Chương 34 Trên đường tây du, chàng sẽ trở về
Ngoài cổng nam thành Đôn Hoàng, đại quân đề phòng nhìn quanh, quân dung chỉnh tề; bách tính trong thành Đôn Hoàng tất cả dìu già dắt trẻ, ôm lư hương, giơ hương dây, ngẩng đầu nhìn ra xa. Tám sĩ tộc lớn tổ chức tăng nhân làm một pháp sự long trọng, thiền âm Phật xướng vang vọng nửa thành trì.
“Đến rồi! Đến rồi!” Có bách tính kêu lên.
Chỉ thấy trong vòng vây của vô số binh mã, Địch Văn ngồi trên một chiếc xe ngựa chậm rãi mà đến, bách tính lớn tiếng hoan hô. “Huyện quân Đôn Hoàng! Huyện quân Đôn Hoàng!”
Địch Xương cười tươi như hoa cưỡi ngựa đi theo, trận binh biến mười mấy ngày trước, nếu như không phải Địch Thuật chết trận tráng liệt, Địch thị thật sự được coi là người thắng lớn nhất.
“Văn Nhi, cần nói vài câu với bách tính hay không?” Địch Xương cúi đầu hỏi.
“Che rèm xe lại.” Địch Văn nói lạnh nhạt.
Địch Xương kinh ngạc, lại thấy Địch Văn cúi người kéo rèm xe lại, ngăn cách chính mình với bách tính hoan hô.
Địch Xương không khỏi cười khổ. “Cũng tốt, cũng tốt.”
Thì ra sau khi Lữ Thịnh thăng thiên, đại quân đã từ thành ma quỷ trở lại Đôn Hoàng. Lý Thuần Phong nhận được ý chỉ của Hoàng đế, vì vậy sớm phái người trở về Đôn Hoàng, truyền ý chỉ cho quan viên địa phương, lệnh bọn họ xây dựng đài Nhị thập bát tú trong thành. Đó sẽ là nơi Địch Văn tế tự Thái Thượng Lão Quân, Ngọc Hoàng Thiên Đế và Nhị thập bát tú thay cho triều đình.
Ngay từ khi được phong Bành Quốc công, Vương Quân Khả đã giao lại chức Thứ sử Tây Sa Châu. Thứ sử mới mà triều đình cắt cử còn chưa tới, Thôi Đôn Lễ lệnh Trưởng sử Tây Sa Châu là Tôn Tra Liệt tạm thời quản lý sự vụ của châu, đồng thời bắt lại tâm phúc của Vương Quân Khả là Lục sự tham quân Tào Thành.
Tôn Tra Liệt cũng không biết trận bão táp quét sạch qua ba châu Qua, Sa, Túc này có liên lụy tới mình hay không, vội vàng vừa hết sức thận trọng vừa tận tâm tận lực xử lý tốt tất cả các sự vụ. Chẳng những hắn cho xây dựng xong đài Nhị thập bát tú chỉ trong hai ngày đại quân quay về Đôn Hoàng, mà còn mạnh mẽ tuyên truyền câu chuyện “Địch Văn nhận được tiên nhân ban phúc” trong thành, động viên gần như nửa thành bách tính ra nghênh đón nàng.
Một nghi thức long trọng đã được tổ chức để đón Địch Văn vào thành.
Huyền Trang và Lý Thuần Phong dừng lại ngoài thành, nhìn cảnh tượng náo nhiệt này, than thở. “Lữ Thịnh có thể nhắm mắt rồi.”
Hai người nhìn nhau không nói được gì, đúng lúc này lại nghe thấy bên cạnh có người nói nhỏ. “Sư phụ!”
Huyền Trang và Lý Thuần Phong quay đầu sang nhìn, nhìn thấy Lý Thiền và Ngư Tảo cưỡi ngựa đi tới bên cạnh mình, Huyền Trang lập tức kinh ngạc. “Các ngươi sao dám đến đây? Không phải đã bảo các ngươi xuyên qua thành ma quỷ, đi đến Cao Xương và Yên Kỳ sao?”
“Sư phụ.” Lý Thiền mỉm cười. “Ta phải về Đại Đường.”
Huyền Trang ngẩn ra, Lý Diễm đã bị triều đình tuyên bố là phản nghịch, xóa bỏ tông tịch, phế làm thứ nhân, con nối dõi nhất định phải liên đới. Lúc này trở về sống chết khó liệu, cho nên hôm đó ở thành ma quỷ, Huyền Trang mới đề nghị bọn họ ra khỏi quốc cảnh.
“Sư phụ, thực ra ta đã nghĩ đến chuyện phải rời khỏi Đại Đường, nhưng nhìn thấy Vương Quân Khả bỏ nước trốn tội chết, cuối cùng chết ở thành ma quỷ, ta mới phát hiện ta không rời được Đại Đường. Bởi vì mẹ ta vẫn ở đó, các đệ đệ của ta vẫn ở đó, gốc gác của ta vẫn ở đó.” Lý Thiền cười, kéo tay Ngư Tảo. “Ta đã thương lượng với Ngư Tảo rồi, ta sẽ mang nàng dâu của ta trở lại Trường An, để mẫu thân nhìn con dâu của mình một cái. Cho dù người một nhà chết cùng một chỗ, chắc hẳn bà ấy cùng sẽ rất vui vẻ.”
Lý Thiền quay về phía cổng thành xa xa gọi. “Ngưu Thứ sử!”
Trong quân đội đang vào thành có một con ngựa quay đầu lại, phi nhanh ra, đi tới trước mặt mọi người, rõ ràng là Ngưu Tiến Đạt. Ngưu Tiến Đạt vẻ mặt âm trầm, chỉ nhìn Ngư Tảo. “Chất nữ, có chuyện gì?”
“Là ta gọi ngài,” Lý Thiền cười nói. “Không biết trong quân có xe tù không? Mời Ngưu công áp giải ta về kinh thành!”
“Không có!” Ngưu Tiến Đạt cuối cùng cũng nhìn hắn một cái, tức giận nói. “Mọi người đều không để ý đến ngươi, ngươi cho rằng là quên mất việc này sao? Chính mình không biết đường mà lẳng lẳng chuồn đi cho xong! Còn gây rối cái gì nữa hả?”
Ngư Tảo trầm tình nói, “Vậy xin Ngưu thúc thúc chế tạo một chiếc, áp giải chất nữ cùng lang quân về kinh thành.”
“Cháu…” Ngưu Tiến Đạt tức giận, nhưng không làm gì được. “Thập Nhị Nương, Bệ hạ lại không tuyên bố tội trạng của a gia cháu, bây giờ cháu vẫn là con gái của Bành Quốc công, ai dám áp giải cháu về chứ?”
“Nhưng cháu là con dâu nhà họ Lý,” Ngư Tảo nói. “Lâm Giang Vương phủ chịu liên đới, tất nhiên cũng có thể liên đới đến trên người cháu.”
Ngưu Tiến Đạt không biết nói sao, nhìn Lý Thuần Phong một cái. “Ngươi là mật sứ của Bệ hạ, ngươi quyết định.”
Lý Thuần Phong cũng có chút khó xử. “Ngưu công, ta quyết định cái gì cơ? Bên cạnh ngài có người sao? Tại sao ta không nhìn thấy?”
Hắn nhìn quanh một vòng, lại không nhìn về phía Lý Thiền. Ngưu Tiến Đạt bị hành động vô lại này của hắn làm cho trợn mắt há mồm.
“Cảm ơn thịnh tình của hai vị, ta cùng không làm hai vị khó xử nữa.” Lý Thiền cảm thấy trong lòng ấm áp. “Sư phụ, ta và Ngư Tảo sẽ tự trở lại Trường An đầu thú. Ngài ít ngày nữa sẽ phải tây du, lộ trình vạn dặm, ngài nhất định phải hết sức bảo trọng, nhất định phải quay về!”
