữa trận tiền. Tôi sẽ cử những người khác ra chết thay, và đây là thứ tôi bắt họ phải chống lại.

[Ông quay về hướng cái màn hình ở bức tường phía xa, gật đầu ra hiệu với người điều khiển, và hình ảnh trên đó trở thành một tấm bản đồ lục địa Mỹ thời chiến tranh.]

Hai trăm triệu con zombie[86]. Chưa cần nói đến đánh đấm, thử hỏi có ai tưởng tượng được một con số như thế không? Chí ít lần này ta còn biết mình đang chiến đấu chống cái gì, nhưng khi tính cộng gộp tất cả những kinh nghiệm ta có, tất cả những dự kiện ta tổng hợp được về nguồn gốc, sinh lý học, điểm mạnh, điểm yếu, động cơ và tâm tính của chúng, viễn cảnh đưa ra vẫn rất u tối.

Cuốn sách dạy chinh chiến, cuốn cẩm nang chúng ta liên tục cập nhật kể từ khi hai con khỉ lần đầu tát nhau, là hoàn toàn vô dụng trong tình huống này. Chúng ta phải viết lại từ đầu một quyển hoàn toàn mới.

Mọi quân đội, từ quân đội được cơ khí hóa cho đến bọn du kích trên núi, đều phải tuân theo ba quy luật: họ phải được sinh ra, chăm nuôi và chỉ đạo. Sinh ra: anh cần cơ thể sống, nếu không chẳng có quân đội gì hết; chăm nuôi: một khi có quân đội rồi, họ phải được cung cấp các thứ nhu yếu phẩm; và còn chỉ đạo: cho dù lực lượng chiến đấu có được phân quyền đến mức nào đi nữa thì vẫn phải có người mang chức quyền đứng lên nói “theo tôi.” Sinh ra, chăm nuôi và chỉ đạo; và trong ba cái này, bọn thây ma chẳng bị ràng buộc bởi qui luật nào hết.

Anh đã đọc quyển Phía Tây Không Có Gì Lạ chưa? Remarque đã vẽ lên một bức tranh rất sống động tả cảnh nước Đức dần trở nên “trơ trọi,” nghĩa là khi cuộc chiến sắp kết thúc, họ không còn chút quân lính nào nữa. Anh có thể gian lận quân số một chút, cử người già, trẻ nhỏ ra trận, nhưng rồi dần dà cũng sẽ đến lúc kịch trần… trừ khi mỗi lần giết xong một tên địch, hắn sống lại và về phe ta. Đó là cách thức hoạt động của lũ Zack, bổ sung hàng ngũ bằng cách tiêu diệt quân ta! Và nó chỉ có tác dụng một chiều. Lây bệnh cho con người, họ biến thành zombie. Giết một con zombie, nó trở thành cái xác. Chúng ta càng lúc càng yếu đi, trong khi chúng thì ngày một mạnh lên.

Quân đội nào của con người cũng cần có đồ tiếp tế, riêng quân của chúng thì không cần. Không lương thực, không đạn dược, không nhiêu liệu, thậm chí không cần cả nước uống hay không khí để thở! Không có tuyến đường hậu cần nào để chặt đứt, không có kho chứa hàng nào để phá hủy. Không thể bao vây và khiến chúng chết đói, hay để chúng “chết dần chết mòn.” Đem nhốt một trăm con zombie vào trong phòng và ba năm sau mở cửa ra chúng sẽ vẫn nguy hiểm như cũ.

Thật buồn cười là ta chỉ có thể diệt được bọn zombie nếu tiêu hủy não của chúng vì trong một nhóm, chúng không có cơ quan đầu não chung gì cả. Không có bộ máy lãnh đạo, không có hệ thống cấp bậc chỉ huy, không có đường dây liên lạc hay quan hệ hợp tác ở bất cứ cấp độ nào. Không có tổng thống để ám sát, không có boongke tổng chỉ huy để tấn công. Mỗi con zombie là một đơn vị tự trị, độc lập, hoàn toàn tự động, và chính cái thế mạnh này đã thực sự tóm gọn toàn bộ cuộc xung đột.

Anh chắc đã nghe đến cụm từ “chiến tranh tổng lực”; nó xuất hiện khá nhiều lần trong lịch sử loài người. Gần như thế hệ nào cũng có một thằng phổi bò tuyên bố rằng người dân của mình quyết định tiến hành “chiến tranh tổng lực” chống lại một kẻ thù nào đó, nghĩa là mọi người đàn ông, mọi người phụ nữ và mọi đứa trẻ trong quốc gia ấy sẽ giành ra mọi giây phút của cuộc đời để mang lại thắng lợi. Điều này là hoàn toàn không thể ở hai cấp độ. Thứ nhất, không đất nước hay quốc gia nào có thể dốc toàn sức cho chiến tranh; điều này là phi lí. Có thể có tỉ lệ cao, đông người làm việc chăm chỉ trong một thời gian dài, nhưng mà tất cả mọi người lúc nào cũng lao động ư? Thế còn những kẻ trốn việc, hoặc là những người phản đối quân ngũ thì sao? Những người không đủ sức khỏe, những người bị thương tật, những người quá già hoặc quá trẻ thì vứt đi đâu? Thế còn khi họ ăn, ngủ, tắm giặt hay ỉa đái thì sao? Chả nhẽ đó lại là “đái ỉa giành chiến thắng”? Đó là lí do đầu tiên khiến con người không thể tiến hành chiến tranh tổng lực. Lí do thứ hai đó là quốc gia nào cũng có giới hạn của mình. Có thể trong đất nước ấy sẽ có những con người sẵn sàng hi sinh tính mạng; có thể họ chiếm tỉ lệ khá cao trong dân số, nhưng toàn bộ dân tộc đó rồi sẽ đến mức mà họ không thể chịu đựng nổi nữa, cả về tâm lí lẫn tình cảm. Bên Nhật sau khi bị Mỹ ném cho mấy quả bom nguyên tử đã chạm ngưỡng ấy. Đám dân Việt Nam đáng lẽ ra cũng sẽ chạm trần nếu chúng ta biếu họ thêm mấy quả,[87] nhưng thật là cảm ơn Chúa nhân từ, chúng ta gục trước họ. Đó là bản chất của chiến tranh giữa người với người, hai bên tìm cách đẩy nhau đi quá giới hạn chịu đựng, và cho dù ta có thích chiến tranh tổng lực đến thế nào đi chăng nữa, cái giới hạn kia sẽ luôn ở đó… trừ khi đó là bọn thây ma.

Lần đầu tiên trong lịch sử, chúng ta phải đối đầu với một kẻ thù liên tục phát động chiến tranh tổng lực. Chúng không có giới hạn chịu đựng. Chúng không bao giờ thương lượng, không bao giờ đầu hàng. Chúng sẽ chiến đấu đến cùng bởi vì khác với chúng ta, tất cả bọn chúng đều có thể cống hiến mọi giây phút của cuộc đời cho công cuộc ăn tươi nuốt sống hết mọi sinh vật trên Trái Đất. Đó là kẻ thù đang đợi ta bên kia dãy Rockies. Đó là cuộc chiến chúng ta phải đương đầu.

DENVER, COLORADO, MỸ

[Chúng tôi vừa ăn tối tại nhà gia đình Wainio xong. Allison, vợ Todd, đang ở trên tầng giúp cô con gái Addison làm bài tập. Todd và tôi ở trong bếp dưới nhà rửa bát đĩa.]

