Chương 2 Vết dao cưa, chuyện khuê phòng
Trong lòng Huyền Trang đúng là kêu khổ không ngừng. Theo cách nói của Ba La Diệp, “vết dao cưa” trên người Lý phu nhân xuất hiện là do việc cùng phu quân hoan ái chốn khuê phòng, nhưng có một vấn đề là… Tướng công của bà lại cho chuyện đó là do ma làm, vậy chuyện này là thế nào?
Cũng phải nói thêm là, địa vị của phụ nữ đời Đường rất cao, quan niệm trinh tiết tương đối mờ nhạt. Phụ nữ không còn trinh tiết trước hôn nhân không hiếm thấy, chuyện yêu đương vụng trộm sau hôn nhân hoặc sau khi chồng mất lại càng phổ biến.
Nhưng vấn đề mình là một hòa thượng, vô duyên vô cớ xen vào chuyện này làm cái gì?
Huyền Trang không ngừng từ chối, nhưng Quách Tể rất kiên quyết, đã nhận định ngài là cao tăng nên dù thế nào cũng không chịu cho đi. Ông ta mặt trước thì tiễn Mã điển lại ra về, sau khi đóng cửa lại đã sắp xếp chỗ ở cho Huyền Trang và Ba La Diệp. Huyền Trang thật sự không thể làm gì được. Ngài rất mến mộ sự chất phác của vị huyện lệnh thân hình vạm vỡ, to khỏe này, thầm nghĩ cũng nên dùng Phật pháp điểm hóa cho ông ta, chỉ mong sau này ông ta biết được chân tướng sự việc vẫn có thể giữ được tâm khí bình hòa, thái độ bình tĩnh mà giải quyết sự vụ thì đó âu cũng là tạo công đức, vì vậy cũng không tiếp tục từ chối nữa. Quách Tể vui mừng khôn xiết, vội vàng lệnh cho Cầu Nhi dọn dẹp hai phòng ngủ cho Huyền Trang và Ba La Diệp.
Lúc này là giờ Tuất, nhà nhà cũng chỉ vừa mới lên đèn, còn lâu mới đến giờ ngủ. Hai người lại bày trà thơm trong đại sảnh, ngồi đối diện nhau chuyện trò.
Quách Tể bắt đầu kể lại tỉ mỉ “chuyện lạ” xảy ra trên người phu nhân của mình, nội dung cơ bản cũng giống như những gì Mạc Lan kể. Huyền Trang cảm thấy xót xa trong lòng, nhìn ông ta đầy thương cảm, cũng không biết nên nói gì cho phải.
“Ôi, có thể lấy được Ưu Nương chính là may mắn cả đời của Quách Tể ta.” Nhắc tới phu nhân nhà mình, Quách Tể mặt mày tỏ rõ sự vui vẻ: “Sắc đẹp của Ưu Nương hẳn không cần phải bàn cãi thêm nữa, ngài xem bức tranh tả người cung nữ trên tường này đi, đó chính là Ưu Nương trước khi xuất giá. Còn có bài thơ đó nữa, tả Ưu Nương không khác gì tiên nữ, đúng thế, chính là tiên nữ.”
Huyền Trang nhìn theo hướng chỉ của Quách Tể, vẫn là bức tranh ngài đã nhìn thấy ban ngày, không khỏi ngạc nhiên, bèn thăm dò: “Đại nhân, ngài có hiểu rõ hàm ý của bài thơ này không?”
“Đương nhiên!” Quách Tể khẳng định: “Chính là khen Ưu Nương xinh đẹp mà.”
Huyền Trang cũng cạn lời, chịu thua không biết đáp sao nữa.
“Ưu Nương chẳng những xinh đẹp mà còn có học, cầm kì thi họa, không gì không tinh thông, đáng quý hơn là, tay nghề thêu thùa may vá của nàng ấy cũng rất tốt.” Quách Tể tỏ rõ vẻ tự mãn khi vuốt bộ quan phục của mình: “Chiếc áo bào này của ta chính là do Ưu Nương may. Đường may tinh tế, rất vừa người, dù là kẻ vóc người thô kệch như hạ quan mặc vào cũng thấy thoải mái hơn rất nhiều.”
Huyền Trang nhất thời không biết nên nói chuyện với vị đại nhân này thế nào, đành phải ngồi im nghe hắn khoe khoang. Quách Tể hào hứng tự biên tự diễn một thôi một hồi lâu, lúc để ý thấy Huyền Trang không nói gì, mới tự trách: “Ôi chao, đúng đúng, hạ quan nhớ ra rồi. Đại sư ngài ngàn dặm xa xôi từ Trường An đi tới Hoắc Ấp là tìm hạ quan có việc, khi trở về đã nghe Mã điển lại nói rồi, nãy giờ kích động lại quên mất.”
Nói đến việc này, trong lòng Huyền Trang trở nên nặng nề, sắc mặt dần biến thành nghiêm nghị: “A Di Đà Phật, bần tăng tới thăm đại nhân đích thực là có việc muốn bàn.”
“Có việc gì, ngài cứ việc nói.” Quách Tể vỗ ngực: “Chỉ cần hạ quan có thể làm được thì nhất định sẽ không để đại sư phải thất vọng.”
“Bần tăng đến là để hỏi thăm một vụ án cũ.” Huyền Trang nói chậm rãi: “Năm Vũ Đức thứ sáu, huyện lệnh khi đó tên là Thôi Giác đúng không?”
Vừa nghe đến Thôi Giác, Quách Tể khá bất ngờ, nhưng nhanh chóng gật đầu, có vẻ hơi khó xử: “Không sai, Thôi Giác là huyện lệnh tiền nhiệm, hạ quan chính là người kế nhiệm hắn.”
“Nghe nói Thôi Giác chết khi đang làm huyện lệnh Hoắc Ấp?” Huyền Trang nhìn sắc mặt Quách Tể, lòng không khỏi cảm thấy băn khoăn do dự, không biết chuyện này có uẩn tình gì đáng kiêng kị hay không, nhưng việc ngài cần làm rất quan trọng, không thể không hỏi được: “Khi đó có một hòa thượng đã đến huyện nha tìm Thôi huyện lệnh, đêm đó sau khi hai người họ bàn chuyện xong, Thôi huyện lệnh đã treo cổ tự vẫn?”
Quách Tể nâng chén trà đặt trước mặt lên, chậm rãi nhấp một ngụm, khẽ liếc mắt ra ngoài sảnh, cặp mắt tựa hồ như hơi nheo lại: “Quả thực là có chuyện như vậy. Khi đó hạ quan còn đang làm huyện úy ở huyện Định Hồ, sau khi Thôi đại nhân qua đời mới chuyển đến đây, nên không được tận mắt chứng kiến chuyện xảy ra khi đó. Có điều, sau khi hạ quan nhậm chức có nghe các đồng liêu trong nha môn nói chuyện, cũng chính miệng hai người Cao chủ bạ, Hứa huyện thừa đã nói lại với ta, nên chắc không sai được đâu. Mời đại sư xem!” Quách Tể đứng dậy chỉ vào một cây ngô đồng ở ngoài sân: “Thôi đại nhân đã tự vẫn ngay tại cái cây này!”