Huyền Trang nhìn người đệ tử này của mình, trong lòng vô cùng buồn bã, lại có một cảm giác vui mừng. “Thế tử, ngươi cũng phải cố gắng bảo trọng cho tốt. Đúng như Lữ Thịnh nói, bất kể nhân gian này có khó khăn đến mấy, các ngươi đều phải nắm tay nhau vượt qua.”
“Con sẽ làm được, thưa sư phụ,” Lý Thiền nói.
“Nhất định phải sống, đợi ta tây du trở về, ta sẽ đến thăm ngươi,” Huyền Trang cười nói.
“Con chờ ngài, sư phụ.” Lý Thiền nói xong, cùng với Ngư Tảo nhảy xuống ngựa, cung kính khấu đầu với Huyền Trang, sau đó nhảy lên ngựa, thúc ngựa chạy về phía đông.
Huyền Trang đứng ở cổng thành nhìn theo rất lâu, trong đám người nhộn nhịp sớm đã không nhìn thấy bóng dáng hai người, nhưng ngài biết, rồi sẽ có một ngày chính mình còn có thể nhìn thấy bọn họ. Bởi vì bọn họ sẽ sống tiếp, đời này kiếp này hai bên sẽ không chia lìa nữa.
“Pháp sư, nếu ngài muốn xuất quan, không bằng mau đi đi. Các vị quan trưởng hai châu Qua, Sa đều đã đến Đôn Hoàng tế tự Nhị thập bát tú; bây giờ ngài lén xuất quan, mọi người đều có thể giả vờ không biết,” Lý Thuần Phong nói.
Ngưu Tiến Đạt liếc mắt nhìn hắn, không nói gì.
Huyền Trang cười. “Bần tăng còn phải vào trong thành tìm một người, hỏi một chuyện, sau khi hỏi xong bần tăng mới không còn có vướng mắc gì ở Đôn Hoàng này nữa, trên đường tây du sống hay chết cũng sẽ không cần phải để ý.”
Lý Thuần Phong không nói gì nữa, mời ngài cùng vào thành.
Huyền Trang đi vào phường Tu Văn trong thành con, lập tức cảm nhận được một sự quái dị, cũng không biết là ai chọn địa điểm, đài Nhị thập bát tú xây dựng trên một quảng trường rộng rãi đối diện với phán cung, cũng chính là châu học.
Có lẽ Đôn Hoàng coi trọng dạy văn, văn phong rất thịnh, xây dựng ở chỗ này có lẽ là để tụ tập khí của thiên địa linh tú.
Đài Nhị thập bát tú cao tới bảy thước, bên trái và bên phải đều có mười bốn bậc thềm đá, họp thành số hai mươi tám, bên trong đầm đất, bên ngoài xây bằng đá xanh. Ở dưới đài còn có một con kênh dẫn từ sông tới, chảy vòng quanh đài cao. Có điều lúc này kênh lại không có nước.
Bách tính Đôn Hoàng, quan chức ba châu và tám sĩ tộc lớn đã đứng đầy xung quanh đài cao. Địch Văn bước tới gần lư hương dưới đài Nhị thập bát tú, nàng châm hương sau đó giơ hương lên, nhìn tòa đài cao này, nước mắt không khỏi rưng rưng rơi xuống. Địch Văn lẩm bẩm cầu khẩn. “Đời người vì sao nhiều đường hẹp,
chỉ vì muốn độ cả đất trời. Âm dương nhất định đều mai phục, trời đất phải giấu đại sát lục. Khuê lang, tâm nguyện của chàng sắp hoàn thành rồi, chàng có vui vẻ không?”
Thôi Đôn Lễ cùng đi bên cạnh không nghe rõ, thấp giọng hỏi. “Huyện quân, vừa rồi ngài niệm cái gì thế? Không phải lời khấn đã chuẩn bị lúc trước.”
“Không có gì, mở van đầu rồng đi!” Địch Văn nói.
Tôn Tra Liệt bên cạnh la lớn. “Mở van đầu rồng, dẫn nước!”
Tiếng trống tùng tùng tùng đinh tai nhức óc, đám dịch đinh canh gác van cửa cống vặn đĩa van, mở van dẫn nước, nước từ trong sông cuồn cuộn tràn tới, lập tức tràn đầy kênh nước dưới đài cao. Địch Văn cầu khẩn xong, cắm hương vào lư hương. Bách tính cùng nhau hoan hô, xung quanh tiếng trống cùng vang lên, các tăng nhân xoay quanh đài cao xướng kinh làm phép.
Cảm giác bất an trong lòng Huyền Trang càng ngày càng nặng, đúng lúc này đột nhiên có người hét lên một tiếng kinh hãi, Huyền Trang vội vàng nhìn theo, thấy cả đài cao dường như hơi lắc lư một chút. Huyền Trang dụi mắt, lúc này càng nhiều người kêu lên sợ hãi, nhìn thấy mặt đất dưới đài cao chậm rãi nhô lên cao, dường như có quái thú to lớn sắp chui ên.
Mọi người kêu sợ hãi, tới tấp lui lại, một số bách tính thành kính thì lớn tiếng hoan hô, quỳ xuống đất rơi lệ. “Thần tiên sắp hiển linh rồi!”
“Không đúng, có nguy hiểm!” Lúc này một nô bộc nhà sĩ tộc sắc mặt tái mét. “Đập Đinh Gia ở Tây Quật cũng sụp xuống như vậy!”
Huyền Trang lập tức nhớ lại biến cố Tây Quật đêm hôm đó, đập Đinh Gia chắc chắn không hề có dấu hiệu báo trước chợt dâng lên rồi sụp xuống, dẫn đến nước sông Cam Tuyền xông đổ tháp bảy tầng, khiến tinh đồ của các sĩ tộc tự ý nghiên cứu thiên tượng lộ ra giữa ban ngày ban mặt.
Sắc mặt đám gia chủ sĩ tộc lập tức tái nhợt, đều nghĩ đến một khả năng.
Xao động dưới đất ngày càng lợi hại, mặt đất quay cuồng rồi dâng lên, cả đài Nhị thập bát tú ầm ầm sụp xuống, đất đá đổ nát cuồn cuộn rơi xuống theo. Mà trong đống đổ nát này, đột nhiên có sáu tấm bia đá chui lên, đứng vững trên đống đổ nát!
“Là bia mộ chí!” Trương Tệ hét to lạc cả giọng.
Những tấm bia đá này loang lổ cũ kĩ, vừa nhìn liền biết chính là đã chôn dưới đất không biết bao nhiêu năm. Huyền Trang ngơ ngác nhìn, trong lòng cũng đồng thời hiểu rõ.
Đám gia chủ còn chưa kịp tỉnh táo sau cơn khiếp sợ, bách tính bạo dạn đã lũ lượt kéo đến quan sát, có người kêu lên. “Đây là bia mộ chí của Âm thị!”
“Đây là của Phiếm thị bọn ta!”
“Là bia đá của tổ tiên! Không ngờ lại được thần linh đưa từ dưới lòng đất lên!”
“Điềm lành! Đúng là điềm lành cực lớn mà!”
Trong số những người ở đó có rất nhiều người họ Địch, họ Âm, họ Trương và họ Phiếm, nghe vậy đều mừng rỡ, tới tấp tràn đến quan sát. Đám gia chủ như vừa tỉnh cơn mơ, hét lên nhào tới ôm lấy bia đá, dùng thân thể mình để che kín.
Am Thế Hùng rống to. “Cút! Ai dám nhìn khoét mắt kẻ đó!”
Đám gia chủ thấy bia đá của tổ tiên cứ thế bị lộ ra trước mặt nghìn người vạn người, không nhịn được khóc lớn hết sức đau lòng, nhục nhã, sợ hãi và uất ức vô cùng vô tận dâng lên trong lòng.
