Chương 8 Ngụy đạo sĩ, Đỗ thứ sử
Huyền Trang quay lại nhìn, thấy Không Thừa mỉm cười từ cửa ngách đi vào. Có lẽ là bị pháp hội long trọng kích thích, vị hòa thượng già này không còn vẻ yếu ớt trước kia mà tinh thần tốt lên nhiều, trên gương mặt toàn là nếp nhăn kia dường như không còn thấy được vẻ già yếu liên quan đến tuổi tác.
“Lời này của sư huynh giải thích thế nào?” Huyền Trang cười hỏi.
“Thế sự dời đổi luân hồi, lặp đi lặp lại không ngừng, Phật gia sẽ không lấy thế sự làm căn cứ phán đoán thiện ác thị phi.” Không Thừa nói: “Thức tâm chính là vọng tâm, mới đưa tới sinh tử luân hồi, vì sao? Bởi vì nó sẽ phân biệt ngươi ta, thị phi, sinh tham sân si ái, mới sinh khởi hoặc tạo nghiệp. Cho nên đối với Phật gia, phá bỏ vọng tâm mà nói, trong vũ trụ không có gì là đúng sai hay thiện ác, bất kể người lương thiện hay là kẻ độc ác đều có thể thành Phật.”
“Sư huynh nói phải.” Huyền Trang gật đầu.
Không Thừa không đi tới chỗ ngài mà đứng dựa vào gốc cây tùng cổ thụ nhìn ngài: “Thức tâm chính là vọng tưởng và cố chấp. Chỉ có vọng tưởng và cố chấp đều cắt hết, đại sư mới có thể giống như chư Phật Như Lai, bất sinh, bất diệt, bất suy, bất lão, bất bệnh. Giờ đây đại sư vì sự cố chấp trong lòng mà làm trái chiếu thư của Thiên tử, đó chẳng phải là một việc làm thiếu khôn ngoan sao?”
Huyền Trang biết ý đồ của ông ta, trầm ngâm một lát rồi cười: “Thích Ca vì sao phải ngồi dưới gốc cây bồ đề thành Phật?”
Không Thừa ngẩn ra, suy nghĩ một lát: “Bồ đề ý chính là giác ngộ, thấy cây bồ đề như thấy Phật.”
“Sai rồi.” Huyền Trang lắc đầu: “Bởi vì cây bồ đề có tán lá rộng, có thể che nắng che mưa.”
Không Thừa cứng họng.
“Sư huynh xem, chúng sinh trên thế gian đã bình đẳng, vì sao Thích Ca không ngồi dưới cây tre, dưới lùm cỏ? Sinh mệnh đối với Thích Ca mà nói, không hề có cao thấp sang hèn, nhưng ngài lại phải ngồi dưới gốc cây bồ đề. Đó là bởi vì công dụng khác nhau, cây bồ đề có thể che nắng che mưa, đối với Thích Ca thì chỉ có thế mà thôi. Tứ đại giai không, bồ đề cũng chỉ là không.” Huyền Trang nói: “Đối với ta mà nói, trụ trì chùa Trang Nghiêm chẳng qua chỉ là một cây tre mà đức Thích Ca đi qua trên đường đi đến chỗ cây bồ đề. Còn làm trái chiếu thư càng chỉ là một loại vọng tâm, cần gì phải để trong lòng?”
“Được rồi, được rồi.” Không Thừa chán nản: “Tài hùng biện của sư đệ ai cũng biết, lão hòa thượng không phải đối thủ. Nhưng hôm nay ta lại phải nói với sư đệ một việc lớn.”
Hai người ngồi xuống tảng đá trong vườn. Không Thừa nói: “Sư đệ biết lần này bổ nhiệm sư đệ làm trụ trì chùa Trang Nghiêm là ý của ai không?”
“Hữu Bộc xạ Bùi Tịch đại nhân.” Huyền Trang nói.
Không Thừa gật đầu: “Bùi Tịch đại nhân là tâm phúc của thái thượng hoàng, cũng là Tể tướng đầu tiên của triều đại. Ngài và Thái Thường tự Thiếu khanh Tiêu Vũ là người ủng hộ mạnh mẽ nhất của Phật gia chúng ta trong triều. Một nhân vật lớn như vậy đích thân tiến cử sư đệ, sư đệ có biết trong đó có thâm ý gì không?”
Huyền Trang lắc đầu. Không Thừa hỏi: “Nay Thiên tử họ gì?”
“Lý.”
“Thủy tổ Đạo gia họ gì?”
“Lý…” Huyền Trang đột nhiên tỉnh ngộ.
“Sư đệ, thiên tử Đại Đường tự nhận là hậu duệ của Đạo tổ Lý Nhĩ, điều này có ý nghĩa gì đối với Phật gia chúng ta?” Không Thừa nói đau xót: “Năm Vũ Đức thứ tư, Đại Đường còn chưa đứng vững, Thái sử lệnh Phó Dịch liền dâng sớ bài Phật, nói Phật gia mê hoặc lòng người, bóc lột tiền dân, tiêu hao quốc khố, thỉnh cầu xóa bỏ tăng ni. Mười một tội trạng, từng chữ kinh tâm! Khi đó Thái thượng hoàng còn tại vị, hạ chiếu chất vấn giới tăng lữ: ‘Bỏ râu tóc cha mẹ, phá lễ nghĩa quân thần, lợi ở chỗ nào, ích ở nơi đâu?’ Chỉ trích các Phật tăng vô quân vô phụ, hạ lệnh giảm bớt chùa chiền, cắt giảm tăng ni. Khi đó đại sư Pháp Lâm đưa ra ‘Phá Tà Luận’, nhiều lần bảo vệ, cùng đám đạo đồ tranh luận kịch liệt. May mà khi đó Đại Đường lập quốc chưa vững, Phật gia chúng ta không bị ảnh hưởng nhiều.”
Năm Vũ Đức thứ tư, Huyền Trang vừa mới rời Ích Châu, còn đang trên đường vân du, chỉ nghe nói có việc này, nhưng chấn động nội tâm hiển nhiên không thể sâu sắc như Không Thừa.