Huyền Trang kinh ngạc, đứng dậy đi ra hiên nhà quan sát, quả nhiên phía tây của cái sân có một cây ngô đồng, tán cây rộng rãi, gần như bao trùm non nửa chiếc sân.
“Cành ngang đâm về phía đông đó chính là chỗ buộc dải lụa trắng.” Quách Tể đứng sau lưng ngài, giọng nói nặng nề.
Nghĩ đến việc bảy năm trước, một huyện lệnh đã treo cổ chết trên cây ngô đồng trước mặt mình, ấy vậy mà giờ nơi này trở thành nhà mình, ghế quan của hắn cũng là mình ngồi lên thay thế, hẳn Quách Tể ít nhiều gì cũng bị ám ảnh bởi chuyện này.
Huyền Trang lẳng lặng đứng nhìn cây ngô đồng, không quay đầu lại, thấp giọng hỏi: “Có ai biết được khi ấy Thôi huyện lệnh và vị hòa thượng kia đã nói về chuyện gì không?”
Quách Tể suy nghĩ một lát: “Cái này hạ quan không rõ lắm, cũng chưa từng nghe ai nói qua. Việc quan huyện lệnh chính lục phẩm[*] thắt cổ tự vẫn là chuyện hệ trọng, giả như có người biết khi ấy hai người họ đã nói những gì thì hẳn chuyện đã được đồn đãi khắp nha huyện này rồi. Nghe nói thứ sử đại nhân lúc bấy giờ đã phái người xuống tra xử vụ Thôi huyện lệnh thắt cổ tự vẫn, lấy lời khai của không ít người. Nếu có người biết thì hẳn đã khai báo luôn rồi. Từ châu phủ đến huyện đều không nghe ai báo bẩm lại bất kỳ điều gì, có lẽ là không ai biết thật.”
[*] 29 Theo quy định nhà Đường, huyện Hoắc Ấp là thượng huyện, huyện lệnh thượng huyện là chính lục phẩm.
Phẩm hàm được chia làm chín phẩm, mỗi phẩm chia làm hai bậc chính và tòng. Phẩm hàm cao nhất là chính nhất phẩm, thấp nhất là tòng cửu phẩm. Phẩm hàm dành phong tặng cho các quan lại của triều đình.
“Vậy tình hình của vị hòa thượng kia sau đó ra sao?” Trong lòng Huyền Trang dấy lên nỗi lo sợ.
“Hòa thượng đó sao?” Quách Tể ngạc nhiên, suy nghĩ một hồi lâu, cuối cùng lắc đầu nói: “Gã hòa thượng quỷ quái ấy lai lịch bất thường, sau khi rời huyện nha ngày hôm ấy xong thì chẳng còn ai nhìn thấy bóng dáng hắn đâu cả. Thứ sử đại nhân còn đã từng phái người truy bắt, nhưng yêu tăng đó không biết từ đâu tới, cũng không biết sẽ đi tới nơi đâu, cuối cùng đành bỏ cuộc, không thu được kết quả gì.”
Huyền Trang nói nhỏ, vẻ mặt buồn bã: “Ngay cả pháp hiệu của hắn cũng không biết sao?”
“Không biết!” Quách Tể quả quyết lắc đầu: “Nếu biết thì làm gì đến nỗi không bắt được? Hạ quan làm huyện úy nhiều năm, không biết đã bắt bao nhiêu đạo tặc, nhưng sợ nhất chính là loại nghi phạm không rõ lai lịch, không có tên họ này.”
“Khi đó trong huyện nha chắc hẳn phải có người từng nhìn thấy hắn chứ?” Huyền Trang vẫn chưa từ bỏ ý định, gặng hỏi.
Quách Tể gật đầu: “Đương nhiên rồi. Lúc gã hòa thượng đó đến, ngoài cửa có hai sai dịch đứng gác, còn có một tư lại cũng đã nhìn thấy hắn. Có điều tư lại đó đã có tuổi rồi, năm Vũ Đức thứ chín đã cáo lão về quê. Hai sai dịch, một người ốm chết, người còn lại… tại sao đã rất nhiều năm không gặp hắn nhỉ?”
Quách Tể gãi đầu, đột nhiên vỗ tay đánh tét một cái rõ vang, nói: “Đúng rồi, đại sư! Hạ quan chợt nhớ ra. Để truy bắt gã hòa thượng quỷ quái đó, châu phủ khi ấy còn cho vẽ hình hắn. Dù đã lâu lắm rồi nhưng chắc vẫn tìm được. Hạ quan sẽ đi tìm cho ngài xem.”
Quách Tể là người nhiệt tình, cũng không hỏi nguyên do đã vội dặn Huyền Trang ngồi trong sảnh chờ, chính mình thì chạy đến khu nha môn phía đằng trước.
Huyện nha ban đêm đương nhiên không làm việc, nhưng vẫn có người canh gác. Quách Tể cũng không ngại phiền phức, lập tức đến khu nghỉ ngơi của đám thư điển lại ở phía tây tìm thư lại trực ban. Thấy là huyện thái gia đích thân tìm đến đây, mặc dù trời đã về khuya nhưng thư lại cũng không dám thờ ơ, sau khi nghe yêu cầu của Quách Tể đã nhanh chóng lục lọi kho trữ văn thư, án quyển để tìm đồ.
Văn kiện lưu trữ từ nhiều năm trước, không phải cứ muốn là tìm được ngay. Huyền Trang ngồi xếp bằng một mình trong phòng khách, nhắm mắt buông mày, lần chuỗi tràng hạt trên tay, trong miệng thầm niệm “Vãng Sanh Tịnh Độ Thần Chú”. Nghe nói chỉ cần niệm chú này đủ ba mươi vạn lần sẽ có cơ duyên được tận mắt diện kiến Đức Phật A Di Đà. Lúc Huyền Trang niệm đến lần thứ chín mươi bảy, chợt nghe thấy tiếng bước chân ở phía ngoài sân, sau đó là tiếng Mạc Lan vang lên: “Tiểu thư, cuối cùng tiểu thư cũng về rồi. Phu nhân đã nhắc nhiều lần lắm rồi. Nếu tiểu thư còn không về, phu nhân sẽ sai nô tì đến nhà Chu phu nhân đón tiểu thư đấy.”
Một giọng nói mệt mỏi của thiếu nữ đáp lời: “Học hơi mệt nên ta ở lại đó nghỉ một lát. Công tử nhà họ Chu mới kiếm được một món đồ chơi tinh xảo của người Hồ, lần sau ta sẽ dẫn ngươi đi xem.”