Trong đám người hết sức hỗn loạn, ngay cả các quan chức như Thôi Đôn Lễ, Ngưu Tiến Đạt, Tôn Tra Liệt cũng đều kinh ngạc không thôi, hỏi thăm lẫn nhau. Lý Thuần Phong tự nhiên biết chân tướng chuyện này, hắn hiểu đây là đòn trả thù cuối cùng Lữ Thịnh để lại cho sĩ tộc! Lý Thuần Phong không nhịn được thoáng nhìn Huyền Trang một cái, lại phát hiện Huyền Trang đã không còn thấy bóng dáng, Địch Văn đang chủ trì lễ tế bên cạnh cũng không thấy đâu nữa.
Ngoài cổng tây Đôn Hoàng, Huyền Trang đang lẳng lặng đứng ở bên thành cừu ngựa. Lát sau có mấy người đàn ông dắt ngựa đi ra từ trong chợ cừu ngựa, một bóng người vóc dáng mảnh dẻ, mặc Hồ phục đàn ông, đầu đội mũ có mạng đi theo phía sau lưng họ. Người này nhìn thấy Huyền Trang thì khẽ nghiêng đầu, định đi vòng qua.
“Địch nương tử, bần tăng có lễ,” Huyền Trang khẽ chắp tay, nói.
Người đó im lặng một lát rồi bỏ mũ mạng xuống, quả nhiên chính là Địch Văn. Nàng nhìn Huyền Trang với vẻ mặt kinh ngạc. “Sao ngươi lại biết ta ở đây?”
“Từ lúc Địch nương tử xuống khỏi đài Nhị thập bát tú sau đó len vào trong đám người, bần tăng đã đi theo rồi!” Huyền Trang nói.
Lúc này mấy người đàn ông dẫn ngựa đi cũng dừng chân, đứng không xa không gần, ánh mắt lạnh lẽo quan sát Huyền Trang.
Địch Văn nói, “Thì ra pháp sư sớm đã theo dõi ta rồi, không biết có chuyện gì không?”
“Ta muốn biết, người kia là ai?” Huyền Trang nhìn nàng chằm chằm, nói từng chữ từng câu.
“Người kia nào?” Địch Văn kinh ngạc.
“Người thăng thiên mà đi trong thành ma quỷ đó, người thân thể hóa thành pháo hoa bươm bướm đó!” Trên nét mặt Huyền Trang lộ ra vẻ bi thương.
Địch Văn kinh ngạc. “Pháp sư, ngươi nói cái gì thế? Người đó là Lữ lang chứ ai!”
“Hắn thật sự là Lữ Thịnh sao?” Huyền Trang nói thương cảm. “Không, hắn không phải Lữ Thịnh!”
“Ngươi bị điên à?” Địch Văn cả giận nói. “Ngươi có biết ngươi đang nói cái gì không? Không phải Lữ Thịnh thì hắn là ai?”
“Ta không biết… Ta không biết hắn là ai…,” Huyền Trang nói. “Hắn đóng vai rất giống, gần như là không hề có sơ hở, vẻ mặt, giọng nói, động tác, thậm chí tình cảm, tất cả đều không hề có sơ hở, cho dù ở gần trong gang tấc ta cũng không nhìn ra. Nhưng ta biết đó không phải hắn.”
“Vì sao ngài lại nghĩ như vậy?” Địch Văn kinh ngạc.
“Trong thành ma quỷ, ta đã có một cảm giác quái dị không sao gạt bỏ được, đặc biệt là khi cung điện trên trời hiện ra dưới nhân gian, đó là hải thị thận lâu các ngươi cố ý xây dựng ra đúng không?” Huyền Trang nói. “Kì thực các ngươi ở trong thành ma quỷ chính là để diễn màn kịch này.”
Địch Văn cười lạnh lùng. “Hải thị thận lâu chính là do thiên địa hiển hóa thành, nhân lực làm sao có thể xây dựng được?”
“Nhân lực tự nhiên khó mà xây dựng được, nếu không làm sao khiến triều đình tin tưởng?” Huyền Trang nói lạnh nhạt. “Nhưng không phải hoàn toàn không thể xây dựng. Hải thị thận lâu thường được coi là do loài trai nhả khí biến thành, trên biển, trên cánh đồng tuyết, trong đại mạc dễ dàng xuất hiện ảo ảnh nhất, trước đó bần tăng cũng cho rằng là thế. Có điều bần tăng nghe nói ảo ảnh thường xuyên xuất hiện ở cùng địa diêm, hơn nữa thời gian xuất hiện cũng có quy luật để tính toán, bần tăng liền bắt đầu hỏi thăm các khách buôn trong thành, một số khách buôn người Hồ nói với bần tăng, bọn họ đã từng nhìn thấy ảo ảnh trong thành ma quỷ mấy lần, đều là vào giờ Mùi và giờ Thân buổi chiều, lúc này thường là thời điểm nắng gay gắt nhất, trong sa mạc nóng cháy nhất. Cho nên bần tăng liền nghĩ, ảo ảnh trong thành ma quỷ có lẽ có quy luật để lần theo, mà thành ma quỷ cách Ngọc Môn Quan gần nhất, sợ rằng ngươi và Lữ Thịnh sớm đã nắm rõ được quy luật xuất hiện của ảo ảnh.”
“Pháp sư.” Địch Văn không ngừng lắc đầu. “Trăng có khi tỏ khi mờ, cho dù thật sự có quy luật, cũng không phải là mỗi một ngày đều sẽ xuất hiện ảo ảnh, ta và Tứ Lang làm sao có thể xây dựng ra cảnh tượng như vậy?”
“Sau khi ngươi theo đại quân rút đi, ta đã vào sâu trong thành ma quỷ.” Huyền Trang mỉm cười. “Trong một vùng sa mạc trống trải, ta phát hiện thấy than đá bị chôn ở dưới cát, còn phát hiện có mấy chục lò than đốt than đá.”
Địch Văn kinh ngạc, đương nhiên nàng không lạ gì với than đá. Tây Vực có nhiều than đá, bởi vì củi đắt nên từ đời Hán đã có người đốt than đá sưởi ấm, nó cháy mạnh hơn, cũng bền hơn củi.
“Đó không phải một đống, mà là mấy trăm đến cả nghìn đống, than đá trải rộng trên mặt đất phạm vi mấy chục mẫu, sau khi đốt cháy lại dùng cát vùi xuống,” Huyền Trang nói. “Cho nên ta liền nhớ đến bách tính Lữ Thịnh phái đi từ Ngọc Môn Quan ngày ấy, sai Phổ Mật Đề bảo vệ bọn họ đi qua thành ma quỷ đến Yên Kỳ và Cao Xương. Đêm hôm đó bọn họ ở lại thành ma quỷ để trải than đá đúng không?”
Sắc mặt Địch Văn trở nên nghiêm nghị, lại không nói gì.
“Ngày ấy chúng ta nghe thấy cung điện trên trời truyền đến tiếng gọi của tiên nhân, hóa thành âm thanh của chúng sinh, kì thực đó chính là bách tính ẩn nấp trong thành ma quỷ lên tiếng gọi, cho nên âm thanh mới có người già, có trẻ con, có đàn ông, có phụ nữ,” Huyền Trang nói. “Lúc đầu bần tăng không hiểu, trải than đá đốt cháy có tác dụng gì, sau đó thỉnh thoảng ngồi dưới đất, nhìn thấy không khí gần sát mặt đất bốc hơi vặn vẹo, cảnh tượng xa xa dường như bị vặn vẹo chiết xạ, vì vậy cuối cùng mới hiểu được. Thì ra ảo ảnh chính là không khí trên dưới bị nóng không đều, phản xạ lại cảnh tượng xa xa mà có! Cát trên mặt đất bị mặt trời thiêu đốt, mà không khí bên trên lạnh hơn, vì vậy không khí sẽ xuất hiện sự vặn vẹo. Ngươi và Lữ Thịnh quan sát được nguyên lí này, liền có thể điều khiển ảo ảnh xuất hiện ở nơi ảo ảnh thường xuyên xuất hiện nhất. Nếu nó không xuất hiện, chẳng qua là mặt đất bị đốt nóng không đủ mà thôi, cho nên mới trải than đá được đốt cháy, đốt nóng mặt cát ở bên trên.”