“Năm Vũ Đức thứ bảy, Phó Dịch một lần nữa dâng sớ, nói Phật pháp hại quốc, các triều trước quốc vận ngắn đều bởi vì tin Phật. Lương Vũ Đế, Tề Tương Đế chính là gương sáng. Chuyện này liên lụy tới quốc vận Đại Đường, nhắm thẳng vào chỗ yếu hại trong lòng đế vương. Khi đó Tiêu Vũ vẫn làm Nội sử lệnh[*] tranh cãi quyết liệt với Phó Dịch, nhưng chung quy không thể xóa bỏ khúc mắc trong lòng hoàng đế.”
[*] 43 Thời Đường Cao Tổ niên hiệu Vũ Đức vẫn áp dụng chế độ của Tiền Tùy, lập Nội sử tỉnh, người đứng đầu là Nội sử lệnh. Đến thời Đường Thái Tông Trinh Quán đổi tên thành Trung thư tỉnh, người đứng đầu là Trung thư lệnh (ghi chú của biên tập sách gốc).
“Năm Vũ Đức thứ tám, Thái thượng hoàng tuyên bố quốc sách tam giáo: Lão giáo Khổng giáo có ở đất này trước, Thích giáo sau này mới hưng thịnh, nên theo lễ khách, xếp Đạo giáo đứng trước, Nho giáo thứ hai, Thích giáo cuối cùng. Đây chính là nói, Đại Đường định ra quốc sách, bất kể Phật gia chúng ta hưng thịnh thế nào cũng chỉ có thể đứng cuối cùng, xếp sau Đạo gia, Nho gia. Chẳng những như thế, Thái thượng hoàng còn hạ chiếu cắt giảm tăng ni cả nước, kinh thành giữ lại ba ngôi chùa, mỗi châu giữ lại một ngôi chùa, còn lại đều xóa bỏ.”
Chuyện này Huyền Trang biết rất rõ, bởi vì khi đó ngài đang ở Trường An. Thời gian đó các giáo đồ Phật giáo đúng là đã phải đối mặt với áp lực cực lớn, hơn nữa đám đạo sĩ còn nhân cơ hội làm khó dễ. Lý Trọng Khanh viết một quyển “Thập Dị Cửu Mê Luận”, Lưu Tiến Hỉ thì viết “Hiển Chính Luận”, công kích Phật giáo mãnh liệt. Các vị cao tăng Pháp Nhã, Pháp Lâm, Đạo Nhạc, Trí Thực triển khai nhiều cuộc tranh luận, Pháp Lâm còn viết một quyển “Biện Chính Luận” tiến hành chống trả ngoan cường.
Huyền Trang gật đầu: “Cũng may mà năm sau Thái thượng hoàng đã thoái vị, triều Trinh Quán bây giờ lại không có sự kiện bài Phật quy mô lớn nào. Những chiếu lệnh cắt giảm tăng ni quy mô lớn thời Vũ Đức còn chưa kịp thực hiện đã bị tân hoàng huỷ bỏ, xem ra sau này Phật giáo sẽ có thể hưng vượng.”
“Không phải như thế, không phải như thế.” Không Thừa cười lạnh không ngừng: “Vị hoàng đế mới của chúng ta lòng dạ cứng rắn, tưởng là nhân hậu, thực chất lại vô tình. Theo lão hòa thượng thấy, Bệ hạ căn bản không có bất cứ tín ngưỡng nào! Đối với Bệ hạ mà nói, tín ngưỡng chỉ có một, đó là giang sơn Đại Đường! Một hoàng đế ngay cả huynh đệ ruột cũng dám giết, phụ thân cũng dám giam lỏng, sư đệ cho rằng lại sẽ thật tình muốn phát triển Phật giáo hưng thịnh hay sao? Hậu duệ của Lão Tử là một chiêu bài cực tốt của Bệ hạ, chỉ sợ trong thời Trinh Quán, địa vị của giáo ta lại càng thêm sa sút.”
Huyền Trang thản nhiên nói: “Sư huynh, bần tăng có một chuyện không hiểu. Vì sao Phật gia chúng ta phải cùng Đạo gia tranh ai trước ai sau?”
“Đương nhiên phải tranh!” Không Thừa trừng mắt nói: “Nếu bị Đạo gia xếp trên thì còn nói gì đến chuyện chấn hưng Phật giáo nữa?”
Huyền Trang lắc đầu: “Bần tăng không dám gật bừa. Đầu tiên, Đạo tổ họ Lý, thiên tử Đại Đường họ Lý, ưu thế này của Đạo gia dù thế nào cũng không thay đổi được. Bất kể hoàng đế nào tại vị cũng cần phải tôn kính Đạo gia. Thứ hai, vị trí thứ nhất này thật sự cần phải tranh sao? Nếu Phật pháp không rõ, mất đi tín đồ, dù hoàng đế sắc phong Phật gia thứ nhất, chẳng lẽ người trong thiên hạ đều sẽ quy y hay sao? Thứ ba, Phật gia chúng ta sở dĩ hưng thịnh, mặc dù sự nâng đỡ của hoàng đế rất quan trọng nhưng lại không phải nguyên do căn bản nhất.”
Không Thừa chấn động: “A, sư đệ nói tiếp đi. Có thứ gì còn quan trọng hơn sự nâng đỡ của hoàng đế sao?”
“Có.” Huyền Trang quả quyết: “Đó chính là ảnh hưởng của Phật gia chúng ta đối với hoàng quyền, đối với bách tính. Nếu Phật gia có thể khiến hoàng quyền vững chắc, trăm họ thờ phụng, bất luận hoàng đế triều đại nào cũng đều sẽ tôn kính, điều này không thay đổi theo sự yêu ghét của một người. Nếu bản thân hoàng đế hướng đạo, cả triều đình, cả thiên hạ cũng nhất định sẽ sùng Phật. Nếu Phật gia không có tác dụng này, dù thỉnh thoảng có một hai đế vương tôn kính, sau khi đế vương đó băng hà cũng sẽ một sớm lần lữa mai một. Thế tục có câu, người còn chính sách còn, người chết chính sách mất, vì sao? Bởi vì chính sách này chỉ là sự yêu ghét của bản thân đế vương.”
