← Quay lại trang sách

Chương 1 Tăng sĩ nhà Đường, đào phạm Thiên Trúc

Đại Đường, năm Trinh Quán thứ ba, mùa xuân, vào độ tháng ba.

Đường cái quan thuộc Hoắc Ấp trải dài mười dặm, náo nhiệt phồn hoa, quán rượu san sát, đám khách buôn bước đi vội vã, người bán hàng rong qua lại, rao hàng không ngừng. Muốn đi từ Trường An đến phủ Thái Nguyên buộc phải qua chốn đây. Từ năm Vũ Đức thứ bảy, Đại Đường tiêu diệt thế lực chống đối cuối cùng của Phụ Công Hữu, nhà Đường thống nhất giang sơn, kết thúc thời kỳ chiến loạn, Đại Đường bỗng tỏa ra sức sống mạnh mẽ đến khó tin. Năm Vũ Đức thứ chín, sau khi Lý Thế Dân kết minh với Đột Quyết trên cầu tạm Vị Thủy, mối đe dọa từ biên giới phía bắc cũng dần suy yếu, thương nhân từ đạo Hà Đông kéo đến biên giới phía bắc cũng ngày một nhiều lên, Hoắc Ấp dần trở nên trù phú.

Hôm đó có một hòa thượng men theo đường cái quan trước huyện nha mà tiến tới. Vị hòa thượng này tuổi chừng ba mươi, khuôn mặt hiền từ, cử chỉ ung dung, da mặt dù đen sạm đi vì nắng gió, nhưng thần thái toát ra lại dễ khiến người ta sinh hảo cảm. Bộ sa y màu xám mặc trên người tuy có vẻ cũ nát, nhiều chỗ đã sờn chỉ, tưa cả viền vải dệt, nhưng được giặt giũ rất sạch sẽ. Trên lưng hòa thượng đeo một hòm sách bằng gỗ hồ đào rất lớn, nhìn qua xem chừng có vẻ rất nặng, dù sợi dây đeo trên vai thít sâu vào da thịt, vị hòa thượng đó vẫn giữ thẳng sống lưng, bước đi ung dung, trên mặt lúc nào cũng hàm chứa ý cười vui vẻ, dường như mọi thứ thu vào trong tầm mắt đều khiến ngài cảm thấy lòng mình ngập tràn vui sướng.

Đi theo phía sau hòa thượng này là một người Hồ Tây Vực, râu rậm đầy mặt, mũi cao mắt sâu, nước da đen sạm, đội khăn trùm đầu màu trắng. Người Hồ này thân hình cao lớn, trên lưng đeo một túi hành lý to, trên đường đi cứ nhìn ngang ngó dọc, thu hút sự chú ý của rất nhiều người. Lúc này tuy đã có nhiều người Hồ Tây Vực đến Đại Đường nhưng phần lớn đều quy tụ về Trường An và Lạc Dương, tiếp nữa là Quảng Châu, Giao Châu, Triều Châu và Tuyền Châu ở vùng duyên hải phía nam, còn xuất hiện ở huyện đạo Hà Đông như thế này vẫn là chuyện hiếm gặp.

Kéo theo sau là một đám trẻ nhỏ vừa chạy theo vừa nhảy nhót vỗ tay trêu đùa, hai kẻ quái dị này tiến đến kè tường xây theo lối chữ bát ở trước cửa huyện nha.

Sai dịch đứng canh ngoài cửa nha môn cũng kinh ngạc một hồi lâu, thấy vị hòa thượng đó dợm bước tiến lên bậc thềm mới hỏi: “Đại sư đến huyện nha có việc gì không?”

Vị hòa thượng thi lễ rồi nói: “Bần tăng gọi là Huyền Trang, từ Trường An tới đây, hy vọng được bái yết minh phủ đại nhân của quý huyện.”

“Ôi chao!” Sai dịch giật mình: “Ra là cao tăng từ Trường An đến! Nhưng thật không may, huyện lệnh đại nhân của chúng tôi mấy hôm trước đã lên đường đi tuần tra, thị sát tình hình phòng chống lũ của đê Phần Thủy, cũng không biết bao giờ mới quay về. Ngài ở đây chờ, tôi sẽ vào trong tìm tư lại hỏi thử xem sao.”

Huyền Trang chắp tay đa tạ. Sai dịch này chạy nhanh như gió, thoáng cái đã mất dạng, một sai dịch khác thì ân cần giúp ngài đỡ hòm sách trên lưng xuống: “Đại sư, ngài cứ nghỉ ngơi một chút đã.”

Hòm sách đột nhiên trĩu xuống, sai dịch suýt nữa không giữ được: “Ôi, hòm sách này nặng thế… Ngài cứ đeo đi suốt dọc đường sao?”

Từ bên cạnh, một đôi tay giơ ra phía trước, nhẹ nhàng đỡ lấy chiếc hòm. Gã người Hồ đặt hòm sách xuống dưới đất, cười nói: “Đây là bảo bối, của Huyền Trang đại sư, mấy chục quyển sách, kinh thư, cõng theo từ Trường An đến đây.”

Huyền Trang chỉ cười ha ha, không nói gì thêm.

Sai dịch để ý đánh giá gã người Hồ, thấy cách hắn nói tiếng Hán dù vẫn còn vấp váp đôi chỗ, nhưng phát âm lại rất chuẩn, không khỏi cảm thấy lạ, bèn cười hỏi: “Ngươi là người nước nào? Đột Quyết? Hồi Hột? Hay là Sa Đà?”

Mấy năm nay hết Tùy lại Đường chinh chiến không ngừng, ngay đến một kẻ quê mùa vùng ngoại thành xa xôi cũng có thể biết tên vài nước Tây Vực.

“Ta…” Người Hồ xoa xoa ngực mình, nói lớn tiếng: “Người Thiên Trúc, Trung Thiên Trúc, Ba La Diệp.”

“Thiên Trúc…” Sai dịch gãi đầu, hiển nhiên hắn chưa từng nghe qua cái tên này.

Ba La Diệp lẩm bẩm vài câu, tỏ vẻ buồn bực như thể chó nhà có tang.

Huyền Trang nói: “Các nước chung quanh nhiều như cát sông Hằng, có xa có gần, có thân có sơ, không phải ai ai cũng biết hết được.”

Ba La Diệp tỏ rõ vẻ tôn kính, khom người nói phải.

Gã Ba La Diệp người Thiên Trúc này là Huyền Trang “nhặt” được trên đường rời khỏi Trường An. Hắn vốn là quản tượng của Giới Nhật Vương ở Trung Thiên Trúc, trong bốn tầng lớp chính ở Thiên Trúc, hắn thuộc tầng lớp tiện dân - Thủ đà la. Mùa đông năm Vũ Đức thứ chín, danh tăng Trung Thiên Trúc là Ba Pha Mật Đa La theo sứ giả nhà Đường là Cao Bình Vương Lý Đạo Lập vượt biển tới Đại Đường, ở lại chùa Đại Hưng Thiện. Cùng đi với Ba Pha Mật Đa La là hai con voi mà Giới Nhật Vương tiến cống cho hoàng đế lúc bấy giờ, nay đã là thái thượng hoàng Lý Uyên. Đi kèm với hai con voi đương nhiên là gã quản tượng Thiên Trúc này.