Tiếng bước chân tiến gần đến bên ngoài sảnh đường, thiếu nữ nhìn thấy trong phòng có người, mới ngạc nhiên hỏi: “Ai đang ở trong phòng khách đấy? Đại nhân đâu?”
“Hôm nay có một cao tăng từ Trường An tới, đại nhân mời đến nhà phụng dưỡng.” Mạc Lan nói: “Vừa rồi cũng không biết có việc gấp gì, đại nhân lại đi ra nha môn rồi.”
“Ừ.” Thiếu nữ có vẻ không mấy quan tâm đến chuyện này, nhưng cũng giữ ý không đi thẳng qua phòng khách mà vòng qua cửa bên để đi vào hậu trạch.
Thiếu nữ này chắc hẳn là con gái Lục La của Quách huyện lệnh. Huyền Trang không để ý thêm nữa, tiếp tục niệm chú. Lúc niệm đến lần thứ một trăm năm mươi ba lại có tiếng bước chân khác, nặng nề hơn, vang lên, vừa nghe đã biết là Quách Tể. Người khác không có khả năng bước đi mà như nện trống trên mặt đất kiểu này được.
“Ha ha, đại sư, đại sư!” Quách Tể hết sức phấn khởi đi vào, giơ cuộn giấy ố vàng trong tay lên, cười nói: “Tìm được rồi, không ngờ lại tìm được thật rồi.”
Huyền Trang nghe vậy vội vàng mở mắt ra, nhận lấy cuộn giấy từ trong tay Quách Tể, tay hơi run run. Quách Tể thấy vậy trong lòng cũng lấy làm kinh ngạc, nên không nói gì thêm, chỉ lặng lẽ nhìn ngài.
Huyền Trang cố lấy bình tĩnh, ổn định thiền tâm, tựa như ánh trăng soi mình trên sông lớn, lấy đá thảy xuống cũng chỉ khiến mặt nước dao động thành từng gợn sóng nhè nhẹ, rồi lại nhanh chóng tan biến như chưa từng có gì xảy ra. Ngài ung dung mở cuộn giấy ra, bên trong là bức phác họa chân dung của một hòa thượng. Tay nghề của họa sư không tốt, lại vẽ theo lời miêu tả của người khác nên không giống người thật là mấy, nhưng vẫn có vài phần tương tự với người mà ngài đang nghĩ tới.
Ấn tượng để lại cho người xem chính là cặp mắt dài mà có thần, trán rộng, mũi cao, miệng vuông. Từ tướng thuật mà nói, đặc trưng của những chỗ này là dễ nhận diện nhất, xem ra quan phủ vẽ như vậy cũng có cái lý của họ.
Huyền Trang ngơ ngác nhìn bức tranh này, hai mắt dần dần đỏ lên, thiền tâm vững vàng bỗng chốc sụp đổ, trong lòng tràn ngập sự hoang mang.
“Đại sư!” Quách Tể vô cùng kinh ngạc, nghiêng đầu nhìn bức tranh đó, rồi cũng sửng sốt mà rằng: “Đúng là có nét giống đại sư.”
Nói xong cũng tự biết mình đã lỡ lời. Ai lại đánh đồng Huyền Trang đại sư danh tiếng vang dội khắp Trường An với một gã hòa thượng âm tà ma quỷ cơ chứ?
Nào ngờ Huyền Trang lại khẽ than một tiếng, bình tĩnh nói: “Đại nhân nói không sai, vị hòa thượng bị truy bắt này rất giống nhị ca của bần tăng, Trường Tiệp.”
Quách Tể kinh hãi, hai mắt trợn trừng, một hồi lâu mới lẩm bẩm: “Đại sư, chuyện này không thể đùa được.”
Ông ta dừng lại một lát, trầm giọng nói: “Chắc chắn là ngài nhận sai người rồi, tên hòa thượng này là nghi phạm bị quan phủ truy bắt, ngài là ‘Thiên Lý mã của Phật môn’ danh lừng Trường An, sao có thể vơ đũa cả nắm được. Ngài đức cao vọng trọng, ngàn vạn lần đừng để bị người khác gièm pha vì một vài tì vết nhỏ nhặt!”
Lời này của Quách Tể nói ra cũng là có ý tốt khuyên ngài. Khoan bàn đến chuyện người đó có phải nhị ca của Huyền Trang hay không, vì ngài cũng chỉ là đang suy đoán mà thôi, mà kể có đúng là nhị ca đi chăng nữa thì Huyền Trang cũng đã vào cửa Phật, tứ đại giai không, tình thân chốn tục gia so ra thì vẫn kém xa tầm quan trọng của việc tu thiền. Tội gì lại vì một nghi phạm không rõ thân phận mà hủy mất đại đạo tu hành của mình?
Huyền Trang lại chậm rãi lắc đầu: “Khi bần tăng là sa di, thấy núi chỉ là núi, thấy nước chỉ là nước, thế giới Đại Thiên không hề có gì bất đồng. Khi tu thiền tại chùa Không Tuệ, đến một ngày nọ bỗng chợt nhận thấy núi không phải núi, thấy nước không phải nước. Sau đó tham học thiên hạ, hành tẩu mười năm, kết cục lại phát hiện thấy núi vẫn là núi, thấy nước vẫn là nước, mấy vị ca ca ở tục gia không hề có gì khác so với khi còn nhỏ.”
Quách Tể thấy Huyền Trang bắt đầu nói thiền, vội vàng khom người ngồi, vẻ mặt trang nghiêm.
“Người đời đều cho rằng, tu hành đại đạo, lấy từ bên ngoài, mỗi ngày mỗi đêm tụng niệm ‘Chú Vãng Sanh’ hai mươi mốt lần có thể diệt ngũ nghịch, thập ác, báng pháp, niệm ba mươi vạn lần có thể diện kiến Đức Phật A Di Đà. Dựng chùa xây tháp, trai tăng cứu tế, viết kinh tạc tượng, mặc dù có thể tích được nghiệp đức, nhưng làm sao có thể so được với minh tính gặp Phật? Tu thiền tức là tu tâm.” Huyền Trang nói: “Đường tu hành của mỗi người mỗi khác, như cát sỏi dưới đáy sông Hằng, như lá trên cây bồ đề, không có hạt nào chiếc nào giống hệt như nhau, nhưng thành tựu quả vị lại nhiều không đếm xuể, từ đó luận ra, mỗi con đường đều có thể chứng đạo. Ai biết chắc được hành trình đến Hoắc Ấp này của ta có phải là một chặng bắt buộc phải qua trên con đường chứng đạo hay không? Ai có thể biết tội nghiệt nhị ca Trường Tiệp đã phạm này có phải cũng là ma chướng mà nhị huynh nhất định phải chiến thắng được hay không?”