Không Thừa nghe xong thì lấy làm kinh ngạc, bừng tỉnh ngộ, lẩm bẩm nói: “Sư đệ nói phải. Vậy theo sư đệ, bây giờ Phật gia chúng ta nên làm thế nào cho phải? Theo ý của Bùi Tịch đại nhân chính là hy vọng sư đệ làm trụ trì chùa Trang Nghiêm. Giờ đây Phật gia ở kinh thành không dễ chịu, sư đệ mười năm tranh luận, tài hùng biện cao, danh tiếng cũng lớn, sư đệ đến Trường An có thể át được sự kiêu ngạo của đám đạo sĩ đó.”
“Thì ra là thế.” Bây giờ Huyền Trang mới hiểu vì sao Bùi Tịch lại tiến cử mình làm trụ trì chùa Trang Nghiêm, có điều ngài có suy nghĩ khác: “Sư huynh, thời Vũ Đức sa thải tăng ni, lúc tranh luận kịch liệt nhất, bần tăng đang ở Trường An nhưng lại không tham dự bất cứ một trận tranh luận nào. Sư huynh có biết vì sao không?”
“Vì sao?” Không Thừa kinh ngạc hỏi.
“Bởi vì bản thân tăng lữ chúng ta cũng không làm rõ được ý nghĩa thật sự của kinh Phật. Từ thời Ngụy Tấn tới nay, nội bộ Phật môn chia ra vô số phe phái, sự tranh chấp giữa các phái khiến bản thân chúng ta cũng bị chia rẽ, làm sao có thể thuyết phục tín chúng? Làm sao có thể thuyết phục thiên tử? Bần tăng chu du mười năm, tra hết các phái mới phát hiện nhân tố tạo thành tranh luận giữa các phái khác nhau lại nằm ở sự không nhất trí trong cách hiểu và cách thực hiện giáo lý. Muốn đứng vững trên Phật lý, nội bộ chúng ta phải đồng thuận về cách hiểu. Muốn đồng thuận về cách hiểu lại phải thống nhất các phái. Muốn thống nhất các phái, phải tìm ra nguồn gốc của giáo lý!” Huyền Trang nghiêm mặt nói.
Không Thừa hít một hơi thật sâu: “Chí hướng của sư đệ thật là vĩ đại. Vậy thì phải tìm nguồn gốc của giáo lý thế nào?”
“Sẽ phải tây du Thiên Trúc!” Trong mắt Huyền Trang phát ra ánh sáng lấp lánh: “Đến dưới gốc cây bồ đề đó, trong Cấp Cô Độc Viên, cầu được chân pháp Như Lai, giáo lý đại thừa! Chính vì bần tăng có lòng tây du Thiên Trúc nên mới không thể nhận vị trí trụ trì chùa Trang Nghiêm này.”
Không Thừa ngây ngẩn cả người, lẩm bẩm nói: “Đây chẳng phải ý nói sư đệ muốn đặt mình vào hoàn cảnh thập tử nhất sinh hay sao?”
Theo lí thuyết, từ Đại Đường đến Thiên Trúc có ba đường đi: Đầu tiên là đường biển, phải vượt trùng dương, lênh đênh trên biển mấy tháng. Nhưng đường biển này thật sự nguy hiểm, kĩ thuật hàng hải có hạn, người đi đường biển cực kỳ ít. Thứ hai là từ Thổ Phồn đi qua nước Phiêu (Myanmar), nước Ni Ba La (Nepal) đến Thiên Trúc. Thứ ba chính là “con đường tơ lụa”, xuất phát từ Trường An, đi qua Lũng Hữu, Thích Tây[*], vượt qua Thông Lĩnh tiến vào các nước Trung Á, sau đó từ núi Hưng Đô Khố Thập (Hindu Kush) tới Bắc Thiên Trúc, trên đường phải vượt qua đại sa mạc ngàn dặm cát lún, bất cứ lúc nào cũng có thể mất mạng.
[*] 44 Cách nhà Đường gọi Tây Vực, Thích ở đây là Mạc Hạ Diên Thích, nằm ở sa mạc Cáp Thuận giữa Ha Mi và Đôn Hoàng hiện nay (ghi chú của biên tập sách gốc).
Không Thừa biết rất rõ, bây giờ tây du Thiên Trúc, về cơ bản tuyệt đối không có khả năng trở về.
Thứ nhất là bởi vì trên đường đi quá hiểm ác, quan trọng hơn là Đông Đột Quyết hùng cứ đại mạc, kỵ binh tinh nhuệ thường xuyên xâm lấn phía bắc và mạn Hà Tây. Triều đình nghiêm cấm xuất quan. Không có “quá sớ” và “văn điệp thông quan” do triều đình cấp mà tự ý vượt qua quan ải sẽ bị xử tội thông đồng với địch. Trên thực tế, bản thân Huyền Trang cũng biết, từ năm Trinh Quán nguyên niên ngài đã dâng biểu xin đi nhưng đã bị bác bỏ thẳng thừng.
“Sống chết là gì? Hoa nở hoa tàn. Chết sống là gì? Trống chiều chuông sớm.” Huyền Trang lẩm bẩm.
Không Thừa nhìn hòa thượng trẻ tuổi tài năng xuất chúng này với vẻ mặt phức tạp, im lặng một hồi lâu mới nói: “Sư đệ đã có tâm nguyện lớn như vậy, vì sao không lập tức đi ngay mà lại tốn thời gian ở đây?”
“Bần tăng có gia huynh, pháp danh Trường Tiệp, giờ đây không biết tung tích. Lần này đi vạn dặm cát vàng, chưa chắc có thể về được, bần tăng hy vọng có thể tìm được gia huynh để chấm dứt một nỗi băn khoăn.” Huyền Trang nói.
Không Thừa yên lặng. Ông đương nhiên biết chuyện Trường Tiệp giết chết đại sư Huyền Thành, lại không biết nên nói như thế nào, chỉ đành thở dài, vẻ mặt rất u sầu.
***
Đạo Hà Đông, thành Bồ Châu.
Bồ Châu chính là trọng trấn của Đại Đường, nằm ở giữa ba kinh đô cũ mới là Trường An, Lạc Dương, Tấn Dương, khống chế đường thủy Hoàng Hà, lại là nơi phải đi qua trên đường từ Trường An, Lạc Dương đến Thái Nguyên và biên cương, độ phồn hoa có thể nói là có một không hai ở đạo Hà Đông.
Lúc này có một vị quý nhân đến phủ Thứ sử Bồ Châu là ngài Đỗ Sở Khách. Đỗ Thứ sử đang đích thân ngồi tiếp đãi trong đình nghỉ mát giữa hoa viên, trước mặt hai người bày một bàn cờ, hai người đang cầm quân đen, quân trắng đánh cờ.
