Chương 16 Quỷ môn quan, điện Diêm La, ngục Nê Lê
“Giới âm ti…” Lý Thế Dân lẩm bẩm nhắc lại, nhìn tòa thành hùng vĩ mà lại âm trầm trước mặt, trong lòng vừa sợ hãi vừa cảm thấy kỳ quặc, mình là người sống mà lại chạy đến giới âm ti này.
Thôi Giác dẫn hắn ra khỏi khe núi, đến gần tường thành. Cuối đường là cổng thành, có bốn gã quỷ sai đeo mặt nạ canh gác. Lý Thế Dân ngẩng đầu nhìn, trên lầu cổng thành có khắc ba chữ rất lớn: Quỷ môn quan.
Lý Thế Dân hít sâu một hơi khí lạnh, không ngờ cổng thành mình đang đi vào này lại là Quỷ môn quan tiếng tăm lừng lẫy chốn dương gian! Trong dân gian có rất nhiều truyền thuyết về Quỷ môn quan, có từ trước cả khi Phật giáo được truyền bá.
Bốn gã quỷ sai canh gác nhìn thấy Thôi Giác đều khom người thi lễ, không hỏi câu nào mà tránh ngay sang bên cạnh để Thôi Giác dẫn Lý Thế Dân đi vào Quỷ môn quan. Lý Thế Dân càng ngày càng có thiện cảm với Thôi Giác, hắn cũng dần nhìn ra được, vị phán quan này có quyền thế cực lớn ở giới âm ti, trong lòng có một suy nghĩ: Dù lần này có thể bình an vượt qua được nguy nan, nhưng là người thì có ai không chết? Một khi Trẫm trăm tuổi băng hà, có hắn ở giới âm ti chăm sóc, trong lòng cũng sẽ được an ổn. Rốt cuộc nên làm thế nào để lung lạc lôi kéo người này?
Qua Quỷ môn quan là vào trong thành Phong Đô. Bởi vì hai người đi đường tắt nên không đi qua phố phường mà đến thẳng điện Viêm Ma La. Trên đường đi, Thôi Giác không ngừng giảng giải cặn kẽ tình hình xung quanh cho Lý Thế Dân: “Bệ hạ, quan phủ tại thành Phong Đô này là phủ U Minh, chính là điện Viêm Ma La mà ngài phải đến. Phủ U Minh có bốn ti sở thuộc là ti Luân Hồi, ti Chiêu Hồn, ti Tịch Diệt, ti Minh Ngục. Ti Luân Hồi chuyên môn quản lý luân hồi của hồn ma, ở đó có đĩa lục đạo luân hồi, có thể đưa hồn ma đến những nơi khác nhau trong lục đạo. Ti Chiêu Hồn thì phụ trách đi bắt hồn phách người sống, hai tên Vô thường lúc trước dẫn bệ hạ đến chính là trực thuộc ti Chiêu Hồn. Ti Tịch Diệt thì chuyên môn phụ trách tiêu diệt hồn ma, có một số hồn ma lẩn trốn đến Âm Sơn hoặc đến vùng luyện yêu, là những chỗ giao giới giữa nhân gian và âm ti, không cẩn thận còn sẽ làm hại nhân gian, ti Tịch Diệt phải lùng bắt tróc nã du hồn. Ti Minh Ngục thì quản lý mười tám tầng ngục Nê Lê ở phía sau Âm Sơn.”
“A, vậy thì Thôi khanh phụ trách những việc gì?” Lý Thế Dân tò mò hỏi.
Thôi Giác cười: “Thần là phán quan, đương nhiên chịu trách nhiệm kiểm tra sổ sinh tử, phân tích thiện ác tội nghiệt, đưa ra phán quyết xử phạt. Có điều âm ti của Đông Thổ mới mở ra không lâu, bây giờ Viêm Ma La Vương còn thiếu nhân thủ, cho nên thần còn kiêm nhiệm chủ sự ti Minh Ngục, lát nữa thần sẽ dẫn bệ hạ đi xem.”