Nhưng số Ba La Diệp quá là xui xẻo, hai con voi lênh đênh trên biển mấy tháng trời, tới lúc đặt chân lên lãnh thổ nhà Đường thì lăn ra chết mất một con do không hợp thủy thổ. Đây được xem là trọng tội, vừa đến Trường An, hắn đã bị trưởng sứ đoàn giam lại, định mang về Trung Thiên Trúc giao cho Giới Nhật Vương trị tội. Ba La Diệp biết rõ, với bản tính ưa dùng trọng hình của Giới Nhật Vương, mình gây chuyện làm ảnh hưởng tới thể diện của lão ở Đại Đường, nếu không bị thiêu sống cũng sẽ bị chém đứt tay chân. Hắn suy nghĩ một hồi, cuối cùng thì quyết định chạy trốn, ít nhất Đại Đường này cũng trù phú hơn Trung Thiên Trúc, cũng không lo chết đói.

Ba La Diệp am hiểu thuật Du Già (Yoga), mà lính coi ngục Đại Đường còn chưa từng nghĩ tới chuyện đề phòng người biết dị thuật này. Thế là Ba La Diệp uốn gập thân mình, luồn lách trốn thoát khỏi phòng giam đơn sơ của Hồng Lô Tự[*], bắt đầu lang bạt trên đất Đại Đường.

[*] 17 Hồng Lô Tự là một trong sáu tự trong quan chế Lục tự. Hồng Lô Tự là cơ quan phụ trách việc tiếp đón và thể thức lễ nghi với những sứ đoàn từ các triều hoặc nước khác đến.

Lần lang bạt này kéo dài suốt hai năm, đến tận mùa đông năm ngoái mới gặp được Huyền Trang. Huyền Trang xét một mặt là thấy tình cảnh của hắn cũng đáng thương, một mặt ngài cũng đang nghiên cứu Phật pháp, cần học tiếng Phạn, hiểu rõ phong tục tập quán con người Thiên Trúc, bèn giữ hắn lại theo hầu bên người. Ba La Diệp cho rằng đi theo hòa thượng dù sao cũng tốt hơn phiêu bạt một mình, ít nhất ăn ở không cần phải tự chi tiền, huống hồ vị hòa thượng này Phật pháp tinh thâm, lòng dạ từ bi, vì thế không đi đâu nữa mà chỉ đi theo Huyền Trang.

Ba La Diệp thân hình cao lớn, tiếng Hán cũng không trôi chảy nhưng lại rất lắm lời, lập tức bắt đầu chuyện trò với sai dịch đó. Hai người nói chuyện hăng say, gần như có thể kết nghĩa huynh đệ đến nơi. Đúng lúc này, sai dịch vừa rồi vội vã chạy từ trong nha môn ra, phía sau còn có một tư lại đầu đội khăn vấn màu xanh.

Tư lại chắp tay thi lễ từ rất xa: “Đại sư, thất lễ, thất lễ, tại hạ là điển lại[*] của huyện nha, họ Mã.”

[*] 18 Quan chức cấp bậc thấp tại huyện phủ, phụ trách việc trông coi, quản lý sự vụ trong huyện nha.

“A, Mã đại nhân!” Huyền Trang chắp tay cúi người: “Xin hỏi minh phủ đại nhân khi nào mới quay lại?”

“Ấy chết, không dám xưng đại nhân.” Mã điển lại tươi cười: “Sắp đến mùa lũ, Quách đại nhân lo lắng cho đê điều Phần Thủy nên đi tuần sát. Cũng đã được mấy ngày rồi, áng chừng nếu nhanh thì giờ Thân giờ Dậu hôm nay sẽ về, chậm thì sáng ngày mai về tới nơi. Đại sư tìm Quách đại nhân có việc gì?”

“Có chút chuyện xưa muốn tìm minh phủ đại nhân hỏi thăm một chút” Huyền Trang nói: “Minh phủ quý huyện họ Quách sao?”

Mã điển lại hơi ngớ ra, thầm nghĩ, thì ra vị đạo sư này còn không biết đại nhân tên họ là gì: “Vâng, họ Quách, tên húy là Tể, tự là Tử Dư. Năm Vũ Đức thứ bảy được điều chuyển từ huyện thừa huyện Định Hồ về Hoắc Ấp.”

“Đã như vậy thì bần tăng sẽ tìm một ngôi chùa tá túc, đợi minh phủ đại nhân về sẽ lại tới thăm” Huyền Trang nói: “Nghe nói gần Hoắc Ấp có chùa Hưng Đường, là chùa lớn ở đạo Hà Đông, không biết đường đi thế nào?”

“À, chùa Hưng Đường nằm dưới chân núi Hoắc cách huyện lị hai mươi dặm về phía đông.” Mã điển lại cười hỏi: “Còn không biết pháp hiệu của đại sư xưng hô thế nào?”

“Bần tăng Huyền Trang, chính là tham học tăng, thọ giới Cụ Túc[*] tại chùa Không Tuệ ở Ích Châu.” Huyền Trang nói.

[*] 19 Một người xuất gia đầu tiên phải thọ giới Sa Di, sau một thời gian mới thọ giới Cụ Túc, phát nguyện tuân theo giới luật để trở thành Tì Kheo. Theo quy định của đời Đường, tăng sĩ chính thức, cũng chính là hòa thượng đã thọ giới Cụ Túc, có đặc quyền miễn trừ lao dịch, đồng thời trao tặng ba mươi mẫu ruộng.

Tham học tăng chính là tăng sĩ vân du, lấy việc tham khảo học vấn khắp nơi làm mục đích, đi khắp bốn phương. Dạng tăng sĩ này bình thường không có chùa chiền cố định, tới nơi nào liền tá túc ở đó, chỉ cần đưa ra độ điệp do cơ quan triều đình phát cho sau khi thọ giới Cụ Túc là được.

Huyền Trang cho rằng vị đại nhân này đang kiểm tra tư chất của mình nên trả lời rất cẩn thận, đầy đủ, không ngờ Mã điển lại vừa nghe vậy đã ngây ra: “Ngài… Ngài là đại sư Huyền Trang? Đại sư Huyền Trang, người đã biện luận Phật pháp khiến chúng tăng Giang Hán á khẩu không tranh cãi được gì sao? À, nghe nói Trí Diễm đại sư ở Tô Châu biện luận thua ngài còn bật khóc vì đau lòng! Có thật như vậy không?”

Huyền Trang cũng cảm thấy ngạc nhiên, không ngờ danh tiếng của mình đã lan tới cả Tam Tấn. Ngài hai mươi mốt tuổi rời đất Xuyên đi vân du, từ Kinh Tương đến Ngô, Dương, lại đến Hà Bắc, như một cơn lốc xoáy quét qua. Trước đó kinh luận của các Phật gia, tâm đắc của các đại sư, ngài đều đã tìm hiểu thấu đáo, cho đến cuối cùng biện luận, ngay cả sư phụ của ngài cũng không thể trả lời được, thế là mới giữ mối nghi hoặc trong lòng mà đi.

Xét về tương quan, đại sư Trí Diễm tổ chức cho quần tăng Giang Hán biện luận với ngài chẳng qua chỉ là một gợn sóng nhỏ mà Huyền Trang đã trải qua thôi. Có điều một hòa thượng trẻ tuổi đối phó với mười mấy cao tăng thành danh đã lâu, ép cho quần tăng cùng đường đuối lý, đối với người ngoài chính là một cảnh tượng xưa nay khó gặp.

Huyền Trang lắc đầu: “Trí Diễm đại sư than khóc không phải vì không bằng bần tăng mà bởi vì đạo không toàn, pháp lý khó hiểu.”

Mã điển lại không quan tâm lắm đến ba cái mớ pháp lý gì đó, hắn chỉ biết vị hòa thượng trước mặt này là người có danh tiếng, Phật pháp uyên thâm, thần thông quảng đại. Thế nên hắn nhanh chóng đổi thái độ, tỏ ra nhiệt tình hơn: “Khoan, đại sư đừng đi vội, tại hạ đưa ngài đến một nơi xem đã.”