Đỗ Sở Khách là thân tín của Lý Thế Dân, là em ruột của Tả Bộc xạ Đỗ Như Hối. Người này có đại tài, chí hướng cao xa, vốn ẩn cư trong Tung Sơn. Lý Thế Dân được biết tài hoa của ông ta nên đến mời rời núi, phong cho ông ta chức quan không nhỏ, ngay từ đầu đã là Thứ sử Bồ Châu, quản lý một đầu mối giao thông quan trọng.
Đỗ Sở Khách là mỹ nam tử tiêu chuẩn, tuổi trạc tam tuần, thần thái đường hoàng. Còn người đối diện với ông tuổi chừng năm mươi, trên người mặc áo bào vải bố, để ba chòm râu đen, khuôn mặt góc cạnh rõ ràng, tinh thần rất đầy đủ, tư thái lại càng ung dung. Đỗ Sở Khách rất giỏi đánh cờ, nhưng đối đầu với người này lại bó tay không thi triển được.
“Thôi, thôi.” Đỗ Sở Khách gạt bàn cờ, ngượng ngùng cười nói: “Ai không biết Ngụy đạo sĩ[*] nhà ngươi kỳ nghệ rất cao, đánh cờ với ngươi không khác nào tự ngược đãi bản thân mình.”
[*] 45 Tức Ngụy Trưng, sinh năm 580 mất năm 643, Biểu tự Huyền Thành (玄成), là một nhà chính trị và sử học thời đầu thời nhà Đường. Khi còn phục vụ triều đình ông được phong chức Gián nghị đại phu với nhiệm vụ can gián vua không mắc phải những quyết định sai lầm.
Ngụy đạo sĩ cười ha hả: “Tiểu Đỗ, kì nghệ của ngươi cao hơn lão Đỗ anh trai ngươi nhiều, lão ấy vừa nhìn thấy ta đã chạy rồi.”
Đỗ Sở Khách cười hì hì nói sang chuyện khác: “Bí thư giám đại nhân, Hoàng thượng sai ngài tuần sát Hà Đông, vậy mà ngài đến Bồ Châu của ta lại không đi nữa. Tính ra cũng đã được bảy tám ngày rồi nhỉ? Dù gì thì ngài cũng là người ‘can dự triều chính’, còn không nhanh chóng lên phương bắc làm việc theo lệnh của Hoàng thượng mà cứ ở nhà ta đánh cờ thắng ta làm gì?”
Bí thư tỉnh là một trong sáu tỉnh nội điện, người đứng đầu gọi là Bí thư giám, chủ yếu quản lý án quyển giấy tờ và tài liệu quan trọng của triều đình, mặc dù không có quyền can thiệp trực tiếp vào chính sách quốc gia nhưng cũng là phân khúc quan trọng có thể tiếp xúc trực tiếp với trung tâm triều đình. Vị Ngụy đạo sĩ mặc áo bào vải bố này không ngờ lại là một quan chức, không những thế còn là quan to tam phẩm!
Quan trọng hơn là vị Bí thư giám này còn có một tước hàm là “Can dự triều chính”, đây là một chuyện rất khác thường. Bá quan chỉ có một trong những chức vụ Thượng thư Tả Hữu Bộc xạ, Thị trung, Trung thư lệnh mới coi như thật sự làm Tể tướng.
Sau khi Lý Thế Dân lên ngôi không lâu, để cho nhiều trọng thần được tham dự đại sự của triều đình hơn, mới phong cho một số đại thần thân tín thêm các tước hàm như là “Can dự triều chính”, “Tham nghị được mất”, “Tham tri chính sự”. Những người này có thể vào Chính Sự Đường. Có thêm những tước hiệu này cũng tương đương với một thành viên trong bộ máy trung tâm của triều đình Đại Đường.
Vị tể chấp Đại Đường mặc áo vải này lại ở lì trong thành Bồ Châu, liên tiếp mấy ngày vẫn đánh cờ với thứ sử.
“Lão đạo ta thần cơ diệu toán, đợi đến lúc tin tức ta cần từ Hoắc Ấp truyền tới, ta sẽ tự khắc lên đường!” Ngụy đạo sĩ cười ha ha: “Ngươi có tin hay không, lão đạo ta chỉ đếm ba tiếng, tin tức ta cần sẽ đến nơi.”
“Ba tiếng? Không tin!” Đỗ Sở Khách lắc đầu: “Ngài đã ở chỗ này của ta bao nhiêu cái ba ngày rồi, ta không tin lại có thể trùng hợp như vậy.”
“Hô hê.” Ngụy đạo sĩ bấm đốt ngón tay tính toán, miệng đếm: “Một! Hai! Ba!”
Còn chưa đếm xong, một tiểu đồng chạy tới, đi vào đình nghỉ mát, khom người nói: “Ngụy đại nhân, lão gia, Hứa chủ sự từ Hoắc Ấp đã về, cầu kiến Ngụy đại nhân.”
Đỗ Sở Khách ngây ra như phỗng.
Ngụy đạo sĩ đắc ý vô cùng, phất tay một cái: “Cho hắn vào.”
Không lâu sau, tiểu đồng đó dẫn chủ sự Hồng lô tự Hứa Văn Đàm đi vào hoa viên. Vừa nhìn thấy Ngụy đạo sĩ, Hứa chủ sự lộ vẻ sợ hãi, cung kính nói: “Hạ quan Hứa Văn Đàm ra mắt đại nhân.”
“Ờ.” Ngụy đạo sĩ nhặt một quân cờ lên, thản nhiên nói: “Đến chùa Hưng Đường rồi hả? Có gặp Huyền Trang không?”
“Đã gặp rồi.” Hứa chủ sự cúi đầu nói: “Hạ quan đã truyền ý chỉ của bệ hạ cho đại sư Huyền Trang.”
“Vậy Huyền Trang nói thế nào?” Ngụy đạo sĩ hỏi.
“Hắn…” Hứa chủ sự đau khổ: “Hắn từ chối.”
“Cái gì?” Ngụy đạo sĩ kinh ngạc nhìn hắn: “Từ chối? Ý gì?”