Quân đội mới trông như thể vừa quay ngược thời gian lại vậy. Nó khác xa hoàn toàn quân đội đã cùng tôi chiến đấu và tí nữa là cùng tôi xuống mồ ở Yonkers. Chúng tôi giờ không còn được cơ khí hóa nữa — không có xe tăng, không pháo binh, không móc xích[88] gì hết, kể cả mấy chiếc Bradley. Chúng là lực lượng dự bị, đang được chỉnh sửa lại để dành khi chúng tôi tái chiếm các thành phố. Không, thứ phương tiện có bánh duy nhất của chúng tôi, mấy chiếc Humvees và vài chiếc M-trip-Bảy ASV,[89] đều được dùng để chở đạn dược và quân trang. Chúng tôi phải cuốc bộ suốt toàn bộ chặng đường, đi hàng một như trong mấy bức tranh vẽ thời Nội Chiến. người ta nhắc nhiều đến “phe Xanh” chọi với “phe Xám,” chủ yếu bởi vì màu da lũ Zack và màu áo bộ BDU mới của chúng tôi. Họ chẳng buồn nhuộm màu để ngụy trang nữa; nhuộm vào để làm gì? Và tôi cũng đoán rằng xanh dương là thứ màu rẻ nhất hồi đó. Bộ BDU trông như bộ áo liền quần của đội SWAT. Nó rất nhẹ, thoải mái và được dệt lẫn với sợi Kevlar, ít nhất tôi nghĩ là Kevlar,[90] sợi chống cắn. Nó có kèm găng và mũ trùm kín mặt. Về sau, khi phải chiến đấu cận chiến ở đô thị, cái mũ kia đã cứu rất nhiều sinh mạng.

Cái gì trông cũng có vẻ cổ xưa. Mấy cái Thông não trông như vũ khí trong, tôi chẳng biết nữa, Chúa tể những Chiếc nhẫn chăng? Lệnh của bọn tôi là chỉ được dùng chúng khi cần kíp, nhưng hãy tin tôi đi, bọn tôi cần dùng đến nó rất nhiều. Dùng sướng lắm, anh biết đấy, được vung vẩy nguyên cái khối thép đó. Nó tạo cảm giác rất cá nhân, rất mạnh mẽ. Anh có thể cảm thấy sọ chúng nứt toác ra. Máu khi ấy bốc hết lên đầu, như thể anh vừa tự tay giành lại mạng sống vậy. Tất nhiên tôi cũng không ngại phải bóp cò đâu.

Vũ khí chính của chúng tôi là khẩu SIR[91]. Lớp gỗ khiến nó trông như súng thời Thế Chiến Thứ Hai vậy; chắc nếu làm bằng hợp kim thì khó đưa vào sản xuất đại trà. Tôi không rõ khẩu SIR gốc gác ra sao. Tôi có nghe nói nó là một phiên bản được cải biên của khẩu AK. Tôi cũng thấy bảo nó là phiên bản giản lược của khẩu XM 8 mà quân đội đang định đưa vào sử dụng làm vũ khí tấn công thế hệ mới. Nghe đồn nó được phát minh, thử nghiệm và lần đầu đưa vào sản xuất trong cuộc vây hãm của thành phố Hero, và sau đó đồ án của nó được chuyển tới Honolulu. Thật tình mà nói thì tôi không biết, và tôi cũng chẳng quan tâm. Nó giật rất mạnh và chỉ có chế độ bắn bán tự động, nhưng nó lại cực kì chính xác và không bao giờ bị kẹt! Anh có thể lê nó qua bùn đất, quẳng vào cát, ngâm vào nước muối trong mấy ngày liền. Cho dù anh có làm gì, nó cũng sẽ không bao giờ khiến anh thất vọng. Phụ kiện duy nhất của nó là một bộ linh kiện, trang bị máy và một số nòng súng với độ dài khác nhau. Có thể dùng nó làm súng bắn tầm xa, súng trường tầm trung hoặc cạc bin tầm gần, tất cả đều gọn trong vòng một tiếng đồng hồ, chỉ cần với tay vào balô là xong. Nó cũng có lưỡi lê, loại gập ra gập vào, dài tầm hai mươi phân, dùng trong trường hợp khẩn cấp khi không có sẵn cái Thông não. Chúng tôi hay đùa nhau là “cẩn thận đấy, chọc lòi mắt nhau ra bây giờ,” và tất nhiên, chúng tôi khiến khối thằng bị chột. Ngay cả nếu không có lưỡi lê, khẩu SIR vẫn dùng để đánh cận chiến tốt, và khi tổng hợp lại tất cả những thứ khiến nó trở nên tuyệt vời đến thế, cũng dễ hiểu vì sao chúng tôi luôn kính cẩn gọi nó là “Ngài.”[92]

Chúng tôi chủ yếu dùng đạn NATO 5.56 “PIE Anh Đào.” PIE là viết tắt của từ chất nổ kích hoạt bằng pháo[93]. Một thiết kế tuyệt vời. Khi chui vào trong sọ bọn Zack nó sẽ vỡ nát ra và mảnh văng sẽ nướng chín não chúng. Không sợ làm văng chất xám mang mầm bệnh đi lung tung, và cũng không cần đem đốt làm gì cho lãng phí. Khi làm nhiệm vụ BS[94], anh thậm chí còn không cần chặt đầu chúng trước khi đem chôn. Chỉ việc đào hố rồi lăn cái xác xuống.

Vâng, đây là một quân đội hoàn toàn mới, từ quân bị đến quân nhân. Cách thức tuyển mộ đã thay đổi, và giờ đây để làm lính cần có những thứ khác. Vẫn có những yêu cầu như cũ — thể lực, đầu óc, có động lực và nề nếp kỉ luật để vượt qua thách thức trong các điều kiện vô cùng khó khăn — nhưng tất cả những thứ đó đều chẳng có nghĩa lí gì nếu anh không chịu nổi áp lực về lâu về dài của lũ G. Rất nhiều bằng hữu của tôi hóa dại do quá căng thẳng. Một số người gục ngã, một số khác lấy súng tự sát, số khác bắn cả đồng đội. Đây không phải là chuyện dũng cảm hay không. Có lần tôi được đọc quyển cẩm nang sinh tồn của bên SAS ở Anh. Nó có nói về tính cách của một “chiến binh,” nói rằng gia đình anh phải ổn định cả về mặt tâm lí lẫn tài chính, và rằng khi còn trẻ không được phép thích phụ nữ. [Cười.] Cẩm nang sinh tồn… [Lấy tay giả động tác thủ dâm.]

Những đám lính mới, họ có thể là bất cứ ai: hàng xóm của anh, cô dì của anh, cái lão thầy dạy thay lập dị ngày trước, hay cái lão lười béo ú ở DMV. Từ mấy tay chào mời bảo hiểm cho đến cái gã mà tôi dám thề là Michael Stipe, Mặc dù tôi không tài nào mà bắt hắn thú nhận được. Tôi thấy cũng có lí cả; bất cứ ai không đủ khả năng thì đã không sống được đến bây giờ. Ai cũng là một cựu binh về mặt nào đó. Cộng sự của tôi, Xơ Montoya, năm mươi hai tuổi, bây giờ chắc vẫn còn là một bà xơ. Dù cao có hơn mét sáu và chỉ nặng gần bốn nhăm kí, bà ấy vẫn bảo vệ được cả một lớp ở trường đạo suốt chín ngày với một cái đèn nến bằng sắt dài chưa đến hai mét. Tôi chả hiểu làm sao mà bà ta vác được cái ba lô kia mà không phàn nàn chút nào, từ khu tập kết ở Needles cho đến tận khu giao chiến ở ngoại ô Hope, New Mexico.

Hope. Tôi không đùa đâu, thị trấn ấy có tên là Hope thật.

Họ nói đám tướng tá chọn địa điểm ấy bởi địa hình rộng rãi trống trải, phía trước là sa mạc, phía sau là núi. Họ nói nơi đây rất thích hợp cho trận đánh mở màn, và cái tên chả liên quan gì hết. Ừ, phải rồi.

Bộ phận chỉ huy rất muốn chiến dịch thử nghiệm này diễn ra tốt đẹp. Đây là trận tiến công trên cạn lớn đầu tiên của ta kể từ sau Yonkers. Đây là lúc mà mọi thứ đều kết hợp lại.

Qui mô lớn vậy cơ à?

Ừ, tôi nghĩ vậy. Con người mới, dụng cụ mới, cách huấn luyện mới, kế hoạch mới — mọi thứ đều quyện lại để sẵn sàng cho phát súng mở màn này.

Trên đường hành quân chúng tôi có bắt gặp vài con G. Chó nghiệp vụ phát hiện ra chúng và huấn luyện viên của chúng mang vũ khí giảm thanh sẽ xử bọn kia. Chúng tôi không muốn thu hút sự chú ý của quá nhiều con cho đến khi chuẩn bị xong xuôi. Chúng tôi muốn lợi thế thuộc về mình.