Huyền Trang rất kinh ngạc, Mã điển lại không nói không rằng, lệnh hai sai dịch khiêng hòm sách, dẫn ngài ra đường lớn. Thấy Mã điển lại nhiệt tình quá, Huyền Trang cũng không tiện từ chối, đành phải đi theo hắn. Đường đi cũng không xa mấy, vòng qua huyện nha hướng về phía bắc, rẽ vào một phố nhỏ, đi tiếp năm sáu trăm bước thì dừng lại trước một tòa nhà. Cổng nhà không lớn, cũng không treo biển, nhưng hai chiếc trống đá dựng hai bên cổng đã chỉ rõ chủ nhân của ngôi nhà này là người có công danh.

“Đại sư!” Mã điển lại giới thiệu: “Đây chính là nơi ở của huyện lệnh đại nhân, phần đất phía trước là nha môn, phía sau này là khu nhà ở, gia quyến của đại nhân cũng sống ở đây. Bên trái là nhà của huyện thừa[*] đại nhân, bên phải là nhà của chủ bộ[*] đại nhân. Ngài chờ một lát, ta đi vào bẩm với phu nhân một tiếng.”

[*] 21 Chủ bộ là tên một chức quan, có từ đời nhà Hán, trông coi việc sổ sách văn thư bộ tịch một cơ quan ở trung ương hoặc một địa phương.

[*] 20 Huyện thừa là chức quan cửu phẩm trong hệ thống quan lại thời phong kiến, phụ giúp cho Tri huyện.

Huyền Trang không khỏi ngơ ngác, rõ ràng bản thân đã nói sẽ đến chùa Hưng Đường xin tá túc, tại sao Mã điển lại này lại đưa mình đến nhà huyện lệnh? Tuy nói nhà giàu có đối đãi đặc biệt với Phật tăng là chuyện thường tình, chỉ cần có tiền, mời tăng sư ở lại mấy tháng, một năm cũng không thành vấn đề, nhưng huyện lệnh đi vắng, chẳng lẽ còn có thể ở lại nhà hắn hay sao?

Mã điển lại gõ vòng cổng, một nô bộc mở cửa ngách, thấy là hắn liền vội vàng mời vào. Mã điển lại rảo bước vào trong, dặn dò nô bộc đó phải chăm sóc đại sư chu đáo. Nô bộc tò mò nhìn hai người này. Hắn còn chưa kịp nói gì đã bị Ba La Diệp quấn lấy: “Tiểu đệ, năm nay bao lớn rồi? Tên gọi là gì? Trong nhà có, mấy người? Tía với u làm, nghề gì?”

Một loạt câu hỏi làm gã nô bộc cứng họng. Huyền Trang cũng không biết nên làm thế nào cho phải, trong hai năm lang thang trên đất Đại Đường, gã Ba La Diệp này học gì không vào, chứ học ngôn ngữ địa phương khắp các vùng trời nam đất bắc lại nhớ rất nhanh, hơn nữa còn thích dùng lẫn lộn với nhau…

Lúc này một tì nữ mặt mũi trông cũng bình thường từ trong nhà đi ra, đến cửa ngách thò đầu ra nhìn Huyền Trang, vẻ mặt hồ nghi: “Ngài chính là hòa thượng từ Trường An đến? Ngài có biết thuật xua ma trừ tà không?”

Nghe xong câu đầu, Huyền Trang vừa mới gật đầu thì câu sau đã khiến ngài hối hận, đành phải cười khổ nói: “Bần tăng tu là Như Lai đại đạo, xua ma trừ tà chính là tiểu thuật, bần tăng tu đạo không tu thuật.”

“Trời đất ơi!” Ngoài dự liệu của ngài, tì nữ kia lại sáng mắt lên, gương mặt không có điểm gì đáng chú ý cũng biến đổi ít nhiều, kêu một tiếng kinh ngạc: “Xua ma trừ tà cũng chỉ là tiểu thuật? Ai da, đúng là tìm được cao tăng rồi! Đại sư, mời, mau mời vào! Cầu Nhi chết tiệt kia, còn không mau mở cổng chính?”

Huyền Trang nhìn cô tì nữ trân trối, không biết phải nói gì. Không đợi ngài mở miệng, tên nô bộc được gọi là “Cầu Nhi Chết Tiệt” đã vội vàng chạy ra mở cổng. Lúc này Mã điển lại cũng đi ra, vẻ mặt tươi cười: “Đại sư, phu nhân có lời mời, mau mau theo ta đi vào.”

Huyền Trang không biết làm sao, đành phải cùng với Mã điển lại đi vào trong nhà. Phía sau, Ba La Diệp sớm đã rất thân thiết với nô bộc, cười hì hì nhìn hắn: “Ta nói mà, cả tên ông bà, ngươi cũng nói với, ta rồi. Tại sao lại, không nói với ta, ngươi tên là gì. Thì ra, ngươi tên là, Cầu Nhi Chết Tiệt.”

Nô bộc đó đỏ mặt, tức giận nói: “Ta không phải là Cầu Nhi Chết Tiệt.”

“Thế ngươi, tên là gì?” Ba La Diệp ngạc nhiên hỏi.

“Cầu Nhi!” Nô bộc trợn mắt nhìn hắn.

Tòa nhà này thực ra chính là hậu viện của huyện nha, thông ra công đường phía trước. Huyện lệnh từ nhà mình đi qua cửa nhỏ có thể đến công đường làm việc, không cần phải ra phố. Bên trong cũng rất rộng rãi, trước mặt là một sảnh đường ba gian thoáng đãng, hai bên trái phải là phòng của đám đầy tớ phục dịch, đằng sau sảnh đường là nội viện, là nơi ở của gia quyến huyện lệnh. Mặt bên sảnh đường còn có cửa tròn dẫn tới hậu hoa viên.

Mã điển lại và tì nữ Mạc Lan cùng Huyền Trang vào phòng tiếp khách, dưới đất trải thảm lông cừu in hoa, Mạc Lan mời mọi người ngồi xuống. Mã điển lại lệnh cho hai sai dịch đặt hòm sách xuống, nói mình còn có việc công, không thể ở lại lâu, cáo lỗi một tiếng rồi cùng sai dịch rời đi. Huyền Trang muốn ngăn lại nhưng Mạc Lan hình như lại chỉ mong hắn đi, liên tục xua tay, sai Cầu Nhi mang một chiếc án đến, bày mấy thứ trà bánh, nói: “Đại sư chờ một lát, phu nhân nhà ta sẽ tới ngay đây.”

Huyền Trang thắc mắc: “Nữ thí chủ, không biết Mã đại nhân dẫn bần tăng đến đây rốt cuộc có chuyện gì?”

Mạc Lan do dự một lát, nói: “Mã đại nhân được ta nhờ vả, tìm một vị cao tăng đến trừ tà ma, tình hình cụ thể thế nào, Mã đại nhân cũng không biết được. Liên quan đến gia quyến của huyện lệnh, Mã đại nhân cũng không tiện nghe, vì vậy… mong đại sư chớ trách.”

“Trừ tà ma?” Huyền Trang bật cười: “Bần tăng đã nói rồi, bần tăng tu theo lời Phật truyền giảng chứ không tu phép thuật. Kinh chú Phật pháp là nhằm hướng con người tới bờ giác, tu thành chính quả, bần tăng hành pháp với mục đích làm lợi lạc cho chúng sinh hữu tình. Những thứ xua quỷ thần, trừ tà ma, hô phong hoán vũ, vẽ bùa niệm chú không phải là chính pháp của Phật gia. Thí chủ vẫn nên đi tìm chùa miếu, thậm chí tìm một đạo sĩ cũng tốt hơn.”

