Chương 29 Người nào như vậy, gọi là quỷ tà
Ba người Huyền Trang, Lý Thuần Phong và Lữ Thịnh đứng ở trên chòi canh, nghe tiếng bước chân càng lúc càng gần, Lý Thuần Phong thở dài một hơi. “Ta đi giải quyết.”
“Không được làm hại tính mạng của Độc Cô Thứ sử.” Huyền Trang nói rõ.
Lý Thuần Phong cười khổ, đi tới đầu cầu thang, hết sức thận trọng móc ra một ống trúc, tháo nút hai đầu rồi đặt ở bên miệng nhẹ nhàng thổi một cái, một luồng sương mù mơ hơ bay về phía cầu thang. Sau đó Lý Thuần Phong lắc mình tránh đi, xem ra hắn cũng cực kì kiêng kị thứ này.
Chỉ một lúc sau, Độc Cô Đạt dẫn một thập giáp sĩ cầm đao giơ nỏ trèo lên cầu thang, vừa mới đi vào phạm vi sương mù lan tỏa, mọi người liền cảm thấy hơi khác thường, tất cả đều bước không vững. Mọi người cố gắng lên cầu thang, thân thể càng lúc càng cứng đờ, ánh mắt cũng dần dần ngây dại ra.
Lúc này Lý Thuần Phong mới đi tới, đám người Độc Cô Đạt không ngờ lại làm như không thấy hắn, dường như đã chìm vào trong mê ảo. Lý Thuần Phong móc ra hỏa chiết tử thổi cháy, vẽ một kí hiệu kỳ lạ trong hư không trước mặt mọi người. Đám giáp sĩ ngơ ngác nhìn vệt lửa trong hư không ấy, toàn bộ tầm mắt đều bị hút vào đó.
“Được rồi, các ngươi đứng ở đây một lát, nghe thấy mệnh lệnh của ta mới được đi xuống dưới,” Lý Thuần Phong nói.
Đám người Độc Cô Đạt đứng ngơ ngẩn.
Lý Thuần Phong đi về đến bên tường chắn tên, nhún vai với Huyền Trang.
“Đây chính là nhiếp hồn thuật à?” Huyền Trang hỏi.
“Chỉ là pháp môn nho nhỏ thôi,” Lý Thuần Phong nghiêm mặt nói. “Tội lỗi, tội lỗi, hơi lỗ mãng. Vốn có thể khống chế được tinh vi hơn nhưng thời gian hơi vội vàng, đành phải trước hết dùng dược vật mê hoặc bọn chúng. Bây giờ không có người nào quấy rầy nữa, pháp sư muốn buộc tội ta cứ việc nói thẳng!”
Lúc này trên chòi canh cực kì quỷ dị: Dưới ánh trăng bóng người mông lung, cách đó không xa là mười một bóng người đứng như cương thi, còn ba người trước mắt là địch hay bạn, chỉ thay đổi trong một ý niệm, mà sâu trong linh hồn của một người trong đó còn ẩn nấp một con sói hung ác sắp sửa lao ra.
Huyền Trang biết mình đang mạo hiểm, chỉ cần hơi sơ suất là đêm nay chắc chắn sẽ mất mạng ở trên chòi canh.
Huyền Trang hít vào một hơi thật sâu, dứt khoát nói, “Năm Vũ Đức thứ bảy, lúc bần tăng quen với Lữ Thịnh, hắn đã là Trực học sĩ của Tu văn quán. Trước đó bần tăng chưa hề hỏi thăm lý lịch của hắn, có điều pháp sư Đạo Nhạc từng nói với ta, Lữ Thịnh ban đầu học Nho, sau đó vào phái Lâu Quan ở núi Chung Nam tu Đạo; năm Vũ Đức thứ tư hắn được Phó Dịch tiến cử đến Thái y viện đảm nhiệm một chức quan nhỏ, mà chức quan nhỏ này chính là Tiến sĩ chú cấm của khoa Chú cấm!”
Lữ Thịnh và Lý Thuần Phong nhìn đối phương, sắc mặt cả hai đều rất kỳ dị.
“Thời gian Lữ Thịnh làm Tiến sĩ chú cấm rất ngắn, bởi vì đến năm Vũ Đức thứ tư Thái thượng hoàng mới lệnh cho Viên Thiên Cương và Tôn Tư Mạc thành lập khoa Chú cấm, sau khi thành lập xong Phó Dịch liền tiến cử Lữ Thịnh làm Tiến sĩ chú cấm thế hệ đầu tiên. Chỉ có điều Thái thượng hoàng đã nhanh chóng phát hiện hắn y thuật cao siêu, liền bổ nhiệm hắn đến Thái y viện làm Y chính, vì vậy giai đoạn này không có nhiều người biết. Nhưng bần tăng lại vừa khéo biết được, bởi vì năm ấy để giúp bần tăng đánh bại hắn trong cuộc thi biện luận, pháp sư Đạo Nhạc đã điều tra lai lịch của hắn rất rõ ràng.”
“Nhưng điều này cũng không thể chứng minh lí do ta đến Đôn Hoàng là để phối hợp với hắn được!” Lý Thuần Phong ngoan cố cãi lại.
Huyền Trang nói, “Hai người các ngươi đều xuất thân từ phái Lâu Quan núi Chung Nam, đều được người khác tiến cử làm Tiến sĩ khoa Chú cấm, đều theo học đại sư Viên Thiên Cương, thân là sư huynh đệ đồng môn, ngươi nói xem ngươi đến Đôn Hoàng để làm gì? Đừng nói là đến trừ tà chẩn bệnh cho lão phu nhân Âm thị!” Huyền Trang lạnh nhạt nói. “Cho nên trả lời cho nghi vấn vừa rồi một chút, Lữ Thịnh giật mình kinh ngạc khi nhìn thấy ma trơi trắng chính là bởi vì lúc hắn rời khỏi Trường An, Viên Thiên Cương và Tôn Tư Mạc còn chưa nghiên cứu chế tạo thành công.”
Lữ Thịnh và Lý Thuần Phong đều ngậm miệng.
Một hồi lâu sau Lý Thuần Phong mới cười khổ. “Pháp sư, chuyện trong này không hề đơn giản như ngài tưởng tượng, ta thật sự bị ngài làm cho oan uổng rồi!”
“Thật sao?” Huyền Trang cười nhạt. “Sau đó ta vẫn luôn tự hỏi, rằng vì sao Lữ Thịnh phải diễn lại cảnh tượng chính mình bị hãm hại ở Thanh Đôn Thú? Sau khi nhìn thấy Lý Thuần Phong, ta mới hiểu ra kỳ thực ta là người thay thế cho ngươi. Lữ huynh, màn kịch này của ngươi vốn là muốn diễn cho Lý Thuần Phong xem. Bởi vì Lý Thuần Phong là quan chức triều đình, ngươi muốn thông qua miệng hắn giảng thuật oan khuất của ngươi với triều đình. Nhưng sau khi bần tăng xuất hiện, kiên nhẫn điều tra những gì ngươi trải qua năm ấy, ngươi mới phát hiện ra ta thích hợp hơn so với Lý Thuần Phong. Nguyên do trong này, có lẽ là bởi vì quan hệ của ta và Hoàng đế Bệ hạ trực tiếp hơn! Cho nên ngươi di chuyển trọng tâm từ trên người Lý Thuần Phong sang ta, ngươi dẫn ta đến Ngọc Môn Quan để ta thuận tiện quan sát Khuê Mộc Lang ở cự li gần. Ngươi để Địch Văn dẫn ta đến tiểu viện đó rồi tự mình hiện thân, biểu diễn cho ta thấy ngươi là một thân thể chứa hai hồn phách, bị Khuê Mộc Lang chiếm cứ thể xác. Sau đó ngươi lại như vô tình hay cố ý dẫn dắt ta đi tới Tây Quật, để ta nhìn thấy sĩ tộc bí mật quan trắc thiên tượng, xây dựng đài quan sát tinh tượng…”
“Pháp sư cần gì phải ép người quá đáng?” Vẻ mặt Lữ Thịnh lạnh lùng. “Đã biết ta là người sắp chết, chúng ta cứ thế duy trì tình hữu nghị kiếp này không tốt hơn sao? Cần gì phải giết hại lẫn nhau, làm cho chúng ta đầm đìa máu tươi trước khi ta chết?”