Nói tới đây, Huyền Trang khẽ cười khổ. “Ngày đó Lý Thiền và Ngư Tảo cũng hộ tống bách tính đến thành ma quỷ, chắc hẳn bọn họ cũng tham dự đúng không? Đáng tiếc tên đồ đệ này của bần tăng lớn rồi, biết giấu sư phụ rồi, không ngờ lại biết giữ mồm giữ miệng.”
“Ngài nói những chuyện này ta không hề biết rõ, khi đó ta đang ở trong quân của Vương Quân Khả,” Địch Văn nói. “Hơn nữa người kia rốt cuộc là ai thì có quan hệ gì với ảo ảnh này?”
“Sở dĩ phân tích ảo ảnh này là bởi vì bần tăng thật sự không nghĩ ra mục đích của ngươi và Lữ Thịnh,” Huyền Trang cau mày nói.
Quả thật, dựa theo tâm nguyện của Lữ Thịnh, hắn xây dựng cung điện trên trời là bởi vì hắn sắp chết, muốn tăng thêm một tầng sắc thái thần thánh cho Địch Văn, giúp nàng có thể trở về gia tộc. Nhưng nếu như người chết trong thành ma quỷ không phải Lữ Thịnh mà là giả mạo, lí luận này sẽ không còn phù hợp nữa.
Địch Văn thở dài. “Vì sao pháp sư nhất định cho rằng người chết không phải Tứ Lang?”
“Bởi vì… hắn nói, rất hi vọng kiếp này có thể có một người bạn như bần tăng!” Hai mắt Huyền Trang đỏ lên, nói nhỏ. “Bần tăng và Lữ Thịnh đều biết, trong lòng hai người bọn ta đều sớm đã coi đối phương là bạn chí cốt, nhưng trước khi chết hắn lại nói ra những lời này.”
Địch Văn sửng sốt.
“Đó là sự tiếc nuối của một người trước khi chết! Dù hắn biểu diễn tốt đến mấy thì cũng sẽ có quyến luyến đối với tính mạng, cũng sẽ có cảm khái đối với cuộc đời, đây có lẽ là sự tiếc nuối sâu nhất trong lòng hắn. Đó chính là hắn không thể giống như Lữ Thịnh, có một người bạn như bần tăng, không thể có một người yêu như ngươi,” Huyền Trang nói.
Địch Văn cuối cùng không nhịn được nữa, bắt đầu nghẹn ngào.
“Rồi tới lúc hắn cùng ngươi từ biệt, lúc đầu các ngươi còn diễn theo đúng kịch bản đã đặt ra, có điều đến sau đó ngươi bộc lộ tình cảm, coi người này như Lữ Thịnh thật sự, nói ra nỗi đau khổ của ngươi sau khi hắn đi. Ngươi nói, ‘Đó không phải chúng ta’. Đúng, câu chuyện người đó kể quả thật không phải của ngươi và hắn, mà là của ngươi và Lữ Thịnh.”
Địch Văn im lặng hồi tưởng lại, đến tận lúc này, sự đau đớn khó tả trong lòng nàng vẫn còn nguyên. Nếu hắn đang ở trước mặt, nàng vẫn muốn nói với hắn, rằng “Suốt cuộc đời còn lại thiếp sẽ không thể chạm được tới chàng nữa, nửa đêm thiếp giật mình tính lại sẽ không còn có ai an ủi thiếp, khi thiếp cô đơn lạnh lẽo cũng không còn có ai làm bạn, cho dù thiếp có đi khắp nhân gian cũng không thể tìm được dấu vết của chàng…”.
“Câu này khiến phòng tuyến trong lòng người đó triệt để sụp xuống, hắn nói, hắn không làm được!” Huyền Trang cuối cùng rơi lệ. “Hắn không làm được cái gì? Hắn không làm được việc giả mạo Lữ Thịnh, để chính mình bị chết cháy! Hắn khẩn cầu ngươi đừng tiếp tục kích thích tình cảm của hắn nữa, hắn sẵn sàng chết, nhưng hắn không muốn đau khổ như thế trước khi chết. Hắn khẩn cầu ngươi đừng chém hắn đầy rẫy thương tích nữa. Địch nương tử, bởi vì hắn yêu ngươi. Nhưng hắn chưa hề nói ra miệng, hắn giấu tình yêu này ở dưới đáy lòng, cho dù đến lúc chết cũng chưa từng nói ra, bởi vì hắn biết, phương thức yêu ngươi duy nhất của hắn chính là làm Lữ Thịnh để chết đi.”
Địch Văn bật khóc nức nở. “Pháp sư, ta nói với hắn, ta hối hận rồi!”
“Nhưng hắn không hối hận,” Huyền Trang nói. “Câu này của ngươi khiến hắn vui mừng cực độ, cho nên hắn nói với ngươi, đến chết hắn vẫn không hối hận. Bởi vì ngươi không nỡ rời hắn.”
Địch Văn khóc hu hu, dường như người kia vẫn ra sức chạy về phía trước trước mắt nàng, da dẻ trên người hắn nứt ra từng mảng, bốc lên ngọn lửa, hắn hóa thành pháo hoa, hóa thành bươm bướm. Địch Văn dường như hơi thẫn thờ, chính mình ở trong mơ của cánh bướm đó, hay là chính mình nhìn thấy cánh bướm đó trong mơ?
“Địch nương tử.” Huyền Trang hít một hơi thật sâu, hỏi. “Lữ Thịnh ở đâu? Vi sao hắn phải để người khác giả mạo hắn? Có phải ngươi đang đi gặp hắn hay không?”
Địch Văn cúi đầu thoáng nhìn trang phục trên người, như khóc như cười. “Pháp sư, Lữ Thịnh chết rồi.”
Huyền Trang ngây như phỗng, ngài vẫn cho rằng Địch Văn mặc Hồ phục như vậy là muốn đi gặp Lữ Thịnh, lại hoàn toàn không nghĩ rằng Lữ Thịnh lại đã chết rồi!
“Hắn chết rồi…” Huyền Trang nói nhỏ. “Bao giờ?”
“Ba năm trước,” Địch Văn nói.
Huyền Trang triệt để ngây người. “Không… Không thể thế được… Chẳng lẽ Lữ Thịnh ta nhìn thấy thời gian này…”
“Đúng vậy, vẫn đều là người kia.” Địch Văn nói thê lương. “Ba năm nay, Lữ Thịnh ngày ngày ta nhìn thấy cũng là người kia.”
“Rốt cuộc chuyện này là sao? Lữ Thịnh chết thế nào?” Nước mắt Huyền Trang như suối tràn.
Địch Văn ngơ ngẩn đi tới bên sông hộ thành, dưới kênh rộng rãi, ánh sáng rực rỡ hắt lên trên mặt nàng, dường như cả người đều trở nên mông lung.
