Chương 4 Chùa Hưng Đường, miếu phán quan
Trải qua vụ án này, Huyền Trang không thể ở lại nhà Quách Tể thêm nữa. Dù sao thì ngài và Ba La Diệp cũng liên quan đến vụ án mạng, còn Quách Tể lại là huyện lệnh đại lão gia, cần tránh điều tiếng. Huyền Trang liền cáo từ Quách Tể, tìm đến chùa Hưng Đường ở phía đông thành tá túc.
Một hòa thượng, một người Thiên Trúc phiêu bạt rời khỏi huyện Hoắc Ấp trong một buổi sáng mặt trời vừa lên, từng bước đi đến chân núi Hoắc ở thành đông. Huyền Trang vẫn đeo chiếc hòm sách to lớn của ngài. Ba La Diệp mang y phục và đồ dùng hàng ngày của hai người, thuận theo con đường nhỏ đi từ cửa đông thành đến núi Hoắc.
Thời Tùy Đường, núi Hoắc là một ngọn núi rất nổi tiếng. Trong số những ngọn núi lưu truyền sách sử, sánh vai với Ngũ nhạc còn có Ngũ trấn, trong đó núi Hoắc được gọi là “Trung trấn”, địa vị ngang với Trung nhạc Tung Sơn sau này. Người Đường còn nói sơn thần núi Hoắc là người “quản hết danh sơn hải nội”, có thể thấy địa vị của núi Hoắc như thế nào. Năm Khai Hoàng thứ mười bốn, Tùy Văn Đế hạ chiếu xây miếu Trung trấn, quy mô to lớn. Đến năm Vũ Đức thứ tư, Bùi Tịch dâng biểu nói lúc đầu bệ hạ khởi binh bị Tống Lão Sinh chặn tại Hoắc Ấp, được sơn thần núi Hoắc chỉ bảo mới phá được Tống Lão Sinh, lập ra nước Đại Đường, xin bệ hạ xây chùa ở nơi phá Tống Lão Sinh khi đó để lễ kính Phật Tổ.
Lý Uyên mừng rỡ, lập tức hạ chiếu thi công và ban danh là chùa Hưng Đường. Thực ra ông cũng biết rõ, khi đó bị chặn ở Hoắc Ấp, vốn mình định lui về Thái Nguyên. Nhưng Lý Thế Dân nghe theo kế sách của Thôi Giác quyết định xuất chiến, nhờ thế mới phá được Tống Lão Sinh, đánh thắng trận chiến cực kỳ quan trọng này. Có điều chuyện này lại không thể thừa nhận, làm gì có chuyện mình định rút lui chứ? Vừa may ông bạn già Bùi Tịch biết tâm tư của mình nên nói là sơn thần núi Hoắc chỉ bảo, thế mới đúng chứ! Mình được thần linh chỉ bảo, thần linh cũng phù hộ Đại Đường!
Nhưng sau khi hạ chiếu thư, Thượng thư bộ Công là Vũ Sĩ Hoạch lại dâng sớ nói bộ Dân[*] không chịu chi tiền. Thượng thư bộ Dân là Tiêu Vũ thì kêu khổ nói không có tiền, nói thần được người đời gọi là kẻ nịnh Phật, ngay cả nhà cửa của mình cũng hiến làm chùa, nếu bộ Dân có tiền, thần lại dám không chi hay sao? Nhưng mà thật sự là không có tiền!
[*] 38 Sau khi Đường Cao Tông kế vị, để tránh tên húy của Đường Thái Tông Lý Thế Dân nên đã đổi tên bộ Dân thành bộ Hộ, những đời sau vẫn giữ tên này.
Lý Uyên không làm thế nào được, thế là việc này thành đầu voi đuôi chuột.
Khi đó chuyện này lưu truyền rất rộng trong giới sư tăng, đến tận bốn năm sau Huyền Trang đi đến Trường An vẫn còn nghe người ta nhắc tới. Sau đó nghe nói chùa Hưng Đường cuối cùng cũng đã được xây dựng, có điều xây dựng thế nào thì Huyền Trang không quan tâm lắm. Có lẽ cùng với quốc lực của Đại Đường từ từ hùng mạnh, thiên tử họ Lý cuối cùng vẫn phải báo đáp ân tình của sơn thần núi Hoắc.
Ra khỏi thành mười dặm liền vào núi, đường núi quanh co uốn lượn nhưng không hề hẹp, hai cỗ xe ngựa có thể chạy song song được. Hai bên đường khe núi dọc ngang, sông suối chảy xiết, đỉnh núi xung quanh dựng đứng nguy nga. Trên đường có không ít người qua lại, phần lớn là đến chùa Hưng Đường dâng hương, còn có người đến miếu phán quan. Hai người đi đã mệt, thấy cách đường lên núi phía trước không xa có quán trà, một đám khách dâng hương đang ngồi uống trà, thế là cũng đi tới ngồi nghỉ.
Xung quanh chùa, địa vị của giới sư tăng rất cao. Thứ nhất là bởi vì xung quanh phần lớn là tín dân, quan trọng hơn là chùa có rất nhiều đất đai. Đời Đường chẳng những ban đất đai cho chùa mà còn chia ruộng cho các hòa thượng, Huyền Trang cũng có ba mươi mẫu đất ở Ích Châu. Ngoài ra quý tộc, quan chức, thậm chí giới bình dân cũng hiến rất nhiều đất đai cho chùa chiền. Như chùa Hưng Đường này mới xây được sáu năm đã có hàng vạn mẫu đất, trong phạm vi vài chục dặm xung quanh, tuyệt đại đa số các nông hộ đều cày cấy trên đất của nhà chùa.
Chủ quán trà là một đôi vợ chồng già. Huyền Trang còn chưa tới phía trước quán, ông già chủ quán đã ân cần đi ra đón: “Đại sư đi đường vất vả, mời vào trong ngồi. Tiểu nhân có trà ngon hầu hạ.”
Vừa nói vừa gọi với vào trong: “Bà nó, mau mang trà ngon ra…”
Quán trà này rất đơn sơ, dựng một túp lều giữa vách núi và một cây liễu, bày mười mấy chiếc ghế con, sau đó khiêng bảy tám tảng đá mặt trên bằng phẳng đến làm bàn. Bà già ở phía sau pha trà, còn ông già thì đứng phục vụ khách.
Vừa nhìn thấy có hòa thượng đến, mười mấy khách hành hương đang uống trà trong đó có cả người Hồ đầu quấn vải trắng đều đứng lên thi lễ. Huyền Trang chắp tay đáp tạ, đặt hòm sách xuống đất, cùng Ba La Diệp ngồi xuống ghế. Ông già mang ấm trà ra, nhìn hòm sách của Huyền Trang, cười nói: “Đại sư đi đường xa mà đến đấy ạ?”
“Bần tăng từ Trường An đến.” Huyền Trang nói: “Đến chùa Hưng Đường tham học.”
“Ôi chao, ra là cao tăng từ Trường An đến!” Mười mấy người khách dâng hương lập tức trở nên hưng phấn.
“Lão trượng, đến chùa Hưng Đường đi thế nào?” Huyền Trang nhìn ra ngoài. Nơi này có hai ngã rẽ, theo dãy núi có một đường đi về phía bắc, một đường đi về phía nam.