Chúng tôi bắt đầu trồng “vườn”: cắm mấy cây cọc dán băng dính Day-Glo cam theo từng hàng cách nhau mười mét. Chúng dùng đế đánh dấu tầm bắn, cho chúng tôi thấy phải nhắm vào đâu. Có vài người phải làm mấy việc nhẹ nhàng như phát quang bụi rậm hoặc xếp lại các thùng đạn.

Số còn lại thì chẳng có việc gì làm ngoài ngồi đợi, ăn chút gì đó, kín đầy bình nước hoặc chợp mắt một chút nếu thấy ngủ được. Chúng tôi đã rút ra nhiều điều kể từ Yonkers. Cấp trên muốn chúng tôi được nghỉ ngơi. Vấn đề là nó làm cho bọn tôi có quá nhiều thời gian để suy nghĩ.

Anh đã xem cái bộ phim Elliot làm về chúng tôi chưa? Có cái cảnh lửa trại và đám lính ngồi tán gẫu với nhau, chia sẻ các câu chuyện và mơ ước về tương lai, và thậm chí còn có cả cái tay chơi kèn hamônica nữa. Chẳng giống vậy chút nào. Thứ nhất, lúc ấy vẫn đang trưa, không có lửa trại, không có chơi kèn hamônica dưới ánh sao, với cả ai cũng im lặng hết. Chẳng cần nói vẫn biết mọi người đang nghĩ gì, “Chúng ta đang làm cái quái gì ở đây vậy trời?” Giờ chỗ này là nhà bọn Zack, và bọn tôi sẵn lòng biếu chúng. Chúng tôi đã được nghe rất nhiều bài giáo huấn về “Tương lai của Tinh thần Con người.” Có Chúa mới biết chúng tôi đã nghe bài phát biểu của tổng thống bao nhiêu lần, nhưng ông ấy không phải ngồi chễm chệ trên sân trước nhà lũ Zack. Tình hình phía bên kia dãy Rockies đang tiến triển tốt. Chúng tôi đang làm cái quái gì ở đây vậy trời?

Vào tầm lúc 13:00, điện đám bắt đầu lẹt xẹt, những người huấn luyện chó đã phát hiện ra thây ma đang gọi. Chúng tôi lên đạn sẵn sàng và vào vị trí bắn.

Đây là điểm cốt lõi trong chiến thuật mới của chúng tôi, cũng lần về quá khứ như những thứ khác. Chúng tôi đi theo hàng ngang, có hai hàng: một hàng chủ lực, một hàng dự bị. Hàng dự bị là để khi có ai ở hàng trước cần thay đạn, hỏa lực họ sẽ không bị mất đi. Theo lí thuyết mà nói, khi tất cả mọi người đều đang thay đạn hoặc đang bắn, chúng tôi có thể liên tục hạ bọn Zack cho đến chừng nào hết sạch đạn thì thôi.

Chúng tôi có thể nghe tiếng sủa, lũ chó đang dụ chúng đến. Lũ G đã bắt đầu xuất hiện ở đường chân trời, có đến hàng trăm con. Tôi bắt đầu run mặc dù đâykhông phải lần đầu tôi đối mặt lũ Zack kể từ trận Yonkers. Tôi đã tham gia các chiến dịch càn quét ở LA. Tôi đã thực hiện nghĩa vụ của mình ở dãy Rockies mỗi khi mùa hè làm tan băng trên các tuyến đường lên núi. Lần nào tôi cũng run như cầy sấy.

Bọn chó được gọi về, phóng ra phía đằng sau hàng phòng ngự của ta. Chúng tôi chuyển sang sử dụng PEM[95]. Giờ quân đội nào cũng có. Người Anh dùng kèn túi, bên Trung Quốc dùng tù và, phía Nam Phi vỗ súng vào với assegai[96] và hô những câu khẩu hiệu chiến tranh của Zulu. Chúng tôi thì chơi Iron Maiden. Riêng tôi thì chẳng thích thú gì nhạc metal. Tôi chuộng rock cổ điển hơn, và bài “Driving South” của Hendrix là bản nhạc mạnh nhất tôi từng nghe. Nhưng tôi cũng phải công nhận, đứng trước gió cát sa mạc với bài “The Trooper” nện thình thình trong ngực kể cũng thú phết. PEM không phải là để dọa dẫm gì Zack. Nó là để khích lệ tinh thần chúng tôi, khiến lũ Zack trông bớt đáng sợ hơn, nói như đám người Anh là “xõa bớt đi.” Vừa đúng lúc Dickinson còn đang rú lên “Khi rơi xuống chỗ chết” thì tôi đã hăng máu lắm rồi, SIR đã nạp đạn sẵn sàng, mắt nhìn thẳng về phía cái đàn đang tiến đến gần, càng lúc càng lớn dần lên. Tôi như thể đang nói, “Nhanh lên, Zack, chiến thôi!”

Khi chúng sắp đến cột mốc đánh dấu đầu tiên, tiếng nhạc bé dần đi. Các đội trưởng hét lên, “Hàng đầu, chuẩn bị!” và hàng đầu tiên quì xuống. sau đó có lệnh “Ngắm!” và rồi, khi chúng tôi còn đang nín thở, khi nhạc vừa mới tắt hẳn, chúng tôi nghe thấy tiếng “BẮN!”

Hàng đầu tiên giật lên, nghe như tiếng một khẩu SAW đang ở chế độ liên thanh và hạ hết lũ G vừa vượt qua cột mốc đầu tiên. Chúng tôi đã được nhận lệnh rất rõ ràng, chỉ nhắm vào những con vượt qua hàng mốc đàu tiên. Đợi những con khác. Chúng tôi đã luyện tập như thế này suốt bao tháng trời. Giờ nó đã thành bản năng. Xơ Montoya nâng vũ khí lên trên đầu, đó là dấu hiệu bà hết đạn. Chúng tôi đổi vị trí, tôi mở chốt an toàn, nhắm mục tiêu đầu tiên. Con này là dân ngơ,[97] chắc chưa chết được đến một năm. Mái tóc vàng bẩn thỉu của nó chỗ có chỗ không, da dẻ thì nhăn nheo, khô ráp. Cái bụng trương phềnh của nó lồi lên dưới lớp áo phông đen đã bạc màu với dòng chữ G NGHĨA LÀ GANGSTA. Tôi nhắm vào chính giữa hai con mắt bé tí, xanh đục của nó… anh biết không, mắt chúng không phải tự nhiên trông đục ngầu thế đâu, đó là vì bề mặt của mắt chúng bị xước do bụi bay vào, có đến hàng nhìn vết vì bọn Zack không có nước mắt. Đôi mắt xanh dương trầy trụa ấy nhìn thẳng về phía tôi khi tôi bóp cò. Viên đạn khiến nó ngã ngửa, khói bốc lên từ cái lỗ trên trán. Tôi hít một hơi, nhắm mục tiêu tiếp theo, và thế là xong, tôi đã vào guồng.

Nguyên tắc chiến đấu là cứ một giây bắn một phát. Chậm rãi, đều như máy.

[Anh bắt đầu búng ngón tay.]

Trong trường bắn chúng chúng tôi tập cùng máy đếm nhịp, các huấn luyện viên liên tục nói “Chúng không vội vã gì hết, việc gì các anh phải vội?” Đó là cách giữ bình tĩnh, căn nhịp cho mình. Chúng tôi cũng phải chậm rãi, máy móc như chúng. “G hơn lũ G,” họ bảo vậy.

[Anh búng tay theo nhịp rất chuẩn.]

Bắn, chuyển vị trí, nạp đạn, uống chút nước từ bình, lấy thêm băng đạn từ phía bên “Sandler.”

Sandler?

Ừ, Đội Tiếp Đạn, đơn vị quân dự bị này không có nhiệm vụ gì khác ngoài việc đảm bảo chúng tôi không bao giờ bị cạn hết đạn dược. Anh chỉ có một số lượng băng đạn nhất định trên người và nạp đạn vào từng băng rất mất thời gian. Đội Sandler chạy dọc hàng phòng ngự thu thập các băng đạn rỗng, nạp đạn từ các thùng và rồi chuyển lại cho những ai ra tín hiệu. Người ta kể là khi quân đội bắt đầu luyện tập cùng RT[98], có một tay bắt đầy giả giọng Adam Sandler, anh biết đấy, “Thằng Bưng Nước” — “Thằng Bưng Đạn.” Đám sĩ quan không ưa cái trò đấy lắm, nhưng Đội Tiếp Đạn lại rất kết. Sandler thật đúng là những cứu hộ viên, chạy đi chạy lại như múa vậy. tôi không nghĩ có ai ngày hoặc đêm hôm đó lại bị thiếu dù chỉ một viên đạn.