“Từ chối chính là… kháng chỉ.” Hứa chủ sự dường như cực kỳ e ngại vị Ngụy đạo sĩ này, cả người run rẩy: “Hắn không muốn làm trụ trì chùa Trang Nghiêm.”
Ngụy đạo sĩ yên lặng, quay sang Đỗ Sở Khách, hai người không hẹn mà cùng đưa mắt nhìn nhau. Đỗ Sở Khách đột nhiên cười ha hả: “Vẫn nói ngài tính toán chuẩn xác giống như bán tiên, nhưng lần này thì tính sai rồi chứ?”
Ngụy đạo sĩ nhìn Hứa chủ sự chằm chằm, vẻ mặt khó xử: “Nói cặn kẽ mọi chuyện trong chuyến đi của ngươi vừa rồi, không được thiếu một chữ nào.”
“Vâng.” Hứa chủ sự kể lại một lượt toàn bộ chuyện mình đến gặp Huyền Trang tuyên chỉ, đúng là không hề bỏ bớt, ngay cả vẻ mặt Huyền Trang thế nào, dùng từ ra sao cũng không hề quên, cuối cùng nói: “Đại nhân, tấu chương hắn dâng lên cho bệ hạ vẫn ở trên người hạ quan, có cần đưa cho ngài xem hay không?”
“Càn quấy!” Ngụy đạo sĩ lạnh lùng quát: “Thân là bề tôi sao có thể lén xem tấu chương dâng lên bệ hạ? Ngươi đưa lên theo đúng trình tự, bản quan tự nhiên sẽ xem được.”
“Vâng.” Hứa chủ sự không dám nói tiếp.
“Ngươi ra ngoài đi!” Ngụy đạo sĩ cau mày phất tay: “Về kinh phục mệnh đi! Chuyện đến đây gặp bản quan không được nói với bất kì ai.”
Hứa chủ sự liên tục gật đầu, lau mồ hôi lạnh trên trán, xoay người đi ra.
“Khơi nguồn nước trong, chỉnh lí truyền thừa!” Ngụy đạo sĩ vỗ bàn, thở dài một tiếng: “Hòa thượng này chí khí thật lớn, khí phách thật lớn!”
“Xem ra ngài vẫn đánh giá thấp hắn!” Đỗ Sở Khách lẩm bẩm.
Ngụy đạo sĩ cười gượng: “Đâu chỉ có ta đánh giá thấp hắn mà vị tể tướng đương triều kia cũng nhìn nhầm. Huyền Trang không hổ là Thiên Lý mã của Phật môn, một ngôi chùa tầm thường sao có thể ràng buộc hắn được. Cuộc đời Ngụy Trưng ta chưa bao giờ phục ai, hôm nay lại phục gã hòa thượng này!”
Đỗ Sở Khách suy nghĩ một hồi lâu, nói: “Chuyện Hoắc Ấp đã nằm ngoài dự tính của đám Bùi Tịch, sợ rằng những gì ngài đoán trước kia cũng sẽ có thay đổi. Vậy ngài còn lên bắc nữa không?”
Ngụy Trưng lắc đầu: “Huyện Hoắc Ấp đã thành hang hổ, cần gì phải mạo hiểm. Sứ mệnh Bệ hạ giao cho ta là tuần sát dân sinh ở đạo Hà Đông, cần gì để ý tới đại họa như vậy? Lúc này đám Bùi Tịch phán đoán sai lầm về Huyền Trang, chắc chắn hắn sẽ phải điều chỉnh kế hoạch. Lão đạo ta vẫn nên đợi một thời gian, hậu phát chế nhân.”
“Nhưng mà…” Đỗ Sở Khách lộ vẻ nghiêm nghị: “Đối phương đã bố trí nhiều năm như vậy, có thể nói là thâm căn cố đế, cục diện lúc này chỉ e chạm vào là nổ. Nếu ngài không đi, còn ai có trí tuệ ngang với người đó nữa? Nếu chuyện xảy ra, chẳng phải chúng ta sẽ bó tay bó chân, hoàn toàn không có sức phản kháng hay sao?”
“Hừ.” Ngụy Trưng cười lạnh: “Quân cờ rốt cuộc nằm trong tay ai, chỉ sợ gã mưu tăng đó cũng không tính hết được. Có người muốn Huyền Trang đi, lão phu lại giữ hắn ở lại, xem xem nước ở chùa Hưng Đường này rốt cuộc sâu bao nhiêu!”
“Mặc dù nói như thế, ngài cũng không thể không đề phòng.” Đỗ Sở Khách vẫn rất lo lắng: “Việc này thật sự quá nghiêm trọng, đối phương một khi phát động, chỉ sợ sẽ long trời lở đất, rung động giang sơn Đại Đường, ảnh hưởng đến quốc vận trăm năm. Bùi Tịch còn đỡ, thủ đoạn của gã mưu tăng đó ngài cũng biết rõ, có thể coi là tính toán như thần, thâm trầm như biển, được xưng tính hết ba ngàn thế giới không sai một li. Mặc dù ngài tinh thông thuật số âm dương, nhưng vạn nhất có sơ suất chỉ sợ có hối hận cũng không kịp.”
“Lão đạo đương nhiên hiểu.” Ngụy Trưng cũng hơi ủ rũ: “Gã mưu tăng này thật sự làm người ta sợ hãi. Chúng ta hao phí vô số nhân lực vật lực, vậy mà tới bây giờ vẫn còn không hiểu được hắn thật sự muốn làm gì. Ôi!”
Vẻ mặt Ngụy Trưng rất chán chường, không ngờ Đỗ Sở Khách nhìn thấy lại cười: “Tốt, tốt! Lại được nhìn thấy vẻ mặt này của ngài rồi! Mỗi lần ngài tỏ ra yếu thế nhất định là đã có tính toán tiếp theo, anh trai ta đã không ít lần thiệt thòi dưới tay ngài rồi!”
Ngụy Trưng sững sờ, lẩm bẩm: “Thì ra lão đạo còn có sơ hở này sao? Sau này phải chú ý mới được. Khụ khụ, tiểu Đỗ, không giấu ngươi, lão đạo quả thực đã có sự chuẩn bị, cắm thẳng vào mệnh môn của gã mưu tăng đó, còn về phần đoán kế hoạch có bao phần hiệu quả thì không thể biết được.”
“Mau nói xem nào!” Đỗ Sở Khách vỗ tay cười nói.