“Vâng, đại sư cứ đi về phía bắc, đi khoảng mười dặm là tới rồi.” Ông già chỉ đường cho ngài: “Còn rẽ về phía nam là đến miếu phán quan.”
“Miếu phán quan?” Huyền Trang hơi ngạc nhiên, thì ra miếu phán quan cũng ở vùng này.
Mọi người cho rằng Huyền Trang không biết, lập tức có một vị khách dâng hương giải thích: “Thưa đại sư, miếu phán quan này linh nghiệm lắm! Trong miếu thờ huyện lệnh tiền nhiệm của huyện Hoắc Ấp ta, Thôi Giác đại nhân.”
“Vị Thôi đại nhân này quả thật là quan phụ mẫu của bách tính!” Một vị khách dâng hương khác nói: “Nghe nói ngài ấy được trời ban cho một đôi mắt âm dương, đêm xử cõi âm, ngày xử cõi dương, cai quản Hoắc Ấp ngày không nhặt của rơi, đêm không cần đóng cửa, gian tà tiểu nhân không dám phạm pháp. Sau khi chết, ngài trở thành phán quan dưới ngục Nê Lê, bất kể bách tính có oan tình khổ nạn gì cứ đến khẩn cầu là sẽ được thỏa nguyện!”
“Không chỉ có thế!” Một vị khách dâng hương cao tuổi khác nói chen vào: “Ngay cả chùa Hưng Đường này cũng là Thôi đại nhân xuất vốn ra xây dựng. Lão hán có một đứa cháu trai năm đó làm sổ sách ở công trường, nghe nói đã dùng hết ba vạn quan cơ đấy! Đại sư, ngài đã xem hết chùa chiền trong thiên hạ, nhưng chùa Hưng Đường so ra xem chừng cũng không thua kém chùa miếu nào.”
Tin tức này khiến Huyền Trang kinh hãi: “Chùa Hưng Đường là do Thôi đại nhân bỏ vốn ra xây? Lúc bần tăng ở Trường An nghe nói là triều đình hạ chiếu xây dựng cơ mà?”
Vị khách dâng hương già nói: “Triều đình muốn xây nhưng không có tiền, lệnh cho đạo Hà Đông bỏ tiền ra. Lúc đó Đột Quyết và quân Lương đều không ngừng xâm phạm, đạo Hà Đông cũng không có tiền, thế là Thôi đại nhân tự mình bỏ vốn ra, điều động mười vạn dân phu ở Tấn Châu, mất thời gian ba năm mới hoàn công. Ôi, tiếc là chùa mới xây xong, Thôi đại nhân đã qua đời rồi.”
Ba La Diệp nghe rất chăm chú, nhỏ giọng nói thầm vào tai Huyền Trang: “Đại sư, ba vạn quan, tiền này, ngang với thuế, thu cả năm, của tám huyện, Tấn Châu. Vị huyện lệnh, Thôi Giác này, bổng lộc mỗi tháng, hai quan một trăm tiền. Hắn lấy, đâu ra nhiều, tiền thế để, xây chùa?”
Nghi vấn của Ba La Diệp cũng hợp lý. Nhà Đường vừa lập nước, quốc lực thiếu thốn, ngoài đất hoang vô chủ là nhiều, còn lại cái gì cũng thiếu, đừng nói là tiền được đúc bằng đồng. Chỉ cần nghĩ bổng lộc mỗi tháng của Thôi Giác chỉ có hai quan một trăm tiền là sẽ thấy ba vạn quan lớn đến mức nào.
Ánh mắt Huyền Trang chợt sáng lên, trên mặt lại hé nở nụ cười: “Ngươi thấy thế nào?”
“Ta thấy…” Ba La Diệp gãi đầu: “Việc này, kỳ lạ.”
Huyền Trang chỉ cười không đáp, quay lại hỏi ông già chủ quán: “Lão trượng, bây giờ trụ trì chùa Hưng Đường là vị đại sư nào?”
“À, là Không Thừa đại sư.” Ông già cung kính đáp, trên mặt hiện ra vẻ sùng kính: “Vị đại sư này chính là cao tăng! Ngài biết sư phụ của Không Thừa đại sư là ai không?”
Huyền Trang suy nghĩ một lát, không hề có ấn tượng quá sâu với cái tên này, đành phải lắc đầu.
“Là Pháp Nhã thánh tăng đấy!” Ông già cười nói: “Vị thánh tăng này là tiên phật trên trời hạ xuống, có thể rải đậu thành binh, trấn yêu phục ma, trước biết một ngàn năm, sau biết năm trăm năm! Rất nhiều năm trước Pháp Nhã thánh tăng đã tiên đoán Tiền Tùy sẽ diệt nên rời núi phò tá Đường Vương dựng nên giang sơn Đại Đường này!”
Khách hành hương xung quanh xem ra đều biết Pháp Nhã, lập tức thảo luận sôi nổi.
Huyền Trang không khỏi cười yên lặng. Ngài không biết Không Thừa, nhưng đối với Pháp Nhã lại biết tương đối rõ. Pháp Lâm, Pháp Nhã, Đạo Nhạc, Tăng Biện, Huyền Hội là ngũ đại danh tăng ở Trường An, trong đó tiếng tăm với địa vị của Pháp Lâm còn ở trên Pháp Nhã. Huyền Trang đã ở Trường An năm năm, qua lại mật thiết với ngũ đại danh tăng.
Thời Tiền Tùy, Pháp Nhã là tăng sĩ tu tập ở đạo Hà Đông, tướng mạo khôi ngô, thông tuệ hơn người, đầu óc nhạy bén, sở học đa dạng, Phật - Đạo - Nho không gì không thông, tam giáo cửu lưu không gì không biết, cầm kì thi họa, thơ văn ca phú, y thuật bói toán không gì không hiểu. Huyền Trang ấn tượng sâu sắc với người này cũng vì thế. Ngài cùng cao tăng thiên hạ tranh luận mười năm, gần như chưa từng bại trận, có điều đối mặt với vị cao tăng Pháp Nhã này lại có chút bó tay bó chân. Không phải Pháp Nhã hiểu rõ phật lý hơn ngài mà là người này dẫn chứng phong phú, khéo ăn khéo nói, đối phương suy nghĩ mạch lạc sẽ bị Pháp Nhã khuấy đảo, đối phương suy nghĩ rối rắm sẽ bị Pháp Nhã vặn cho choáng váng.
Người này lợi hại nhất ở chỗ tinh thông chiến trận!
Chuyện này rất khác thường, một hòa thượng chưa từng ra sa trường, chưa từng làm quan chức nhưng lại nắm rõ bài binh bố trận, hành quân đánh trận như lòng bàn tay, cũng không biết ông ta học từ đâu.
Năm Đại Nghiệp thứ mười một, khi Lý Uyên vẫn là phủ úy đại sứ ở Hà Đông, Sơn Tây tình cờ gặp Pháp Nhã trên phố, Pháp Nhã đã quả quyết Lý Uyên sau này nhất định đại quý.