Cô tì nữ này rõ ràng không tin, cũng vì Mã điển lại đã khen ngợi Huyền Trang quá tài giỏi. Cao tăng từ Trường An đến! Cao tăng mười năm vân du thiên hạ, biện luận chưa từng thua, làm sao có thể không hiểu phép thuật được chứ?

“Đại sư, ta đã hầu hạ phu nhân rất nhiều năm, thấy nhiều biết rộng, phần lớn đám đạo sĩ đều là hạng lừa đảo.” Mạc Lan lộ ra vẻ mặt hơi khó xử: “Chùa Hưng Đường ở Hoắc Ấp chúng ta mặc dù linh nghiệm, nhưng ở gần trong gang tấc, có một số chuyện không tiện để bọn họ biết được… Đại sư đến từ Trường An, vân du thiên hạ…”

Mạc Lan còn chưa nói dứt lời, Huyền Trang đã hiểu được vấn đề. Thì ra bởi vì mình là tăng sĩ nơi khác, cho dù biết chuyện riêng tư của phu nhân hay tiểu thư thì xong chuyện cũng sẽ rời đi ngay, hiếm dịp gặp lại, sẽ không khiến đôi bên khó xử.

Ngài cười khổ một tiếng: “Thôi được, thí chủ thử nói xem.”

Mạc Lan nhìn quanh trong phòng, ngoài gã mọi rợ hải ngoại thô kệch Ba La Diệp này không còn có người ngoài nào khác, bèn hạ thấp giọng, nói: “Khoảng từ mùa xuân năm ngoái, thỉnh thoảng phu nhân nhà ta thức dậy, trên người xuất hiện một số vệt đỏ. Phu nhân cũng rất nghi hoặc, sau đó một thời gian thì biến mất. Nhưng vài ngày sau nó lại xuất hiện. Phu nhân còn tưởng là phát ban, tìm đại phu dùng thuốc nhưng không có hiệu quả gì. Bởi vì vệt đỏ này xuất hiện không hề có dấu hiệu báo trước, có lúc hơn một tháng không xuất hiện, có lúc vài ngày liền, càng ngày càng nhiều. Ta và phu nhân, tiểu thư đều rất nghi hoặc, càng ngày càng cảm thấy huyện nha này dày đặc quỷ khí…”

Mạc Lan nói đến đây, chính mình cũng cảm thấy sợ, lén nhìn quanh như thể có ma quỷ đang nghe trộm: “Huyện nha âm khí nặng, chẳng lẽ là thật sự có yêu tà nào đó gây chuyện?”

Huyền Trang nhíu chặt lông mày: “Vệt đỏ này rốt cuộc trông thế nào?”

“Rất khác nhau. Có vệt dài, có khối ban đỏ, thậm chí có vết xanh tím. Thoạt nhìn…” Tì nữ Mạc Lan nói, trong mắt ánh lên nỗi sợ hãi: “Thoạt nhìn giống như có ma dùng tay cào cấu ấy.”

“Trên ban đỏ có hạt nhỏ nổi lên như hạt gạo không?” Huyền Trang trầm tư một lát, hỏi.

Mạc Lan do dự lắc đầu: “Cái này thì không có.”

“Vậy thì không phải là bệnh sởi.” Huyền Trang lẩm bẩm nói. Ngài cũng cảm thấy bực dọc, bản thân là một hòa thượng nghiên cứu Phật pháp, lại bị người ta kéo đến trừ tà: “Vậy những vệt đỏ này xuất hiện ở những vị trí nào?”

“Chúng xuất hiện ở…” Mạc Lan đang định trả lời, đột nhiên phía sau bình phong có tiếng bước chân vang lên, ngọc bội leng keng, một mùi thơm nhẹ theo gió đưa vào.

“A, phu nhân đến rồi!” Mạc Lan kêu lên.

Một thiếu phụ ăn mặc hoa lệ thướt tha bước ra. Thiếu phụ này tóc búi cao, trên cài trâm ngọc bích, dải rua trâm rung khẽ theo từng nhịp bước, y phục màu tím nhạt, viền áo phủ trên bộ ngực trắng muốt còn cài hoa bằng vàng khảm trai, tư thái nhàn nhã, cao quý. Nhìn sơ cũng biết là một mỹ nhân mắt ngọc mày ngài, đặc biệt là dáng người thắt đáy lưng ong, mọi đường nét hài hòa trên cơ thể đều được tôn lên thấy rõ. Cho dù hòa thượng Huyền Trang nhìn vào cũng có thể cảm nhận được một vẻ đẹp rạng ngời dồi dào sinh lực, không kém gì cây cối hoa cỏ tràn trề nhựa sống khoe sắc tỏa hương khắp núi đồi.

Ba La Diệp dù sao cũng chỉ là một quản tượng, đã không biết ngần ngại quay mặt đi thì thôi, đằng này còn trợn tròn cặp mắt đặc trưng vùng Tây Vực lên nhìn chằm chằm vào phu nhân nhà người ta. Quả thực trên cần cổ trắng muốt như ngọc ấy hằn lên dấu ban đỏ, diềm ngực cài hoa vàng cũng có một đường ban đỏ chạy dài.

“Vị này chính là cao tăng từ Trường An đến sao?” Lý Phu nhân không để ý đến người Thiên Trúc này, vừa nhìn thấy Huyền Trang thì sững người lại, mặt mày biến sắc.

“A Di Đà Phật!” Huyền Trang đứng lên khom người chắp tay.

Lý phu nhân ngơ ngác nhìn Huyền Trang, ánh mắt tràn ngập sự sợ hãi, nhất thời quên cả đáp lễ, một hồi lâu sau mới lấy lại tinh thần, hoang mang lo sợ ngồi xuống tấm thảm bên cạnh, trên trán rịn mồ hôi lạnh.

Huyền Trang không hiểu vì sao, đành phải ngồi xếp bằng, không nói một lời.

“Đại sư đến đây có việc gì vậy?” Lý phu nhân định thần lại, gượng cười, hỏi.

“Ơ…” Huyền Trang càng nghĩ càng thấy rối trí, rõ ràng điển lại nhà các ngươi kéo ta đến đây, tì nữ nhà các ngươi lôi ta vào đây, bây giờ lại hỏi ta có việc gì? Nhưng lại không thể không đáp: “Bần tăng từ Trường An đến, vốn là để cầu kiến Quách đại nhân, hỏi thăm một vài chuyện xưa. Nào ngờ minh phủ đại nhân đã đi tuần sát đê điều Phần Thủy, thế là Mã điển lại và Mạc Lan cô nương tìm đến bần tăng hỏi một chút về chuyện tà ma.”

“Tà ma?” Lý phu nhân ngẩn ra, quay sang nhìn Mạc Lan: “Tà ma gì?”

Huyền Trang và Ba La Diệp không khỏi đưa mắt nhìn nhau, hai người đều thấy ngạc nhiên.

“Thưa phu nhân,” tì nữ Mạc Lan vội vàng nói: “Chính là chuyện vết đỏ trên người phu nhân ấy. Phu nhân thường nói trong mơ nhìn thấy một số ma quỷ, sợ là trong huyện nha không sạch sẽ, chúng ta đã định đến chùa Hưng Đường thỉnh đại sư mà? Nhưng phu nhân lại lo lắng nọ kia, thế nên nô tì mới mời đại sư đây đến nhà ta…”

Nghe Mạc Lan nói như vậy, mặt Lý phu nhân chợt tái dại đi, trợn mắt nhìn Mạc Lan, tỏ rõ ý giận.