“Bởi vì ta nhìn thấy máu của người vô tội,” Huyền Trang trầm giọng nói. “Bởi vì tình hữu nghị năm ấy, ta đi tới Đôn Hoàng tìm ngươi; bởi vì oan khuất ngươi gặp phải, ta đi tìm chân tướng cho ngươi, ta dần dần phát hiện ra những việc làm ác độc của sĩ tộc Đôn Hoàng; nhưng trên thực tế trong cuộc chiến giữa ngươi với các sĩ tộc, các ngươi đều là người làm ác. Các ngươi giơ cao danh phận đại nghĩa, cầm đao kiếm chém giết lẫn nhau, lại không hề bận tâm đến những người vô tội ở xung quanh. Ngươi nói đi, đánh mất chính nghĩa, việc báo thù của ngươi lại có ý nghĩa gì? Biến thành kẻ ác, lí tưởng của ngươi lại có giá trị gì?”
Lữ Thịnh cực kỳ giận dữ, đột nhiên nhìn ngài chằm chằm. “Ta và bọn chúng ai mới là người làm ác? Những sĩ tộc đó bởi vì công tích của tổ tiên mà mấy trăm năm, hàng nghìn năm nay áp chế hàn môn, lũng đoạn quan trường. Hết đời này đến đời khác, hết triều đại này đến triều đại khác, đã có bao nhiêu sĩ tử hàn môn u uất mà chết, lẫn lộn trong gạch vỡ ngói vụn? Lại có bao nhiêu bách tính bình dân bị bọn chúng bóc lột, không khác gì nô lệ? Mà bọn chúng mang đến cái gì? Tây Tấn loạn quốc, Ngũ Hồ loạn Hoa, Trung Nguyên tiêu vong, trăm nghìn vạn bách tính trở thành súc vật! Dưới sự khống chế của thế gia đại tộc, chúng thay đổi triều đại như cưỡi ngựa, giết đế vương như giết gà giết chó, trong đó lại có bao nhiêu máu của người vô tội?”
“Bọn họ tà ác, không để ý gì đến bách tính. Ngươi vì đòi lại công bằng cho bách tính nên cũng có thể không để ý gì đến bách tính, là như vậy sao?” Huyền Trang nói.
“Ngươi…” Lữ Thịnh tức giận nhìn ngài chằm chằm. “Pháp sư, rốt cuộc trên đời này ai mới là vô tội? Năm Vũ Đức thứ chín, ta bị tám sĩ tộc lớn liên thủ chèn ép, bị bách tính toàn thành người người kêu đánh. Không có ai tới nhà ta giúp việc, không có ai đánh xe đánh ngựa cho ta, hai chợ đông tây không có cửa hàng nào bán đồ cho ta. Lớn đến muối ăn, đậu xanh, nhỏ đến cái kim sợi chỉ, không một ai bán. Thậm chí phụ thân ta bệnh nặng cũng không có thầy thuốc nào chịu đến khám chữa, không có hiệu thuốc nào chịu bán thuốc cho ta. Hàng xóm trong phường, bách tính toàn thành đều hưởng ứng sĩ tộc, muốn đuổi tận giết tuyệt ta. Ta với bọn họ có thù sao? Không có. Ta cùng bọn họ có oán sao? Không có.”
Hai mắt Lữ Thịnh dần dần đỏ lên. “Đêm hôm ấy đúng như pháp sư đã điều tra, lão phụ bệnh nguy, ta đánh xe đưa lão phụ đi khám, bị vũ hậu làm khó dễ, không mở cổng phường. Ta quỳ trong mưa to dập đầu cầu khẩn… Ta, Lục sự tham quân Tây Sa Châu, lại quỳ xuống cầu khẩn mấy tên gác cổng! Cái gì mà ‘Đại Đường vô song sĩ’ với song Trạng nguyên hai khoa, khi đó ta không còn tôn nghiêm nữa, ta không cần; ta không có nguyên tắc nữa, ta cũng không cần nữa. Để cứu sống phụ thân, ta sẵn sàng thỏa hiệp, sẵn sàng nhận thua, sẵn sàng sống như chó, nhưng bọn chúng không chịu cho ta đường sống! Bách tính vô tội trong miệng ngươi đâu? Bọn chúng đội mưa thò đầu lên tường xem náo nhiệt! Đêm hôm đó phụ thân ta trút hơi thở cuối cùng trong mưa, ông ấy nói với ta, ‘Núi cao thành vực, vực sâu thành gò, sĩ thứ lẫn lộn, chúng sinh bình đẳng!’. Nhưng chúng sinh bình đẳng không hề có nghĩa là nhân cách bình đẳng, có một số người kiên cường tiến lên, có một số người vô tri vô giác, có một số người chỉ lo thân mình, có một số người tiếp tay cho giặc. Pháp sư, khi ta trừ bỏ sĩ tộc, ngươi bắt ta phải lần lượt phân biệt xem bọn chúng là dạng người nào hay sao?”
Lữ Thịnh nói giận dữ sục sôi, vẻ mặt lại hết sức bi thương.
Huyền Trang im lặng rất lâu, cuối cùng nhẹ nhàng than thở. “Đây chính là nỗi khổ oán tăng hội ở trên nhân thế! Lữ huynh, kỳ thực ta hoàn toàn không thể dùng việc này để chỉ trích ngươi, bởi vì nếu là ta làm, ta chưa chắc đã có thể làm tốt hơn ngươi. Kinh Phật ta đã đọc cũng không hề dạy ta giải quyết nỗi khổ oán tăng hội của chúng sinh trên thế gian này như thế nào, cho nên ta mới muốn tây du, muốn đến Thiên Trúc cầu giải đại đạo. Ta không biết ta có thể đi tới Thiên Trúc được hay không, cũng không biết đại đạo thật sự đang ở đâu, nhưng ta biết đường ngươi đi nhất định là đường tà đạo!”
“Vì sao ngươi khẳng định đường ta đi là đường tà đạo?” Lữ Thịnh cười lạnh lùng.
“Bởi vì ngươi hóa thân Khuê Mộc Lang, làm chuyện âm mưu quỷ quyệt, giết hại người vô tội trong sạch, bất kể triều đình nhân gian hay là âm ty quỷ phủ đều sẽ không phán ngươi vô tội,” Huyền Trang nói. “Nhân loại không có cách nào thông qua thủ đoạn tà ác để đạt tới mục đích tốt đẹp. Thủ đoạn là đường phải đi qua, đường của ngươi là tà đạo, cuối cùng chắc chắn sẽ có kết quả hoàn toàn trái ngược.”
Một hồi lâu sau Lữ Thịnh mới nói, “Pháp sư, vừa rồi ngươi lên án ta rất nhiều việc, ta cũng thừa nhận. Không sai, đào mộ tổ của nhà người ta là ta làm, dụ dỗ sĩ tộc nghiên cứu thiên tượng là ta làm, đào đập Đinh Gia cho nước ngập Tây Quật cũng là kế sách ta đã đặt ra từ ba năm trước; thậm chí việc cướp Văn Nhi, sát hại vũ hậu và phường chính phường Thành Hóa cũng là ý chí của ta. Nhưng Khuê Mộc Lang quả thật không phải do ta giả trang, hắn cùng với ta thực sự là hai linh hồn. Bởi vì mấy năm nay ta biết rất rõ ta đã trải qua những chuyện gì, việc ta ngày đêm bị giam cầm trong một không gian đen như mực nhỏ hẹp vô cùng, cô đơn lạnh lẽo, bị giày vò từ ngày này qua ngày khác, từ năm này qua năm khác tuyệt đối không phải chỉ là giả tưởng!”
Huyền Trang kinh ngạc nhìn hắn, không nghĩ tới đến lúc này rồi mà hắn vẫn còn phủ nhận.
“Bao gồm cả Lý Tiến sĩ, hắn quả thật là sư đệ đồng môn của ta, có điều hắn ít hơn ta mười tuổi, năm ấy lúc ta tu đạo ở phái Lâu Quan núi Chung Nam, hắn vẫn chỉ là một thiếu niên. Phụ thân hắn Tử Liệt công cùng ta là đồng môn, lúc thỉnh thoảng hắn tới thăm phụ thân, ta và hắn có gặp vài lần nhưng không hề quen biết, ta tuyệt đối không bảo hắn tới Đôn Hoàng giúp ta,” Lữ Thịnh nói.