Lý Uyên cũng ngưỡng mộ người này học thức uyên bác, cực kỳ khâm phục, thế là mời ông ta về phủ, gọi các con trai Lý Kiến Thành, Lý Thế Dân và Lý Nguyên Cát đến tham bái. Từ đó Pháp Nhã bôn tẩu khắp nơi, hoạch định việc khởi binh phản Tùy cho Lý Uyên. Sau khi Lý Uyên khởi binh lại để Pháp Nhã tham dự những chuyện cơ mật trọng yếu, khuyên bảo thế nào cũng luôn nghe theo, có thể nói là quyền khuynh thiên hạ. Sau khi Lý Uyên lập ra nhà Đường muốn Pháp Nhã hoàn tục để phong quan nhưng Pháp Nhã không chịu, thế là Lý Uyên lệnh cho Pháp Nhã làm trụ trì chùa Quy Hóa.
Có điều chức vụ trụ trì của Pháp Nhã lại không giống các tăng sĩ tầm thường mà có đặc quyền cực lớn, có thể ra vào cấm cung bất cứ lúc nào. Sau vụ binh biến Huyền Vũ môn, Lý Uyên thoái vị, Lý Thế Dân lên ngôi đã hủy bỏ đặc quyền ra vào cấm cung của Pháp Nhã. Vị hòa thượng này mấy năm nay cũng không còn nhiệt tâm với việc nước mà an tâm lo việc Phật, bình thường trao đổi chuyện tu thiền với Huyền Trang cũng rất hợp nhau.
Còn chuyện rải đậu thành binh, trấn yêu phục ma thì Huyền Trang chưa từng thấy, bản thân Pháp Nhã cũng chưa bao giờ nói, có lẽ chỉ là truyền thuyết của người dân vùng núi.
Có điều trụ trì chùa Hưng Đường là đệ tử của Pháp Nhã cũng coi như là tin tốt đối với Huyền Trang, ít nhất xem như người quen.
Lại nói chuyện với khách dâng hương vài câu, uống mấy bát nước trà, ăn bánh hồ Ba La Diệp mang theo, Huyền Trang đứng dậy cáo từ, sai Ba La Diệp lấy trong bọc ra một đồng tiền đưa cho chủ quán. Ông già vừa nhìn thấy liền giãy nảy: “Ôi chao, là Khai Thông Nguyên Bảo… Mấy bát trà có bao nhiêu tiền, lão hán coi như cung phụng còn thấy xấu hổ, nào dám lấy tiền của ngài… Lại còn là Khai Thông Nguyên Bảo! Lão hán tuyệt đối không dám nhận.”
“Là Khai Nguyên Thông Bảo.” Huyền Trang cười. Sau thời Tây Hán, bảy trăm năm trước nhà Đường, loại tiền thông hành ở Trung Quốc đều là tiền năm thù[*]. Sau khi Lý Uyên lập nên nhà Đường liền đúc một loại tiền mới, tiền văn gọi là “Khai Nguyên Thông Bảo”. Có điều khi đúc tiền, bộ Dân không chú ý tới một vấn đề. Trước đó bất kể tiền năm thù hay là mấy thù, trên đồng tiền chỉ có hai chữ, một trái một phải hoặc một trên một dưới, khi đọc sẽ không có vấn đề gì. Nhưng đây là có bốn chữ Khai Nguyên Thông Bảo, hai chữ Khai Nguyên phải đọc từ trên xuống dưới, hai chữ Thông Bảo phải đọc từ phải qua trái, quá phức tạp đối với dân chúng. Vừa cầm lấy đồng tiền, người dân liền xoay quanh mà đọc, thế là đọc thành “Khai Thông Nguyên Bảo”. Tất cả mọi người đều gọi loại tiền mới này là “Nguyên Bảo”, ngay cả triều đình cũng không làm thế nào được, đến lúc đúc tiền lần nữa, chữ viết trên đồng tiền cũng được lược bớt thành hai chữ “Nguyên Bảo”.
[*] 39 Thù là một đơn vị trọng lượng thời xưa. Hai mươi bốn thù là một lạng, một lạng thời đó bằng nửa lạng bây giờ.
“Lão trượng nhận lấy đi.” Huyền Trang nhất quyết nhét đồng tiền vào tay ông lão. Những người khách hành hương xung quanh cũng biến sắc mặt, vị hòa thượng này quá hào phóng rồi. Cũng khó trách ông già chủ quán không dám nhận, lúc này một đấu gạo mới chỉ có giá chừng ba bốn đồng.
Rời khỏi quán trà tiếp tục đi về phía bắc, không đến một canh giờ sau, vòng qua một đỉnh núi, tầm mắt bỗng chốc được mở rộng hơn, có thể nhìn thấy vô số đền chùa trùng trùng điệp điệp trải khắp sườn núi xa xa, lộng lẫy huy hoàng dưới ánh mặt trời, giống như cả ngọn núi đều được lát bằng gạch xanh ngói đỏ. Hai người đều trợn mắt ngơ ngác nhìn một hồi lâu, quy mô của ngôi chùa này đúng là quá lớn, tầng tầng lớp lớp chạy dọc theo sườn núi, cũng không biết có bao nhiêu đại điện, bao nhiêu tòa viện.
“Ba vạn quan, này, không uổng phí.” Ba La Diệp lẩm bẩm.
Huyền Trang lặng im không đáp, trong lòng ngài đột nhiên xuất hiện một ý nghĩ mơ hồ, lại không dám nói ra ngoài miệng, đành phải miễn cưỡng đè xuống, im lặng đi đến chùa Hưng Đường.
Đến cuối buổi chiều cuối cùng cũng đi đến trước cổng của chùa Hưng Đường, sắc trời đã muộn, khách dâng hương phần lớn đã ra về, trước cổng chùa rất yên tĩnh, có hai sa di chậm rãi cầm chổi quét. Thấy Huyền Trang đi tới, một trong hai sa di đi tới chắp tay: “Đại sư từ nơi nào đến? Có cần tá túc hay không?”
Huyền Trang đặt hòm sách xuống, lấy độ điệp trong hòm ra đưa cho sa di: “Bần tăng Huyền Trang từ Trường An đến, mộ danh tới đây tham quan mở mang kiến thức.”
Sa di vội vàng đặt chổi xuống, nói: “Mời đại sư đi theo ta tới Vân Thủy Đường gặp tăng sư huynh chức sự.”
Sa di dẫn Huyền Trang qua cổng chùa, không hề đi tới Thiên Vương Điện mà rẽ trái vào cửa ngách, đi qua một sân rộng đến bên ngoài một thiền đường rộng đến hai mẫu. Ngoài thiền đường có tham đầu tăng[*], sa di nói sơ qua sự tình rồi đi ra. Hơn mười năm nay Huyền Trang vẫn tá túc tại các chùa nên biết rất rõ quy định, lập tức đứng yên phía bên phải cửa phòng. Thấy có hòa thượng đến tá túc, tham đầu tăng liền gọi với vào bên trong thiền phòng: “Tạm ra gặp khách…”
[*] 40 Một trong mười hai chức vụ thuộc tây tự theo quy định của Phật giáo, ngoài ra còn có mười hai chức vụ thuộc đông tự.
Tri khách tăng[*] bên trong thiền phòng biết có hòa thượng đến tá túc, một tri khách tăng có nụ cười hiền từ đi ra đón: “Ai da, A Di Đà Phật, sư huynh ở xa tới, vất vả rồi, mau mời vào.”