Huyền Trang cũng đã hiểu được, thì ra đều là cô tì nữ này tự mình đưa ra chủ ý.

“Mạc Lan…” Lý phu nhân vô cùng tức giận, lại không tiện trách cứ trước mặt Huyền Trang, bèn vỗ án một cái thật mạnh: “Ngươi lui ra ngoài cho ta!”

Mạc Lan ngơ ngác không biết vì sao phu nhân tức giận như thế, nhưng lại không dám trái lời, đành phải mếu máo chạy vào hậu trạch.

Gương mặt Lý phu nhân ửng đỏ, càng tỏ ra xinh đẹp như hoa, rực rỡ khó tả, lúng túng nhìn Huyền Trang: “Để đại sư phải chê cười. Đứa tì nữ này hầu hạ thiếp thân từ nhỏ, dạy bảo không nghiêm, chuyện đùa vui chốn khuê phòng lại đem ra quấy nhiễu người ngoài.”

“A Di Đà Phật!” Huyền Trang cũng có chút khó xử: “Là bần tăng lỗ mãng!”

Lý phu nhân thở dài một tiếng, nhìn Huyền Trang chằm chằm, không biết sau đó lại ngẩn ngơ nghĩ gì. Huyền Trang là hòa thượng, từ nhỏ đã tu hành, trái tim đã tu thành hạt bụi giữa tam thiên đại thiên thế giới, không còn vương vấn, vị phu nhân xinh đẹp trước mặt này trong mắt ngài cũng chỉ là một cỗ da xương được tô son điểm phấn, đương nhiên sẽ không động lòng, tuy nhiên lại cảm thấy có chút kỳ dị: Vị phu nhân này nhìn chằm chằm vào bần tăng làm gì?

“Đại sư là người ở đâu?” Lý phu nhân hỏi.

“Bần tăng là người huyện Câu Thị ở Lạc Châu.” Huyền Trang chắp tay nói.

Hai người đối đáp gượng gạo, như thể đang cố tìm chuyện để nói.

Lý phu nhân hỏi: “Trong nhà đại sư còn có người nào?”

“Phụ mẫu mất sớm, có ba vị huynh trưởng và một vị tỷ tỷ.”

“Ngài có huynh trưởng à?” Lý phu nhân lộ vẻ trầm tư: “Ba vị huynh trưởng của ngài bây giờ làm sinh kế gì?”

“Bần tăng mười tuổi xuất gia, đến nay chưa từng về thăm nhà. Trước khi xuất gia, đại ca là tiến sĩ ở huyện học, lúc ấy thiên hạ vẫn còn là con dân dưới thời Tiền Tùy. Giờ đây Đại Đường ta quy định, huyện ở gần phủ thành, đã có phủ học nên không còn lập huyện học nữa. Câu Thị ở gần Lạc Châu, sợ rằng sớm đã xoá huyện học rồi. Đại ca bây giờ ở nơi nào, bần tăng cũng không rõ.” Nhắc tới thân nhân, Huyền Trang không tránh được trầm sắc mặt buồn bã, viền mắt hơi ướt: “Tam ca làm nghề nông, có trăm khoảnh ruộng. Tỷ tỷ gả tới Trương thị ở Doanh Châu. Thoắt cái đã mười bảy năm trôi qua, Tùy chuyển thành Đường, từ loạn thế đến thịnh trị, vùng Lạc Dương bị loạn binh cướp bóc nhiều năm, người nhà giờ cũng không hay biết tin tức ra sao nữa rồi.”

Lý phu nhân nhớ tới thời loạn thế đáng sợ kéo dài suốt hơn mười năm, cũng không khỏi xúc động, thở dài không thôi: “Vậy còn nhị ca của ngài?”

“Nhị ca gọi Trần Tố, lớn hơn bần tăng mười tuổi, từ nhỏ đã xuất gia tại chùa Tịnh Thổ ở Lạc Dương, pháp danh Trường Tiệp.” Huyền Trang nói.

“Trường Tiệp…” Lý phu nhân lẩm bẩm nhắc lại.

“Bần tăng năm năm tuổi thân mẫu qua đời, năm mười tuổi thân phụ cũng tạ thế. Chính nhị ca đã dẫn bần tăng tới chùa Tịnh Thổ. Lúc đầu là theo huynh học đạo, năm mười ba tuổi mới xuống tóc làm tiểu sa di.” Huyền Trang lộ ra vẻ hoài niệm, hiển nhiên có tình cảm rất sâu sắc với nhị ca của mình: “Sau khi thái thượng hoàng diệt Tùy lập Đường, Vương Thế Sung ở Lạc Dương chống lại thiên quân, loạn lạc nổi lên. Nhị huynh dẫn bần tăng chạy nạn đến Trường An, sau đó lại qua Tử Ngọ Cốc đến Ích Châu, rồi quyết ở lại nơi này.”

Mắt Lý phu nhân chợt sáng lên, vội vàng hỏi: “Vậy bây giờ nhị ca của ngài ra sao? Hiện đang ở nơi nào?”

Huyền Trang ngẩn ra, có chút do dự, nói chậm rãi: “Năm Vũ Đức thứ tư, bần tăng muốn rời đất Xuyên đi tham học, vân du thiên hạ nhưng nhị ca không đồng ý. Bần tăng liền để lại một bức thư, rồi rời khỏi Ích Châu, từ đó không còn gặp lại.”

“Thì ra là thế…” Phu nhân cảm khái không thôi: “Cao tăng cũng là một người đáng thương!”

Huyền Trang im lặng không nói.

“Đại sư!” Lý phu nhân cắn môi, hiển nhiên có tâm sự khó mà quyết được, một hồi lâu mới nói tiếp: “Thiếp thân có lời muốn khuyên.”

“A Di Đà Phật, mời phu nhân nói!”

Lý phu nhân nói gằn từng chữ, trong đôi mắt đẹp thoáng hiện biểu tình nghiêm trọng: “Đại sư có thể lập tức đi khỏi Hoắc Ấp, rời khỏi đạo Hà Đông hay không?”

Huyền Trang kinh ngạc: “Phu nhân nói vậy là có ý gì?”

Lý phu nhân không trả lời, đôi mắt tỏ lộ sự mông lung, như thể bị sương mờ bao phủ, chỉ ngẩn người nhìn về phía bức tranh vẽ người cung nữ đang treo trên khoảng tường đối diện, bên cạnh có đề một bài thơ. Bức tranh này nét vẽ tinh tế, vô cùng sinh động, thiếu nữ trong tranh cười tươi như hoa, tà váy phất lên như muốn từ trong tranh đi ra. Gương mặt trong tranh cùng Lý phu nhân đang đứng trước mặt Huyền Trang giống nhau như đúc.

Lý phu nhân nhìn say mê, dường như quên mất Huyền Trang đang ở đây, lẩm bẩm đọc bài thơ đề trên tranh:

Mạc đạo trang thành đoạn khách tràng, phấn hung miên thủ bạch liên hương.

Yên phân đỉnh thượng tam tằng lục, kiếm tiệt mâu trung nhất thốn quang.

Vũ thắng liễu chi yêu canh nhuyễn, ca hiềm châu quán khúc do trường.

Tuy nhiên bất tự Vương Tôn nữ, giải ái Lâm Cùng mại phú lang.

Cẩm lý phân phương thiếu bội lan, phong lưu toàn chiêm tự quân nan.