Lý Thuần Phong cũng cười khổ. “Pháp sư, ta biết ngài không tin, nhưng nguyên nhân ta đến Đôn Hoàng có thể nói rõ ràng với ngài, là Hoàng đế phái ta đến đây để điều tra chân tướng. Ta là quan chức triều đình, với chức vụ của ta, chẳng lẽ chỉ vì một phong thư của sư huynh mà lại có thể dẫn hơn nửa khoa Chú cấm theo ta rời khỏi Trường An sao?”
“Pháp sư,” Lữ Thịnh thành khẩn nói. “Ta lấy danh nghĩa của lão phụ đã qua đời thề, ta tuyệt đối chưa từng đóng giả Khuê Mộc Lang!”
Lữ Thịnh lấy danh nghĩa của phụ thân đã chết để thề độc, Huyền Trang lập tức giật mình kinh ngạc.
Lúc này dưới chòi canh lại có tiếng bước chân vang lên, có người ở dưới tầng gọi. “Đại vương cho mời Độc Cô Thứ sử!”
Lý Thuần Phong vội vàng đi tới bên cạnh Độc Cô Đạt và một thập giáp sĩ, búng ngón tay một cái, ánh mắt Độc Cô Đạt và những giáp sĩ đó dần dần tụ lại, khôi phục thần thái.
“Quay người lại,” Lý Thuần Phong nói.
Đám người Độc Cô Đạt ngơ ngẩn xoay người.
“Sau khi xuống lầu, các ngươi đều quên hết những chuyện xảy ra. Nói với Đại vương là trên chòi canh không hề có ai, tất thảy bình thường,” Lý Thuần Phong nói. “Đi thôi!”
Độc Cô Đạt dẫn mười tên giáp sĩ ngơ ngẩn bước xuống dưới lầu, lúc đi tới đầu cầu thang thì Độc Cô Đạt bước hụt một bước, ngã lộn xuống. Tầng hai lập tức có quân tốt chạy tới quát hỏi. “Chuyện gì?”
Đám giáp sĩ lúc này mới hoàn toàn tỉnh táo, lắc lắc đầu, vội vàng chạy tới đỡ Độc Cô Đạt lên.
“Độc Cô Thứ sử sơ suất trượt ngã,” Thập trưởng nói. “Trên lầu không hề có ai, tất thảy bình thường.”
“Độc Cô Thứ sử!” Người kia lại lớn tiếng nói. “Vương Thứ sử Tây Sa Châu đã đến rồi, Đại vương mời ngài tới!”
Sau cú ngã vừa rồi, Độc Cô Đạt đã hoàn toàn tỉnh lại, vội vàng đứng dậy. “Đi!”
Đám quân tốt xếp hàng xuống lầu, tiếng bước chân ầm ầm đi xa.
Lý Thuần Phong thở phào nhẹ nhõm, quay lại bên khe bắn tên.
Lúc này Huyền Trang mới vội vàng chắp tay, khom người tạ lỗi với Lữ Thịnh. “Không dám, bần tăng tuyệt đối không dám quấy nhiễu Lữ công.”
“Pháp sư,” Lý Thuần Phong không nhịn được nói. “Có phải ngài sai lầm ở đâu không?”
“Đúng, quả thực là đã có sai lầm.” Huyền Trang cũng gật đầu thừa nhận. “Nhưng bần tăng tin chắc một điểm, đó là Khuê Mộc Lang này tuyệt đối không phải tinh tú ở trên trời hạ phàm. Nếu không phải Lữ huynh đóng giả, vậy thì chỉ có một cách giải thích thôi: Chứng mất hồn!”
Hai người ngơ ngác nhìn nhau, Lý Thuần Phong không nhịn được nói, “Không ngờ ngài lại cho rằng hắn mắc chứng mất hồn?”
“Đúng, Lý Tiến sĩ tự nhiên biết, chứng mất hồn là một chứng bệnh rất hiếm thấy, còn gọi là chứng ly hồn. Y gia cho rằng gan chứa hồn, nếu gan hư tà xâm liền sẽ cảm thấy chính mình thần hồn ly tán, thần hồn ly thể, chính mình chia thành hai người, người khác không thấy nhưng chính mình có thể thấy.” Huyền Trang cau mày. “Lý Tiến sĩ học là Cấm kinh, đại sư Tôn Tư Mạc giải thích thế nào?”
Lý Thuần Phong bất đắc dĩ nói, “Trong Cấm kinh, Tồn sư giải thích hiện tượng này là quỷ tà: Quỷ tà ám người, hoặc than hoặc khóc, hoặc giận hoặc cười, hoặc ca hoặc ngâm, quên mất tên tuổi, biến thành điên khùng, có người như vậy, gọi là quỷ tà. Có điều nếu pháp sư cho rằng Lữ lang quân mắc chứng mất hồn, trong này còn có rất nhiều những điểm đáng ngờ.”
“Mời nói,” Huyền Trang nói. “Bần tăng không hề tinh thông y thuật, mời Lý Tiến sĩ nói rõ.”
Lý Thuần Phong hơi do dự, Lữ Thịnh lại nói, “Lý sư đệ, ta đã hiểu được nỗi khổ tâm của pháp sư. Thực ra pháp sư vẫn đang giúp ta tìm lại chính mình, cho nên mới phân tích các khả năng. Ngươi có lời gì liền nói đi!”
Thấy Lữ Thịnh không phủ định quan hệ giữa mình và Lý Thuần Phong, trong lòng Huyền Trang hơi buông lỏng.
“Nếu bỏ qua các việc làm quỷ dị, theo quỷ tà… hoặc nói là chứng hồn mất bình thường, quả thật tình hình hơi tương tự như sư huynh hiện nay,” Lý Thuần Phong nói. “Chứng mất hồn thực ra là một người phân liệt thành hai người, hai người này tính cách khác hẳn nhau, lời nói thói quen có khác biệt cực lớn. Năm ngoái ta đã gặp phải một vụ, phường Đôn Nghĩa ở Trường An có người đàn ông ngã xuống giếng cạn, sau khi cứu lên nói chính mình là một phụ nữ họ Chu thời Khai Hoàng Tiền Tùy, bị kẻ xấu mưu hại, vứt xác xuống giếng cạn. Người đàn ông ấy giọng nói thay đổi, the thé như phụ nữ, cử chỉ động tác cũng giống như phụ nữ. Khi đó ta đã điều tra thăm hỏi, trong phường Đôn Nghĩa thời Tiền Tùy quả thật có một gia đình họ Chu có con gái chết yểu. Tình hình cụ thể mà người đàn ông ấy nói về cơ bản cũng phù hợp.”
“Còn có chuyện kỳ lạ như vậy sao?” Huyền Trang kinh ngạc hỏi. “Sau đó thì thế nào?”
“Sau đó ta dùng phương pháp trị bệnh trong Cấm kinh trừ tà cho hắn, dùng Quỷ Môn thập tam châm cứu hắn, cuối cùng hắn khôi phục trạng thái bình thường,” Lý Thuần Phong nói. “Tiếp nữa ta hỏi dò mới biết, người này từ nhỏ đã có lệch lạc về mặt nhận thức giới tính, đến tận năm chín tuổi vẫn cho rằng mình là phụ nữ. Cách nhà hắn không xa có một chiếc giếng cạn, khi hắn còn bé hàng xóm trong phường vẫn đồn đại, nói rằng ngày xưa con gái nhà họ Chu bị kẻ xấu hãm hại, vứt xác xuống giếng cạn. Sau khi người này gặp phải một biến cố gia đình trọng đại, hắn thần hồn hoảng hốt, ngã xuống giếng, sau khi tỉnh lại liền cho rằng mình chính là con gái của nhà họ Chu đó.”
“Quả thật hơi giống với tình hình của Lữ huynh.” Huyền Trang cau mày. “Vậy vì sao ngươi lại cho rằng nếu Lữ Thịnh mắc chứng mất hồn thì sẽ có rất nhiều điểm đáng ngờ?”