[*] 41 Ở trong chùa, tri khách tăng là hòa thượng chịu trách nhiệm tiếp đãi khách của chùa, người này cũng nắm quyền quyết định có cho khách tá túc tại chùa hay không. Người xin nhập chùa phải qua vòng kiểm tra của tri khách, nếu không qua được thì phải đi ngay, không được nán lại chùa.
Sau khi Huyền Trang châm hương kính Phật, hai người ngồi xuống bồ đoàn, tri khách tăng sai tiểu sa di mang trà bánh lên, bắt đầu hỏi han lai lịch. Đây là những thủ tục khi đến chùa khác tá túc, Huyền Trang cẩn thận đưa độ điệp tới, nói rõ ràng lai lịch của mình.
“A Di Đà Phật, ai da.” Vị tri khách tăng này xem độ điệp, nghe Huyền Trang tự thuật, lập tức thán phục. Hai câu cửa miệng này của hắn không phân trước sau, nhưng mỗi lần mở miệng nói đều phải có đủ: “Từ Ích Châu đến Trường An, từ Trường An đến Hoắc Ấp, đường sư huynh đi quả thật là không gần! Đi mất bao lâu?”
Huyền Trang kinh ngạc, ngài biết phải trả lời thế nào? Ngài suy nghĩ một lát, nói đúng sự thật: “Bần tăng đã đi mười năm.”
“Ai da…” Tri khách tăng ngây ra, một hồi lâu mới nhớ ra phải nói nốt câu còn lại: “A Di Đà Phật…”
Mặc dù là ngữ khí cảm thán, nhưng trong lòng người này vẫn nhận định hòa thượng trước mặt mình có bệnh nên hơi lạnh nhạt, không nói gì thêm nữa, lấy phiếu đơn ra viết thông tin về Huyền Trang như họ tên, quê quán, sai tiểu sa di đưa tới cho trụ trì. Tăng sĩ vân du muốn tá túc phải lễ bái trụ trì trong chùa, trước khi lễ bái phải bẩm báo thông qua tri khách tăng, nếu được chấp thuận mới có thể lễ bái. Mà trụ trì bình thường phải đợi đến lúc vân du tăng đạt tới số lượng nhất định mới tiếp kiến cùng lúc, nếu không một số chùa có nhiều tăng sĩ đến tá túc, ai đến cũng phải tiếp kiến thì trụ trì còn làm được việc gì nữa.
Nể tình Huyền Trang từ Trường An đến, tri khách tăng cũng câu được câu chăng trò chuyện với ngài nhưng vẻ mặt rất lạnh nhạt. Đúng lúc này tiểu sa di vừa nãy vội vã chạy vào: “Sư huynh, sư huynh, trụ trì đến rồi!”
Tri khách tăng giật mình: “Ai da, A Di Đà…”
Còn chưa nói xong tiếng “Phật”, ngoài sân đã vang lên tiếng bước chân. Một hòa thượng khoảng năm mươi tuổi khoác áo cà sa bước nhanh vào thiền phòng. Bên cạnh còn có hai hòa thượng trung niên đi theo. Vừa vào trong thiền viện, hòa thượng đó liền cao giọng hỏi: “Tuệ Giác, Tuệ Giác, đại sư Huyền Trang từ Trường An đến ở đâu?”
Tri khách tăng Tuệ Giác liếc nhìn Huyền Trang một cái, sau đó vội vàng chạy ra đón: “Sư phụ, đại sư đang ở trong thiền đường.”
“Mau mời… À để ta tự đi vào.” Lão hòa thượng vén áo cà sa chạy vào thiền đường, nhìn thấy Huyền Trang lập tức cười to: “A Di Đà Phật, đại sư Huyền Trang!”
Huyền Trang vội vàng đứng lên chắp tay khom người: “A Di Đà Phật, bần tăng Huyền Trang. Ngài là đại sư trụ trì?”
“Bần tăng Không Thừa.” Không Thừa cười ha ha chào Huyền Trang: “Tháng trước nhận được thư của sư phụ ta là đại sư Pháp Nhã, nói đại sư Huyền Trang năm ngoái mới rời khỏi Trường An đến vùng Hà Đông vân du, dặn bần tăng lưu ý một chút. Bần tăng còn hy vọng nếu đại sư có thể đi tới tệ tự thì tốt quá, bần tăng có thể thỉnh giáo Phật pháp, tham tường nghi điển. Không ngờ Phật Tổ an bài, để bần tăng thật sự gặp được đại sư.”
“Ai da, A… A Di…” Huyền Trang còn chưa nói gì, Tuệ Giác đã chết sững, trên cái trán nhẵn thín rịn ra toàn là mồ hôi lạnh. Hắn không ngờ vị hòa thượng này lại có lai lịch lớn như vậy, ngay cả trụ trì nhà mình cũng phải đích thân ra nghênh đón, thái độ còn rất cung kính. Nhớ lúc nãy mình tiếp đón quá mức lạnh nhạt, Tuệ Giác lập tức căng thẳng, câu cửa miệng cũng không nói hoàn chỉnh được.
Huyền Trang mỉm cười khách sáo vài câu nói Không Thừa, Không Thừa lập tức sai Tuệ Giác tự mình đi thực hiện các thủ tục tá túc cho Huyền Trang. Tuệ Giác vội vàng vui mừng vâng dạ, vừa định chạy đi lại bị Không Thừa gọi lại: “Tuệ Giác, không cần để đại sư nghỉ ở Vân Thủy Đường. Con đi…”
Ông suy nghĩ một lát: “Con đi dọn dẹp viện Bồ Đề trước kia ta ở để đại sư Huyền Trang đến đó nghỉ ngơi đi!”
Cơ mặt Tuệ Giác run run, viện Bồ Đề này là viện trước kia trụ trì vẫn ở, gần như là thiền viện u tĩnh nhất, biệt lập nhất trong chùa. Sau đó Thượng thư Hữu Bộc xạ là Bùi Tịch đại nhân tuần tra đạo Hà Đông, đi tới chùa Hưng Đường. Để đón tiếp Bùi Tịch, trụ trì mới chuyển ra khỏi tòa viện này, sau đó không chuyển về nữa.
Hòa thượng này có lai lịch gì mà trụ trì lại coi trọng hắn như thế? Tuệ Giác chạy đi rất nhanh, trong lòng vẫn không khỏi thắc mắc.
Không Thừa lại sai hai sa di khiêng hòm sách và hành lý của Huyền Trang đến viện Bồ Đề, sau đó mới dẫn ngài đến thiền phòng của mình.
Huyền Trang xem như được mở rộng tầm mắt, quy mô của chùa Hưng Đường này đúng là nằm ngoài tưởng tượng. Ngoài những kiến trúc theo trục dọc ở chính giữa mà mỗi ngôi chùa đều có gồm Thiên Vương Điện, Đại Hùng Bảo Điện, Pháp Đường, Tàng Kinh Các với quy mô gấp đôi gấp ba bình thường, hai bên còn có thiền viện san sát, chỉ riêng Vân Thủy Đường cho các vân du tăng tá túc đã có cả trăm phòng.