“Cho nên…” Huyền Trang cười: “Nhìn thấy người thân đang lội nước sâu mà không dám nhận, ấy không phải không thấy rõ người, ấy căn bản là không thấy rõ lòng mình.”
Quách Tể nghe như mê như say, hai mắt rớm lệ, nghẹn ngào dập đầu: “Hạ quan… à không, đệ tử đã hiểu rồi.”
Huyền Trang không giấu vị huyện lệnh chân chất này điều gì, ngài kể lại từ đầu chí cuối mục đích của mình khi đến Hoắc Ấp: Tìm nhị ca Trường Tiệp.
Từ năm mười tuổi, Huyền Trang được nhị ca dẫn tới chùa Tịnh Thổ xuất gia, hai huynh đệ nương tựa vào nhau mà sống, thân nhau như hình với bóng. Thứ nhất, sống trong thời loạn lạc, một khi tách ra sẽ rất khó gặp lại nhau. Thứ hai, đệ đệ còn nhỏ tuổi, thân làm ca ca cũng nên ở bên chăm sóc. Sau khi Lạc Dương xảy ra chiến loạn, hai huynh đệ chạy nạn đến Trường An, rồi dắt díu nhau tìm đến Ích Châu và ở lại đó năm năm. Mùa xuân năm Vũ Đức thứ tư, Huyền Trang cảm thấy những vị cao tăng ở Ích Châu không thể giải đáp các nghi hoặc trong lòng mình khi tu thiền nữa, nên đã ngỏ ý xin nhị ca cùng nhau đi vân du thiên hạ, thăm viếng danh sư, đặc biệt phải đến Triệu Châu tìm đại sư Đạo Thâm học tập “Thành Thực Luận”.
Nhưng thời gian đó Trường Tiệp bận bịu luôn tay, cũng không biết đang làm gì mà thà chết cũng không chịu rời khỏi Ích Châu. Ngoài ra Trường Tiệp cũng lo lắng cho sự an toàn của Huyền Trang, bởi khi đó vẫn là thời buổi loạn lạc, Đại Đường thực hiện chính sách cấm quan, người đi đường qua quan ải sẽ phải kiểm tra quá sở, cũng chính là giấy thông hành. Không có quá sở mà dám tự ý qua quan ải là hành vi phạm pháp, sẽ bị phạt tù một năm.
Trường Tiệp nhiều lần can ngăn nhưng Huyền Trang đã hạ quyết tâm, ngài buộc phải để lại một phong thư, một thân một mình lên đường, tự ý vượt quan ải rời khỏi đất Xuyên. Chuyến đi này kéo dài mấy năm. Cùng với quá trình tham học, danh vọng của ngài ngày càng cao, những nơi ngài đi qua dân chúng đều truyền tụng về một vị cao tăng tài đức. Năm Vũ Đức thứ tám, Huyền Trang đến Trường An, giao vãng với các cao tăng cửa Phật như Pháp Nhã, Pháp Lâm, Đạo Nhạc, Tăng Biện, Huyền Hội, đặc biệt là nhận lời mời thuyết giảng “Tạp Tâm Luận”, thanh danh vang dội. Sau khi được coi là “Thiên Lý mã của Phật môn”, ngài chợt nghe được tin tức về nhị ca của mình. Lúc đó ngài mới biết nhị ca đã gây huyết án động trời, trở thành trọng phạm bị quan phủ truy nã!
Năm Vũ Đức thứ tư, tại chùa Không Tuệ ở Ích Châu, nhị ca đã chém đầu sư phụ mình là đại sư Huyền Thành, sau đó sợ tội bỏ trốn!
Huyền Trang vừa kinh hãi, đồng thời cũng cảm thấy rất đau lòng. Đại sư Huyền Thành là vị cao tăng mà ngài vô cùng kính trọng, hai huynh đệ ngài vừa đến Ích Châu đã nhập tu tại chùa Không Tuệ, được đại sư Huyền Thành dạy bảo. Vị cao tăng này lòng dạ lương thiện, khi đó Trung Nguyên loạn lạc, chỉ có Ích Châu là còn yên ổn, có không ít hòa thượng chạy nạn đến nơi đây, mặc dù chùa Không Tuệ cũng chẳng dư dả gì nhưng đại sư Huyền Thành vẫn mở rộng cửa tiếp đón, ai tới cũng nhận, che chở cho tăng lữ. Đại sư Huyền Thành rất yêu quý Trường Tiệp và Huyền Trang, thậm chí còn xác định Trường Tiệp sẽ là người kế thừa y bát của mình, còn khen ngợi hai anh em là Trần môn song ký*[*].
[*] 30 Ý chỉ gia đình nhà Trần có hai anh em, đều là bậc kỳ tài.
Thậm chí bản thân Huyền Trang cũng từng có suy nghĩ, việc nhị ca nhất định không theo mình đi vân du tham học, phần nào cũng là vì nghĩ muốn kế thừa y bát của đại sư Huyền Thành nên mới không đành lòng bỏ đi. Chẳng ngờ chỉ vẻn vẹn có bốn năm đã lại xảy ra thảm kịch lớn như vậy!
Huyền Trang đã từng lùng khắp thành Trường An, hỏi thăm kỹ càng, nhưng tăng chúng nơi đây đều chỉ được nghe chuyện người ta kể lại, chứ không nắm rõ tình hình chi tiết ra sao. Sau đó ngài gặp một vị hòa thượng mình từng quen biết hồi còn ở Ích Châu, khi ấy mới hỏi được đầu đuôi cụ thể. Cái gọi là cụ thể ở đây cũng chỉ là quá trình sau khi quan phủ can thiệp, còn vì sao Trường Tiệp giết sư phụ, sau đó trốn đi đâu, trong đó có ẩn tình gì hay không thì chẳng thể nào biết rõ được.
Huyền Trang lập tức quay về Ích Châu, hỏi thăm người quen ngày xưa. Giới tăng lữ cửa Phật ở vùng này tuy vô cùng căm hận Trường Tiệp, nhưng cũng không trút giận vô cớ lên đầu Huyền Trang, chỉ có điều ngài chẳng thể tìm hiểu thêm được chút gì hơn cả. Thậm chí ngài còn tới gặp quan phủ, mới hay rằng quan phủ cũng không có manh mối gì về vụ án Trường Tiệp ra tay sát hại sư phụ, hoàn toàn không tìm được bất kỳ manh mối nào. Y bát của đại sư Huyền Thành không có người nào tranh giành với Trường Tiệp, mấy năm đó đại sư Huyền Thành cũng đã già yếu đi nhiều, mọi sự vụ lớn nhỏ của chùa Không Tuệ đều do Trường Tiệp quyết định. Tổng quản một vùng Ích Châu rộng lớn khi ấy là Toản Quốc công Đậu Quỹ cũng tán thưởng Trường Tiệp. Trường Tiệp địa vị hiển hách phú quý, tại sao lại làm ra hành động điên cuồng này?