Tâm mê hiểu mộng song do ám, phấn lạc hương cơ hãn vị can.

Lưỡng kiểm yêu đào tòng kính phát, nhất mâu xuân thủy chiếu nhân hàn.

Tự ta thử địa phi ngô thổ, bất đắc như hoa tuế tuế khán.

[Tạm giải nghĩa]

Chẳng cần điểm trang cũng đủ làm say lòng người, ngực phấn, tay thon, thân quyện hương sen trắng.

Tay người cầm kiếm, dùng sát ý mà phân định thành hay bại. Mỹ mạo tư dung, dựa vào phong thái tôn lên vẻ yêu kiều.

Ngắm người múa uyển chuyển như nhành liễu, eo ngọc so ra mềm mại hơn, lòng chỉ hờn giọng ngọc hoài ngân mãi, khúc ca kia sao vẫn còn dài.

Tiếc lòng người chẳng được như ái nữ của Vương Tôn, nguyện ý mở lòng, trao tình cho tài tử chốn Lâm Cùng.*[*]

[*] 22 Dựa trên tích truyện Trác Văn Quân, con gái Trác Vương Tôn, vốn là góa phụ, khép mình nơi khuê phòng, vì một khúc “Phượng cầu Hoàng” của tài tử Tư Mã Tương Như mà động lòng, quyết bỏ vành khăn thờ chồng cũ mà đi theo tiếng gọi con tim. Mặc phụ thân ngăn cấm, vẫn nguyện một lòng bỏ nhà trốn khỏi đất Lâm Cùng, đi theo Tư Mã Tương Như.

Lụa gấm khoác lên người càng thêm phần xuân sắc, chỉ tiếc nỗi thiếu tư vị thanh thuần, động lòng mê đắm chuyện phong tình, trách sao quân tử khó giữ mình.

Say đắm đến khi tỉnh mộng, thấy bên ngoài song cửa sắc trời vẫn còn tối, phấn nhạt mùi hương, mồ hôi trên người vẫn chưa khô.

Liếc thấy trong gương má đà hồng như hoa đào chớm nở, mắt hạnh long lanh tựa như nước hồ xuân, thoáng nhìn đã khiến người chạnh lòng thương xót.

Thương lòng ở mãi sao nổi nơi đất khách, chẳng thể thưởng hoa suốt tháng năm dài.

Huyền Trang im lặng nghe, mặc dù ngài một lòng tham thiền nhưng cũng chẳng lấy gì làm xa lạ với Nho học và văn thơ. Nghe kỹ ra thì, bài thơ này mặc dù có phần ướt át nhưng câu từ đúng là tuyệt đỉnh, như lông loan đuôi phượng, hoa mỹ dị thường. Chỉ riêng câu “Yên phân đỉnh thượng tam tằng lục, kiếm tiệt mâu trung nhất thốn quang”, về âm luật, về từ ngữ đều khiến người ta phải tán thán. Đặt ở bất cứ một thời đại nào, so sánh với bất cứ một thi nhân nào đều có thể xếp vào hàng thượng phẩm.

Đã là thơ đề họa, xem ra là viết tặng cho vị Lý phu nhân này. Với sắc đẹp của Lý phu nhân, quả thật rất xứng với bài thơ đó. Vậy thơ là do ai đề? Tài hoa của người này quả không phải dạng thường. Huyền Trang thầm nghĩ, mặc dù ý thơ có phần ướt át nhưng ngài hoàn toàn không cảm thấy sự dung tục trong đó, chỉ giống như nhìn một đóa hoa trên triền núi, ca ngợi vẻ đẹp của sinh mệnh mà thôi, hoàn toàn không có nửa phần suy nghĩ không thuần khiết.

“Bất đắc như hoa tuế tuế khán…” Lý phu nhân cười buồn, lúc này mới bừng tỉnh, trên mặt lộ ra ráng đỏ thẹn thùng: “Thiếp thân đắm chìm vào chuyện cũ, quên cả tiếp đãi đại sư, xin đại sư đừng trách.”

Huyền Trang cười khoan dung: “Có nhân ắt có quả. Đến chính bản thân bần tăng còn thấy ngỡ ngàng trong lục đạo hồng trần này, làm sao dám trách phu nhân được.”

Phu nhân gật đầu buồn bã, sau đó lấy lại tinh thần: “Sắc trời đã tối, vốn nên mời đại sư dùng bữa cơm chay, có điều lão gia không có nhà, thiếp thân không tiện bồi tiếp. Thiếp thân đã nhờ Mã điển lại sắp xếp phòng nghỉ và cơm nước cho đại sư ở dịch xá, mời Mã điển lại thay mặt tiếp đãi đại sư!”

Huyền Trang vội vàng đứng dậy: “Không dám, bần tăng sao dám quấy quả chốn quan phủ. Ngoài thành có chùa Hưng Đường, bần tăng đến đó tá túc là được.”

Lý phu nhân gật đầu, hai mắt lấp lánh, lại dặn dò một câu: “Đại sư xin hãy nhớ lấy, lập tức rời khỏi Hoắc Ấp. Thiên hạ rộng lớn, đại sư tài cao học rộng, sớm muộn cũng vang danh Đại Đường, cao quý vô ngần, Hoắc Ấp này…”

Lý phu nhân cắn răng, nhưng không nói tiếp.

Huyền Trang chắp tay không nói, cáo từ đi ra ngoài. Lý phu nhân dựa cửa nhìn theo, đến lúc bóng dáng Huyền Trang biến mất sau tường mới mệt mỏi vịn khung cửa, nhắm mắt lại, lẩm bẩm nói: “Thật sự rất giống…”

Hai người rời khỏi hậu nha, bước ra đường lớn trong bóng chiều chạng vạng.

Vừa rồi Ba La Diệp suýt chết vì bí bức. Huyền Trang và Lý phu nhân nói chuyện với nhau, có những chỗ hắn không hiểu, mà dù có hiểu cũng không dám xen vào, khiến gã lắm mồm này bứt rứt, khó chịu vô cùng. May mà trà bánh bày trên bàn hợp khẩu vị của hắn, từ ngày theo hòa thượng Huyền Trang này hắn chưa bao giờ được ăn đồ ngon như vậy. Hắn vốn quen ăn bốc, thế là không ngừng nhét bánh vào miệng, đến giờ cơm cũng không cảm thấy đói, chỉ thấy mồm miệng ngứa ngáy không nói không được.

“Đại sư, đại sư!” Ba La Diệp một tay xách bao hành lý, tay kia cầm hòm sách của Huyền Trang, chạy vượt lên, nói với giọng điệu phấn khích: “Ta biết, vị phu nhân, tôn quý, kia bị bệnh, gì rồi.”

“Sao cơ?” Huyền Trang đang trầm tư suy nghĩ nên nhất thời chưa hiểu hắn nói gì.

“Nữ…” Ba La Diệp sốt ruột, đeo hòm sách lên trên vai, dùng một tay ra dấu: “Nữ tì, đó, chẳng phải đã nói, ban đỏ, trên người phu nhân, nghi là, ma quỷ cào cấu hay sao?”

Lúc này Huyền Trang mới nhớ ra, sứ mệnh ban đầu của mình là đến trừ tà cho Lý phu nhân, không ngờ lại làm mọi người khó xử, tất cả đều là do cô tì nữ kia tự làm theo ý mình, phu nhân nhà người ta hoàn toàn không biết gì chứ đừng nói đến việc thấy cảm kích. Ngài cười khổ một tiếng: “À, thế ngươi biết cái gì?”