Ngài đi theo Không Thừa rẽ trái rẽ phải liên tục đến mức đầu óc choáng váng, đi nửa canh giờ mới đến thiền viện của Không Thừa. Nơi này ở trên một vách núi, cửa viện quay mặt về vách núi, mười mấy tùng cổ thụ trên trăm tuổi uốn lượn lộ rõ thiền ý. Dưới gốc tùng có một tảng đá lớn màu trắng, mặt trên mài phẳng, đặt một bộ đồ trà, xung quanh có bốn chiếc đôn bằng đá. Sát bên vách núi là một bục cao bằng đá nguyên khối, xung quanh xây lan can bằng đá xanh, gió núi lồng lộng, từ dưới vực có từng sợi sương mù nhè nhẹ bay lên, thoạt nhìn giống như tiên cảnh.
“Đường quanh co tới nơi tĩnh mịch, thiền phòng cũng là chốn bồng lai. Tòa viện này của trụ trì thật sự không kém cảnh giới Tu Di.” Huyền Trang khen.
“Đâu có, đâu có.” Không Thừa cười nói: “Lão tăng mấy năm trước từ Trường An đi tới núi Hoắc, vẫn bận rộn thi công ngôi chùa này nên xao nhãng việc tụng niệm, bây giờ cũng chỉ tìm nơi u tĩnh này để bù lại mà thôi, đâu so được với đại sư chu du thiên hạ tranh luận khắp nơi để tìm đến đại đạo như vậy.”
Ba La Diệp đột nhiên nhìn thấy bên bờ vực lại còn có một “ngôi nhà” xinh xắn, gọi là nhà nhưng thực ra chỉ cao năm thước, một người lớn đứng thẳng trong đó sẽ chạm đến nóc nhà nên chỉ có thể ngồi được. Không gian trong đó cũng nhỏ, nhiều nhất chỉ có thể chứa hai đến ba người.
“Trụ trì, đại sư, một ngôi nhà, nhỏ như vậy, thì làm gì?” Ba La Diệp tò mò hỏi.
Huyền Trang cũng đã nhìn thấy. Không Thừa cười ha ha mà đáp: “Lão tăng gọi nó là lồng ngồi. Mấy năm nay bận chuyện thế tục, bỏ bê Phật pháp, lão hòa thượng này liền xây dựng chiếc lồng ngồi đó để mài giũa chính mình. Mỗi ngày ít nhất phải ngồi trong đó hai canh giờ.”
Huyền Trang không khỏi tràn ngập kính ý với vị lão tăng này, không ngờ ông ta lại có thể khổ tu như thế, đúng là mình đã hơi xem thường ông ta.
Đang là cuối tháng ba, trong núi vẫn còn hơi lạnh, Không Thừa mời Huyền Trang đến thiền phòng ngồi, sai sa di mang trà và bánh ngọt lên, hai người trò chuyện một lát. Không Thừa nói: “Đại sư lần này có thể ở lại chùa Hưng Đường bao lâu?”
“Chưa biết được.” Huyền Trang lắc đầu: “Hoặc tám mười ngày, hoặc vài ba tháng.”
Không Thừa gật đầu, cũng không hỏi mục đích Huyền Trang đến đây: “Đại sư đi tới tệ tự là phúc duyên lớn của tệ tự, nếu rỗi rãi không biết có thể giảng một chút kinh luận hay không? Nghe nói ngài ở Trường An giảng ‘Tạp Tâm Luận’, bất kể tăng chúng hay là cao quan quý tộc, hết thảy đều phải thán phục! Bây giờ ngài đến tệ tự, tệ tự đương nhiên không muốn bỏ lỡ.”
“Tất cả nghe theo trụ trì an bài.” Mục đích của Huyền Trang khi đi vân du chính là để tham học, đương nhiên sẽ không từ chối cơ hội như vậy: “Không biết trụ trì muốn bần tăng nói về vấn đề gì?”
“Vậy thì giảng ‘Duy Ma Cật kinh’ đi!” Không Thừa cười nói: “Lão tăng sẽ viết thư cho các chùa ở Tấn Châu mời các đại đức cùng đến chùa Hưng Đường, dùng kinh tranh luận, bàn về Phật học.”
Lại phải tranh luận một trận như với đại sư Trí Diễm ở Đông Tự đất Tô Châu. Huyền Trang cười khổ trong lòng, lại không thể từ chối được.
Thấy Huyền Trang đáp ứng, Không Thừa cực kỳ vui vẻ. Lúc này Tuệ Giác đến bẩm báo, nói viện Bồ Đề đã dọn dẹp xong. Không Thừa biết Huyền Trang đi đường xa đến, sai Tuệ Giác dẫn ngài đi tắm rửa nghỉ ngơi. Cơm chay được đưa thẳng đến viện Bồ Đề.
Theo Tuệ Giác đi vòng vèo một hồi nữa, non nửa canh giờ sau mới đến được viện Bồ Đề. Tòa viện này quả nhiên tốt, trong viện còn có cả suối nước nóng. Nước nóng từ dưới đất phun lên qua một tòa sen bằng bạch ngọc, phun mạnh ra ngoài từ tim sen, sau đó hội tụ thành một hồ nước rộng chừng một mẫu xung quanh. Suối nước nóng bốc hơi nước mịt mù làm mọi người chỉ nhìn đã thấy thoải mái trong lòng.
Xung quanh thiền viện yên tĩnh vô cùng vì có khoảng cách nhất định với Vân Thủy Đường, Hương Tích Trù và tăng phòng nơi đám đông tụ tập. Cổ tùng đung đưa, suối chảy róc rách, ánh nắng chiều nghiêng nghiêng chiếu xuống mặt suối bập bềnh sóng vàng, hợp thành một quầng sáng vàng trên suối, quả nhiên là Phật cảnh giữa chốn nhân gian.
“Nơi này, còn hơn, cả hoàng cung.” Ba La Diệp nhanh chóng tổng kết.
“Ngươi đã đến hoàng cung rồi à?” Huyền Trang cười hỏi.
Ba La Diệp sững sờ, lúng túng cười: “Đến rồi. Hoàng cung, của Giới Nhật Vương, nước Thiên Trúc.”
Huyền Trang cười ha ha.
Hai người đi đường cả ngày nên đều đã mệt, đêm hôm đó đi ngủ sớm. Viện Bồ Đề rất lớn, ngoài ba gian nhà chính, hai bên trái phải còn có bốn sương phòng, chỉ có hai người ở nên thấy rất trống trải.
Ban đêm càng thêm yên tĩnh. Gió len qua những cây tùng giống như những cơn sóng nhỏ bé lướt qua bên tai, hòa lẫn với tiếng nước róc rách như những viên bi ngọc va chạm vào nhau trong thiền viện, đó là tiếng hô hấp của vạn vật mà ngay đến trong mơ người ta cũng có thể cảm nhận được.