Ngụy Trưng nghiêm mặt: “Phật dạy, không thể nói. Lão Tử dạy, không thể danh. Hai thánh nhân đều không cho ta nói, lão đạo này làm sao dám nói?”
Đỗ Sở Khách nghẹn lời.
“Thế này nhé.” Ngụy Trưng suy nghĩ một lát, nói: “Bởi vì Huyền Trang, tính toán của gã mưu tăng này gặp sai lầm, rơi vào tình thế luống cuống tay chân. Vậy lão đạo ta không ngại đốt thêm một mồi lửa, ngươi truyền tin tức ra kích thích bọn chúng một chút.”
“Tin tức gì?” Đỗ Sở Khách hỏi.
“Tháng sau thiên tử tuần thú Hà Đông.” Ngụy Trưng lạnh lùng nói: “Ta không tin bọn chúng không động.”
Tin tức thiên tử sắp tuần thú Hà Đông giống như có cánh bay, chỉ mấy ngày ngắn ngủi đã truyền khắp quan trường đạo Hà Đông, vốn quan chức các cấp còn nửa tin nửa ngờ, nhưng mấy ngày sau bộ Lễ đã gửi công văn nói mùng tám tháng tư hoàng đế sẽ lên đường tuần thú đạo Hà Đông, lệnh cho quan chức các cấp trên đường chuẩn bị tiếp đãi cho tốt. Phía sau công văn còn đặc biệt trích nguyên lời hoàng đế: “Tất cả công việc đều phải lấy đơn giản làm đầu, không được xa hoa lãng phí, lại càng chớ quấy nhiễu dân.”
Mặc dù nói như vậy nhưng quan chức các cấp đạo Hà Đông nào dám thờ ơ, đây chính là lần đầu tiên tân hoàng tuần thú Hà Đông kể từ khi kế vị tới nay. Hà Đông là chốn long hưng, Thái Nguyên là nền móng của vương nghiệp, gốc rễ của đất nước, được gọi là “Bắc Đô”. Hoàng thượng tuần thú Bắc Đô, ý nghĩa trọng đại đến mức nào?
Đặc biệt là thứ sử Tấn Châu Triệu Nguyên Giai. Tấn Châu là nơi phải đi qua trên đường đến Thái Nguyên, ba huyện Hồng Động, Triệu Thành, Hoắc Ấp trong châu đều phải tiếp giá, đây chính là một vấn đề rất lớn. Triệu thứ sử liên tục phát công văn cho ba huyện lệnh, sai họ làm tốt công tác chuẩn bị nghênh đón thánh giá và báo cáo biện pháp cụ thể.
Nghênh đón thánh giá không phải chuyện tiếp đón hai ba người. Hoàng thượng vừa rời kinh, ít nhất có cả trăm đại thần đi theo, cấm quân mười sáu vệ áng chừng khoảng năm sáu ngàn, không biết chừng còn mang theo nhạc phường cung nữ, số người cần tiếp đãi rất đông. Lúc này ba huyện chấn động hơn chạy loạn, ba vị huyện lệnh đầu đau như búa bổ, đặc biệt là Quách Tể đại nhân huyện Hoắc Ấp. Vị đại nhân từ dũng tướng trong quân ngũ biến thành huyện úy phụ trách trị an địa phương, sau đó lại từ huyện úy thăng nhiệm làm huyện lệnh này quả thực không hiểu gì về lễ nghi tiếp giá. Chỉ sau mấy ngày, vị huyện lệnh khổng lồ đã sầu não tới mức bạc đầu.
May mà mấy ngày nay bệnh tình của Lục La đã dần dần bình phục, cơn sốt cao đã lùi, có điều cả người lại có phần trì trệ, thường mở to mắt, ánh nhìn vô định, mỗi lần xuất thần đều ngơ ngác rất lâu. Quách Tể rất xót ái nữ, nhưng do công việc bề bộn nên đành phải để Ưu Nương chăm sóc Lục La.
Hôm đó sau khi Quách Tể vội vàng đến nha môn, Lý Ưu Nương mới đi vào phòng ái nữ, thấy Lục La ngồi trên giường, thân hình nhỏ bé co quắp, ngơ ngẩn nhìn một chiếc nơ con bướm buộc trên màn che. Bà thở dài, bưng một bát thuốc trên án đi tới ngồi bên giường, dịu dàng nói: “Lục La, uống thuốc đi con!”
Lục La quay sang nhìn mẫu thân của mình, biểu cảm như đang nhìn một người lạ.
Lý Ưu Nương run lên, một ít nước thuốc sánh ra ngoài bát, rơi xuống chăn gấm.
“Người đó là ai?” Lục La hỏi nhỏ.
“Người nào?” Lý Ưu Nương gượng cười, luống cuống lau nước thuốc, cúi đầu không dám nhìn mặt con.
“Mẫu thân vẫn còn định giấu con sao?” Lục La cắn răng nói: “Hòa thượng trong viện Sa Bà ở chùa Hưng Đường! Tình nhân của người ấy!”
“Lục La…” Lý Ưu Nương tái mặt, mặc dù hoảng sợ nhưng trong ánh mắt lại mang vẻ giận dữ: “Con không được sỉ nhục ông ấy.”
“Sỉ nhục hắn?” Lục La giễu cợt nhìn mẹ: “Con chẳng những sỉ nhục hắn mà còn giết hắn rồi!”
Cả người Lý Ưu Nương cứng đờ.
Lục La nheo mắt nhìn mẫu thân của mình như một con mèo đi săn mồi: “Xem ra người cũng đã biết rồi. Đáng tiếc lúc con giết hắn thì người không nhìn thấy. Con đâm một nhát dao vào đúng tim hắn, hắn ôm ngực không kêu được tiếng nào, bởi vì trong miệng hắn toàn là bọt máu. Hắn nhìn con, dòng máu dơ bẩn chảy ra qua những kẽ tay hắn. Sau đó hắn nói với con một câu… Người có muốn biết không?”
Lý Ưu Nương đau buồn nhìn con gái, hai mắt đỏ ửng, có điều nước mắt không chảy xuống, toàn thân bà cứng đờ.