“Phu nhân đó, không phải bệnh. Là…” Ba La Diệp đột nhiên không biết diễn đạt thế nào. Vốn từ ngữ tiếng Hán của hắn có hạn, ấp a ấp úng một hồi lâu: “Là… vết dao cưa.”

“Vết dao cưa?” Từ này nghe có vẻ lạ, Huyền Trang cười hỏi: “Có nghĩa là gì?”

“Vết dao cưa, cái cưa…” Ba La Diệp dùng tay phải làm động tác đang cưa, nói tiếp: “Tiếng Phạn. Nghĩa tiếng Hán, chính là, vết dao, cưa.”

Huyền Trang gật đầu: “Cưa và dao bần tăng đương nhiên biết, nhưng từ này có nghĩa gì?”

“Chính là…” Ba La Diệp suy nghĩ một lát, sau đó nhếch miệng cười: “Chính là, nam nữ hoan ái, tình nồng, lúc, vui sướng, co giật, si mê, dùng tay và miệng, để lại dấu vết, trên người đối phương. Chụt…” Hắn dùng năm ngón tay cào, lại chu miệng ra mút mạnh một cái: “Ngài xem, vết màu đỏ, trên da, như là vết, dao cắt qua, lưỡi cưa, cưa qua.”

Huyền Trang ngẩn cả người khi nghe được những lời này.

Kỳ thực chuyện này không trách được Huyền Trang. Ngài xuất gia từ nhỏ, ngoài thiền lý Phật pháp, căn bản vốn không để tâm gì đến chuyện thế tục, thiền tâm vững chắc như một tảng đá, phụ nữ có đẹp đến mấy cũng không thể làm thiền tâm của ngài dao động. Còn người gây họa là tì nữ Mạc Lan cũng chưa thành hôn, thấy vết đỏ trên người phu nhân thì kinh ngạc. Sợ là phu nhân cũng xấu hổ không dám nói ra, vì thế mới lấy lý do có tà ma, ai ngờ cô tì nữ kia lại tưởng thật…

“Ngươi… còn biết gì nữa?” Huyền Trang không dám coi thường gã Ba La Diệp này nữa, dù sao thì ngài cũng là người xuất gia không màng thế sự, về khía cạnh nhân tình thế thái này, căn bản vốn không hề tiếp xúc qua.

“Còn biết.” Ba La Diệp gãi đầu: “Nhà huyện lệnh, một phu nhân, một tiểu thư, còn nữa, huyện lệnh, sùng thê.”

Huyền Trang không nhịn được bật cười ha hả. Gã thô kệch này đúng là quá thú vị, không mất nhiều thời gian đã hỏi thăm được những tin tức này rồi.

“Đại sư!” Ba La Diệp ngập ngừng: “Vị phu nhân đó, dặn ngài, mau rời khỏi, Hoắc Ấp. Nghe giọng bà ấy, thì sợ là, có nguy hiểm gì lớn, ngài vẫn…”

Huyền Trang im lặng một lát, lắc đầu: “Lần này đến Hoắc Ấp, bần tăng có một tâm nguyện cần cắt đứt. Đường tu hành vốn đã đầy gai góc, nếu thật sự có nguy hiểm cũng coi như là một nghiệp quả của bần tăng mà thôi. Nói muốn tránh là có thể dễ dàng tránh được sao?”

“Nhưng mà, sợ nguy hiểm cho tính mạng, của ngài.” Ba La Diệp vội nói.

Huyền Trang không nói nữa. Tính ngài vốn hiền lành nhưng khi gặp chuyện lại rất cố chấp, đã quyết định rồi sẽ không bao giờ chịu khuất phục. Ba La Diệp liên tục thở dài, nhưng cũng chẳng biết làm gì hơn.

Hai người ra đến đường cái quan, vừa đi được vài chục bước trên phố chiều đột nhiên có người ở phía sau gọi: “Đại sư! Đại sư! Huyền Trang đại sư!”

Hai người quay đầu lại, thấy Mã điển lại vừa gọi vừa chạy đuổi theo, vẻ mặt phấn khích. Phía sau hắn còn có một gã thân hình vạm vỡ, cao chừng sáu thước[*] có lẻ. Gã này dáng người to lớn đã đành, thế nhưng lại mặc áo bào cổ tròn màu xanh đậm, đầu chít khăn, đội mũ ô sa, đai lưng cũng là đai bạc chín khoen. Đây rõ ràng là phục sức của quan chức lục phẩm.

[*] 23 Thời Đường một thước nhỏ là 30 cm, một thước lớn là 36 cm. Thước nhỏ dùng trong công việc đặc thù, còn dân gian đa số dùng thước lớn. Chiều cao của Quách Tể quy ra số đo hiện nay tương đương với 2m16.

Quả nhiên, Mã điển lại chạy đến trước mặt Huyền Trang, liên tục chắp tay, vẫn còn thở hổn hển: “Đại… đại sư, may mà tìm được ngài rồi. Huyện lệnh đại nhân nhà ta vừa trở về huyện nha, nghe nói ngài đến, không kịp thay quần áo đã đuổi theo…”

Huyền Trang lấy làm lạ, không ngờ huyện lệnh lại là một người to lớn, oai dũng như một vị thần. Nếu khoác lên người bộ áo giáp, hẳn cũng sẽ là một viên mãnh tướng trên sa trường.

Lúc này vị huyện lệnh Quách Tể kia đã đi tới nơi, nhìn thấy Huyền Trang thì tỏ rõ sự vui mừng, cúi người vái lạy: “Đại sư, Ta đã nghe quý danh của đại sư từ lâu, không ngờ hôm nay đại sư lại đến bỉ huyện, đúng là rồng đến nhà tôm. Ta bận chút việc công, suýt nữa mất cơ hội được gặp đại sư.”

Vị Quách Tể đại nhân này dù khom người vẫn cao hơn Huyền Trang nửa cái đầu, ngài đành phải giơ cao tay lên đỡ: “Đại nhân khách khí quá, bần tăng chỉ là một tham học tăng, đâu dám nhận đại lễ của đại nhân như thế.”

“Nhận được, nhận được.” Quách Tể mặt mày rạng rỡ. Vị đại nhân này mặc dù thân hình to lớn nhưng tướng mạo lại không thô kệch, lời ăn tiếng nói cũng có vài phần văn vẻ: “Sắc trời đã tối, nếu cao tăng không chê, xin mời đến nhà hạ quan, hạ quan cũng tiện nghe Phật pháp giáo hóa.”

Huyền Trang mới từ nhà ông ta đi ra, nghĩ tới thái độ của Lý phu nhân, vốn không muốn quay lại, nhưng cũng không thể từ chối sự khẩn nài của Quách Tể. Ngài vốn mềm lòng, tính tình lại hiền hậu, đành phải theo về đến hậu trạch huyện nha một lần nữa. Ba La Diệp một tay xách bao hành lý, vai đeo hòm sách. Quách Tể nhìn thấy, bất chấp thân phận của mình, đưa một tay nhấc hòm sách trên lưng Ba La Diệp lên, xách trên tay nhẹ nhàng như xách một con gà con.

“Thật, là khỏe!” Ba La Diệp khen.

“Ha ha!” Mã điển lại đắc ý nói: “Đại nhân nhà ta đã từng chiến đấu chống Đột Quyết, chém giết mười mấy năm ở mạn Sóc Châu đó! Làm huyện úy Định Hồ sáu năm, người Đột Quyết và Lương Sư đều không dám bén mảng tới huyện Định Hồ dù chỉ một bước chân.”

Huyền Trang gật đầu: “Đúng là mãnh tướng sa trường, đại nhân văn võ toàn tài, quả là thần nhân hiếm gặp!”