“Ta đã thấy nhiều người mắc chứng mất hồn, có người tự xưng là bị hồn ma nhập hồn, có người tự xưng mình là một người khác, còn có người tự xưng mình là Đông Nhạc Đại Đế,” Lý Thuần Phong trầm giọng nói. “Nhưng giống như ta mới vừa nói, người mắc bệnh bất kể phân liệt thành người nào, người đó đều có quan hệ mật thiết với bản thân mình. Ví dụ như người đàn ông ở Trường An kia khi còn nhỏ lệch lạc giới tính, lúc nhỏ từng nghe nói về câu chuyện người phụ nữ nhà họ Chu. Nhưng còn Khuê Mộc Lang… Ta quả thật không biết nhân vật này có liên hệ gì với Lữ sư huynh.”
“Không không không, đây chỉ là chúng ta chưa điều tra ra, mà không phải không có. Trước kia bần tăng từng xem một quyển sách thuốc không còn hoàn chỉnh, trong ấy nói đến chứng mất hồn làm cho bần tăng có ấn tượng sâu sắc.”
Huyền Trang đọc:
“Bảy tình cảm của phàm nhân đều sinh ra từ yêu ghét. Yêu ghét lệch lạc, khí cũng lệch theo. Đã có lệch lạc, tất có được thua, mà thần chí dễ loạn.
Thần chí đã lệch, tà dễ chiêm cứ, quỷ sinh trong tâm. Người vốn ghét thì thấy người ghét, người vốn thích thì thấy người thích, người vốn sợ thì thấy người sợ, người vốn nghi thì thấy người nghi. Không chỉ bệnh tật mà chiêm bao cũng thế, cái gọi là chí có sở ghét, lại có sở yêu, huyết khí nội loạn, chính như quỷ thần.
Chính khí hư mà tà thắng, dẫn đến ngũ quỷ sinh. Người tâm chứa lành dữ, linh quỷ nhiếp hồn. Người tâm chứa thề nguyền, kỳ quỷ nhiếp hồn. Người tâm chứa nam nữ, dâm quỷ nhiếp hồn. Người tâm chứa lo buồn, trầm quỷ nhiếp hồn. Người tâm chứa phóng dật, cuồng quỷ nhiếp hồn. Người tâm chứa mồi dược, vật quỷ nhiêp hồn. Những chuyện như thế ma quỷ đều sinh từ tâm, dược thạch khó mà có hiệu quả, trừ chúc do ra thì không có cách nào chữa.”
“Mấy câu nói ấy là cách giải thích tốt nhất về chứng mất hồn mà bần tăng từng thấy,” Huyền Trang nói. “Phàm tất cả người bị tà phạm, đều là do tâm thần thất thủ gây ra. Chính khí hư thì tà sẽ thắng, từ đó mà ngũ quỷ sinh ra. Trong lòng ngươi có hận, cũng có yêu. Ngươi yêu Đại Đường này, nhân gian này, ngươi muốn thi cả sáu khoa để nghiệm chứng lợi hại của việc dùng khoa cử lấy sĩ. Ngươi tra hết sách sử, hi vọng kê một đơn thuốc cho thịnh thế Đại Đường. Ngươi và đối thủ tranh luận là bần tăng tôn trọng nhau, chỉ vì trong lồng ngực chúng ta đều có ước mơ. Ngươi vì lão phụ an độ tuổi già, vứt bỏ tiền đồ cẩm tú ở Trường An, đi tới Đôn Hoàng hòa giải với các sĩ tộc. Nhưng đối với một vài thứ, thường yêu càng sâu lại hận càng sâu. Ngươi ở Đôn Hoàng bị sĩ tộc chèn ép, lão phụ khốn khổ đến chết; ngươi bị người hãm hại, gọi là kẻ phản quốc, cái này gọi là chí có căm ghét, lại có yêu thích, huyết khí nội loạn, thành như quỷ thần. Cho nên ngươi phân liệt làm hai người, sự yêu thương trong lòng ngươi lưu lại cho Lữ Thịnh, ba năm nay bị giam cầm trong chỗ sâu tối tăm; còn sự căm hận trong lòng ngươi thì hóa thành Khuê Mộc Lang, cuồng bạo hung tà, họa loạn nhân gian.”
Lý Thuần Phong và Lữ Thịnh đều im lặng nghe, lời này Lý Thuần Phong cũng không thể cãi lại, Lữ Thịnh càng thất thần nhìn thành Qua Châu dưới màn đêm và ánh lửa đang càng lúc càng sáng trong thành.
“Thì ra…” Lý Thuần Phong nói. “Pháp sư cho rằng Lữ sư huynh là thần hồn sinh ra phân liệt. Chính Lữ sư huynh quả thật không biết?”
“Không biết.” Huyền Trang lắc đầu. “Một thân hai hồn là như thế, bọn họ ai cũng không ý thức được rằng kì thực mình chính là cái bóng của đối phương. Một là thiện niệm, một là ác niệm; một là thánh nhân, một là ác ma. Mà sự tồn tại của ác niệm hoàn toàn là để thiện niệm lừa gạt chính mình. Bởi vì đạo đức trong lòng hắn không cho phép hắn trở thành người như vậy.”
“Đó không phải là ta!” Đột nhiên Lữ Thịnh giận dữ nói. “Khuê Mộc Lang kia thực sự tồn tại! Nếu các ngươi không tin, ta liền gọi hắn ra!”
“Sư huynh, không được!” Lý Thuần Phong biết rõ lợi hại, vừa vội vàng can ngăn vừa thầm oán trách. Huyền Trang thật sự là quá mạo hiểm, một khi kích thích Khuê Mộc Lang trong cơ thể Lữ Thịnh, sức phá hoại của nó ai cũng không thể khống chế nổi. Tạm thời không nói tới thành Qua Châu có máu chảy thành sông hay không, ít nhất chính mình và Huyền Trang sẽ chết chắc.
“Ngươi sai rồi, pháp sư.” Lữ Thịnh lại không nổi giận, uy nghiêm nhìn Huyền Trang. “Bất kể là ta cố ý giả trang hay mắc chứng mất hồn, hai cách suy đoán của ngươi có lẽ rất hợp lý, nhưng ngươi vẫn sai rồi. Bởi vì ta biết, ta quả thật là bị Khuê Mộc Lang chiếm thể xác.”
Hắn chậm rãi cởi bỏ trường bào trên người, lại cởi áo ngắn bên trong. Huyền Trang lập tức như bị sét đánh, triệt để kinh ngạc ngây người.
Trên người Lữ Thịnh không ngờ lại mọc đầy lông sói màu bạc dày đặc! Ngoài cổ và bàn tay, cả người đều bị lông sói bao phủ, hoàn toàn là dáng vẻ của một con sói!
“Ngươi… Ngươi… Chuyện này là thế nào?” Giọng nói của Huyền Trang run rẩy, nhất thời trở nên đờ đẫn.
Chẳng lẽ suy đoán của mình sai thật rồi sao? Chẳng lẽ Lữ Thịnh thực sự đã bị thần linh hạ phàm chiếm cứ thể xác?
“Pháp sư được người ta gọi là thiên nhãn thông, lại cũng có hư vọng nhìn không thấu!” Lữ Thịnh cười to, trong tiếng cười mang một nỗi bi thương. “Pháp sư nếu thật sự có thể phá giải bí ẩn Khuê Mộc Lang nhập hồn, ta liền mặc cho ngươi xử trí!”
Huyền Trang ngơ ngác nhìn hắn, Lữ Thịnh cười lạnh một tiếng, xoay người đi luôn. “Đêm nay vốn là ta muốn đến giết ngươi, có điều pháp sư khổ tâm bố trí sự kiện cướp dâu này chính là muốn để ta tìm về bản tâm. Ngươi vẫn coi ta như người bạn thân năm đó, ta liền tha cho ngươi một lần, mau rời khỏi Qua Châu đi!”
Huyền Trang gọi to. “Có phải ngươi định tham dự nạn binh hoả đêm nay không?”
Lữ Thịnh quay đầu lại. “Đương nhiên, ta lao tâm khổ tứ vạch kế rất nhiều năm, mắt thấy thành công sắp tới, làm sao có thể bỏ lỡ? Ngươi xem dưới lầu đi, đại quân của Lý Diễm và Vương Quân Khả đã vây kín, bất kể thế nào ngươi cũng không thể thay đổi được đại thế, vậy nên ta mới bỏ qua cho ngươi. Pháp sư, không được xen vào việc của người khác nữa!”