Đêm hôm đó?

Chúng đến liên tục, nguyên cả một Đàn Chuỗi.

Có phải đó là tên gọi các đàn cỡ lớn?

Không chỉ có vậy. Một con G nhìn thấy anh, đuổi theo anh và hú lên. Cách đó một cây, một con G nữa nghe thấy tiếng hú đó, lần theo nó và cũng hú lên tiếp, rồi lại có một con cách đó một cây, rồi đến một con nữa. Đùa chứ, Nếu cái khu đó mật độ đủ dày, nếu cái chuỗi đó không tài nào cắt đứt được, ai mà biết chúng kéo nhau đến từ tận chỗ nào. Và đây mới chỉ là nói một con một thôi đấy. Thử nghĩ xem nếu cứ mỗi cây lại có mười, một trăm, một ngàn con.

Xác chúng bắt đầu chất chồng lên nhau, tạo thành một cái hàng rào nhân tạo ở cột mốc đầu tiên, cái núi tháp ấy cứ cao dần lên mỗi phút. Chúng tôi đang xây một pháo đài thây ma, dân đến tình huống là giờ chỉ việc khử bất cứ cái đầu nào thò lên trên đỉnh. Ban chỉ huy đã có tính trước đến chuyện. Họ có một cái tòa tháp tiềm vọng gì đó[99] cho phép các sĩ quan chỉ huy nhìn sang phía bên kia bức tường. Họ cũng có liên kết thời gian thực tải xuống từ vệ tinh và máy bay trinh sát không người lái, còn đám lính tráng chúng tôi chẳng biết họ đang thấy những gì. Land Warrior đã bị dẹp đi nên chúng tôi chỉ phải tập trung vào những thứ phía trước mặt.

Chúng tôi bắt đầu bị tấn công từ tất cả các phía, hoặc là vòng quanh bức tường hoặc là từ bên sườn và thậm chí là cả từ đằng sau. Ban chỉ huy cũng đã tiên liệu chuyện này và ra lệnh chúng tôi vào đội hình RS.

Khung Vuông Gia Cố[100].

Hoặc tôi đoán là “Raj-Singh,” lấy theo tên của cái tay đã phát minh ra nó. Chúng tôi tạo thành những hình vuông rất kín, vẫn có hai hàng, xe cộ và các thứ linh tinh đi vào giữa. Chia nhỏ chúng tôi ra thế này kể cũng hơi liều. Ý tôi là, ừ thì cái lần đầu ở Ấn Độ nó không phát huy tác dụng bởi vì hết đạn. Nhưng cũng chẳng ai đảm bảo được chuyện ấy sẽ không xảy ra với chúng tôi. Nhỡ bọn chỉ huy đột nhiên đầu óc có vấn đề, không mang đủ đạn hoặc đánh giá thấp lực lượng lũ Zack ngày hôm đó thì sao? Có khi lại thêm một trận Yonkers nữa; không biết chừng còn tệ hơn vì sẽ chẳng ai sống sót nữa.

Nhưng các anh có đủ đạn mà.

Thừa là đằng khác. Đám xe cộ chất hàng cao đến nóc. Chúng tôi có nước uống, chúng tôi có người thay thế. Nếu cần nghỉ năm phút, chỉ việc giơ vũ khí lên là sẽ có một Sandler nhảy vào thay chân. Anh có thể ăn mấy miếng IRation,[101] rửa mặt, giãn gân cốt, giải quyết nỗi buồn. chẳng ai tình nguyện xin nghỉ, nhưng họ có những đội KO[102], các bác sĩ tâm lí chiến trận liên tục quan sát tình hình mọi người làm ăn đến đâu. Họ đã đi cùng chúng tôi trong những ngày đầu trên trường bắn, biết rõ tên tuổi mặt mũi chúng tôi, và chả hiểu làm sao mà biết được khi nào căng thẳng trên chiến trường bắt đầu ảnh hưởng đến hiệu suất của chúng tôi. Chúng tôi chẳng ai biết, tôi thì dứt khoát không rồi. Có mấy lần tôi bắn trượt hoặc bắn trong vòng nửa giây chứ không phải một. Đột nhiên tôi thấy có ai vỗ vai và tôi biết mình phải ra ngoài ngồi năm phút. Chiến lược này hiệu nghiệm phết. Chưa gì tôi đã quay trở lại hàng ngũ, bàng quang trống trải, dạ dày im lặng, cổ bớt vẹo và cơ bớt co rút. Nó làm nên cả một sự khác biệt lớn lao, và nếu có ai nghĩ chúng tôi không cần đến nó có thể thử ngắm bắn một mục tiêu di động suốt mười lăm tiếng đồng hồ.

Thế còn khi đêm đến?

Chúng tôi dùng đèn pha từ xe, đèn sáng rất mạnh, màu đỏ để không ảnh hưởng tới tầm nhìn đêm. Bên cạnh cái màu sáng đỏ, thứ ghê rợn duy nhất khi chiến đấu trong đêm đó là ánh sáng phát ra từ viên đạn khi nó chui vào đầu lũ thây ma. Chính thế mà chúng tôi mới gọi đó là đạn “PIE Anh Đào.” Nếu hợp chất hóa học trong đạn không được pha trộn theo tỉ lệ đúng, nó sẽ sáng đến mức khiến mắt chúng đỏ rực lên. Đây mà đem trị táo bón thì đúng là không gì bằng, nhất là sau này, vào những đợt phải gác đêm, khi có một con vồ lấy anh từ trong bóng tối. Cứ thử tưởng tượng đôi mắt đỏ rực đó xem, thời gian như ngừng trôi vài giây trước khi nó gục xuống. [run rẩy.]

Sao mà anh biết khi nào trận chiến kết thúc?

Chắc khi chúng tôi ngừng bắn? [Cười.] Đùa thôi, câu hỏi hay đấy. Tôi cũng chẳng rõ, chắc tầm 04:00, chúng bắt đầu vơi dần. Bớt có đầu thò ra hơn. Tiến rên rỉ bắt đầu bé dần. Các sĩ quan chỉ huy không nói cho chúng tôi biết rằng cuộc tấn công sắp kết thúc, nhưng anh có thể thấy họ nhìn qua ống nhòm, nói chuyện trên điện đàm. Anh có thể thấy vẻ nhẹ nhõm trên gương mặt họ. Hình như phát súng cuối cùng được bắn trước khi bình minh lên. Sau đó, chúng tôi ngồi đợi tia sáng đầu tiên hé rạng.

Cảnh tượng lúc ấy trông hơi ma quái, mặt trời nhô lên từ trên đỉnh những ngọn núi xác hình vành đai. Chúng tôi bị vây cứng, chỗ nào xác cũng chất cao ít nhất sáu mét. Tôi chẳng rõ hôm đó chúng tôi giết hết bao nhiêu đứa, tùy người được hỏi mà số liệu sẽ khác.

Các xe Humvee có lưỡi ủi phải mở đường qua cái vành đai xác ấy chúng tôi mới chui ra được. Vẫn còn một số con G sống sót, đây là mấy con chậm chân không kịp nhập hội hoặc tìm cách trèo lên xác đồng đội nhưng bị trượt xuống dưới mô đất. Khi bắt đầu đem đống xác đi chôn thì chúng lồm cồm bò ra. Đó là lần duy nhất đức ngài Thông não có cơ hội trổ tài.

Ít nhất chúng tôi không phải ở lại làm nhiệm vụ BS. Có một đơn vị khác đợi sẵn để đến dọp dẹp. Chắc cấp trên thấy hôm nay bọn tôi đã làm đủ rồi. Chúng tôi hành quân mười dặm về phía Đông, dựng trại ngoài trời với chòi canh và tường Concertainer[103]. Tôi mệt lử người. Tôi không nhớ gì chuyện đi tẩy rửa hóa học, nộp lại quân trang để khử trùng, nộp lại vũ khí để kiểm tra: toàn đại đội không chiếc nào bị kẹt. Tôi thậm chí còn chả nhớ việc mình chui vào túi ngủ.