“Đó là ngày mười chín tháng Tám năm Vũ Đức thứ chín, giờ Tuất hoàng hôn, thời khắc quan trọng nhất trong cuộc đời ta sắp đến. Lúc ấy ta ngồi ở trong xe dâu, được Hiệu úy Lệnh Hồ Chiêm anh tuấn nhất, trẻ tuổi nhất thành Đôn Hoàng cưới về. Ta chưa gặp Lệnh Hồ Chiêm mấy lần, nhưng ta vẫn cho rằng đây là đích đến tốt nhất của mình. Bởi vì Địch thị và Lệnh Hồ thị có hơn sáu trăm năm thế giao, đều là sĩ tộc Hà Tây, trai tài gái sắc, đây là cuộc hôn nhân cả Tây Sa Châu đều hâm mộ. Người khác cũng hâm mộ, đây không phải là tốt nhất hay sao?”
Địch Văn thấp giọng nói, như đang nói cho Huyền Trang nghe, lại như là đang đắm chìm trong hồi ức vô biên.
“Cuộc đời ta đích xác đã thay đổi vào tối hôm đó, nhưng không phải làm dâu mới, mà là bị một con Thiên Lang bắt đi, bay lên trên trời. Lúc ta tỉnh lại đã ở trong sa mạc, trước mắt là một con sói lớn lông lá, vừa như một người lông lá. Hắn khoác quần áo của người, trên người đều là lông sói. Ta sợ, kêu khóc, liều mạng chạy trốn, nhưng trong sa mạc vô biên, rất nhanh đã bị hắn bắt lại.
Lúc này ta mới biết, con quái vật nói mình là Khuê Mộc Lang này rõ ràng lại chính là Lục sự tham quân Tây Sa Châu Lữ Thịnh. Lữ gia đã từng đến phủ nhà ta cầu thân, nhưng bị cự tuyệt.
Ta từng cố ý đến nhìn hắn từ xa xa, thấy hắn hào hoa tuyệt thế, tài hoa hơn người, nghe nói Thái thượng hoàng còn gọi hắn là ‘Đại Đường vô song sĩ, Vũ Đức đệ nhất nhân’, nhưng tại sao bây giờ lại trở thành một quái vật nửa người nửa sói? Tứ Lang cười lạnh, kể cho ta nghe quá trình mình bị đám sĩ tộc cải tạo thành người sói, ta bị chấn động rất lớn, thì ra a gia và Lệnh Hồ gia lại làm ra chuyện kinh khủng như vậy! Ta đột nhiên có một sự thương xót đối với người đàn ông này, nhưng nhiều hơn là sự sợ hãi, nhà ta và hắn có thù, hắn sẽ đối xử với ta thế nào?
Trong thời gian sau đó, Tứ Lang bị sĩ tộc và quân đội vây quét đuổi giết. Hắn mang ta đi trốn, có lúc nổi điên giết người, có lúc chạy trối chết. Trong một lần vây quét, bộ khúc sĩ tộc loạn tiễn cùng bắn, có một mũi tên bắn về phía ta. Ta kêu lên sợ hãi, Tứ Lang lao tới đè lên trên người ta, ngăn cản mũi tên ấy.
Tứ Lang giết sạch đám bộ khúc kia, lệnh ta giúp hắn nhổ mũi tên băng bó, sau đó dẫn ta lảo đảo chạy trốn. Trên đường ta hỏi, vì sao không để ta chết? Hắn hung tợn nói, hắn phải dùng ta để trả thù Địch thị.
Hắn bị thương rất nặng, trong một vùng sa mạc, cuối cùng hắn không chống đỡ được nữa, ngã xuống đất. Ban đêm trong sa mạc rất lạnh, hắn bị sốt cao, khi thì tỉnh lại, khi thì hôn mê, trọn một đêm vẫn nói lảm nhảm. Hắn khóc trong mơ, khóc phụ thân mình, khóc các huynh trưởng của mình, còn khóc cho lí tưởng của chính mình năm đó. Hắn đối thoại với họ, muốn đi theo bọn họ, nói nhân gian này không còn gì quyến luyến.
Đầu óc hắn dường như đã hồ đồ vì sốt cao, giống như nổi điên muốn xé da sói trên người, lại đau đến mức kêu khóc như xé rách tim gan, cuối cùng hôn mê. Ta cho rằng đó là cơ hội chạy trốn, ta liều mạng chạy trong sa mạc, chạy đến lúc ười sáng, cuối cùng phát hiện một đội buôn trong sa mạc. Ta muốn đến kêu cứu, cuối cùng lại không đành lòng vứt bỏ hắn đợi chết trong sa mạc. Ta dùng một cây trâm cài đầu đổi lấy thảo dược và nước uống từ chỗ đội buôn đó, lại chạy về cứu sống hắn.”
“Vì sao ngươi phải cứu hắn?” Huyền Trang không nhịn được hỏi.
“Đúng vậy, vì sao ta phải cứu hắn?” Địch Văn nói lẩm bẩm. “Sau khi tỉnh lại, Tứ Lang cũng hỏi ta như vậy, vì sao phải cứu hắn? Ta nói ta tin Phật, ta tin tưởng tất cả mọi chuyện làm ở nhân gian đều có thần Phật ở trên trời nhìn thấy.
Tứ Lang không nói gì nữa, dẫn ta tiếp tục đi, đi tới Ngọc Môn Quan. Khi đó trong Ngọc Môn Quan có hơn mười tên thổ phỉ Đột Quyết chiếm cứ, hắn dùng một loại thực vật không biết tên nghiền thành bột, ngậm trong miệng, sau đó phun ra lửa. Hắn nói mình là Khuê Mộc Lang trên trời hạ phàm, còn bọn chúng chính là tùy tùng đi theo hắn hạ giới, gọi là tinh tướng. Đám thổ phỉ kia bị khuất phục, từ đó răm rắp nghe lời hắn.
Tin tức thần linh chiếm Ngọc Môn Quan chậm rãi truyền đi, vô số đào dân các nước bốn phương lũ lượt đến đi theo hắn, phép thuật của hắn càng ngày càng hoàn thiện, thần thông thi triển càng ngày càng mạnh, nhưng hắn càng ngày càng đau khổ. Có lúc hắn mặc vào quần áo sang trọng, tao nhã lịch sự, có lúc lại cởi tất cả quần áo, lộ ra thân sói lông lá. Hắn có hai bộ vuốt sói bằng thép sắc bén, sau đó lại vẽ sơ đồ, thiết kế những thứ phức tạp hơn như vuốt chân sau của sói, dùng xương trắng ghép thành đầu sói, đều sai người cầm đến Đôn Hoàng tìm người chế tạo. Hắn còn may túi da sói giấu ở hai sườn và trước bụng, thay đổi hình dạng thân thể, làm cho chính mình thoạt nhìn giống một con sói lớn hơn.
Có lúc hắn khôi phục thành Lữ Thịnh, yên tĩnh chỉnh sửa Tam tự thư của mình; có lúc giữa đêm khuya lại đột nhiên chửi mắng, hóa thành một con sói chạy trên tường Ngọc Môn Quan, hú lên dưới trăng sáng trên đại mạc. Khi đó ta cực kì sợ hãi, không biết hắn sẽ đối xử với ta thế nào, nhưng hắn chưa từng xâm phạm ta bao giờ; lúc hắn là Lữ Thịnh, tất nhiên hắn lạnh nhạt với ta, nhưng rất nho nhã lễ độ; thời điểm hắn biến thành sói dữ liền đuổi ta tới ngôi nhà nhỏ dưới ụ khói lửa ấy, còn hắn thì tránh xa ta.” Địch Văn nói thê lương. “Nhưng ta biết hắn vẫn hận ta, rất nhiều lần lúc ban đêm, ta phát hiện hắn hóa thành hình dạng sói, nhẹ nhàng lẻn vào trong phòng ta, ngồi bên cạnh ta nghiến răng, nói muốn xé xác ta. Ta không dám nói lời nào, liều mạng làm cho chính mình giả vờ ngủ, ngay cả run rẩy cũng không dám.”