“Hắn nói ‘không ngờ ta lại chết trong tay ngươi’.” Ánh mắt Lục La giống như lưỡi dao: “Hắn không biết nghĩ hay sao? Hắn là hòa thượng, lại không nghĩ tới nhân quả tuần hoàn, tất có báo ứng? Mẫu thân đã bao che cho hắn như vậy, xem ra người cũng là tự nguyện. Mẫu thân sẵn sàng vứt bỏ danh tiết của mình, con cũng không có gì để nói. Nhưng người có biết không…”
Nàng nói từng từ một: “Hai người đã sỉ nhục phụ thân con! Sỉ nhục vị kế phụ ngốc nghếch của con! Cũng sỉ nhục con…”
Câu cuối cùng quả thực như xé rách tim gan, nước mắt của nàng tuôn trào như mưa không thể kìm lại được.
Nước mắt Lý Ưu Nương cũng tràn ra như suối. Vị phu nhân xinh đẹp tao nhã này khóc nghẹn ngào trước mặt con gái, không để ý đến hình tượng, dường như muốn phát tiết hết những tủi thân và đau khổ vô cùng vô tận.
Khóc một hồi lâu, Lý Ưu Nương dừng lại, lấy khăn lụa lau nước mắt, nói: “Chuyện không phải như con tưởng tượng đâu, mẫu thân… cũng có nỗi khổ tâm bất đắc dĩ.”
“Con không tưởng tượng, con đã tận mắt nhìn thấy.” Lục La nói lạnh lùng: “Chuyện của người bây giờ con không muốn biết một chữ nào, buồn nôn! Con chỉ hỏi mẫu thân một câu, tên ác tăng đó rốt cuộc là ai? Gã bị con giết chết và trụ trì chùa Hưng Đường, rốt cuộc ai mới là Không Thừa?”
Lý Ưu Nương không đáp.
“Không trả lời con à?” Lục La tức giận gào lên: “Hắn rốt cuộc có gì tốt? Đáng để người phải vứt bỏ tình ân ái với phụ thân con, vứt bỏ nghĩa phu thê với Quách Tể, vứt bỏ danh dự của đứa con gái này để tư thông với hắn? Kể cả khi hắn đã chết, người vẫn tìm mọi cách để bảo vệ hắn, ngay cả thân phận của hắn cũng không chịu nói ra?”
Lý Ưu Nương cả đời sống trong tao nhã, lúc chưa xuất giá vẫn có danh tài nữ, cả hai đời chồng đều hết sức yêu thương trân trọng bà, chưa bao giờ nói nặng lời với bà dù chỉ một chút, hôm nay lại bị chính con đẻ của mình nhục mạ như vậy, trong lòng quả thực đau khổ khó tả. Nhưng bà vẫn chỉ lắc đầu, lẩm bẩm nói: “Ta không thể nói với con… Không thể nói với con…”
“Không nói với tôi… Tốt, tốt, người không thể nói với tôi…” Lục La thở hổn hển: “Chẳng lẽ tự tôi không tra ra được sao? Tôi không tìm được xác hắn, chẳng lẽ lại không tìm được tòa viện đó, chẳng lẽ lại không tìm được địa đạo đó? Mặc dù bọn chúng giải quyết hậu quả rất kín kẽ, dù không biết bọn chúng làm thế nào, nhưng tôi tin rằng tất cả mọi chuyện đều sẽ có sơ hở. Tôi có thể tìm ra được!”
“Còn nữa!” Lục La hét lên: “Đừng có ép tôi quá đáng, nếu không tôi sẽ nói với Quách Tể! Nói với gia tộc họ Thôi ở Hà Đông! Để xem xem đường huyện lệnh có cần mặt mũi hay không? Xem xem gia tộc nhà họ Thôi được xưng đứng đầu đạo Hà Đông có cần mặt mũi nữa không!”
Sắc mặt Lý Ưu Nương trắng bệch như tờ giấy, nghe những lời này xong lại cười, dù thê lương nhưng trong mắt lại lộ ra một thoáng dịu dàng, chậm rãi nói: “Con sẽ không nói.”
“Làm sao bà biết tôi sẽ không nói?” Lục La giận dữ.
“Bởi vì con họ Thôi, con yêu quý dòng họ này còn hơn cả tính mạng của mình. Càng bởi vì trong lòng con hổ thẹn với kế phụ Quách Tể. Mặc dù bình thường con ương bướng chống đối ông ấy, nhưng con biết ông ấy thương con còn hơn cả mạng sống của mình. Con không dám đối mặt với ông ấy.”
“Bà…” Lục La không nén được giận.
“Con là con gái của ta, do ta một tay nuôi lớn. Ta hiểu con còn hơn hiểu chính mình.” Lý Ưu Nương nói nhỏ.
“Im mồm! Im mồm!” Lục La giành lấy bát thuốc, hùng hổ đập thẳng xuống đất.
Hai mẹ con cãi nhau to trong phòng, mặc dù Mạc Lan và Cầu Nhi đã bị Lý Ưu Nương đuổi ra xa nhưng vẫn nghe thấy tiếng bát đĩa vỡ vụn nên mới vội vàng chạy tới. Lý Ưu Nương thở dài: “Con cứ nghỉ ngơi cho tốt! Đợi đến lúc con bình tĩnh lại, hai chúng ta sẽ nói chuyện tiếp.”
Nói xong bà nhẹ nhàng lau khóe mắt, gót sen nhẹ bước rời khỏi phòng.
Buổi tối Quách Tể về tới phủ, liền đến phòng Lục La hỏi thăm ái nữ bảo bối của mình. Ban ngày Lục La làm ầm ĩ một hồi, bệnh lại thuyên giảm đôi phần, chỉ biết bực bội nằm một mình trên giường, kế phụ đến thăm cũng không để ý. Quách Tể hỏi Mạc Lan kĩ càng, biết ái nữ đã khỏe cũng yên tâm hơn. Ông đã quen với chuyện bị Lục La ngó lơ nên không hề để bụng, vui mừng hớn hở quay về phòng mình.
Vừa vào phòng thấy Ưu Nương cũng nằm trên giường quay mặt vào trong liền ngẩn ra: Hôm nay hai người này làm sao thế? Đến ngủ cũng cùng một tư thế.
“Phu nhân, ta về rồi.” Quách Tể khẽ gọi: “Phu nhân có chỗ nào không thoải mái à?”