Huyền Trang cảm thấy rất khó hiểu, mang theo nỗi băn khoăn trong lòng mà quay về Trường An.
Nhưng năm ngoái lại vô tình nghe được chuyện người ta kháo nhau về một vụ án cũ xảy ra ở đạo Hà Đông, nói là một hòa thượng không tên không họ, không biết lai lịch ra sao xông vào huyện nha Hoắc Ấp, nói chuyện với huyện lệnh một buổi, không ngờ lại khiến huyện lệnh đương nhiệm lúc bấy giờ thắt cổ tự vẫn. Đáng nói ở đây là, nếu vị huyện lệnh kia đương thời tham ô phạm pháp thì chuyện đã chẳng có gì đáng bàn, nhưng sau khi thứ sử Tấn Châu điều tra, thì nhận thấy vị huyện lệnh này làm quan thanh liêm công chính, xét xử minh bạch, dân chúng đạo Hà Đông người người ca tụng.
Một huyện lệnh tiền đồ rộng mở, tương lai sáng lạn là thế, hà cớ gì lại bị một hòa thượng nói ép đến độ phải thắt cổ tự sát như vậy, ấy quả là chuyện lạ.
Huyền Trang hỏi thăm cặn kẽ, phát hiện ra vị hòa thượng này tuổi tác xấp xỉ nhị ca của mình, chiều cao cũng tương đương, ngài mới sinh nghi, không biết đó có phải nhị huynh Trường Tiệp của mình hay không.
Từ những năm Trinh Quán đầu tiên, sau khi Huyền Trang có cơ hội được tiếp xúc với cao tăng đến từ Thiên Trúc là Ba Pha Mật Đa La tại Trường An, ngài đã có ý định tây du Thiên Trúc. Ba Pha Mật Đa La chỉ là đệ tử của cao tăng Trung Thiên Trúc là đại sư Giới Hiền, mà Phật pháp thiền lý đã thấm nhuần, tinh thông cao siêu đến như vậy thì sư phụ của ông ta phải là một vị cao tăng như thế nào? Nếu mình đến Thiên Trúc, có thể được vị cao tăng này đích thân chỉ điểm cho, đó chẳng phải là một sự may mắn lớn hay sao?
Nhiều năm nay Huyền Trang vân du thiên hạ, danh tiếng lan truyền ngày một xa, đối với thiền lý lại vẫn thấy còn nhiều điểm mông lung chưa tường tỏ, vì vậy liền đặt ra quyết tâm tây du. Tuy nhiên đường đi Tây Thiên mịt mờ, xa mấy vạn dặm, phải vượt qua biết bao hoang mạc rộng lớn, núi cao tuyết phủ quanh năm, thông qua biết bao làng mạc, quốc gia khác biệt, chuyến đi này tám chín phần mười khả năng sẽ chết trên đường, cơ hội đi tới đích vốn đã rất nhỏ, cơ hội trở lại Đại Đường có thể coi gần như là không có.
Nhưng nhị ca lại đang mang tội nghiệt giết sư phụ, bị quan phủ truy nã, đến nay không rõ tung tích, nếu không thể tra được rõ ràng, chỉ sợ sẽ biến thành tâm ma phiền não, vĩnh viễn ủ trong lòng, không có ngày nào giải thoát được.
Thế nên Huyền Trang phát nguyện nhất định phải tìm được nhị ca, tra rõ nội tình, sau đó sẽ lên đường đi Tây Thiên, bước lên con đường cầu Phật không hẹn ngày về.
Nghe Huyền Trang nói xong, Quách Tể rơi vào trầm tư. Ông ta nhìn Huyền Trang với vẻ mặt rất phức tạp, một hồi lâu mới nói nhỏ: “Tâm nguyện của đại sư, hạ quan vô cùng khâm phục. Nếu có thể giúp đỡ được gì, hạ quan nhất định sẽ dùng toàn lực. Có điều…”
Ông ta do dự một lát, buồn nói: “Đối với chuyện về vị hòa thượng này, thật sự không có một manh mối nào. Nói một câu bất kính thế này, hạ quan vốn xuất thân huyện úy, nếu có tung tích của hòa thượng này, hạ quan sớm đã truy bắt hắn về quy án rồi.”
“Bần tăng đương nhiên hiểu tâm tư của đại nhân.” Huyền Trang nói: “Bần tăng đến tìm nhị ca không phải là vì muốn tẩy sạch tội danh của huynh ấy. Trên đời tự có pháp lí, giết người ắt phải đền mạng, đây vừa là lẽ trời vừa là đạo người, bần tăng sao dám làm trái. Bần tăng chỉ muốn tìm được nhị huynh để hỏi rõ nguyên nhân trong đó thôi.”
Quách Tể gật đầu, cau mày suy nghĩ một lát: “Đại sư, hạ quan không rõ về hòa thượng này, nhưng đối với huyện lệnh tiền nhiệm Thôi Giác, hạ quan có nghe nói vài chuyện, hết sức kỳ dị.”
“Kỳ dị?” Huyền Trang kinh ngạc hỏi: “Sao đại nhân lại nói như vậy?”
“Huyện lệnh Thôi Giác, tự là Mộng Chi, biệt hiệu Phượng Tử. Nghe nói cây ngô đồng ngoài sân này là tự tay ông ta trồng, có thể mang hàm ý là phượng chỉ đậu cây ngô đồng! Người này từ những năm Vũ Đức đầu tiên đã đảm nhiệm chức vụ huyện lệnh Hoắc Ấp, tài hoa xuất chúng, dù hạ quan nhiều đời cư trú ở Tân Bắc cũng đã nghe thấy đại danh Thôi Giác từ rất sớm. Người này chẳng những có tài văn chương mà còn thông thạo binh pháp chiến lược. Nghe nói năm đó thái thượng hoàng phản Tùy, bị Tống Lão Sinh chặn lại ở Hoắc Ấp, chính là Thôi Giác đã hiến kế đánh tan quân của Tống Lão Sinh. Sau đó Tống Kim Cương xâm phạm biên giới, Thôi Giác dẫn theo một số dân binh dám nhân đêm tối đánh úp đại doanh của Tống Kim Cương. Tướng phòng thủ Tâm Tương hàng địch, Thôi Giác lại giấu dao găm chạy đến phủ của Tâm Tương ám sát. Người này có văn lược, có võ lược, có đảm lược, còn có chính lược, từ khi lên làm huyện lệnh đã quản lý Hoắc Ấp đâu vào đấy, được trăm họ yêu quý. Năm Vũ Đức thứ sáu, sau khi ông ta thắt cổ tự sát, dân chúng trong vùng liền kháo nhau về một truyền thuyết, rất là quỷ dị.”