Sáng hôm sau chúng tôi được dậy muộn thoải mái. Sướng ra phết. Cuối cùng thì tôi cũng bị đánh thức dậy bởi tiếng người lao xao; ai cũng đang nói, đang cười, đang kể chuyện. Cảm giác này thật là khác, một trăm tám mươi độ so với ngày hôm kia. Tôi chẳng hiểu phải tả cái cảm xúc của mình lúc ấy như thế nào, Có lẽ đó chính là cái “giành lấy tương lai” mà tổng thống đã nói. Tôi chỉ biết rằng mình thấy tuyệt vời hơn bao giờ hết trong suốt cuộc chiến tranh. Tôi biết đây sẽ là một con đường vô cùng dài. Tôi biết chiến dịch xuyên suốt nước Mỹ của chúng tôi mới chỉ bắt đầu, nhưng không sao, theo như lời tổng thống phát biểu vào tối hôm đó, cuối cùng sự khởi đầu của điểm kết thúc đã đến.

AINSWORTH, NEBRASKA, MỸ

[Darnell Hackworth là một người rụt rè, nói năng nhỏ nhẹ. Ông cùng vợ điều hành một nông trại hưu trí cho những cựu binh bốn chân thuộc Quân đoàn K-9 của quân đội. Mười năm trước gần như bang nào cũng có một cái nông trại như thế này. Bây giờ chỉ còn có mỗi đây.]

Theo như tôi thấy thì công lao của chúng chẳng bao giờ được ghi nhận đúng mức. Có cái quyển sách Dax dành cho trẻ con cũng khá được, nhưng nó lại bị đơn giản hóa quá, và chuyện cũng chỉ về một con chó đốm Dalmatian giúp một đứa trẻ mồ côi đến được nơi an toàn. “Dax” thậm chí còn không ở trong quân ngũ, với lại giúp đỡ trẻ lạc chỉ là một phần rất nhỏ trong những gì lũ chó đã đóng góp cho cuộc chiến.

Đầu tiên họ dùng chó để phân biệt, để chúng đánh hơi những người bị nhiễm bệnh. Hầu hết các nước đều bắt chước cách cho người ta đi ngang qua chuồng chó của Israel. Luôn cũng phải nhốt chúng trong chuồng nếu không chúng có thể tấn công người khác, cắn xé lẫn nhau, hay thậm chí tấn công cả huấn luyện viên của mình. Thời kì đầu của cuộc chiến xảy ra rất nhiều trường hợp như thế, lũ chó như hóa dại. Chó nào cũng vậy, dù là của cảnh sát hay của quân đội. Đó là do bản năng, do cái nỗi sợ vô thức, gần như ngấm trong tận máu. Chiến đấu hay bỏ chạy, và chúng vốn được sinh ra để chiến đấu. Rất nhiều huấn luyện viên đã mất tay, chân, cổ họng bị cào xé. Không thể trách lũ chó được. Thật ra, bản năng ấy chính là thứ phía Israel muốn viện đến, và có lẽ nhờ nó ta mới cứu sống được cả triệu mạng người.

Đó là một chương trình rất tốt, nhưng nó cũng lại chỉ là một phần rất nhỏ trong số những gì chó có thể thực hiện được. Nếu bên Israel và sau đó là rất nhiều những quốc gia khác tìm cách lợi dụng bản năng đó, chúng tôi tin rằng mình có thể tích hợp nó vào chương trình huấn luyện thường xuyên của chúng. Tại sao lại không cơ chứ, chúng ta đã làm được điều đó với chính bản thân mình, và ta có tiến hóa gì hơn chúng mấy đâu?

Tất cả đều bắt đầu từ bài huấn luyện. Phải dùng chó con; lũ cựu binh khuyển hồi trước chiến tranh dù có được rèn rũa nề nếp đến đâu cũng sẽ lên cơn. Bọn chó con sinh ra trong thời kì khủng hoảng gần như được ngửi mùi xác chết ngay từ khi vừa chui ra khỏi bụng mẹ. Nó có ở trong không khí nhưng chỉ có vài phân tử, không đủ cho ta nhận thấy, chỉ có vài phân tử, vừa đủ để tác động vào tiềm thức. Nhưng không phải như vậy nghĩa là tự nhiên chúng trở thành chiến binh hết. Giai đoạn đầu tiên và quan trọng nhất là phải cho chúng làm quen bước đầu. Lấy một nhóm chó con bất kì hay thậm chí cả một lứa cũng được, cho chúng vào một căn phòng có lưới thép ngăn cách. Chúng nó ở một bên, bên kia là Zack. Không cần đợi lâu mới có phản ứng. Nhóm đầu tiên chúng tôi gọi là B. Chúng bắt đầu rên ư ử và tru lên. Chúng không chịu nổi rồi. Chúng khác xa lũ A. Chúng nhìn thẳng vào mắt lũ Zack, đó là điểm mấu chốt. Chúng thủ thế, nhe nanh ra và gừ lên một tiếng trầm trầm như thể muốn nói, “Lùi lại!” Chúng biết tự chủ, và đó là nền tảng của chương trình này.

Nhưng việc chúng kiểm soát được bản thân không có nghĩa là chúng tôi sẽ kiểm soát được chúng. Phần huấn luyện cơ bản khá giống với chương trình chuẩn hồi trước chiến tranh. Chúng có chịu nổi PT[104] không? Chúng có chịu nghe lệnh không? Chúng có đủ trí thông minh và đủ tính kỉ luật để trở làm lính không? Chật vật lắm, và tỉ lệ bị đào thải là 60 phần trăm. Chuyện đám chó mới tuyển vào bị thương tật nặng nề hay thậm chí là bị giết không có gì là bất thường cả. Ngày nay nhiều người gọi đó là vô nhân tính, mặc dù với các huấn luyện viên thì họ không thông cảm như vậy. Đúng, chúng tôi cũng phải tham gia luyện tập cùng với lũ chó, ngay từ những ngày đầu khi tập Cơ bản cho đến hết mười tuần AIT.[105] Tập luyện mệt kinh khủng, nhất là mấy bài Huấn luyện với Kẻ thù Sống. Anh có biết rằng chúng tôi là đơn vị đầu tiên sử dụng Zack để thực tập không? Trước cả bên bộ binh, tước cả Đặc công, thậm chí trước cả đám Zoomy ở Willow Creek. Đó là cách duy nhất để biết xem anh có trụ nổi không, cả khi làm việc cá nhân lẫn khi hợp tác cùng nhau.

Nếu không làm thể thì sao cho chúng làm nhiều nhiệm vụ khác nhau như vậy được? Đầu tiên là Nhử mồi, loại nhiệm vụ nổi danh nhờ Trận Hope. Khá đơn giản; cộng sự của anh lùng lũ Zack rồi sau đó dụ chúng vào tầm bắn của ta. Lũ K khi làm mấy nhiệm vụ đầu thì nhanh lắm, xông vào, sủa một chút, rồi sau đó phóng thẳng về vùng tiêu diệt. Sau này chúng bắt đầu quen việc hơn. Chúng biết cách chỉ đi trước vài phân, chậm rãi lùi lại, đảm bảo chắc chắn lùa được số lượng mục tiêu tối đa. Như vậy, chính chúng mới là người nắm quyền điều phối.

Còn có cả nhiệm vụ Nghi trang. Giả sử như anh đang thiết lập phòng tuyến nhưng không muốn Zack xuất hiện quá sớm. Đồng đội của anh sẽ đi vòng quanh khu bị chiếm đóng và khi đến được mạn bên kia thì bắt đầu sủa. Rất nhiều trận giao chiến cần sử dụng đến phương pháp này, và nhờ đó mà chúng tôi mới sử dụng được chiến thuật “Lemming.”