Lữ Thịnh đột nhiên nhảy lên, nhảy qua khe bắn tên. Huyền Trang và Lý Thuần Phong vội vàng đuổi theo, chỉ thấy một bóng đen nhẹ nhàng hạ xuống một cây đại thụ xa xa, sau đó lại tung người nhảy, biến mất sau những mái hiên san sát.
Huyền Trang đắng chát nhìn theo bóng dáng hắn, im lặng rất lâu. “Lý Tiến sĩ, ngươi cũng đi thôi! Thời gian này đa tạ ngươi đã đi cùng với bần tăng, bần tăng phải niệm kinh ngoài cửa địa ngục rồi!”
Lý Thuần Phong vẻ mặt phức tạp nhìn tăng nhân trước mặt này, đột nhiên liền nhớ đến một câu:
Địa ngục chưa trống không, quyết không thành Phật. Chúng sinh độ hết, mới chứng Bồ Đề.
Dưới chòi canh tiếng móng ngựa dồn dập, Vương Quân Khả dẫn năm trăm tên lính Đôn Hoàng phi nhanh mà tới, lúc đến gần nhảy xuống chiến mã rồi lao thẳng tới trước cửa xe dâu. Hắn mở cánh cửa tàn tạ ra, mắt nhìn xe dâu vỡ nát, cả người đều run lên.
Lý Diễm và Độc Cô Đạt nhìn nhau một cái, cũng không biết nên nói gì cho phải.
Ngưu Tiến Đạt đi tới, vỗ vỗ vai Vương Quân Khả. “Tuyên Ca Nhi không cần quá lo, chúng ta sớm muộn gì cũng có thể cứu chất nữ về!”
Vương Quân Khả nhìn khuôn mặt chất phác cương nghị của Ngưu Tiến Đạt, hơi thất thần. Vương Quân Khả, tên là Tuyên, tự là Quân Khả, Tuyên Ca Nhi vẫn là cách xưng hô của một đám huynh đệ Trại Ngõa Cương năm xưa gọi hắn, đã nhiều năm chưa từng nghe lại.
“Lão Ngưu, con gái ta… con gái ta…” Giọng Vương Quân Khả nghẹn ngào. Hắn vì dã tâm của mình không tiếc đây con gái vào vòng xoáy binh biến, vốn tưởng rằng chính mình có thể đối mặt với bất cứ sự hi sinh nào, nhưng khi Ngư Tảo thật sự xảy ra chuyện, hắn mới cảm nhận được nỗi đau thấu tận tim phổi.
“Ta biết, ta biết.” Ngưu Tiến Đạt an ủi. “Thập Nhị Nương cũng là ta nhìn lớn lên, Lão Ngưu ta nhất định toàn lực ứng phó, giúp ngươi cứu nó về. Bất kể ai dám làm hại chất nữ, đại quân trong tay chúng ta chắc chắn có thể nhổ tận gốc hắn, nợ máu phải trả bằng máu!”
Vương Quân Khả nhìn Ngưu Tiến Đạt một cái, vẻ mặt phức tạp, đột nhiên nhớ lại cảnh tượng hai người cùng kề vai chém giết trong loạn thế Tùy mạt khi xưa. Nhưng bây giờ tạo hóa trêu ngươi, hai người trở thành thù địch sống chết.
Hắn lặng lẽ thở dài một tiếng, nhìn xung quanh một cái, lại cùng Lý Diễm nhìn nhau một cái, hai người đi tới một chỗ vắng, những người khác đều biết ý tránh xa.
Mồ hôi lạnh chảy ra trên trán Vương Quân Khả. “Đại vương, việc này không nên chậm trễ, phải phát động thôi!”
Lý Diễm hiểu lo lắng của hắn, lại do dự. “Nơi này bốn bề thoáng đãng, bên cạnh còn có năm mươi tên thân tín của Ngưu Tiến Đạt, một khi có sơ suất, sợ là sẽ để hắn chạy trốn mất!”
“Kẻ địch bí ẩn kia chúng ta không hề có đề phòng, hoàn toàn không biết hắn muốn làm gì, một khi kéo dài thời gian, chỉ sợ sẽ càng thêm rắc rối.” Vương Quân Khả lộ vẻ dữ tợn. “Nếu hắn tiết lộ tin tức cho Ngưu Tiến Đạt thì sao?”
Lý Diễm cũng kinh hãi, khả năng này quá lớn. Đối với người thần bí đó mà nói, chuyện này quả thực dễ như trở bàn tay.
Hai người đối mặt nhau, hít một hơi thật sâu, đang định hạ lệnh, đột nhiên nghe thấy trên chòi canh vang lên một tiếng chuông to. “Boong!”
Ngay sau đó lại là hai tiếng “boong boong,” tiếng chuông ấy trầm lắng vang vọng trên khắp phố lớn Tỏa Dương yên tĩnh, chấn động tới mức khiến màng nhĩ mọi người ong ong, khiến cả thành Qua Châu đều rung động; trăng sáng dường như vỡ ra, sao trời cũng rung lên sàn sạt.
Tất cả mọi người đều kinh ngạc ngẩng đầu lên, thấy dưới trăng sáng giữa màn đêm là một bóng người đang đứng bên cạnh chòi canh cao cao. Đó dường như là một tăng nhân, tăng bào rộng rãi đang bay phần phật trong gió đêm.
Tăng nhân đó chắp tay, cao giọng niệm. “Quả kiếp này là kiếp trước trồng xuống, quả tương lai là kiếp này tu. Kiếp này nếu không trồng nhân thiện, kiếp sau quả tốt ắt khó cầu. Lâm Giang Vương, bần tăng Huyền Trang, xin được gặp mặt!”
Lời này vừa nói ra, đám người trên phố giống như bị định thân, im lặng như tờ. Phần lớn mọi người ở đây đều đã tham gia cuộc truy bắt Huyền Trang vào ban ngày, không nghĩ tới tăng nhân ấy lại gan to hơn trời, hiện tại còn dám xuất hiện trước mặt quân đội!
“Bắn chết hắn cho ta!” Độc Cô Đạt hết sức tức giận. Huyền Trang là người hắn từng tôn sùng và đề cử cho Lý Diễm, nhưng lại đối nghịch với hắn, điều này làm cho hắn cực kì giận dữ.
Đám quân tốt tới tấp giương cung tên, tiếng kéo dây vang lên ken két, Huyền Trang không tránh né, chỉ lẳng lặng đứng trên tường chắn tên.
Độc Cô Đạt giơ cánh tay lên, đang định hạ lệnh, Lý Diễm lại đè tay hắn xuống. “Đi dẫn hắn tới đây.”
Độc Cô Đạt bất đắc dĩ, lập tức dẫn một đội quân tốt trèo lên chòi canh. Huyền Trang không hề phản kháng, đi theo Độc Cô Đạt xuống chòi canh. Trên phố dài trường thương như rừng, cung tên vây quanh, Huyền Trang sắc mặt ung dung đi qua quân trận trùng trùng, bước tới trước mặt Lý Diễm và Vương Quân Khả.
Lý Diễm nheo mắt. “Sự kiện Khuê Mộc Lang bắt cóc cô dâu đêm nay là ngươi sắp xếp?”
“Là bần tăng,” Huyền Trang nói.
“Con gái ta ở đâu?” Vương Quân Khả cả giận nói.
“Ở ngoài cửa địa ngục ” Huyền Trang nói. “Thành Qua Châu này sắp chìm vào trong địa ngục máu lửa, bần tăng phải độ người, trước hết đương nhiên phải độ người bên cạnh đưa tay có thể chạm tới.”
“Tên yêu tăng nhà ngươi, chớ có nói xằng nói bậy!” Vương Quân Khả quát. “Người đâu, bắt cho ta!”
Huyền Trang đột nhiên trừng mắt hét to. “Lý Diễm và Vương Quân Khả có ý đồ mưu phản, các vị thân là tướng sĩ Đại Đường, chớ theo kẻ phản nghịch!”
Quân tốt đang định tiến lên lập tức sợ đến mức run rẩy, đều sửng sốt ngây người.
Huyền Trang không hề trốn tránh, nhìn Ngưu Tiến Đạt hét lớn. “Ngưu Tiến Đạt, cạm bẫy đêm nay chính là nhằm vào ngươi! Còn không mau đi đi!”