“Không có.” Lý Ưu Nương xuống giường cởi áo cho ông, gấp quan phục gọn gàng đặt trên giá áo: “Mấy ngày nay vì sao tướng công bận rộn như vậy? Bây giờ đã sắp đến giờ Tuất rồi.”
“Ôi!” Vừa nhắc tới việc này, tâm tình phấn khởi sau khi đến chỗ Lục La về liền bay sạch, Quách Tể đặt mông ngồi xuống giường, lẩm bẩm nói: “Ta đang lo đến bạc cả đầu đây.”
“Rốt cuộc có chuyện gì?” Lý Ưu Nương lên giường, quỳ sau lưng ông nhẹ nhàng bóp vai.
Quách Tể rất thích tận hưởng cảm giác ấm áp này, khẽ nhắm mắt lại, than thở: “Hoàng thượng sắp tuần thú Hà Đông.”
“Tuần thú Hà Đông thì liên quan gì đến tướng công?” Lý Ưu Nương ngạc nhiên nói: “Tướng công quản lý huyện Hoắc Ấp này thế nào mọi người đều biết, trăm họ an cư lạc nghiệp, hoàng thượng nhìn thấy không biết chừng còn phong thưởng, có việc gì phải âu sầu?”
Quách Tể cười khổ: “Phong thưởng tạm chưa nói tới. Sự trù phú của Hà Đông, sự phồn hoa trong huyện này cũng không phải là công của ta. Bỏ qua chuyện này, vấn đề mấu chốt là nghênh giá thế nào. Huyện Hoắc Ấp là nơi phải đi qua trên đường đến Thái Nguyên, năm xưa hoàng thượng cùng với thái thượng hoàng khởi binh diệt Tùy, trận chiến đầu tiên khởi hưng Đại Đường chính là đánh ở Hoắc Ấp, chắc chắn hoàng thượng phải ở đây vài ngày. Nhưng… nhưng ta biết để cho hoàng thượng ở đâu đây?”
“Cũng đúng.” Lý Ưu Nương xuất thân danh gia vọng tộc, kiến thức về mặt này cũng cao hơn gã vũ phu trên quan trường Quách Tể này nhiều lắm: “Hoàng thượng tuần thú, nếu giản lược, binh lính đi theo bảo vệ cộng thêm quần thần cũng lên tới năm sáu ngàn người. Nếu xa hoa một chút, chỉ sợ không dưới vạn người. Huyện chúng ta… đúng là không sắp xếp được.”
“Chứ sao nữa!” Quách Tể liên tục thở dài: “Mấy ngày nay ta và các vị đồng liêu vẫn đang nghĩ cách, còn triệu tập các nhà giàu trong huyện đến bàn kế sách. Kì thực bản ý của ta là muốn để một nhà giàu tạm nhường lại nhà của mình. Nhưng nơi này của chúng ta núi nhiều đất ít, đường sá gập ghềnh, dù là nhà giàu thì diện tích cũng không lớn, tòa nhà ở được trăm người đã coi là lớn lắm rồi, sao có thể bố trí chỗ ở cho hoàng thượng được đây?”
“Đây đúng là một việc lớn.” Lý Ưu Nương lẩm bẩm.
“Đừng nói ta, hai huyện lệnh Hồng Động, Triệu Thành cũng đang đau đầu. Có điều bọn họ còn đỡ, hai thành khoảng cách gần nhau, hoàng thượng sẽ chỉ ở một trong hai huyện, hai người còn có thể thương lượng. Nhưng còn ta thì sao?” Quách Tể gần như sắp phát điên.
Lý Ưu Nương đột nhiên cười: “Tướng công đúng là người trong cuộc thì hồ đồ. Chẳng lẽ tướng công quên mất một nơi hay sao? Nơi đó diện tích đủ lớn, phong cảnh lại đẹp, mấy ngàn người ở cũng không thành vấn đề. Quan trọng hơn là hoàng thượng chắc chắn sẽ hài lòng.”
“Sao?” Quách Tể đột nhiên mở mắt ra, xoay người lại nhìn phu nhân chằm chằm: “Còn có nơi như thế à? Phu nhân nói mau, là nơi nào?”
“Nếu thiếp thân nói, phu quân thưởng thiếp thế nào?” Lý Ưu Nương dịu dàng nói.
Quách Tể thấy tim mình tan chảy, hồn vía sắp bay lên chín tầng mây: “Chỉ cần phu nhân có thể tìm được nơi như thế, phu nhân muốn gì lão Quách này cũng sẽ đáp ứng. Cho dù phu nhân muốn mặt trăng trên trời, ta cũng lấy xuống cho phu nhân!”
“Thiếp thân lấy mặt trăng làm cái gì…” Lý Ưu Nương si mê nhìn Quách Tể, đột nhiên vòng tay ôm cổ ông ta, giọng nói khe khẽ: “Có tướng công là đủ rồi.”
Quách Tể cảm động trong lòng, toàn thân tê dại, lại vẫn không quên chính sự, tiếp tục thúc giục. Lý Ưu Nương mới nói: “Chùa Hưng Đường!”
Quách Tể ngẩn ra, lập tức vỗ tay cười to: “Tốt! Tốt! Phu nhân đúng là nữ Gia Cát. Các quan trong huyện đều đề nghị huyện lệnh đứng ra bỏ tiền dựng một tòa hành cung. Ta xót hàng đống khai thông nguyên bảo, không nỡ bỏ ra. Không ngờ phu nhân không cần bỏ một đồng nào đã có thể giải quyết được vấn đề phiền phức lớn này! Không sai, không sai, chùa Hưng Đường đủ rộng lớn, nhiều thiền viện, hoàng thượng và gần trăm đại thần vào ở thoải mái, khu đất trống trước sơn môn còn có thể đóng quân… Tên gọi cũng tốt, Hưng Đường, hoàng thượng chắc chắn sẽ thích!”
“Phu quân thưởng cho thiếp được chưa?” Lý Ưu Nương cười nói, sâu trong đáy mắt lại ánh lên vẻ đau khổ tột độ.
“Thưởng! Thưởng ngay bây giờ!” Quách Tể không hề phát hiện ra điều đó, chỉ bật cười ha hả, đưa tay cởi quần áo, đặt phu nhân nằm xuống giường rồi nằm đè lên. Thân hình Quách Tể quá to lớn, lập tức che kín dáng người nhỏ nhắn của Lý phu nhân…