“Rất tốt, rất tốt!” Lý Thế Dân thầm nghĩ trong lòng: “Gã Thôi Giác này cũng coi như là quyền cao chức trọng ở giới âm ti! Không ngờ Viêm Ma La Vương lại tín nhiệm hắn như thế.”
“Viêm Ma La Vương chính là người quản lý toàn bộ giới âm ti à?” Lý Thế Dân hỏi.
Thôi Giác gật đầu, suy nghĩ một lát lại lắc đầu: “Nói đúng cũng không hẳn là đúng. Trên Viêm Ma La Vương còn có Địa Tạng Vương Bồ Tát, có điều Địa Tạng Vương Bồ Tát không quản những chuyện nhỏ nhặt này, chỉ độ hóa ác quỷ trong mười tám tầng ngục Nê Lê. Bởi vì ngài ấy đã từng tuyên bố, chưa độ hóa hết địa ngục thề không thành Phật. Vị Bồ Tát này mới là người có địa vị cao nhất tại giới âm ti.”
“À!” Lý Thế Dân gật đầu. Hắn đương nhiên đã nghe nói về Địa Tạng Vương Bồ Tát, cũng rất kính trọng lòng đại từ đại bi của vị Bồ Tát này. Vừa nghĩ có thể đến gần Bồ Tát như thế, hắn lại có một chút cảm giác hưng phấn: “Thôi khanh, Trẫm có thể bái kiến Địa Tạng Vương Bồ Tát hay không?”
Thôi Giác nghẹn lời, một hồi lâu mới nói: “Việc này sợ là không dễ. Bởi vì Bồ Tát tọa trấn ở tầng thấp nhất trong mười tám tầng ngục Nê Lê, độ hóa những ác quỷ tội nghiệt nặng nhất, sợ là… không dễ gặp được.”
Lý Thế Dân cũng biết việc này rất khó, nói thẳng ra thì chính hắn cũng chỉ là một phàm nhân, cơ duyên được gặp Bồ Tát đâu phải có thể dễ dàng gặp được.
Hai người vừa đi vừa nói chuyện, từ từ tiến vào điện Viêm Ma La. Đến nơi này lại không giống như bên ngoài, khắp nơi đều bao trùm trong khói mây sầu thảm, đình đài lầu các đều bị mây khói cổ quái bao quanh khiến người ta có cảm giác mông lung. Trên đường đi thỉnh thoảng gặp quỷ sai áp giải quỷ phạm qua lại, trên người những quỷ phạm đó hoặc có gông lớn, hoặc hai chân bị xiềng xích, thậm chí có quỷ phạm bị đục thủng xương bả vai, tiếng kêu khóc vang lên khắp nơi khiến người nghe cũng không đành lòng. Nhưng quỷ sai lại không hề thương xót, roi da trong tay vẫn quất không ngừng, tiếng quát hét vang vọng không gian.
Lý Thế Dân nhìn mà kinh hãi, Thôi Giác lại không thèm để ý, dẫn Lý Thế Dân đi thẳng tới một chủ điện hùng vĩ. Trên người hắn dường như có một luồng khí trường mạnh mẽ, bất kể là quỷ sai hay là phạm nhân vừa nhìn thấy hắn đều tránh ra thật xa, cung kính thi lễ. Thôi Giác vẫn không thèm nhìn, chỉ cung kính đi cùng Lý Thế Dân.
Đến trước chủ điện, Lý Thế Dân ngẩng đầu quan sát, trong lòng chấn động. Đại điện này quá to lớn, thậm chí còn hùng vĩ hơn cả điện Thái Cực ở thành Trường An. Hắn căn bản không nhìn ra được chủ điện cao bao nhiêu, bới vì phần đỉnh của nó đã bị bao phủ trong tầng mây trên Âm Sơn.
“Chỉ có quỷ thần mới làm được!” Lý Thế Dân lẩm bẩm.
Thôi Giác cười cười, đi thẳng vào trong đại điện thông báo. Một lát sau có hai tên quỷ sai đứng trước cửa đại điện cao giọng nói: “Viêm Ma La Vương có lệnh, xin mời thiên tử Đại Đường!”