Vương Quân Khả giật lấy mạch đao từ trong tay bộ khúc, vung đao chém về phía Huyền Trang.
“Tuyên Ca Nhi chậm đã.” Ngưu Tiến Đạt kinh hãi, cũng lấy một cây trường thương trong tay quân tốt, nhanh như chớp gạt cán mạch đao của Vương Quân Khả.
Không ngờ Vương Quân Khả đột nhiên biến chiêu, mạch đao quét về phía Ngưu Tiến Đạt. Ngưu Tiến Đạt hoảng hốt, muốn biến chiêu nhưng đã không còn kịp nữa, đành dựng trường thương lên. Keng một tiếng, mạch đao chém vào trường thương, cán thương bị chém thành hai đoạn, thế đao lại vẫn không giảm. Ngưu Tiến Đạt vội vã ngửa người lui lại, xẹt một tiếng, mạch đao chém qua giáp da ở trước ngực hắn; giáp da bị chém rách một vệt dài như xé giấy, máu trước ngực chảy ra, nhưng dù sao Ngưu Tiến Đạt cũng tránh thoát một kiếp bị một đao toang ngực.
“Tướng quân!” Đám người Ngưu Hỉ lúc này mới phản ứng lại, đồng loạt xông lên bảo vệ Ngưu Tiến Đạt.
“Chúng quân nghe lệnh.” Lý Diễm hét to. “Ngưu Tiến Đạt cấu kết Đột Quyết, Huyền Trang chính là gian tế bôn tẩu cho hắn. Bệ hạ có mật lệnh, bắt Ngưu Tiến Đạt!”
Hàng nghìn quân tốt thân tín của Lý Diễm và Vương Quân Khả lập tức rảo bước chạy tới, phát ra tiếng hò hét, sắp xếp trận hình, bao vây đám người Ngưu Tiến Đạt và Huyền Trang.
Còn đám người Lệnh Hồ Đức Mậu, Địch Xương, Trương Tệ bên cạnh đều trợn mắt, Địch Thuật vội vàng rút hoành đao ra, bảo vệ đám gia chủ sau lưng.
Ngưu Tiến Đạt sắc mặt xanh mét, quát. “Mang mã sóc của ta tới đây!”
Đám người Ngưu Hỉ vội vàng khiêng ra một cây mã sóc dài một trượng tám. Cây mã sóc này chính là Ngưu Tiến Đạt thu được trong một thế gia tướng môn triều Tùy từ thời Tùy mạt, chế tạo cực kì hoàn mỹ, là lấy thân gỗ chá thượng đẳng, vót thành nan kích cỡ bằng nhau, dùng keo bong bóng cá dính lại làm thành cán sóc. Toàn bộ những nan nhỏ này đã ngâm trong dầu hết lần này đến lần khác suốt một năm, không biến hình, không rạn nứt, sau khi dán lại, bên ngoài lại quấn dây thừng. Đợi dây thừng đã khô hẳn, lại quét sơn sống, bọc vải đay. Ngoài vải đay tiếp tục quét sơn sống, khô một lớp lại bọc một lớp. Như thế vừa có độ đàn hồi vừa có độ cứng, đao chém lên, cán sóc phát ra tiếng kim loại, lại không đứt không rạn.
Cây sóc này của Ngưu Tiến Đạt còn là sóc hai đầu, cả phía trước và phía sau đều lắp lưỡi sóc dài một thước sáu tấc. Loại sóc này rất khó sử dụng, hơi bất cẩn sẽ ngộ thương chính mình, tuy nhiên lúc cưỡi ngựa xông trận có thể đâm cả trái phải, uy lực cực lớn. Các mãnh tướng dũng lực vô cùng như Công Tôn Toản thời Tam quốc, Nhiễm Mẫn thời Thập lục quốc, Dương Khản thời Nam Lương đều dùng loại sóc hai lưỡi này.
Ngưu Tiến Đạt cầm sóc hai lưỡi trong tay, nhẹ nhàng kéo Huyền Trang tới. “Pháp sư, mời đứng ra phía sau ta.”
Đám người Ngưu Hỉ vội vàng bảo vệ Huyền Trang, Ngưu Tiến Đạt vung sóc dài, quân tốt xung quanh tới tấp lui lại, lập tức chừa ra một khoảng đất trống phạm vi rộng hai ba trượng, chỉ có Vương Quân Khả cầm mạch đao, đứng hiên ngang trong vòng.
“Lâm Giang Vương, Vương Thứ sử.” Ngưu Tiến Đạt lạnh lùng nhìn hai người. “Các ngươi vu hãm Ngưu mỗ như vậy, chẳng lẽ là thật sự muốn mưu phản?”
“Ngưu Tiến Đạt!” Lý Diễm giận dữ quát. “Người mưu phản là ngươi! Bản vương sớm đã nhận được mật báo, nói ngươi cấu kết Đột Quyết, có ý đồ cùng Đột Quyết nội ứng ngoại hợp, công phá Qua Châu! Bệ hạ có mật lệnh, lệnh ta bắt giữ ngươi, còn không ném binh khí xuống!”
“Ngưu mỗ có mưu phản hay không, chính mình tự nhiên biết rõ.” Ngưu Tiến Đạt cắn răng. “Ta lại không rõ, ngươi đường đường là Quận vương, hoàng thất quý trụ, Đại Đường và Bệ hạ đối đãi ngươi quá hậu, vì sao ngươi phải mưu phản? Còn có ngươi nữa! Vương Quân Khả…”
Vương Quân Khả không nói một lời, lạnh lùng nhìn hắn.
Ngưu Tiến Đạt giơ trường sóc lên, hết sức đau lòng. “Ngươi và ta là chiến hữu hơn mười năm trên núi Ngõa Cương, bao nhiêu lần cùng sống chết cùng hoạn nạn. Năm ấy chúng ta cùng với Tần Thúc Bảo đầu hàng Bệ hạ trước hai quân trận, theo Bệ hạ gây dựng nên giang sơn hiển hách này, vốn có thể vĩnh viễn hưởng phú quý, vì sao ngươi phải tự rước lấy hủy diệt?”
“Người tự rước lấy hủy diệt là ngươi!” Vương Quân Khả hai mắt đỏ rực, nước mắt chảy dài, than thở. “Đại vương đã cho ta xem mật chỉ của Bệ hạ, tội chứng của ngươi xác thực, còn có gì để giải thích nữa? Lão Ngưu, nghĩ lại anh hùng Ngõa Cương ta, Đơn Hùng Tín làm ác không chịu hối cải, bị Bệ hạ giết. Vương Bá Đương trung thành với Lý Mật, cũng bị giết. La Sĩ Tín chết trận ở Minh Châu, Bùi Hành Nghiễm bị chém ở Lạc Dương, cho tới bây giờ còn thừa lại mấy người? Ngươi và ta là huynh đệ, ta thật sự không muốn giết ngươi, chỉ cần ngươi bỏ binh khí đầu hàng, ta sẽ cố hết sức bảo đảm ngươi không chết!”
“Ngươi… Ngươi vô sỉ!” Ngưu Tiến Đạt đấu võ mồm không lại Vương Quân Khả, tức giận đến mức cả người run lên.
“Đã như vậy chớ trách ta đao hạ vô tình!” Vương Quân Khả hét lớn một tiếng, vung đao xông tới.
Ngưu Tiến Đạt lắc trường sóc, keng keng keng, tiếng binh khí hai bên va chạm dày đặc như mưa rào. Mạch đao nặng nề lực lớn, trường sóc phạm vi sát thương xa, xuất quỷ nhập thần, Vương Quân Khả nhất thời không bắt được Ngưu Tiến Đạt, mà Ngưu Tiến Đạt cũng không bức lui được Vương Quân Khả nửa bước, song phương nhất thời rơi vào giằng co.
“Các tướng sĩ, giết giặc!” Lý Diễm vung tay lên, Độc Cô Đạt và Vương Lợi Thiệp dẫn quân tốt ùa lên.
Trường sóc của Ngưu Tiến Đạt đâm như mưa xối xả, bảy tám tên quân tốt cách hơn một trượng đã bị đâm chết tại chỗ, mà quân tốt tràn đến còn ngăn cản thế đao của Vương Quân Khả, Vương Quân Khả tức giận quát bọn chúng lui lại.