Sáng sớm hôm sau Huyền Trang thức dậy tụng kinh sớm. Tăng sư từ Hương Tích Trù mang đồ chay đến, bánh bột rán nhân rau cải, bánh nang chiên dầu thực vật, mấy loại bánh ngọt, một bình cháo ngô to. Huyền Trang ăn không nhiều, Ba La Diệp lại ăn rất khỏe, ăn no rồi còn gói mấy chiếc bánh lại. Huyền Trang nhìn mà thương xót, tự tay múc cháo cho hắn. Gã quản tượng nước Thiên Trúc cả đời này chưa được hưởng cuộc sống cơm no áo ấm, được người ta tôn kính. Khi ở nước Thiên Trúc thì càng không cần phải nói, thuộc tầng lớp tiện dân, ở tầng dưới cùng trong bốn tầng lớp, sau khi đến Đại Đường chủ yếu lang bạt khắp nơi biểu diễn tạp kĩ kiếm sống, từ khi đi theo Huyền Trang mới được yên ổn. Mặc dù vẫn bôn ba dặm đường nhưng ít nhất không cần bận tâm chuyện cơm áo nữa.
Ba La Diệp cười nói: “Đại sư, đây không phải, ta tham ăn. Đi theo ngài, ta đã rút ra, quy luật rồi. Cứ lên đường, là lỡ, bữa, thường xuyên, nhịn đói.”
Huyền Trang cười nói: “Bây giờ chúng ta đang ở trong chùa, làm sao mà phải nhịn đói.”
“Biết đâu được.” Ba La Diệp bĩu môi: “Ngài, không lúc nào, yên ổn.”
Huyền Trang cười ha ha. Ăn xong bữa sáng, Huyền Trang liền dẫn Ba La Diệp đi bái Phật trong chùa, Thiên Vương Điện, Đại Hùng Bảo Điện, Quan Âm Điện, Già Lam Điện, cung kính dâng hương lễ bái không bỏ qua nơi nào. Quy mô của chùa Hưng Đường này lại một lần nữa làm cho Huyền Trang thán phục không thôi. Hai người bắt đầu làm lễ từ Thiên Vương Điện dưới chân núi, cứ thế đi lên, đến tận cùng là Tàng Kinh Các không ngờ đã lên đến đỉnh núi Hoắc, bắt đầu từ giờ thìn đến tận giờ mùi mới xong, trọn bốn canh giờ!
Đỉnh núi Hoắc phong cảnh tuyệt đẹp. Nhà cửa đình viện của chùa Hưng Đường trải dài tầng tầng lớp lớp trước mắt giống như những tầng sóng bị đông cứng lại, kéo dài xuống dưới chân núi. Xung quanh là vô số những đỉnh núi xanh ngắt kéo dài ngút ngàn trước mắt, khiến lòng người thoải mái hơn hẳn. Có điều rất lạ là trên đỉnh núi này lại có mấy chục chiếc chong chóng khổng lồ, mỗi một chiếc chong chóng đều có tám cánh quạt như tám chiếc buồm cùng nối vào một trục, không ngừng quay tròn giống như đèn kéo quân.
Bốn năm mươi chiếc chong chóng quay tròn trong gió núi lồng lộng, thanh thế to lớn.
Huyền Trang cảm thấy kỳ lạ, trên núi này dựng nhiều chong chóng như vậy làm gì? Thấy cách đó không xa còn có một hòa thượng canh gác Tàng Kinh Các liền đi tới hỏi. Hòa thượng đó thấy Huyền Trang khí độ bất phàm, còn có một tùy tùng người Hồ, nên không dám thờ ơ, chắp tay nói: “Thưa đại sư, chong chóng này là để lấy nước từ dưới khe núi lên. Trên núi thiếu nước, trong những chiếc chong chóng này có dây xích truyền lực đúc bằng sắt nguyên chất kéo dài xuống dưới khe núi. Ở đó có guồng nước, dây xích và bánh răng của guồng nước ăn khớp với nhau kéo guồng nước quay tròn theo, có thể lấy nước từ dưới khe núi lên.”
“Đúng là chuyện thần kỳ!” Huyền Trang tán thán mãi không thôi. Ba La Diệp bên cạnh cũng miệng mồm há hốc, lưỡi díu lại, từ đỉnh núi dựa vào sức gió múc nước từ dưới khe núi đưa lên trên núi sao? Sao làm được vậy nhỉ?
Hòa thượng đó cười nói: “Thực ra từ guồng nước dưới khe núi cũng có thể dựa vào sức nước để lấy nước lên, có điều mỗi năm có mấy tháng là mùa nước cạn, lúc này không thể sử dụng sức nước được nữa, nhưng mùa nước cạn lại đúng là mùa gió núi rất mạnh. Bình thường phần động lực do những chiếc chong chóng này tạo ra chủ yếu được dùng để xay bột ở Hương Tích Trù.”
“Đúng là cách làm kì diệu, có thể tiết kiệm được rất nhiều sức người.” Huyền Trang khen: “Rốt cuộc là ai nghĩ ra?”
Hòa thượng cười nói: “Những thứ khác không hề phức tạp, cối xay gió và guồng nước đều có từ thời tiên triều, phiền phức duy nhất là dây xích truyền lực. Tất Lam trong thập thường thị thời Đông Hán đã tạo ra được loại dây xích đó nhưng cách thức chế tạo lại thất truyền từ lâu. Thôi Giác đại nhân tìm được một quyển sách không đầy đủ, nghiên cứu mấy năm mới làm lại được, thậm chí còn tốt hơn cả nguyên bản.”
Huyền Trang lập tức kinh hãi: “Thôi Giác? Huyện lệnh Hoắc Ấp tiền nhiệm? Đây là do ông ấy làm ra?”
“Đúng vậy!” Nhắc tới Thôi Giác, hòa thượng đó lộ vẻ cung kính, chắp tay nói: “Thôi thí chủ chính là đại tài trăm năm hiếm có, chùa Hưng Đường này chính là nhờ Thôi thí chủ phụ trách thi công, xây dựng thập toàn thập mỹ, từ việc to đến việc nhỏ đều rất chu đáo. Chỉ nói hàng ngàn trượng dây xích truyền lực này, để không ảnh hưởng đến việc đi lại của mọi người, tất cả đều được cho vào trong ống dẫn bằng sứ chôn sâu dưới nền đất. Tiếc là chùa vừa khánh thành không lâu thì Thôi thí chủ đã buông tay về tây rồi.”
Huyền Trang không khỏi biểu lộ sắc mặt kỳ dị, tại sao bất kể đến Hoắc Ấp hay là chùa Hưng Đường, gần như tất cả mọi chuyện đều liên quan đến Thôi Giác?
“Nghe nói từ đường của Thôi đại nhân cũng nằm trên núi Hoắc này?” Huyền Trang hỏi.
“Đúng vậy!” Hòa thượng đó giơ tay chỉ: “Ở trên sườn núi bên kia, cách nơi này không xa. Đại sư đi tới ngọn núi đối diện sẽ có thể nhìn thấy một miếu thờ, đó chính là miếu phán quan của Thôi đại nhân.”
Nghe hòa thượng nói như vậy, Huyền Trang lại càng thêm tò mò về vị đại tài tử đã tạo phúc cho Phật môn này. Vốn ngài cũng muốn đến miếu phán quan một chuyến, bây giờ nghe nói cách đây không xa, liền hỏi đường cẩn thận rồi dẫn theo Ba La Diệp đi men theo triền núi, tìm về phía miếu phán quan.