“Quả thật là chứng mất hồn!” Huyền Trang than thở. “Hắn thật sự không chịu nổi đau khổ chính mình gặp phải, nhưng đạo đức và sự tự hạn chế trong lòng hắn khiến hắn không thể dựa vào việc làm hại một cô gái yếu đuối để đạt được thỏa mãn.
Hắn phân liệt chính mình thành Khuê Mộc Lang và Lữ Thịnh. Một hung dữ tàn nhẫn, yêu ma giáng trần, một hiền lành nho nhã, như công tử hào hoa trong thành Trường An. Hán chuyển toàn bộ ác niệm và cực khổ sang người Khuê Mộc Lang hung tàn, còn chính mình giữ lại thiện ý lớn nhất của nhân thế.”
“Đúng vậy!” Nước mắt Địch Văn rơi lã chã, nàng nghẹn ngào nói. “Hắn cũng biết không thể khống chế được chính mình, nên đã quyết định đưa ta về nhà.”
“Hắn đã đưa ngươi về nhà rồi?” Huyền Trang cảm thấy rất chấn động, biết những cực khổ Lữ Thịnh gặp phải mới biết hắn đưa ra quyết định này gian nan thế nào. Vị ‘Trường An vô song sĩ’ năm ấy lấy hạnh phúc của thiên hạ làm nhiệm vụ của mình này, trong trạng thái phân liệt lại vẫn có thể giữ được giới hạn, không muốn phạm phải sai lầm, trút những oán hận của mình lên người của một cô gái yếu đuối!
“Hắn đã đưa ta về nhà, nhưng ta lại quay lại,” Địch Văn chảy nước mắt, lại cười nói.
“Vì sao?” Huyền Trang kì quái.
“Thừa dịp chính mình khôi phục thành Lữ Thịnh, hắn đích thân đưa ta đến thành Đôn Hoàng, nhưng là về đến Đôn Hoàng mới biết, a gia ta và Lệnh Hồ thị đã tuyên bố ta chết rồi.” Địch Văn cười nói thê lương. “Khi ta ngày đêm sợ hãi không thôi, điều người nhà thân thiết nhất của ta nghĩ không phải là cứu ta thế nào, mà là che giấu việc này, vãn hồi danh dự của gia tộc.”
Huyền Trang lập tức hiểu ra. Trên thực tế cũng đích xác như thế, lúc ngài mới tới Đôn Hoàng, bất kể là Địch Pháp Nhượng hay là Địch Xương, Lệnh Hồ Đức Mậu, đều nói với ngài Địch Văn đã bị Khuê Mộc Lang giết. Chỉ có Lệnh Hồ Chiêm vẫn nghi ngờ, bất chấp tất cả quyết chiến Khuê Mộc Lang, phải tìm được thi thể nàng để chứng thực.
Huyền Trang im lặng thở dài.
“Ta triệt để tuyệt vọng với gia tộc, thế là chủ động theo Tứ Lang trở lại Ngọc Môn Quan,” Địch Văn nói. “Tứ Lang còn không muốn cho ta về cùng, nhưng khi đó ta có thể đi đâu? Thiên hạ rộng lớn, ta đã là một người chết. Ta nói ta có thể nấu cơm, có thể chẻ củi, có thể chăn ngựa, có thể may quần áo, sau đó Tứ Lang nói, là kĩ năng cuối cùng đã khiến chàng đổi ý.”
Địch Văn cười ấm áp. “Tại Ngọc Môn Quan, bệnh tình của Tứ Lang lúc nào cũng có thể phát tác, bởi vì lúc chàng bị dán da sói, tà độc đã xâm nhập vào trong người, trên người thường xuyên thối rữa rồi sốt cao. Ta liền đi theo chàng, giúp chàng sắc thuốc và lau mồ hôi, nhìn dáng vẻ đau khổ của chàng, ta thật sự rất áy náy, rất đau lòng. Sau đó ta liền ở bên cạnh chàng, ta nói ta muốn làm bạn với chàng suốt đời. Chàng nói mình không còn sống được bao lâu nữa, ta nói được bao lâu thì được thôi.”
“Thì ra là thế.” Huyền Trang thở dài. “Đây thật sự là một mối oan nghiệt.”
“Oan nghiệt sao? Ta cho rằng đó là duyên phận, chàng là người yêu tốt nhất mà trời cao đã ban cho ta,” Địch Văn nói. “Khi ấy chàng vẫn phải chịu nỗi khổ phân liệt rất sâu, ban ngày là Khuê Mộc Lang, buổi tối có lúc biến thành Lữ Thịnh, hoặc ngược lại, không hề có quy luật. Lúc chàng hóa thân Khuê Mộc Lang, ta đi làm việc giúp bách tính trong quan; khi chàng biến trở về thành Lữ Thịnh, bọn ta liền cưỡi ngựa cùng nhau ngắm sao trên trời, đi khắp đại mạc rồi tới tuyết sơn. Hai chúng ta sống trong tiêu viện gần ụ khói lửa, ta dọn dẹp phòng và nấu cơm canh, chàng chẻ củi gánh nước, sống cuộc sống vui vẻ đầm ấm. Mỗi khi chàng cảm giác mình sắp biến thân sẽ vội vã chạy trở về động phủ trong chướng thành, khi đó ta sẽ đứng ở cửa tiễn chàng, như là một người vợ nhỏ tiễn chồng đi xa.”
Huyền Trang đột nhiên nhớ lại cảnh tượng ban đầu khi mới đến Ngọc Môn Quan, xem ra đó không phải Lữ Thịnh và Địch Văn diễn kịch cho mình xem, mà là cuộc sống hàng ngày của bọn họ. Trong lòng Huyền Trang đột nhiên cảm thấy rất đau xót.
“Nhưng trong lòng Tứ Lang càng ngày càng đau khổ, chàng cùng Lý Thực âm thầm vạch kế, muốn diệt hết sĩ tộc. Bọn họ định ra kế hoạch chu đáo tỉ mỉ, sắp xếp Lữ Sư Lão làm người kể chuyện đến Đôn Hoàng, sắp xếp Lữ Ly làm đạo sĩ vân du tiếp cận Vương Quân Khả, chôn đá nở dưới đập Đinh Gia ở Tây Quật, chuẩn bị dẫn nước sông Cam Tuyền làm sụp tháp bảy tầng, lại chôn bia mộ chí trên quảng trường phán cung…”
“Đá nở là cái gì?” Huyền Trang hỏi.
“Là một loại…” Địch Văn suy nghĩ một lát. “Là một loại đá giống như thạch anh, không hoàn toàn trong suốt, hơi ố vàng, loại đá này nghiền thành bột, một khi gặp nước sẽ nở ra kịch liệt. Người phá núi khai thác đá thường dùng thứ này đổ vào khe đá để làm vỡ đá. Tứ Lang và Lý Thực chở mấy xe ngựa chôn ở đập Đinh Gia và dưới đất phán cung.”
Huyền Trang bàng hoàng tỉnh ngộ, thảo nào vừa mới dẫn nước vào kênh, mặt đất đã bắt đầu rung động, làm sụp đổ đài Nhị thập bát tú, đẩy bia mộ chí trồi lên trên mặt đất.
“Những kế hoạch này đều là Lữ Thịnh bố trí sao?” Huyền Trang không thể tưởng tượng nổi.
“Đúng, bao gồm lợi dụng vai diễn của lão đạo sĩ Hầu Ly, gợi lên dã tâm của Vương Quân Khả, để hắn thông hôn với Trương thị, cuối cùng từng bước dụ dỗ hắn mưu phản, kéo sĩ tộc dính dáng vào. Những kế hoạch này tất cả đều được chàng đưa ra từ ba năm trước, ước mơ của chàng chính là cho sĩ tộc sự trả thù tàn khốc nhất, làm cho họ thân bại danh liệt, cửa nát nhà tan,” Địch Văn nói.