Bất cứ ai cũng không xen vào được cuộc chiến ở phía bắc phố dài. Hai bên đều dùng binh khí dài, quét sạch phạm vi nửa bề rộng con phố, một mình Ngưu Tiến Đạt thủ vững đầu phố phía bắc. Quân tốt ở đầu phố phía nam hò hét xông lên, Ngưu Hỉ dẫn năm mươi tên việt kỵ tạo thành một bức tường người bảo vệ sau lưng Huyền Trang, trường thương như rừng. Hai bên đâm chém nhau từ cự ly xa, tình cảnh vô cùng thảm thiết.
Đám gia chủ Lệnh Hồ Đức Mậu và Địch Xương đứng ở xa xa phía sau quân trận, tất cả sắc mặt xanh mét, lại không nói một lời.
Đêm nay tâm tình bọn họ quả thực thay đổi liên tục, cục diện biến hóa hoa cả mắt khiến bọn họ không phản ứng kịp. Vốn đi theo đại quân của Vương Quân Khả đông tiến Qua Châu, không ngờ vừa rời khỏi Đôn Hoàng chẳng bao lâu, trên thực tế đã bị Vương Quân Khả giam lỏng rồi. Trong lòng đám người Lệnh Hồ Đức Mậu đã có dự cảm, việc lớn không tốt.
Quả nhiên Lý Diễm và Vương Quân Khả bắt Ngưu Tiến Đạt trên phố lớn, ngang nhiên tạo phản. Đám gia chủ sĩ tộc khóc không ra nước mắt, tất cả đều vô cùng hoảng sợ. Bọn họ ai cũng rõ ràng, chính mình đã quyên giúp tiền lương cho Vương Quân Khả, lại cùng hắn xuất binh, đối với triều đình thì hành vi này rõ ràng là đi theo kẻ phản nghịch.
Địch Thuật bước lên trước một bước, nói nhỏ. “Các vị gia chủ, chúng ta nên làm thế nào?”
Lệnh Hồ Đức Mậu nói lạnh lùng. “Đêm nay tình thế quỷ quyệt, chúng ta không theo bất cứ bên nào.”
“Đúng vậy!” Địch Xương cũng nói. “Bất kể ai thắng ai bại, chúng ta duy trì trung lập là lựa chọn tốt nhất.”
“Hai vị thật hồ đồ!” Địch Thuật cũng không có tâm tư để ý đến tôn ti, vội nói. “Với trí tuệ của hai vị đương nhiên đã nhìn rõ mọi việc, đây là Lâm Giang Vương và Vương Quân Khả đang mưu phản! Chúng ta là thần dân Đại Đường, gặp biên tướng mưu phản, làm sao duy trì trung lập?”
“Tại sao không phải là Ngưu Tiến Đạt mưu phản?” Âm Thế Hùng nói lạnh lùng. “Chuyện còn chưa làm rõ đã tùy tiện tham dự, không phải việc làm của bậc trí giả.”
Địch Thuật cười lạnh lùng. “Ngưu Tiến Đạt muốn mưu phản? Vậy mà hắn lại không hề đề phòng để bị vây khốn ở chỗ này? Còn để hết bốn trăm việt kỵ của mình ở thành cừu ngựa? Các vị đều là bậc trưởng bối, lão luyện cẩn thận là đúng, nhưng vẫn nên phân chia trái phải cho rõ ràng.”
“Ngươi nói ta không phần chia trái phải rõ ràng?” Âm Thế Hùng giận dữ.
“Không phải ta nói một mình ngài đâu!” Địch Thuật một bước cũng không nhường. “Người mưu phản là ai, ta thấy các vị trưởng bối trong lòng biết rõ, trước đó trên thực tế là chúng ta bị Vương Quân Khả giam lỏng trong quân, hắn muốn làm gì chẳng lẽ trong lòng các vị gia chủ không có suy nghĩ sao? Bây giờ duy trì trung lập, ta xem là để bảo toàn bản thân đúng không?”
Đám gia chủ ngơ ngác nhìn nhau, im lặng không nói.
“Thuật Nhi.” Địch Xương nói điềm đạm. “Ngươi nói có lẽ không sai, nhưng lúc này là ở trong thành Qua Châu, trong thành ngoài thành có hàng vạn đại quân của Lâm Giang Vương và Vương Quân Khả. Ngưu Tiến Đạt chỉ là thú dữ bị nhốt vùng vẫy lần cuối mà thôi. Cho dù chúng ta tham dự cũng không thay đổi được gì, vậy nên sách lược tốt nhất hiện nay chính là tiếp tục chờ đợi, xem thời thế mà hành sự.”
“A gia!” Địch Thuật vẫn không chịu thỏa hiệp. “Chỉ cần đêm nay bọn chúng mưu phản thành công, chúng ta liền không có cơ hội nữa. Tiền lương Vương Quân Khả xuất binh là chúng ta ủng hộ, hắn xuất binh Qua Châu là chúng ta đi theo, đến lúc đó trong mắt triều đình, tội danh nhẹ nhất của chúng ta cũng là đi theo phản nghịch!”
“Ngươi nói mặc dù không sai, nhưng…” Trương Tệ trầm giọng nói. “Nếu như lúc này chúng ta động thủ sẽ chỉ khiến Lâm Giang Vương giết chết chúng ta giống như cắt rau bổ dưa. Trên thực tế chúng ta đã thành con tin, chỉ có thể lá mặt lá trái. Còn bên phía triều đình ngươi không cần lo lắng, bất kể Trương thị bọn ta hay là Địch thị các ngươi và Lệnh Hồ thị Âm thị đều không phải không có người trong triều đình, đến lúc ấy làm ra một công lao để trả lời triều đình là được.”
Địch Thuật đau xót nhìn mọi người. “Các vị là gia chủ sĩ tộc, ta chỉ hỏi một câu, nếu không có triều đình, lấy đâu ra sĩ tộc? Sĩ tộc cùng ai cộng trị thiên hạ? Chúng ta cắm rễ Đôn Hoàng bảy trăm nấm, hút mồ hôi nước mắt nhân dân, kết cục chẳng lẽ là ngay cả bách tính của chính mình cũng không bảo vệ nổi sao? Ta là biên tướng triều đình, ăn bổng lộc của triều đình, uống nước mảnh đất này, quyết không thể thấy việc mưu phản đang diễn ra trước mắt mà vẫn còn thờ ơ hờ hững!”
Địch Thuật sải bước đi ra ngoài, Địch Xương sợ đến mức kêu to. “Thuật Nhi, ngươi muốn làm gì?”
“Báo hoàng ân sa trường, cầm kiếm chết vì nước!” Địch Thuật xoay người.
“Ấu trĩ!” Địch Xương không nén được giận. “Ngươi là đứa con trai ta coi trọng nhất, tại sao lại cổ hủ như thế? Thân là sĩ tộc, trách nhiệm quan trọng nhất không phải thần phục triều đình mà là bảo toàn gia tộc! Ngươi đắc tội Lâm Giang Vương, Địch thị ta nên làm thế nào?”
“A gia, bảo toàn gia tộc là chuyện ngài cần suy nghĩ, còn ta, ta là biên tướng Đại Đường!” Địch Thuật nói từng chữ từng câu. “Quốc nạn ập đến, ta phải nói với triều đình, nam nhi sĩ tộc không phải toàn là đồ bỏ!”
“Giết giặc…” Địch Thuật hét lớn một tiếng, đoạt lấy một thanh mạch đao từ trong tay quân tốt bên cạnh, vung đao đánh thẳng vào từ đằng sau lưng của quân tốt phía nam.
Địch Xương hai mắt đẫm lệ nhìn con trai xông tới như thiêu thân lao đầu vào lửa, đột nhiên hét lớn. “Các vị gia chủ, Đôn Hoàng bị hủy diệt, căn cơ của chúng ta cũng đâu còn nữa?”
Lệnh Hồ Đức Mậu sầm mặt nhìn mọi người một cái. “Các vị, thời khắc sống chết liên quan đến lựa chọn của sĩ tộc lại đến một lần nữa rồi. Lần này không có thời gian suy nghĩ chu toàn, ta chi nói cho các vị biết, rằng tam đệ của ta giờ đang làm quan ở trong triều, Lệnh Hồ thị ta tuyệt đối không phản bội triều đình!”