“A, quỷ dị thế nào?”
“Trăm họ ở Hoắc Ấp này đều đồn đại, Thôi huyện lệnh sau khi chết đã vào ngục Nê Lê.” Quách Tể trầm giọng nói: “Làm phán quan thủ hạ của Viêm Ma La Vương, quản lý sinh tử luân hồi, xét xử thiện ác nhân gian ở ngục Nê Lê.”
“Ngục Nê Lê?” Huyền Trang kinh ngạc.
Thân là tăng sư quy y nơi cửa Phật, đương nhiên ngài không lạ gì ngục Nê Lê. Khái niệm ngục Nê Lê này đã có từ khi Phật giáo Tây Hán truyền vào Trung Quốc. Thời Đông Hán, cao tăng An Thế từng là thái tử nước An Tức đi tới Trung Quốc, phiên dịch kinh Phật, liền dịch ra “Phật thuyết Thập Bát Nê Lê kinh”. Có điều cách nói của Phật gia đối với ngục Nê Lê vẫn bất đồng, truyền thuyết dân gian lại càng đa dạng, tên gọi khác nhau, cụ thể ngục Nê Lê rốt cuộc thế nào, hình thù ra sao, tám tầng hay mười tám tầng, chính bản thân các Phật tăng cũng nói không rõ. Đạo sư Tăng Hựu thời Nam Triều viết một bộ “Xuất Tam Tạng ký tập”, ghi lại hơn mười loại cách dịch “Nê Lê kinh”.
“Đúng thế.” Quách Tể cười khổ gật đầu: “Truyền thuyết… Khụ khụ, mới bảy năm mà đã thành truyền thuyết rồi… Thôi huyện lệnh ‘ban ngày quản chuyện dương gian, ban đêm xử án âm ti, phán quyết cả người lẫn ma, còn hơn cả bậc thần linh’. Trong huyện này đồn thổi không ít chuyện Thôi huyện lệnh xử án, có một vụ ‘Xử án hổ dữ ăn người’ rất ly kỳ. Nói là trên núi Hoắc thường có hổ ẩn nấp. Có ngày, một tiều phu lên núi đốn củi bị mãnh hổ ăn thịt, quả phụ nhà hắn đau khổ tột cùng bèn đến nha huyện kêu oan, Thôi huyện lệnh lập tức lệnh cho nha dịch cầm phù điệp lên núi bắt hổ. Sai dịch đến trước miếu sơn thần đọc phù điệp rồi đặt lên án thờ, lập tức có một con mãnh hổ từ sau miếu nhảy ra, ngậm phù điệp đi đến trước mặt sai dịch, mặc cho họ dùng xích sắt trói lại. Hổ dữ bị bắt tới huyện nha, Thôi huyện lệnh lập tức thăng đường xét xử. Trên công đường, Thôi huyện lệnh liệt kê những vụ hổ dữ ăn người, hổ dữ liên tục gật đầu. Cuối cùng phán quyết: ‘Làm hại đến mạng người, tội không thể tha.’ Con hổ đó liền lao đầu vào bậc thềm mà chết.”
“Quả đúng là chuyện lạ.” Huyền Trang thở dài không thôi: “Chuyện cũ như mưa bụi, ngoảnh lại đều đã hóa hư không, trở thành truyền thuyết được dân gian truyền tụng.”
“Đây không phải truyền thuyết”, sắc mặt Quách Tể trông rất khó coi: “Trong nha môn… có văn án ghi chép lại về vụ án này!”
“Cái gì?” Huyền Trang sửng sốt.
“Đúng thực là có lưu lại.” Quách Tể hít sâu một hơi: “Sau khi tiếp nhận chức huyện lệnh, trong lòng hạ quan cũng rất tò mò về vị Thôi huyện lệnh này. Hạ quan chinh chiến sa trường đã quen, nghe thấy những truyền thuyết này thì cảm thấy hoang đường không tin được, nên đã hỏi thăm đồng liêu, xem xét văn thư lưu trữ. Không ngờ lại thấy có thực. Vụ ‘Xử án hổ dữ ăn người’ này được ghi chép tỉ mỉ trong án quyển, thậm chí sai dịch đi đến núi Hoắc bắt hổ cũng có tên họ, gọi là Mạnh Hiến, quả đúng là sai dịch trong nha môn, sau đó được sai xử xuống vùng nông thôn đốc thúc nộp lương, đúng thời điểm nước sông dâng cao, bị ngã xuống sông chết đuối. Đây là chuyện năm Vũ Đức thứ tư. Bây giờ một số người ghi chép án quyển, tham dự xử án khi ấy vẫn còn, họ đều tận mắt chứng kiến!”
Lần này Huyền Trang thật sự ngạc nhiên, mặc dù ngài tin Phật nhưng một lòng truy cầu Như Lai đại đạo, đối với phép thuật, bói toán, dị thuật lại không hề để ý, cho rằng đó là tiểu thuật thấp kém, sùng bái quá sẽ dao động thiền tâm. Không nghĩ tới hôm nay lại được nghe thấy chuyện lạ thế này.
“Không chỉ có vậy.” Quách Tể nói: “Sau khi Thôi huyện lệnh chết, có lời truyền tụng rằng ông ta đã vào ngục Nê Lê làm phán quan. Bách tính bản địa nhớ ân huệ của ông ta, liền xây một ngôi từ đường trên núi Hoắc gọi là miếu phán quan, ngày ngày hương khói không ngừng. Dân chúng có oan khuất và bất hạnh gì liền đến đó dâng hương cầu nguyện. Kết quả là… Thôi huyện lệnh… À không, nên gọi là Thôi phán quan…”
Quách Tể cười khổ nói tiếp: “Lại cực kỳ linh nghiệm!”
“Cụ thể là linh nghiệm ra làm sao?” Huyền Trang hỏi.