Trong trận Denver, chúng tôi bắt gặp một tòa cao ốc bên trong có vài trăm người tị nạn. Họ bị kẹt bên trong đấy với mấy người mang bệnh và giờ đã thành thây ma hết. Trước khi người của ta xông vào đó, một con K nghĩ ra trò chạy lên mái tòa nhà đối diện và bắt đầu sủa dụ Zack lên tầng trên. Hiệu nghiệm ngoài sức tưởng tượng. Bọn G leo lên tận nóc nhà, nhìn thấy con mồi, lao ra bắt và thế là lộn nhào xuống đất. Sau trận Denver, Lemming được đưa luôn vào sách chiến thuật. Chiến lược này được bộ binh sử dụng ngay cả khi không có lũ K ở bên. Cảnh trên nóc nhà xuất hiện một tay lính gọi với sang tòa nhà chứa zombie ở gần đó không phải hiếm.

Nhưng nhiệm vụ chính và thường xuyên nhất của các đội K là phải đi do thám, cả SC lẫn LRP. SC là Càn quét và Dọn dẹp[106], đi kèm các đơn vị quân đội khác như trong chiến đấu bình thường. Đây mới là lúc thấy rõ được tác dụng của bài huấn luyện. Chúng không chỉ đánh hơi thấy lũ Zack cách ta cả dặm mà cách sủa của chúng còn cho ta biết chính xác mình sắp phải đương đầu với cái gì. Căn cứ vào độ cao của tiếng gầm gừ, tần suất sủa của chúng là đủ biết mọi thông tin cần thiết rồi. Trong những lần cần im lặng thì có thể nhìn ngôn ngữ cơ thể. Chỉ cần nhìn độ cong của lưng và độ dựng của lông lũ K là được. Sau khi thực hiện vài nhiệm vụ, bất cứ huấn luyện viên có trình độ nào, và ở đây chúng tôi chỉ thu nhận những người có khả năng, đều có thể hiểu được mọi tín hiệu của người đồng đội mình. Chúng đã cứu được rất nhiều người khi phát hiện ra những con thây ma chìm dưới bùn hay lũ què cụt trong đám cỏ cao. Tôi không đếm nổi đã bao lần chúng tôi được cảm ơn vì đã phát hiện ra một con G bị che khuất, không thì tí nữa nó xơi luôn cái chân.

LRP là Tuần Tiễu Tầm Xa[107], khi ấy cộng sự của anh phải đi thám thính ở xa phòng tuyến, đôi khi phải đi liên tục mấy ngày để trinh sát tình hình khu vực bị chiếm đóng. Chúng có mặc một bộ giáp đặc biệt có gắn thiết bị tải phim và máy định vị GPS, cung cấp thông tin chính xác trên thời gian thực về số lượng và vị trí của kẻ địch. Có thể đánh dấu vị trí của lũ Zack lên trên bản đồ bằng cách kết hợp những gì cộng sự của mình quay được với vị trí của nó trên hệ thống GPS. Về mặt kĩ thuật thì chắc điều ấy tuyệt vời lắm, có được tin tình báo ở thời gian thật như hồi trước chiến tranh. Bộ chỉ huy rất khoái chuyện này. Tôi thì không; Tôi lúc nào cũng rất lo cho cộng sự của mình. Những lúc như thế căng thẳng không tả nổi, mình thì được ngồi trong phòng đầy máy tính, điều hòa mát rượi — an toàn, thoải mái và hoàn toàn vô dụng. Sau này áo giáp đời mới được lắp thêm đường truyền radio để huấn luyện viên có thể truyền lệnh hoặc ít nhất là hủy bỏ nhiệm vụ. Tôi không được làm việc với những thứ như thế. Ngay từ đầu đã phải luyện tập với nó rồi. Không thể đào tạo lại một con K đã từng trải. Đâu ai dạy chó già chiêu thức mới được. Rất xin lỗi, đùa nhạt quá. Tôi rất hay phải nghe mấy tay bên tình báo đùa kiểu thế; trong khi mình đứng sau lưng thì bọn nó vừa ngồi quan sát mấy cái màn hình chết dẫm ấy, vừa tự trầm trồ ngắm “Tài sản Thu thập Dữ liệu.”[108] Chúng cho thế là hay lắm. Bọn tôi cũng vui bỏ mẹ khi được đặt cho cái tên viết tắt DOA.

[Ông lắc đầu.]

Tôi chỉ biết đứng đó chắp tay sau đít, quan sát qua điểm nhìn của cộng sự mình trong khi nó phải trườn bò luồn lách qua rừng rú, đầm lầy, hoặc thành phố. Các khu đô thị là nơi gian khổ nhất. Đó là chuyên môn của nhóm tôi. Thị trấn Chó săn. Anh đã nghe đến cái tên ấy bao giờ chưa?

Trường Dạy Chiến tranh Đô thị cho K-9 đúng không?

Đúng nó rồi, thị trấn ấy có thật: nằm ở Mitchell, Oregon. Chỗ đó được niêm phong, bỏ hoang, và đầy G còn đang sống nhăn. Thị trấn Chó săn. Đáng ra nên gọi nó là Thị trấn Chó sục vì chủng ở Mitchell phần lớn là chó sục cỡ nhỏ. Giống Cairn và Norwich và JR, rất thích hợp lùng sục những chỗ đổ nát và những chỗ hẹp. Tôi thấy mình rất hợp với lũ chó ở đây. Tôi làm việc với một con dachle. Cho tới nay, chúng vẫn là những chiến binh đô thị tối thượng. Khỏe khoắn, thông minh, và thành thạo những chỗ không gian kín, nhất là mấy con cỡ nhỏ. Đây là lí do người ta tạo ra giống này; “chó săn lửng,” đó là nghĩa của từ dachshund trong tiếng Đức. Chính vì thế mà trông chúng như cái xúc xích: để chúng có thể đi săn trong những cái hang lửng nhỏ hẹp. Chắc anh cũng hiểu loại chó này rất hợp chui ống thông khí và các nơi phải trườn bò khi phải chiến đấu ở khu vực thành phố. Khả năng chui qua ống dẫn nước, ống thông khí, len lỏi giữa các bức tường hay gì đó mà không bị hoảng loạn là một kĩ năng sinh tồn rất đáng giá.

[Đúng lúc ấy, chúng tôi bị chen ngang. Một con chó khật khưỡng đến bên Darnell. Nó già rồi. mõm trắng phau, lông tai và lông đuôi đã rụng hết, còn trơ mỗi da.]

[Nói với con chó.] Lại đây, tiểu thư.

[Darnell cận thận bế nó lên lòng. Nó cũng nhỏ thôi, chắc không quá ba bốn cân gì đó. Mặc dù nó trông hơi giống một con dachshund lông mượt cỡ nhỏ, lưng nó trông ngắn hơn chủng bình thường.]

[Nói với con chó.] Mày sao rồi, Maze? Khỏe không cưng? [Nói với tôi.] Tên đầy đủ của nó là Maisey nhưng chúng tôi chẳng bao giờ gọi nó thé. “Maze” nghe hợp phết đúng không?

[Ông một tay vuốt chân sau con chó còn tay kia gãi cổ nó. Nó giương đôi mắt trắng đục lên nhìn ông, liếm liếm bàn tay ông.]

Giống thuần chủng bao giờ cũng bị loại thẳng. Tâm tính quá thất thường, quá nhiều vấn đề sức khỏe, đủ mọi thứ vấn đề khi sản giống chỉ vì yếu tố mỹ quan. Các giống đời sau [Ông chỉ về phía con chó trên đùi] luôn phải là lai, bất cứ thứ gì có thể giúp tăng cường thể lực và bình ổn tâm thần.

[Con chó thiu thiu ngủ. Darnell hạ giọng xuống.]

Chúng rất mạnh mẽ, luyện tập rất nhiều, không chỉ luyện tập cá nhân mà còn luyện tập theo nhóm để thực hiện các nhiệm vụ LRP. Thực hiện nhiệm vụ đường dài, nhất là khi phải băng qua những nơi hoang vu, bao giờ cũng rất nguy hiểm. Đây không chỉ do Zack mà còn do cả những con K khác. Còn nhớ chúng dữ dằn ra sao không? Những con thú cưng và thú hoang tụ lại thành những bầy đàn chuyên đi săn mồi. Chúng rất đáng quan ngại, nhất là khi phải di chuyển giữa những vùng ít thây ma, lúc nào cũng lùng sục tìm kiếm con mồi. Hồi đầu khi ta chưa đưa chó hộ tống vào, rất nhiều nhiệm vụ LRP đã phải bị hủy bỏ.