Núi Hoắc này rất dốc, khắp nơi đều là những vách đá dựng đứng, dù nói là không xa nhưng đường đi rất quanh co. Đi hai canh giờ, hai người lại bị lạc đường, cứ vòng vèo trong núi đến tận lúc xế chiều vẫn chưa tìm được đường đi. May mà Ba La Diệp mang theo bánh và một túi nước nên hai người mới không phải nhịn đói. Huyền Trang cũng phải bội phục gã này: “Ngươi đoán rất chuẩn, tại sao ngươi lại biết bần tăng sẽ rời khỏi chùa?”
“Ơ…” Ba La Diệp cười khổ: “Dự cảm. Theo ngài, nhiều lần nhịn đói, nên, đề phòng.”
Huyền Trang không nói được gì nữa.
“Ôi.” Ba La Diệp lại không hề đắc ý mà chỉ than vãn: “Còn không bằng, xuống núi, đi đường, từ quán trà, lúc trước.”
Huyền Trang cũng nghĩ vậy. Tất nhiên là hòa thượng đó không nói sai, đối với người biết đường thì không xa, còn người không biết đường thì vấn đề không phải là xa hay không mà là căn bản không thể tìm đến nơi được. May mà lúc hai người đang lạc đường trong núi thì lại gặp được một lão nông lên núi hái thuốc. Thấy có người hỏi đường, lão nông đó trợn mắt nhìn: “Đại sư, ngài muốn đến miếu phán quan à?”
Huyền Trang gật đầu. Lão nông cười khổ: “Miếu phán quan ở dưới chân ngài. Ngài cứ đi tới đi lui trên đỉnh núi này thì đi tới ngày mai cũng không đến được.”
Huyền Trang và Ba La Diệp nghẹn họng.
Sau khi cảm ơn, hai người đang định đi xuống, lão nông lại dặn dò: “Trong núi có rất nhiều hổ báo lang sói, bây giờ trời đã sắp tối, đại sư đến đó xong phải xuống núi ngay cho sớm. Từ đó về chùa Hưng Đường sợ là hai vị đi không kịp, lão hán họ Lưu, nhà ở thôn Thượng Tỉnh cách chân núi không xa, xuống núi đi về phía đông sáu dặm là tới. Nếu không tiện ở lại miếu phán quan, hai vị có thể đến nhà lão hán.”
Huyền Trang lại cảm ơn lần nữa, lão hán chỉ đường cho hai người cẩn thận rồi mới cáo từ.
“Người dân ở, Đại Đường này, đúng là, chân chất.” Ba La Diệp hết sức cảm khái: “Đại sư, ở nước Thiên Trúc, trung nông, như thế này, gọi là, phệ xá, là tầng lớp, thứ ba. Nhìn thấy một, thủ đà la, như ta, tuyệt đối không thèm, nói một câu, mà còn phải, tránh thật xa. Đại Đường mặc dù, giàu nghèo chênh lệch, lớn, tầng lớp cách biệt, cũng lớn, nhưng không hề, kỳ thị giai tầng, sắc bén, giống như lưỡi dao. Sĩ tộc, trong lòng, xem thường, hàn vi, nhưng ngoài mặt, lại rất thản nhiên.”
“Chúng sinh bình đẳng, con người không vì chiếm được bao nhiêu của cải mà phân tầng lớp tôn ti cách biệt, cũng không vì địa vị cao thấp khác nhau mà phân ra tốt xấu.” Huyền Trang nói: “Cái gọi là khác biệt về tôn ti, thay vì nói mục đích phân biệt là hòng mang lại trật tự, chi bằng nói thẳng ra là do dục niệm của con người. Cực lạc tịnh thổ trước tiên ở trong lòng ta, sau mới ở những nơi khác.”
Ba La Diệp thở dài: “Đại Đường, đối với ta mà nói, chính là, cực lạc tịnh thổ.”
Lão nông đó nói không sai, hai người đi thời gian một nén hương, vòng qua một tảng đá núi quả nhiên liền nhìn thấy miếu phán quan. Miếu cũng không lớn, có hai tòa viện, phía trước là đại điện, phía sau là năm sáu gian nhà để khách dâng hương nghỉ ngơi. Nhìn từ trên núi, miếu có vẻ thấp bé đơn sơ, nhưng đi đến phía trước mới thấy tòa đại điện của miếu phán quan này hùng vĩ thế nào. Cửa điện cao hơn hai trượng, mái ngói cong vút, lưng tựa vào một vách núi, tỏ rõ sự uy nghiêm bề thế.
Mặt trời trên núi lặn sớm, nắng mới ngả qua đầu, bóng núi đã phủ rạp xuống giống như màn đêm che phủ cảnh vật nơi đây. Trong điện đã lên đèn, gió núi thổi khiến rèm che lay động.
“Miếu phán quan, hương khói, rất thịnh, xem ra có, không ít người.” Ba La Diệp thở phào nhẹ nhõm: “Không cần đi, đường đêm, xuống núi. Còn có thể, ăn cơm no.”
“Chắc là có người coi miếu.” Huyền Trang gật đầu, cất bước đi lên bậc thềm.
Cửa điện đang đóng, hai người gọi vài tiếng lại không thấy có người trả lời. Ba La Diệp ngạc nhiên nói: “Vừa rồi xuống núi, nhìn thấy, có bóng người, mà!”
Huyền Trang cười gượng: “Có thể là đã vào hậu viện! Không có người mở cửa, chúng ta cũng không tiện xông vào.”
“Để ta gọi!” Ba La Diệp xung phong đi tới gõ cửa, không ngờ chỉ vỗ một cái, cửa đã két một tiếng mở ra.
Hai người đều rất bất ngờ, không gọi mà cùng nhìn thẳng vào bên trong điện, lúc bấy giờ mới thấy rợn tóc gáy, sởn hết gai ốc, suýt nữa ngã bệt xuống đất. Trong đại điện khắp nơi đều có người, đưa mắt nhìn sơ một lượt, ít nhất cũng phải có tới mười mấy người.
Nhiều người như vậy mà khi nãy hai người bọn họ vừa gọi vừa đập cửa mà không có người nào chịu đánh tiếng cả.
Nhìn lại kĩ hơn, những người này đều đang đồng loạt quỳ trên bồ đoàn trong đại điện, lưng đấu với trời, họ đang nằm rạp trên đất mà vái lạy.
Ba La Diệp thấy vậy mới thở phào nhẹ nhõm. Thì ra là thế, người ta đang tế bái, đương nhiên sẽ không có ai trả lời. Nhưng đợi thêm một lúc lâu những người này vẫn không hề nhúc nhích, không ngồi dậy mà cũng không nói gì, tiếp tục nằm rạp ra vái dài dưới đất, dường như đã bị đông cứng.
“Chúng ta, đi vào, xem xem.” Ba La Diệp cất bước định đi vào.
Huyền Trang đưa tay ngăn hắn lại, vẻ mặt nghiêm trọng. Tình hình có vẻ không ổn, làm gì có ai quỳ lạy như vậy? Dù có là thiện nam tín nữ thành kính bái Phật thế nào thì cũng không chịu nổi việc giữ nguyên một tư thế trong thời gian dài như vậy được. Ngài cau mày đợi thêm một lát rồi mới thận trọng bước vào đại điện. Những người này vẫn không hề có phản ứng gì. Sắc mặt Huyền Trang dần dần thay đổi, ngài khẽ vỗ lên lưng một ông già đang quỳ lạy ở hàng phía sau, không ngờ vừa chạm vào người, ông già đó đã ngã lăn sang một bên, người co cứng, cong vòng như một con tôm.