“Hạ quan lấy mấy ví dụ.” Quách Tể nói: “Năm Vũ Đức thứ tám, vợ chồng lão Kim ở thôn Đông Câu, tuổi quá bảy mươi, trong nhà chỉ có một con trai, đi theo một đám thương nhân buôn trà đến Giang Tây thu mua trà, nhưng có đi mà không có về. Nhiều năm trôi qua, không biết con trai còn sống hay chết, lão Kim quá thương nhớ con trai khóc mù hai mắt. Sau đó hai vợ chồng già nghe nói miếu phán quan linh nghiệm liền bôn ba vài chục dặm trèo lên núi Hoắc, đến miếu phán quan cầu nguyện. Nói với Thôi phán quan, nếu đứa con này của tôi đã chết, ngài sai nó về báo mộng cho tôi, để vợ chồng lão không phải nhớ mong không thôi cho tới tận lúc chết nữa. Nếu nó chưa chết, xin ngài bảo nó mau về nhà. Để một vài năm nữa, chỉ sợ hai vợ chồng chúng tôi nhỡ may có nằm xuống đột ngột, trong nhà lại chẳng có ai để ý chôn cất cho…”
Huyền Trang yên lặng lắng nghe. Quách Tể nói tiếp: “Kể cũng lạ, đêm đó họ về đến nhà, Thôi phán quan liền hiển linh, xuất hiện trong mơ của họ, nói con trai của ông bà không chết, bây giờ đang phiêu bạt ở Lĩnh Nam. Ta đã báo cho nó, bảo nó ngay lập tức về nhà. Hôm sau hai vợ chồng tỉnh lại cũng chỉ nửa tin nửa ngờ, không ngờ bốn tháng sau con trai họ quả nhiên từ Lĩnh Nam về. Nói mình đến Giang Tây mua trà bị người ta lừa hết sạch cả vốn liếng, không có mặt mũi nào về quê, liền theo một đám thương nhân đến Lĩnh Nam buôn trà. Bốn tháng trước bỗng mơ thấy một người đàn ông mặc quan phục tự xưng Thôi phán quan nói phụ mẫu mong nhớ, bảo hãy mau mau về nhà…”
“A Di Đà Phật!” Huyền Trang chắp tay cảm khái: “Tình thân nhân gian có thể cảm động phán quan, đúng là quá chân thành.”
“Đúng vậy! Còn có rất nhiều chuyện thần bí.” Quách Tể nói: “Sự thần bí của Thôi phán quan không dừng lại ở Hoắc Ấp mà còn truyền khắp cả đạo Hà Đông. Vài năm trước, huyện Bình Dao ở Phần Châu thường xuyên có người mất tích, trong đó có một nhà họ Triệu, trong nhà chỉ có một con trai độc nhất, cũng bị mất tích mấy năm không có tin tức gì. Nghe nói miếu phán quan linh nghiệm, mẫu thân của hắn là Triệu thị, bôn ba vài trăm dặm đến quỳ trong miếu đau khổ cầu khẩn, cầu xin phán quan cho biết tin tức về con trai bà. Kết quả là sau khi bà về nhà liền mơ thấy Thôi phán quan, Thôi phán quan nói con trai của bà đã chết từ lâu, xác chôn ở chỗ đó chỗ đó. Triệu thị chạy tới chỗ này đào lên, quả nhiên thấy có một bộ xương khô, mặc dù không thể phân biệt được nhưng trên cổ bộ xương khô đó lại đeo một chiếc khóa trường mệnh, chính là khóa của con trai bà.”
Trong đêm tĩnh mịch, trạch viện trăm năm, nghe Quách Tể kể về sự thần bí của vị huyện lệnh tiền nhiệm sau khi chết, cảm giác này đúng là rất khó diễn tả. Đặc biệt là khi vị huyện lệnh đó đã treo cổ trên cây ngô đồng trồng ngay ngoài sân kia…
Đúng lúc này hai người đột nhiên nghe thấy tiếng bước chân khe khẽ tiến lại gần. Hai người bọn họ đang đàm luận chuyện ma quỷ, tiếng bước chân đột ngột xuất hiện này lập tức khiến cả hai đều thấy sởn gai ốc. Quách Tể đang định quát hỏi, chợt nghe thấy phía sau bình phong vang lên một tiếng kêu sợ hãi: “Á!”
Ngay sau đó có tiếng đồ vật rơi xuống đất vỡ tan, nghe rất rõ ràng trong đêm khuya yên tĩnh.
“Ai?” Quách Tể vội vàng đứng lên quát hỏi.
Lúc này tì nữ Mạc Lan vội vã từ phía sau bình phong đi ra, đỏ mặt nói: “Là tiểu thư. Phu nhân sai tiểu thư mang đồ ăn khuya tới, không ngờ lỡ tay làm rơi vỡ bát.”
“À.” Quách Tể cười cười cho qua.
Không ngờ vừa ngồi xuống lại nghe thấy có tiếng đổ vỡ phát ra từ hậu viện. Quách Tể cau mày: “Lại làm sao nữa thế?”
Mạc Lan vội vã chạy vào, nhanh chóng quay về nói: “Là… Là một con mèo làm vỡ chiếc bình cổ bằng vàng nạm ngọc hoa văn tím của ngài…”
Mặt Quách Tể nhăn lại, miễn cưỡng cười nói: “Không có việc gì, làm vỡ rồi thì thôi.”
Được thêm một lúc, hậu viện lại vang lên tiếng đổ vỡ, Quách Tể sốt ruột: “Giờ lại là cái gì?”
Tì nữ Mạc Lan mặt như đưa đám đi vào, một hồi lâu sau mới nơm nớp lo sợ quay ra: “Là… là con mèo… ơ…”
Có lẽ tự bản thân cô ta cũng cảm thấy nói dối như vậy không ổn, đành phải nói đúng sự thật: “Là tiểu thư lỡ tay làm vỡ viên ngói cổ thời Tây Hán của ngài…”
Mặt Quách Tể tái dại đi, một hồi lâu sau mới trở lại bình thường, cười nói: “Không có việc gì, không có việc gì, nói tiểu thư cẩn thận một chút.”
Quách Tể đương nhiên biết tiểu thư nhà mình đang tức giận, ông ta không biết nguyên do, nhưng có Huyền Trang ở đây lại không tiện hỏi. Không ngờ còn chưa nói xong đã lại nghe thấy tiếng động lạ. Tì nữ Mạc Lan lần này không đợi đại nhân hỏi đã tự mình chạy vào, một hồi lâu sau mới lấm lét ló đầu ra nhìn. Quách Tể thở dài: “Lần này lại làm vỡ cái gì?”
“Không… không làm vỡ…” Tì nữ Mạc Lan đã sắp khóc: “Là xé rách… bức Vân Khê Hành Ngâm Đồ của Cố Khải Chi…”
“Hả…?” Quách Tể ngã bệt xuống đất, không nói được gì nữa, cả người gần như nhũn ra.
“Sau đó… Sau đó tiểu thư bất cẩn, va đầu vào chiếc bình gốm thời Đông Hán của ngài…” Tì nữ nói tiếp.
“Ôi chao!” Quách Tể lập tức kêu một tiếng sợ hãi, bật người dậy: “Tiểu thư thế nào? Có làm sao không?”
Nói xong liền chạy vào nội viện, chạy được vài bước bỗng dừng lại, lúng túng nói với Huyền Trang: “Xin lỗi đại sư, tiểu nữ có thể bị thương, hạ quan tạm cáo lui một lát.”
Huyền Trang bật cười, gật đầu. Quách Tể cũng không có tâm tư giữ ý thêm nữa, vội vã chạy đi.
Huyền Trang cảm khái không thôi. Một người khổng lồ cao lớn vụng về như vậy lại yêu quý ái nữ đến mức này, kể cũng hiếm thấy.