[Ông ra dấu về phía con chó đang ngủ.]

Nó có hai đứa vệ sĩ. Pongo, một con giống lai giữa Pit Bull và Rottweiler, và Perdy… thực tình tôi cũng chẳng biết Perdy là cái giống gì, nửa chó chăn cừu, nửa khủng long đuôi gai. Tôi sẽ chẳng dám cho Maze lại gần chúng nếu chưa được cùng trải qua khóa tập huấn cơ bản với huấn luyện viên của chúng. Hóa ra chúng thực sự là những vệ sĩ cừ khôi. Chúng đã xua đi các đàn chó hoang đến mười bốn lần, hai lần thực sự phải đánh nhau. Tôi chứng kiến Perdy xông vào một con tai cụp nặng chín chục cân, lấy hàm kẹp sọ nó. Qua mic theo dõi trên giáp của nó mà chúng tôi vẫn có thể nghe thấy tiếng sọ nứt.

Với tôi vấn đề khó khăn nhất là đảm bảo làm sao Maze chuyên chú vào nhiệm vụ. Nó rất máu đánh nhau. [Mỉm cười với con dachshund đang ngủ bên dưới.] Chúng làm công việc vệ sĩ rất giỏi, luôn đảm bảo đưa nó được đến nơi cần đến, chờ nó, và luôn đưa nó về an toàn. Bọn chúng thậm chí còn hạ được vài con G trên đường làm nhiệm vụ.

Nhưng thịt lũ Z độc lắm mà?

À vâng… không phải, không phải, không phải, chúng chẳng bao giờ cắn. Thế là chết ngay. Hồi chiến tranh mới bắt đầu đi đâu cũng thấy K chết, nằm im ở đó, không có vết thương. Nhìn thế là hiểu ngay chúng ăn phải thịt mang mầm bệnh. Đó là một trong những lí do việc tập huấn rất là quan trọng. Chúng phải biết cách tự vệ. Zack có rất nhiều lợi thế về thể hình, nhưng chúng không giữ được thăng bằng. Lũ K có thể tông vào chỗ xương vai hoặc chỗ sau lưng, đẩy chúng ngã sấp mặt. Những con cỡ nhỏ có thể ngáng giò, luồn xuống dưới chân hoặc tông vào khớp gối. Maze rất thích trò đó, quật chúng ngã ngửa!

[Con chó cựa mình.]

[Nói với Maze.] Ôi, xin lỗi nhé tiểu thư. [Tiếp tục gãi gáy nó.]

[Nói với tôi.] Khi lũ Zack đứng dậy được thì anh đã câu được thêm năm hay thậm chí là mười, mười lăm giây.

Chúng tôi cũng chịu hi sinh nhiều. Một số con K bị trượt ngã gãy xương… Nếu chúng ở gần lực lượng của ta, huấn luyện viên của chúng có thể dễ dàng đến đón, đưa chúng về nơi an toàn. Phần lớn bọn chúng còn được trở lại làm nhiệm vụ.

Thế còn những con khác thì sao?

Nếu chúng ở xa quá, làm nhiệm vụ Nhử mồi hay LRP… xa quá không cứu được và quá gần chỗ bọn Zack… chúng tôi có xin được cấp Kíp Nổ Nhân Đạo, những túi thuốc nổ tí hon gắn kèm vào áo giáp của chúng để có thể kích nổ nếu tình hình có vẻ vô phương cứu vãn. Chúng tôi không được đồng thuận. “Lãng phí tài nguyên.” Sư mẹ bọn nó. Giúp chấm dứt sự đau khổ cho một chiến sĩ bị thương được coi là lãng phí nhưng còn nếu biến chúng thành Chó Lựu thì được cân nhắc ngay!

Gì cơ ạ?

“Chó Lựu.” Đó là cái tên không chính thống của cái chương trình chỉ một chút xíu nữa thôi là được bật đèn xanh. Có thằng khốn nạn nào đã đọc được ở đâu đó rằng trong Thế Chiến Thứ Hai, Nga có sử dụng “chó mìn,” đeo thuốc nổ vào lưng chúng và huấn luyện cho chúng chạy xuống dưới gầm xe Phát xít. Lí do duy nhất khiến mấy tay Ivan ngưng chương trình này cũng chính là lí do tại sao ta không triển khai chương trình của ta: tình hình không còn tuyệt vọng đến mức ấy nữa. Anh còn phải tuyệt vọng đến cỡ nào nữa đây?

Họ sẽ không thú nhận điều này nhưng tôi nghĩ chúng phải ngưng do sợ lại có thêm một vụ Eckhart nữa. Vụ đó khiến đám kia tỉnh hẳn người. Anh có biết về vụ đó, đúng không? Trung sĩ Eckhart, mong Chúa phù hộ cô ta. Cô ta là một huấn luyện viên cấp cao, hoạt động cùng AGN.[109] Tôi chưa được gặp cô ta bao giờ. Cộng sự của cô ta đang thực hiện nhiệm vụ Nhử mồi phía ngoại ô Little Rock, rơi xuống một cái rãnh, gãy mất chân. Bọn thây ma chỉ cách đó vài bước chân. Eckhart vớ lấy khẩu súng trường, định ra ngoài đón nó về. Có một tay sĩ quan đứng ra chặn cô ta lại, lải nhải một mớ về điều lệ và đưa ra mấy cái lí do nửa mùa. Cô ta cho hắn ăn nguyên nửa băng đạn. Cảnh sát Quân sự xông ra tóm lấy cô ta, ghì cô ta xuống đất. Cô ta có thể nghe thấy tiếng lũ thây ma vây lấy cộng sự mình.

Chuyện gì đã xảy ra?

Họ treo cổ cô ta, xử tử công khai, thu hút sự chú ý của công luận. Tôi cũng hiểu, không, hiểu thật đấy. Kỉ luật là trên hết, đó là tất cả những gì chúng ta có. Nhưng rốt cuộc cũng có chút thay đổi. Huấn luyện viên được phép đi đón cộng sự của mình về, ngay cả nếu làm thế là họ đang đánh liều cả mạng sống của mình. Chúng tôi giờ không còn là tài sản nữa, chúng tôi là bán tài sản. Lần đầu tiên quân đội nhìn nhận chúng tôi dưới tư cách một đội thống nhất, rằng bọn chó không phải một thứ linh kiện có thể thay thế khi “hỏng.” Họ bắt đầu để ý tới số liệu những huấn luyện viên tự sát sau khi mất cộng sự của mình. Chúng tôi có tỉ lệ tự sát cao nhất trong số tất cả các quân chủng. Nhiều hơn cả Đặc Công, nhiều hơn cả Đăng Kí Mộ, thậm chí còn nhiều hơn cả mấy tay bệnh hoạn ở China Lake.[110] Tại Thị trấn Chó săn, tôi có gặp huấn luyện viên từ mười ba nước khác nhau. Ai cũng nói vậy. Việc anh đến từ đâu, văn hóa hay tiểu sử anh là gì không quan trọng, tình cảm của anh sẽ luôn là vậy. Ai lại có thể trải qua mất mát lớn lao như thế mà vẫn tỉnh bơ được? Những ai như thế ngay từ đầu đã không thể trở thành huấn luyện viên rồi. Đó chính là điều khiến chúng tôi trở nên độc đáo, khả năng gắn kết với một thứ còn không thuộc cùng giống loài. Thứ khiến nhiều người trong số đám bạn của tôi quay súng tự sát cũng chính là thứ khiến chúng tôi trở thành đơn vị thành công nhất trong toàn bộ lực lượng quân đội Mỹ.

Vào một ngày nọ, trên một đoạn đường bỏ hoang ở Colorado Rockies, quân đội đã nhận ra tôi mang trong người những phẩm chất như thế. Tôi đã phải cuốc bộ kể từ khi trốn ra khỏi căn hộ của mình ở Atlanta, suốt ba tháng liền chỉ bỏ chạy, lẩn trốn, lục lọi đồ ăn. Tôi bị còi xương, sốt, sụt xuống chỉ còn hơn bốn ba cân. Tôi bắt gặp hai gã ở dưới một gốc cây. Chúng đang châm lửa. Đằng sau chúng là một con chó. Chăn cẳng và mỏm nó bị chúng lấy dây giày trói gô lại. Máu khô đọng thành vết trên mặt nó. Nó nằm đó, mắt đờ đẫn, rên rỉ phều phào.