Âm Thế Hùng giậm chân. “Mẹ kiếp! Không nghĩ nữa! Ông đây và Âm phi, Âm Thị lang là cùng một tông, ta quyết định đánh cuộc lần này!”
Trương Tệ thở dài một hơi. “Sáu năm trước Trương Hộ mưu phản, Trương thị ta cùng triều đình đã đạt được thỏa thuận, không thể thất tín bội nghĩa nữa.”
Sách Ưng cười tủm tỉm nói, “Các vị đã dự định chết ở đây, Sách mỗ đi theo là được. Dù sao bất kể ai khống chế Đôn Hoàng đều không rời được sĩ tộc chúng ta. Gia tộc đã không có việc gì, Sách mỗ chẳng tiếc một mạng này.”
Hai người Phiếm Nhân Kiệt, Tống Thừa Đảo cũng gật đầu kiên quyết. Địch Xương mừng rỡ rơi nước mắt chắp tay bốn phía. Mọi người gọi bộ khúc nhà mình dẫn đến, cộng lại có bốn tới năm mươi người, những bộ khúc tinh nhuệ này cầm đao cầm cung, xếp hàng chỉnh tề.
Lệnh Hồ Đức Mậu chỉ về hướng chiến trường, quát. “Đêm nay chỉ có chết mà không có sống, hãy dùng tính mạng của các ngươi để nói với Lâm Giang Vương, rằng sĩ tộc chúng ta không phải toàn những kẻ hèn nhát!”
Hơn bốn mươi người phát ra tiếng hét giận dữ, đuổi theo Địch Thuật liều chết xông lên.
Cách đó không xa, Độc Cô Đạt giận dữ, lại biết những gia chủ này còn chưa thể giết, lệnh cho đám bỉnh lính Qua Châu đồng loạt xông lên, dùng cán thương đánh lung tung, đánh cho đám người Lệnh Hồ Đức Mậu và Địch Xương máu me khắp người, ngã lăn xuống đất, tất cả đều trói lại.
Lúc ấy Địch Thuật đã tiếp xúc với binh lính Qua Châu, những bộ khúc tinh nhuệ này vừa gia nhập liền lập tức hình thành một mũi nhọn dày, phá vỡ quân trận Qua Châu. Binh lính Qua Châu không ngờ có người từ sau lưng giết tới, Địch Thuật cầm mạch đao nặng nề mở đường, người ngăn cản đều bị chém đứt tay đứt chân, đầu lăn lông lốc, quân trận bị Địch Thuật mạnh mẽ đánh xuyên qua.
Ngưu Hỉ quát to. “Người tới là người nào?”
“Thủ tróc sứ Tử Đình Tây Sa Châu, Địch Thuật!” Địch Thuật hô lớn, phân phó bộ khúc sĩ tộc. “Các ngươi ngăn cản bên này, ta đến giúp Ngưu Thứ sử!”
“Hảo hán!” Đám người Ngưu Hỉ tách ra một lối để Địch Thuật đi tới.
Lúc đi qua bên cạnh Huyền Trang, Huyền Trang chắp tay chào hắn, Địch Thuật ôm quyền đáp lễ, không nói một lời, xách mạch đao đánh về phía Vương Quân Khả.
Ngưu Tiến Đạt đang giao đấu quyết liệt với Vương Quân Khả nhưng mắt vẫn nhìn bốn phía, thấy Địch Thuật tới, cười ha hả nói, “Hảo hán, Địch thị Đôn Hoàng, danh bất hư truyền!”
“Ta cuốn lấy đao của hắn, ngươi chỉ việc tấn công!” Địch Thuật nói đơn giản, vung đao lao vào Vương Quân Khả.
“Cuồng vọng!” Vương Quân Khả cười lạnh lùng, vung đao chém liên tiếp, Địch Thuật giơ đao chống đỡ. Keng keng keng ba tiếng, hai thanh mạch đao giao kích, đinh tai nhức óc.
Địch Thuật cảm thấy cánh tay tê dại, khí huyết trong ngực quay cuồng, gần như không nắm chắc được cán đao. Mạch đao của Vương Quân Khả tung bay trên dưới, đao thế mãnh liệt, góc độ xảo quyệt, sau ba bốn chiêu Địch Thuật đã không chống đỡ được, liên tục lui lại, nhưng vẫn cắn răng chịu đựng.
“Đao pháp hay lắm!” Ngưu Tiến Đạt cười to, cây sóc hai lưỡi rung lên, lưỡi sóc dài một thước sáu tấc từ trên dưới trái phải Địch Thuật đâm ra; mỗi lần Địch Thuật không thể ngăn cản được lại đâm tới như tia chớp, tấn công những chỗ yếu hại của Vương Quân Khả. Vương Quân Khả lập tức luống cuống tay chân, hắn không giải quyết được Địch Thuật trong thời gian ngắn, mỗi khi Địch Thuật bị hắn đánh cho lộ ra sơ hở, sóc dài của Ngưu Tiến Đạt liền sẽ đâm tới, nhất thời ứng phó vất vả, bị hai người liên thủ đánh cho liên tiếp lui lại.
“Lính nỏ!” Lý Diễm hô to. “Bắn…”
Bên này Vương Quân Khả bị Ngưu Tiến Đạt với Địch Thuật cuốn lấy, không thể sử dụng cung tên. Độc Cô Đạt vẫy cờ lệnh, một lữ lính nỏ phía nam xếp hàng tiến lên, Vương Lợi Thiệp lập tức dẫn trường thương binh tách khỏi đám người Ngưu Hỉ, hàng trước lính nỏ ngồi xuống, hàng sau đứng, một trăm người gần như xếp chật kín mặt phố. Ánh trăng và ánh đuốc soi sáng, trên đầu mũi tên lấp lánh ánh sáng dày đặc.
Việt kỵ của Ngưu Tiến Đạt đến là để dự tiệc, không hề mang theo lá chắn lớn, nhất thời rơi vào trong tuyệt cảnh.
Ngưu Hỉ hô to. “Các chiến hữu, là biên tướng Đại Đường, chết vì nước được không?”
“Được…” Hơn mười người đồng thanh hô vang.
Ngưu Hỉ bước lên trước một bước, lớn tiếng hát. “Nhận lệnh rời quân chủ, cùng nhau diệt phản thần. Hát bài ca phá trận, cùng nhau hưởng thái bình.”
Chính là bài ca dao trong quân Đại Đường, “Tân Vương phá trận nhạc” do Lữ Thịnh viết năm ấy.
“Bốn biển gió vừa thổi, nghìn năm nước đức trong. Quân trang còn chưa đổi, hôm nay báo công thành.” Đám việt kỵ cùng hát theo, lập tức lại có chín người cất bước tiến lên, sánh vai đứng bên cạnh Ngưu Hỉ. Họ chen sát vào nhau cực kì tập trung, ngăn chặn một nửa phố lớn Tỏa Dương. Mọi người ôm trường thương ngang trước ngực, mười cây trường thương nối thành một hàng, mỗi cây trường thương đều được ba bốn người ôm lấy.
“Bắn…” Độc Cô Đạt hạ lệnh.
“Vù vù vù…” Cả trăm mũi tên nỏ dày như châu chấu bắn vào trên người những việt kỵ hàng trước.
Đám việt kỵ đều mặc minh quang khải giáp, cực kì chắc chắn, nhưng khoảng cách gần như thế vẫn không chắn nổi tên nỏ, mỗi một mũi tên nỏ đều bắn sâu xuyên qua áo giáp, đâm xương cốt.
Tên nỏ bắn liên tiếp, chỉ nháy mắt trên người mười tên việt kỵ tính cả Ngưu Hỉ đã bị cắm tới cả trăm mũi tên nỏ, gần như mỗi người trong số họ đều đã bị bắn thành con nhím. Họ sớm đã tắt thở bỏ mình, nhưng lại không có một mũi tên nỏ nào có thể đột phá được hàng phòng ngự được tạo thành bởi thân thể họ, làm tổn thương đồng đội phía sau! Đám việt kỵ phía sau hát bài “Tần Vương phá trận nhạc,” nước mắt chảy dài, lại không hề chần chừ đâm từng cây trường thương vào lưng giáp đồng đội đã chết trận, cán thương chống xuống dưới đất.
Thế là đám người Ngưu Hỉ lại chết mà không ngã, dùng thi thể xây một bức tường thành bằng máu bằng thịt cho đồng đội mình!