Huyền Trang thở dài một hơi, Lữ Thịnh mặc dù không muốn làm hại Địch Văn, đó chỉ là hắn không muốn phát tiết thù hận trên người một phụ nữ, lại không hề có nghĩa hắn bỏ qua cho sĩ tộc. “Nhưng bần tăng vẫn có một nghi vấn. Những kế hoạch này đều là ba năm trước đã định ra, vì sao phát động muộn như vậy? Trước khi bần tăng đến Đôn Hoàng cũng mới bắt đầu không được bao lâu.”
“Bởi vì kế hoạch còn chưa phát động, Tứ Lang đã chết rồi!” Địch Văn nghẹn ngào.
Huyền Trang mấp máy môi, không biết nên nói gì, trong lòng ngập tràn một nỗi bi thương to lớn.
“Tại Ngọc Môn Quan, chàng ngày đêm bị tà độc trong cơ thể hành hạ, thân thể chàng từ từ suy yếu, vì báo thù, chàng nghiên cứu chế tạo dược vật, kích thích thân thể của mình, kết quả làm ra loại quái vật như tinh tướng. Chàng giảm bớt liều thuốc, làm cho chính mình trở nên lực lớn vô cùng, các năng lực đều vượt xa nhân loại, nhưng những dược vật đó cũng đang tàn phá thân thể chàng, vẻn vẹn mấy tháng, chàng đã dầu cạn đèn khô!” Địch Văn nói. “Chàng biết tuổi thọ của mình không còn nhiều, tâm tư báo thù liền chậm rãi nhạt đi, chàng vứt bỏ hết thảy, mỗi ngày mỗi đêm ở bên ta, dường như muốn cùng ta sống hết những năm tháng của một đời trong thời gian ngắn ngủi này. Nhưng điều chàng sợ hơn là, chàng chết rồi, ta làm thế nào? Chàng từng nghĩ vô số phương pháp, chàng không muốn để ta ở lại Ngọc Môn Quan, bởi vì sau khi chàng chết, Ngọc Môn Quan nhất định sẽ bị người ta tiêu diệt.
Chàng cũng không muốn đưa ta đến Tây Vực và Trung Nguyên, bởi vì ở đó ta không có người thân quen, không có chỗ dựa dẫm.
Chàng thường xuyên giật mình tình lại lúc nửa đêm, rơi nước mắt nói với ta, rằng ‘Văn Nhi, ta nên giúp nàng thế nào đây?’.”
Huyền Trang thở dài, dường như trước mắt có thể nhìn thấy dáng vẻ Lữ Thịnh đau khổ lo âu lúc bệnh nặng hấp hối. Hắn giống như Sở Bá Vương bên cạnh dòng Ô Giang, đến bước đường cùng, dù không màng sống chết nhưng lại bi thương thở dài với Ngu Cơ của mình, biết làm thế nào đây?
“Đúng như người kia nói với ngài ở thành ma quỷ, Tứ Lang muốn sắp xếp cho ta một cuộc đời tương lai tuyệt đối tự do và tuyệt đối hạnh phúc; cơm áo, an toàn, danh dự, tình thân và giao thiệp, tất cả đều không thể thiếu. Cuối cùng chàng nói, lựa chọn duy nhất chính là đưa ta trở về gia tộc,” Địch Văn vừa khóc vừa nói.
Huyền Trang biết, ở thành ma quỷ, người kia đóng vai Lữ Thịnh, tất cả những gì hắn nói đều là chân thực, tình cảm cũng là chân thành, chỉ có điều câu chuyện chân thực xảy ra từ hai năm rưỡi trước, lúc Lữ Thịnh bệnh nặng nguy kịch, dầu cạn đèn khô.
Địch Văn lau nước mắt, tiếp tục nói, “Chàng từ bỏ kế hoạch trả thù sĩ tộc, sau đó lại gửi cho Hoàng đế một bức mật hàm, nói với Hoàng đế, lúc chính mình trở về thiên đình, có thể làm cho thiên đình và Thái Thượng Lão Quân hiện ra ở nhân gian, điều kiện chính là triều đình cung cấp cho ta cơm áo và an toàn cả đời.”
Huyền Trang nói nhỏ. “Khi đó hắn cũng dự định tạo ra ảo ảnh, nuốt vào ánh sáng đom đóm, làm cho chính mình tan rã trong ngọn lửa?”
“Đúng vậy!” Địch Văn nói nhỏ. “Chàng muốn lấy cái chết như thế đổi lấy một đời bình an cho ta, để ta được triều đình phong tặng. Sau đó chàng mua chuộc Triệu hội thủ, bịa ra câu chuyện Tử Dương chân nhân tặng thiên y để chứng minh ta trong sạch, lại an bài Lữ Sư Lão kể chuyện Khuê Mộc Lang và thị nữ điện Phi Hương, để người đời cho rằng nghiệt duyên của bọn ta là một tình yêu thê lương đẹp đẽ giữa thần linh trên trời.
Chàng nói, chàng sợ nhất chính là người thân và bách tính khinh bỉ ta, lạnh nhạt với ta, xem thường ta. Chàng nói người phụ nữ chàng yêu nhất không thể bị người khác khinh thường dị nghị dù chỉ là một chút xíu, chàng phải làm cho ta sống vui vẻ thoải mái, đường đường chính chính giữa thế nhân.”
Nói tới đây, Địch Văn khóc lớn hết sức đau lòng. Huyền Trang không khuyên nàng, trên thực tế trong lòng ngài cũng vô cùng buồn bã, không thể nguôi ngoai.
“Sau đó thế nào?” Huyền Trang đợi nàng khóc xong mới chậm rãi hỏi.
“Sau đó chàng không đợi được Hoàng đế trả lời. Vừa gửi mật hàm đi không bao lâu, trong một đêm nọ, chàng đã dầu cạn đèn khô.” Ánh mắt Địch Văn trở nên ngơ ngẩn. “Trước khi chết, chàng nắm lấy tay ta, nói, ‘Nàng phải sống, phải sống thật đặc sắc. Cuộc đời của nàng càng vui vẻ, sau khi chết ta càng yên tâm. Ta đáp ứng chàng, ta muốn chàng có thể yên tâm trở lại trên trời, không còn phải dính dáng gì đến nhân gian nơi làm cho người ta căm thù này nữa.”
“Cho nên…” Huyền Trang nói nhỏ.
“Cho nên ta phải lần lượt thực hiện mọi tâm nguyện mà chàng chưa làm xong khi còn sống!” Địch Văn đột nhiên biến đổi sắc mặt, trong ánh mắt tràn ngập vẻ sắc bén ép người, nói từng chữ từng câu.
“Ta lại một lần nữa tính toán mỗi một kế hoạch của chàng, phá đập Tây Quật, kích động Vương Quân Khả, đàm phán với Hoàng đế, nuôi cấy minh trùng thiên y, sắp đặt nội ứng tại Thanh Đôn Thú… Chỉ có đến lúc trả thù Địch thị, ta không đành lòng, liền lấy xá lị Phật làm Địch Pháp Nhượng phá sản, buộc ông ta tự tử. Bởi vì năm đó người gây áp lực với a gia ta, bức tử phụ thân của Lữ Thịnh chính là Địch Pháp Nhượng. Ông ta là kẻ đầu sỏ của mọi chuyện.” Vẻ mặt Địch Văn rất bình tĩnh, dường như đang nói về một chuyện không liên quan gì đến mình. “Có điều cuối cùng lúc kích động Vương Quân Khả mưu phản không khống chế tốt, không ngờ hắn lại có ý đồ khác, đầu độc Lý Diễm mưu phản, chính mình cướp lấy công lao. Ôi, nếu Tứ Lang vẫn còn, tất nhiên sẽ làm tốt hơn ta nhiều.”