“A Di Đà Phật!” Huyền Trang cảm thấy vô cùng sợ hãi, mồ hôi lạnh túa ra, chảy ròng từ đỉnh đầu xuống tận trán.
Ba La Diệp cũng hoảng sợ tột độ. Hai người kinh hãi nhìn nhau một cái, Huyền Trang cắn răng, lại chạm vào mấy người khác. Những người này cũng lần lượt ngã lăn ra đất, không có ngoại lệ, tất cả vẫn giữ nguyên tư thế quỳ lạy, giống như đang quỳ lạy thì cả người bỗng nhiên đông cứng lại vậy.
Huyền Trang thầm niệm Kim Cương Chú, ngồi xuống thăm dò hơi thở của những người này, vẫn còn thở, mạch vẫn còn đập, nhưng mắt đều nhắm chặt, trên mặt mang nụ cười vui mừng, trông vô cùng quái dị.
Núi hoang, miếu cổ, đêm tối, ánh đèn, thân người cứng nhắc, nụ cười quái dị.
“Đại sư!” Ba La Diệp cũng có chút sợ hãi, lẩm bẩm nói: “Trong miếu này, không sạch sẽ.”
Lúc này Huyền Trang lại tập trung tinh thần ngẩng đầu nhìn bức tượng được thờ cúng chính giữa đại điện. Đó là một thư sinh khuôn mặt trắng trẻo, mặc áo choàng đỏ rực, trên đầu đội một chiếc mũ thông thiên kỳ lạ, xem ra là tượng của Thôi Giác. Chuyện này cũng bình thường, Thôi Giác là đại tài tử, đương nhiên dung mạo sẽ không xấu xí. Vấn đề ở chỗ tượng của Thôi Giác lại đang ngồi trên lưng hai con quỷ dạ xoa hình dạng dữ tợn, toàn thân màu xanh đen!
Hai con quỷ dạ xoa quỳ lạy, đấu mặt về phía nhau, hai cánh tay đan chéo tạo thành một chỗ ngồi, Thôi Giác ngồi trên đó. Hai bên người Thôi Giác cũng là hai con quỷ dạ xoa, một con cầm xiềng xích, một con tay trái nâng sổ, tay phải cầm bút, quyển sổ hơi nghiêng xuống, mượn ánh đèn trong đại điện có thể lờ mờ thấy được trên bìa có một hàng chữ to: “Lục đạo sinh tử”.
Còn trên cán bút cũng có một dòng chữ: “Tam giới luân hồi”.
“Sổ lục đạo sinh tử, bút tam giới luân hồi?” Huyền Trang nhíu mày.
“Ai da, đại sư!” Ba La Diệp vội nói: “Ngài đừng, nghiên cứu cái đó nữa. Chúng ta, mau, rời khỏi đây, thôi!”
Huyền Trang lắc đầu: “Ngươi ở đây xem xem có cách nào cứu họ tỉnh lại không, bần tăng vào hậu viện xem qua chút đã.”
“Ơ…” Ba La Diệp cứng họng nhìn một đống “cương thi” dưới đất, cảm thấy ớn lạnh. Nhìn thấy Huyền Trang đã đi vào bên trong, hắn liền vội vàng đuổi theo.
Tòa viện bên trong cũng không lớn, hai người đi một lượt các phòng, không có người, cũng không có gì khác thường. Trên bếp đang đặt một nồi cơm, dù củi đã tắt nhưng tro vẫn còn rất nóng. Cơm đã sắp chín, có lẽ trong lúc đang nấu cơm tối, không biết vì sao những người này đột nhiên lại tụ tập đến đại điện quỳ lạy, sau đó biến thành những bức tượng sống như thế này.
Huyền Trang quay trở lại đại điện, rầu rĩ nhìn mười mấy người trong điện. Những người này có nam có nữ, đại đa số đều là người tuổi già sức yếu, cứ nằm cứng đờ trên mặt đất thế này cả đêm thì dù cứu được cũng sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến sức khỏe.
Nhìn bức tượng Thôi Giác trước mặt, Huyền Trang không kìm được lẩm bẩm nói: “Thôi đại nhân, ngài đã là phán quan ngục Nê Lê, sao lại để thứ yêu tà gây chuyện…”
“Ha ha ha ha…” Trong đại điện đột nhiên vang lên tiếng cười âm trầm cổ quái: “Đại sư Huyền Trang vẫn mạnh khỏe chứ?”
Huyền Trang và Ba La Diệp đều biến sắc mặt, cả người run lên. Ba La Diệp quát lớn: “Ai? Đi, ra!”
“Bản quân không phải đang trước mặt các ngươi hay sao? Cớ gì thấy ta mà lại không biết ta?” Tiếng cười đó trầm xuống, dần đổi thành giọng sắc lạnh.
Hai người hoảng sợ ngẩng đầu lên, nhìn thấy bức tượng Thôi phán quan trước mặt. Vị Thôi phán quan gương mặt trắng trẻo, tuấn tú tao nhã này bỗng lộ ra một vẻ dữ dằn, trong mắt cũng thoáng hiện lên sắc đỏ. Chẳng lẽ lại là Thôi Giác đang nói chuyện?
“Âm thanh đó, có vẻ, giống như, là từ… từ bức tượng, truyền đến.” Ba La Diệp lẩm bẩm.
Huyền Trang nhắm mắt suy ngẫm một lát rồi chắp tay khom người: “A Di Đà Phật, thì ra là Thôi sứ quân hiển linh. Xin hỏi sứ quân, những người này đều là tín đồ của ngài, vì sao lại bị ngược đãi như vậy?”
Trên mặt bức tượng Thôi phán quan dường như lộ ra nụ cười quái dị: “Biết đại sư đến đây, bản quân rất muốn gặp đại sư một lát. Những người này vướng chân vướng tay, mồm năm miệng mười, sao có thể thanh tịnh mà đàm đạo? Cho nên bản quân tạm thời thu hồn phách của họ để họ yên tĩnh một lát mà thôi. Bản quân thân là phán quan ngục Nê Lê, làm sao dám nghịch thiên cải mệnh, tự định sinh tử của nhân gian? Điều này xin đại sư yên tâm.”
“Vậy thì bần tăng yên tâm rồi. Không biết sứ quân muốn nói chuyện gì với bần tăng?” Huyền Trang thi lễ gật đầu, tay lại lén viết một chữ trên lưng Ba La Diệp: “Tra”.
Ba La Diệp hiểu ý, lặng lẽ chuồn đi.
“Sinh tử của đại sư!” Thôi phán quan cười ha ha: “Đại sư tuy là tăng sĩ, những mong thoát khỏi sáu cõi luân hồi, từ bỏ xác phàm, không sinh không diệt, nhưng kiếp này của đại sư lại vẫn nằm trong vòng luân hồi của nhân gian, tên của đại sư đương nhiên vẫn được viết trong quyển lục đạo sinh tử này. Huyền Trang, ngài có biết khi nào hồn mình sẽ vào ngục Nê Lê không?”