Đêm đó Huyền Trang liền ngủ lại trong nhà Quách Tể. Hai phía đông tây sân đều là sương phòng, ngài và Ba La Diệp ngủ ở sương phòng phía đông, ngồi nhập định trên giường một lúc lâu, suy nghĩ vẫn còn hỗn loạn. Rốt cuộc vì sao nhị ca lại giết sư phụ là đại sư Huyền Thành? Bây giờ nhị ca ở đâu? Vì sao nhị ca lại tới huyện Hoắc Ấp, bức tử Thôi huyện lệnh? Kỳ quái hơn là Thôi huyện lệnh này sau khi chết tại sao lại thành phán quan dưới ngục Nê Lê?
Trăng sáng giữa trời chiếu xuống cây ngô đồng, in bóng vào cửa sổ, cành cây giống như sừng rồng. Có lẽ ngày xưa Thôi phán quan đã treo cổ trên chính cành cây này.
Bóng cành cây trên cửa sổ lay động trong gió, giống như phía dưới có người treo cổ tự sát, thi thể đung đưa, lắc qua, lắc lại…
Mấy ngày sau đó Huyền Trang vẫn ở lại trong nhà Quách Tể. Quách Tể nhờ ngài làm một tràng pháp sự trừ tà cho Ưu Nương. Huyền Trang đã biết “vết dao cưa” trên người Lý phu nhân là chuyện gì, đâu thể chấp nhận việc làm pháp sự, như vậy chẳng phải là lừa gạt người hay sao? Thế là ngài tìm mọi cách từ chối, chỉ nói huyện nha đã được xây dựng mấy trăm năm, tụ âm khí, chỉ cần sớm chiều tụng kinh niệm phật một chút là được. Quách Tể cũng không tiện nài ép quá mức nên đành phải đồng ý, nhưng yêu cầu được phụng dưỡng Huyền Trang thêm mấy ngày để tỏ lòng kính Phật.
Phụng dưỡng Phật tăng là chuyện quá mức bình thường, Huyền Trang không đành lòng từ chối thịnh tình của Quách Tể, đành phải ở lại trong nhà ông ta. Quách Tể còn có việc công ở nha môn, không thể lúc nào cũng ở bên nên bảo phu nhân ra tiếp đãi ngài. Thái độ của Lý Ưu Nương đối với Huyền Trang rất lạnh nhạt, luôn luôn giữ ý tứ, hạn chế tiếp xúc, trừ lúc cần thiết còn lại đều không thấy bóng người. Huyền Trang cũng không để tâm, mỗi ngày ngoài việc ngồi nhập định niệm kinh, thời gian còn lại đều lấy kinh Phật trong hòm sách của mình ra nghiên cứu.
Chỉ có Ba La Diệp là sung sướng nhất, gã này xem như đã tìm được đất dụng võ. Hắn đi theo Huyền Trang mấy tháng, phần lớn là ăn bờ ngủ bụi, màn trời chiếu đất, bây giờ cuộc sống đã “ổn định” lại, khiến hắn cảm thấy thật thỏa mãn. Gã này bắt đầu phát huy khả năng mồm mép, thường xuyên đấu võ mồm với Mạc Lan và cả Cầu Nhi, sau mấy ngày đã rất thân thiết với nhau, ngay cả chuyện phụ mẫu Cầu Nhi đính thân từ khi còn bé cũng hỏi dò ra được.
Một buổi trưa nọ, Huyền Trang đang nghiên cứu quyển “Thành Thực Luận” được đại sư Đạo Thâm chú giải, Ba La Diệp lấm lét đi vào với vẻ mặt khác lạ. Huyền Trang nhìn hắn một chút rồi lại cúi đầu tiếp tục đọc sách. Ba La Diệp ngồi lên giường của Huyền Trang, nói với vẻ mặt bí hiểm: “Đại sư! Đệ tử, hỏi thăm được một, bí mật. Một bí mật, rất trọng đại.”
“Sao?” Huyền Trang ngước mắt lên: “Bí mật gì?”
Ba La Diệp liếc nhìn ra ngoài cửa một cái, rồi nói nhỏ: “Ngài biết, tiểu thư nhà huyện lệnh, tên là gì, không?”
Huyền Trang suy nghĩ một lát: “Hình như gọi là Lục La. Đã từng nghe Quách minh phủ nói đến một lần rồi.”
“Ơ… Không phải, tên.” Ba La Diệp vỗ vỗ đầu: “Là họ?”
Gã người Thiên Trúc này vẫn chưa biết hết được vô số dòng họ ở Đại Đường, cũng khó mà tưởng tượng vì sao ngay cả dân nghèo cũng có họ của mình, chuyện này ở Thiên Trúc là rất khó tin.
“Họ?” Huyền Trang cười: “Tất nhiên là họ Quách.”
“Không phải, không phải.” Ba La Diệp lộ vẻ đắc ý: “Tiểu thư lại không, phải họ Quách, mà là, họ Thôi!”
Huyền Trang chợt ngây người ra. Sao có thể như vậy được? Con gái không theo họ thân phụ? Trừ khi Quách Tể đến ở rể nhà vợ, có điều xem ra cũng không giống! Đường đường là một huyện lệnh… Trước kia là huyện úy, dù là huyện úy thì việc ở rể cũng rất khó tin!
Ba La Diệp cũng không ra vẻ cao thâm nữa: “Đại sư, ta đã hỏi thăm, được rồi. Vị tiểu thư này, đích xác mang họ Thôi. Tiểu thư, không phải, con đẻ, của Quách huyện lệnh. Phu nhân và, nhi tử, của Quách huyện lệnh, rất nhiều năm trước, đã bị, người Đột Quyết, giết chết. Lý phu nhân, ở góa, nuôi nữ nhi, sau đó mới lấy, Quách huyện lệnh.”
“À.” Huyền Trang gật đầu, không mấy để tâm lắm. Dù sao cuối thời Tùy đại loạn, vô số gia đình ly tán, bây giờ loạn thế đã bình định, các gia đình xây dựng lại cũng là chuyện bình thường: “Đây là chuyện riêng tư của người khác, không được tùy tiện hỏi thăm. Biết không?”
Ba La Diệp không đồng ý: “Người trong huyện, đều biết, không phải, chuyện riêng tư.” Rồi hắn tỏ vẻ nghiêm trọng hơn: “Nhưng mà, đại sư, ngài biết, cố phu, của Lý phu nhân, là ai, không?”
“Là ai?” Huyền Trang bỗng thấy hắn nghiêm mặt như thế cũng hơi tò mò.
“Huyện lệnh, tiền nhiệm, Thôi Giác!” Ba La Diệp chỉ ra ngoài cửa sổ: “Người treo cổ, trên cây, đó.”