“Đâu có, đâu có.” Quách Tể lộ vẻ ngượng ngùng: “Hạ quan là một kẻ thô lỗ, chỉ biết báo đáp quốc gia, bất kể là quan văn hay là quan võ, triều đình ban cho trọng trách gì thì biết nhận làm việc đó.”

Huyền Trang cười: “Nhìn tên và tự của đại nhân đều rất có phong phạm của tiên hiền Nho gia. Xem ra đại nhân chí hướng cao xa, tại chốn triều đình mới phải!”

Huyền Trang đã nghe Mã điển lại nói, Quách Tể, tự là Tử Dư. Khổng Tử có một học trò gọi là Tể Dư, tự là Tử Ngã, có tài biện luận vô song, còn xếp hạng phía trên Tử Cống, là một trong Khổng môn thập triết[*]. Vì vậy Huyền Trang mới nói lời này.

[*] 24 Mười vị hiền triết, đồng thời cũng là mười học trò tài hoa nhất của Khổng Tử. Xét về đức hành có Nhan Hồi, Mẫn Tổn, Nhiễm Canh, Nhiễm Ung. Bàn về ngôn ngữ, biện luận có Đoan Mộc Tứ, Tế Dư. Về chính sự có Nhiễm Cầu, Tử Lộ. Về văn chương thi phú có Ngôn Yển, Tử Hạ. Cả mười người đều có tên trong danh sách “thất thập nhị hiền” nhưng xét về tài cao thì “thập triết” vẫn đứng trên 62 vị kia một bậc.

Khuôn mặt hơi đen của Quách Tể đỏ lên, lúng túng nói: “Đại sư chê cười rồi. Hạ quan chỉ biết chút ít chữ nghĩa, nào có phong phạm Nho gia gì. Hạ quan vốn là người vùng biên cương, từ khi còn nhỏ gia quyến đã bị người Đột Quyết sát hại, trong lòng hận người Đột Quyết nên đặt tên cho chính mình là Tể, ý là muốn làm thịt đám người Đột Quyết…”

Huyền Trang không nhịn được mà nhoẻn miệng cười, Mã điển lại cũng cười ha hả.

“Không nghĩ tới sau khi làm quan, các đồng liêu đều nói tên ta rất hay. Ta thỉnh giáo một vị tiên sinh mới biết còn có chuyện này.” Quách Tể ngượng ngùng nói: “Sau đó tiên sinh mới đặt tên tự giúp ta, gọi là Tử Dư. Nói ngươi đã làm quan rồi, nên xua bớt mùi máu tanh trong tên gọi. Ta ngẫm nghĩ, tên tự mà tiên sinh đặt cho ta tất nhiên phải mang ý tốt rồi, sau đó trước khi biết Tử Dư có nghĩa là gì còn thấy rất khó hiểu, tại sao đang từ làm thịt đám người Đột Quyết lại hóa thành làm thịt chính bản thân mình*[*] rồi?”

[*] 25 Tử (子) và Tể (宰) gần âm, cách đọc na ná, dễ nghe nhầm. Dư (予) là đại từ chỉ ta/tôi, một cách tự xưng khi nói chuyện với người khác.

Mọi người đồng loạt ôm bụng cười, Huyền Trang cũng không nhịn được mà bật cười, cảm thấy vị huyện lệnh đại nhân này thật sự ngây thơ chất phác, trong lòng lại cảm thấy kính nể. Lăn lộn hàng chục năm từ sa trường đến quan trường mà vẫn có thể giữ được tấm lòng trong sáng, là người có phật tính cao.

Đoàn người vừa đi vừa nói chuyện, cuối cùng cũng quay về đến nhà Quách Tể.

Lý phu nhân không ngờ Huyền Trang lại quay lại, nhưng biết là Quách Tể mời về nên cũng không làm gì được.

“Ưu Nương, Lục La đâu?” Quách Tể hỏi: “Mau gọi Lục La ra chào đại sư!”

Lý phu nhân khuê danh là Ưu Nương, thấy trượng phu hỏi liền đáp: “Lục La đến nhà Chu phu nhân học đàn từ giờ Thân, còn chưa về.”

Thấy ái nữ không có nhà, Quách Tể đành phải sai Mạc Lan đi làm đồ chay, mọi người ăn cơm trước rồi nói tiếp.

Thời kỳ Đường sơ cả quan lại lẫn chúng dân đều không mấy dư dả, thứ gọi là yến tiệc thực chất cũng rất đơn giản. Bao gồm hai loại bánh là bánh hồ[*] và bánh bột hấp, bốn loại bánh điểm tâm là bánh mứt quả hỗn hợp, bánh bảy tầng mây[*], bánh thủy tinh long phượng[*], bánh nếp viên, cùng vài món ăn thanh đạm, bày ở trên bàn ăn, được gia nhân bưng vào, kê ở giữa phòng khách, mọi người ngồi xuống xung quanh. Quách Tể thích rượu nhưng không dám uống trước mặt Huyền Trang, chỉ dám uống một vò rượu trái cây, xem như là có rượu. Rượu trái cây này mặc dù rất nhạt nhưng vẫn có chất men, Huyền Trang đương nhiên không uống nhưng cũng không ngại người khác chung bàn uống. Ba người đàn ông còn lại thấy vậy thì cũng thoải mái hơn, nhanh chóng đổi thành ta một bát ngươi một bát, uống không ngừng.

[*] 28 Bánh thủy tinh long phượng, hay còn gọi là bánh nồi đất, loại bánh này là đặc sản của vùng Thiểm Tây, được làm từ gạo nếp, táo đỏ, đậu đỏ, hấp chín. Bánh phân làm nhiều tầng, một tầng gạo nếp, một tầng táo đỏ đậu đỏ trộn lẫn, cứ thế xếp tầng mà hấp chín.

[*] 27 Thất phản cao hay bánh bảy tầng mây, loại bánh này tương tự với món bánh da lợn ở Việt Nam.

[*] 26 Hồ bính hay bánh Hồ là một loại bánh của người Hồ. Thành phần chính là: bột, mè, hành tây, trứng, bơ, sữa, dầu ăn, đường, muối.

Lý phu nhân ngồi bên cạnh hầu rượu, cử chỉ mặc dù nhàn nhã, nhưng nét mặt lại tỏ rõ u sầu. Bà không ở lại lâu, sau khi rót rượu cho khách khứa lấy lệ liền quay trở vào nội viện.

Ăn cơm chay xong, sắc trời đã tối, Mã điển lại cáo từ, Huyền Trang cũng đứng dậy xin cáo lui, định đi tìm một nhà trọ nghỉ ngơi. Không ngờ Quách Tể không đồng ý: “Đại sư, ngài sao có thể đi được? Hạ quan còn muốn giữ ngài lại thêm vài ngày để mở một tràng pháp sự.”

“Xin hỏi là pháp sự gì đây?” Huyền Trang hỏi.

“Trừ tà xua ma.” Quách Tể thở dài nói: “Nha môn âm khí nặng, một năm qua nội trạch không yên, ban đêm phu nhân khó mà ngủ ngon, mỗi buổi sáng thức dậy trên người lại xuất hiện một số vệt đỏ. Hạ quan nghĩ là trong nhà không sạch sẽ, đại sư đã đến, không bằng tiện thể ra tay giúp đỡ hạ quan xua ma trừ tà!”

Huyền Trang ngây người, rồi nhanh chóng quay sang phía Ba La Diệp, bốn mắt nhìn nhau, trong ánh nhìn của cả hai người đều lộ rõ sự nghi hoặc.