Chuyện gì đã xảy ra?

Thực tình thì tôi không nhớ. Chắc tôi lấy gậy ra đập một thằng. Người ta phát hiện thấy cây gậy gãy vụn trên vai hắn. Lúc họ phát hiện ra tôi thì tôi đang đè ngửa thằng còn lại ra, nện liên tục vào mặt hắn. Bốn ba cân, chết đói đến nơi rồi, ấy vậy mà tôi vẫn nện cho thằng kia một trận nhừ tử. Mấy anh Vệ binh phải lôi tôi ra, còng tôi vào một cái xe, cho tôi mấy phát bạt tai thì tôi mới hoàn hồn. Đến đấy thì tôi nhớ. Một trong những thằng bị tôi tấn công đang ôm lấy tay, thằng kia thì nằm đó, máu chảy ròng ròng. “Bình tĩnh xem nào,” viên trung úy nói, tìm cách tra vấn tôi, “Mày sao thế hả? Sao lại làm thế với bạn bè mày?” “Hắn không phải bạn tôi!” thằng tay gãy la lên, “Hắn điên mẹ nó rồi!” Còn tôi thì cứ liên tục lảm nhảm “Đừng hại con chó! Đừng hại con chó!” Tôi nhớ mấy anh Vệ binh cười vang. “Lạy Chúa,” một người nói trong khi nhìn xuống hai thằng kia. Viên trung úy gật đầu, rồi sau đó nhìn lại về phía tôi. “Anh kia,” ông ta nói, “tôi nghĩ chúng tôi sẽ có việc cho anh đấy.” Tôi đã được tuyển vào như thế đó. Đôi khi anh tìm được con đường của riêng mình, đôi khi nó tìm thấy anh.

[Darnell vỗ về Maze. Nó mở một mắt ra, vẫy vẫy cái đuôi chỉ còn mỗi da.]

Con chó ấy kết cục ra sao?

Ước gì tôi có thể kể cho anh một câu chuyện với kết thúc kiểu Disney, chẳng hạn như nó trở thành cộng sự của tôi và cứu được cả một trại trẻ mồ côi khỏi hỏa hoạn hay gì đó. Chúng đã lấy đá đập vào đầu để nó bất tỉnh. Các chất dịch đã tụ lại trong khoang tai của nó. Nó điếc hẳn một tai và mất một nửa khả năng nghe ở tai kia. Nhưng mũi nó vẫn còn hoạt động được và diệt chuột khá tốt sau khi tôi tìm được nhà cho nó. Nó săn được đủ chuột cho gia đình ấy ăn suốt mùa đông. Chắc đấy cũng là một dạng kết thúc của Disney, Disney với thịt chuột Mickey hầm. [Cười nhẹ.] Anh muốn nghe điều gì kì quái không? Hồi trước tôi ghét chó lắm.

Thật ư?

Rất khinh bỉ chúng; toàn mấy bọn đầy vi trùng, bẩn thỉu, hôi hám, dãi nhớt nhỏ lung tung, suốt ngày quấn chân người ta và làm cái thảm khai nồng nặc. Trời đất, tôi ghét chúng lắm. Tôi là cái thể loại khi đến nhà anh sẽ không thèm vuốt ve bọn chó. Tôi là cái loại khi ở chỗ làm sẽ trêu chọc những người để ảnh chó trên bàn. Anh có biết cái loại suốt ngày dọa sẽ gọi ban Kiểm soát Động vật đến khi con chó nhà anh sủa vào ban đêm không?

[Chỉ về phía mình.]

Cách chỗ tôi sống một nhà là một cửa hàng thú cưng. Hồi trước trên đường đi làm ngày nào tôi cũng băng qua chỗ ấy, không hiểu có tay ủy mị, ngu dốt nào lại đi bỏ ra từng ấy tiền để mua về một con chuột đồng biết sủa to quá khổ. Trong Cuộc Đại Loạn, đám thây ma bắt đầu bu quanh cái cửa hàng ấy. Tôi chẳng biết chủ nhân nó đâu. Ông ta đã đống hết các cổng nhưng bỏ lại lũ thú vật bên trong. Tôi có thể nghe thấy tiếng chúng qua cửa sổ phòng ngủ nhà mình. Suốt ngày, suốt đêm. Anh biết đấy, chúng chỉ là lũ chó con, được có vài tuần tuổi. Chúng như những đứa bé đang khiếp đảm kêu khóc mong mẹ mình hoặc bất cứ ai đến cứu.

Tôi nghe thấy chúng chết dần chết mòn, từng con một khi nước uống trở nên cạn kiệt. Lũ thây ma không lọt được vào trong. Chúng vẫn còn tụ ở ngoài cổng khi tôi bỏ trốn, phóng ngang qua chỗ đó mà không dám dừng lại nhìn. Tôi còn biết làm gì đây? Tôi không có vũ khí, không được đào tạo gì hết. Tôi không thể chăm lo cho chúng. Tôi còn gần như không thể tự chăm lo lấy bản thân. Tôi biết làm gì đây?… Một cái gì đó.

[Maze thở hắt ra trong mơ. Darnell nhẹ nhàng vuốt ve nó.]

Đáng ra tôi đã có thể làm gì đó.

SIBERIA, THÁNH QUỐC NGA

[Người dân trong khu ổ chuột này phải sống trong điều kiện hết sức nguyên thủy. Không điện, không nước. Các túp lều được túm tụm lại với nhau đằng sau một bức tường đẽo ra từ mấy cái cây bao quanh. Gian lều nhỏ nhất là của Cha Sergei Ryzhkov. Việc vị giáo sĩ già này vẫn còn sống được đến nay là cả một điều kì diệu. Dáng đi đứng của ông làm lộ vô số những vết thương lãnh phải trong và sau cuộc chiến. Cái bắt tay của ông cho thấy tất cả các ngón tay của ông đều đã bị bẻ gãy. Khi cố gượng cười, ông để lộ ra rằng tất cả những cái răng nếu không sâu đen xì thì cũng đã bị bẻ đi từ lâu rồi.]

Muốn hiểu được quá trình trở thành một “thánh quốc” của chúng tôi và quốc gia ấy tại sa lại khởi nguồn từ một gã như tôi, ông cần phải hiểu được bản chất cuộc chiến chống lũ thây ma của tôi.

Cũng như rất nhiều cuộc xung đột khác, đồng minh mạnh mẽ nhất của chúng tôi là Tướng quân Mùa đông. Cái lạnh tê tái ấy được bầu trời tối sầm sì của hành tinh kéo dãn ra thêm và làm càng làm cho khắc nghiệt hơn. Chính nó đã cho chúng tôi thời gian cần thiết để chuẩn bị giải phóng đất nước. Không như bên Mỹ, chúng tôi phải chiến đấu trên hai mặt trận. Chúng tôi có rào chắn Ural ở phía Tây, và đàn thây ma Châu Á ở phía Đông Nam. Siberia cuối cùng cũng đã được bình ổn nhưng chưa được an toàn hẳn. Chúng tôi có rất nhiều người tị nạn đến từ Ấn Độ và Trung Quốc, rất nhiều con zombie bị đông cứng giờ đã tan băng, và cứ thế lặp lại mỗi đợt xuân về. Chúng tôi cần những ngày đông tháng giá ấy để tái tổ chức lực lượng, ổn định dân cư, kiểm kê và phân phối số lượng vũ khí khổng lồ của chúng tôi.

Chúng tôi không có bộ máy sản xuất phục vụ chiến tranh như ở các nước khác. Ở Nga không tồn tại một Bộ Tài nguyên Chiến lược: không có ngành công nghiệp nào ngoài chuyện kiếm đủ thức ăn để cho dân chúng không chết đói. Thứ duy nhất chúng tôi có là di sản để lại của một quốc gia công nghiệp quân sự. Tôi biết người phương Tây các anh vẫn cười nhạo sự “ngu xuẩn” này của chúng tôi. “Bọn Ivan hoang tưởng” — các anh gọi chúng tôi như vậy — “đi chế xe tăng, súng ống trong khi nhân dân cần xe hơi, bơ sữa.” Vâng, Liên minh X?