Huyền Trang nhìn nàng một hồi lâu không nói được gì, ngài không ngờ một loạt đại sự ấy, người thật sự giật dây sau màn lại là người phụ nữ này. Như vậy còn chưa đủ tốt? Những người ngã xuống dưới mưu kế của nàng sợ rằng phải xấu hổ mà chết mất.
“Người kia là ai?” Huyền Trang thấp giọng hỏi.
Địch Văn nói, “Hắn là một người anh em họ có tướng mạo tương tự Tứ Lang mà ta tìm được trong số họ hàng lưu vong của Lữ thị, sau đó tiến hành hóa trang, giả mạo thành chàng.”
“Thì ra là thế!” Huyền Trang khiếp sợ nhìn Địch Văn. “Vì sao ngươi phải làm như vậy?”
“Bởi vì ta muốn để Tứ Lang sống lại một lần nữa, tự tay hoàn thành tất cả mọi tâm nguyện của chàng!” Địch Văn trầm giọng nói. “Lữ thị lưu vong vốn đã tràn ngập thù hận, lập tức dốc toàn lực để ủng hộ kế hoạch của ta. Người bọn họ tìm được có cùng huyết thống với Tứ Lang, ngoại hình cực kì giống nhau, sau khi ta hóa trang cho hắn vẫn cứ ngỡ như Lữ Thịnh đã thực sự sống lại. Hơn nữa để giống như thật, ta còn bắt chước quá trình Tứ Lang bị dán da sói năm ấy, cũng dán da sói lên trên người kẻ đó!”
“Ngươi điên rồi sao?” Huyền Trang triệt để kinh ngạc ngây người, người phụ nữ trước mặt này không ngờ lại điên cuồng đến mức đó! Đây là chấp niệm đối với tình yêu hay là thù hận trào dâng trong lòng?
“Ta không điên, đây là yêu cầu chung của Lữ thị lưu vong, cũng là người đó chủ động thỉnh cầu, bởi vì ngày chân tướng rõ ràng, hắn muốn làm cho người trong cả thiên hạ này nhìn thấy đám sĩ tộc kia đã hãm hại và hủy hoại một vị Trạng nguyên Đại Đường như thế nào!” Địch Văn nói. “Cũng chính vì vậy ta mới mặc thiên y lên người ngài, bởi vì ta nghĩ, nếu như người bạn tốt nhất của chàng kiếp này cũng hiểu lầm chàng phản quốc bị giết giống như người đời, chàng nhất định sẽ rất khó chịu. Trước lúc lâm chung chàng vẫn không quên lí tưởng năm ấy giờ đã không thể nào thực hiện, ta nghĩ mời ngài tới chứng kiến cuộc đời của chàng, có lẽ chàng sẽ rất vui mừng!”
Huyền Trang không biết nên nói gì, thù hận ẩn trong lòng kẻ báo thù khiến toàn thân ngài lạnh buốt, còn cuộc đời thê lương của Lữ Thịnh lại làm cho ngài không biết nên phán xét thế nào về những người đã hủy diệt Lữ Thịnh.
“Người kia… tên là gì?” Cuối cùng Huyền Trang hỏi.
“Hắn không có tên. Hắn nói mình chính là cái bóng của Lữ Thịnh, bảo ta gọi hắn là Vô Danh.” Địch Văn đáp.
Huyền Trang thở dài, ngài đương nhiên hiểu ý kẻ đó.
Vô, là tên của khởi đầu thiên địa. Hữu, là tên của mẹ vạn vật. Đây là đại đạo của thế gian.
Phận làm con, chỉ sợ không nghe lời, không sợ vô danh. Đây là cuộc báo thù cho thế hệ trước.
Gửi mạng trong nhà người khác, chôn xác dưới mộ vô danh. Đây là làm cái bóng của người khác.
“Được rồi, pháp sư.” Địch Văn nói thản nhiên. “Tiền căn hậu quả đều đã nói hết, chuyện Tứ Lang phải làm ta đã lần lượt làm xong giúp chàng. Chàng đã trả thù sĩ tộc, tẩy sạch oan khuất, lại làm cho ta nhận được phong tặng của triều đình, trở về gia tộc, chàng không còn tiếc nuối gì trên thế gian này nữa.”
Địch Văn xoay người định đi.
Huyền Trang vội vàng hỏi. “Ngươi định đi đâu?”
“Tất nhiên là đi sống cuộc đời tự do nhất và vui vẻ nhất của ta. Không phải ta đã đáp ứng chàng rồi sao? Phải giúp ta khai ngộ, sống cuộc đời tự do tự tại và vô câu vô thúc, phải sống vui vẻ hơn cả lúc chàng đang còn sống!” Địch Văn mỉm cười nói.
Huyền Trang lập tức ngượng ngùng. Lời nói dối này vẫn khiến ngài thấy canh cánh trong lòng. Cho dù ngài muốn giúp, nhưng bây giờ Địch Văn đã ngửa tay làm mây, úp tay làm mưa, thay thế Lữ Thịnh đùa giỡn khắp ba châu quận, tám sĩ tộc lớn và vô số đế vương danh tướng trong lòng bàn tay, đâu cần ngài đến giúp nàng khai ngộ nữa?
“Nhưng có một điểm Tứ Lang không hiểu ta. Điều khiến ta vui vẻ nhất không phải là trở về gia tộc, làm một oán phụ sống nốt quãng đời còn lại trong nơi thâm trạch. Chàng sớm đã cho ta cuộc đời tốt nhất rồi.” Đột nhiên Địch Văn huýt một tiếng sáo, bên sông hộ thành lặng lẽ có mười mấy con tuấn mã chạy ra, trong số những người cưỡi tuấn mã là Phổ Mật Đề và năm tên tinh tướng, còn lại đều là lang binh Ngọc Môn Quan.
Phổ Mật Đề dắt một con ngựa không người cưỡi tới, cung kính đưa đầu sói xương trắng của Lữ Thịnh cho nàng. Địch Văn thành thạo mở ra, đội lên trên đầu, bỗng nhiên hóa thành một con sói lớn dữ tợn! Địch Văn phi thân lên ngựa, cười ha hả, hóa thành tiếng vọng Ồm Ồm trong miệng sói khổng lồ. “Pháp sư, trên đường tây du, khi ngài nghe nói có một Thiên Lang đang tung hoành đại mạc, hú vang trăm nước, đó chính là Khuê Mộc Lang đã trở về đấy!”
Hai chân nàng kẹp bụng ngựa, con chiến mã đó lập tức phi nhanh. Các tinh tướng và lang binh theo sát phía sau nàng, mười mấy con chiến mã phi ầm ầm, gào thét mà đi.
Huyền Trang thoáng nhìn thành Đôn Hoàng hùng vĩ cổ xưa, lại nhìn cát bụi cuồn cuộn chạy đi, giống như sử xanh cuồn cuộn không ngừng, ầm ầm mà đến. Sử xanh như bút, hồng trần như đao, chém hết tất cả các anh hùng hào kiệt, mài mòn ngạo khí của bậc đế vương.
Bên tai ngài dường như lại nghe thấy tiếng Yên Nương đang gảy tỳ bà, cất tiếng hát du dương:
“Đời người vì sao nhiều đường hẹp, chỉ vì muôn độ cả đất trời. Càn khôn rồi cũng có khi tận, thế gian có gì vĩnh viễn đâu.
Âm dương nhất định đều mai phục, trời đất phải giấu đại sát lục. Lên trời xuống đất chỉ một mạng, một chữ mạng này đè thiên cổ.
Người tri kỷ không trách người khác, người biết thiên mệnh không oán trời. Phúc họa tồn vong đều đã định, đều là thân theo mệnh mà đi.”
End