Lý Thế Dân nhấc long bào, chậm rãi bước lên bậc thềm. Bậc thềm trước mặt chỉ sợ có không dưới năm sáu trăm bậc, đi một hồi lâu mới đến cửa đại điện. Lúc này đột nhiên hắn nghe thấy một tiếng cười phóng đãng, một vương giả đầu đội vương miện có mười hai chuỗi ngọc, hông đeo bạch ngọc châu xuất hiện trước mặt hắn. Lý Thế Dân không khỏi ngơ ngác, không ngờ phục sức của người này lại là trang phục đế vương của Đại Hán, bất quá như vậy trong lòng hắn cũng thoải mái hơn một chút, nếu Viêm Ma La Vương này lại mặc phục sức giống hệt mình thì mới là khó xử.
Vương giả này khuôn mặt sạm đen, hốc mắt hõm sâu, thoạt nhìn lại không giống người Đông Thổ. Nhưng người này dáng hình khôi ngô, chiều cao khoảng bảy thước, không hề kém gã khổng lồ Quách Tể, đứng trước mặt Lý Thế Dân quả thật giống như một ngọn núi nhỏ.
“Ha ha…” Viêm Ma La Vương cười dài một tiếng, nhìn Lý Thế Dân nói: “Vua âm ti và vua nhân gian gặp nhau ở đây, bệ hạ có cảm nghĩ thế nào?”
Thấy hắn đích thân đi ra nghênh đón, trong lòng Lý Thế Dân cũng yên tâm hơn, lập tức chắp tay cười nói: “Lục đạo thế giới, luân hồi không ngừng, có thể cùng âm vương gặp mặt ở đây cũng coi như là một giai thoại.”
Viêm Ma La Vương cười to, dắt tay Lý Thế Dân đi vào đại điện. Trong đại điện u ám âm trầm, cái lạnh như kim đâm vào da thịt, chỉ có xung quanh được chiếu sáng bởi minh hỏa, phía xa đều bị sương khói bao phủ, cũng không thấy rõ là rộng lớn thế nào. Ngoài đại điện là một đám quỷ sai cầm các loại binh khí, bên trong bày bốn chiếc án kỷ, ba người đàn ông có vẻ là quan chức ngồi trên đệm phía sau án, tuổi tác có già có trẻ. Sau lưng bọn họ có cột ngọc, bên trên khắc những dòng chữ “ti Luân Hồi, ti Chiêu Hồn, ti Tịch Diệt, ti Minh Ngục”, có lẽ những người này là chủ sự của các ti tương ứng. Án của ti Minh Ngục không có người, đó đương nhiên là vị trí của Thôi Giác.
Chỗ sâu nhất trong đại điện là một đài cao, trên đài cao là một chiếc án kỷ màu đen rộng rãi, chắc hẳn là chỗ ngồi của Viêm Ma La Vương. Sau khi Viêm Ma La Vương ngồi xuống sau án liền sai người lấy thêm một chiếc đệm đặt trên đài cao ngay bên dưới mình, lại sai người khiêng một chiếc án nhỏ tới mời Lý Thế Dân ngồi vào. Thôi Giác đích thân mang một ấm trà tới, lệnh cho hai tên quỷ sai đi tới hầu hạ.
Qua những lễ tiết này có thể thấy âm ti vẫn tương đối coi trọng vị đế vương của nhân gian này.
“Bệ hạ!” Viêm Ma La Vương nói: “Lần này mời bệ hạ đến giới âm ti của bản vương là có hai việc.”
Lý Thế Dân chắp tay: “Mời Âm vương nói.”
“Việc thứ nhất, bản vương ở Tây Phương đã lâu, lần này phụng dụ lệnh của Phật Tổ đến Đông Thổ này mở ra giới âm ti, xây dựng ngục Nê Lê, phán xét thiện ác của nhân gian, nắm giữ lục đạo luân hồi. Chỉ vì thời gian ngắn ngủi, phần lớn giới nhân gian còn chưa hiểu rõ, còn bệ hạ là vua nhân giới, có sứ mệnh giáo hóa tứ phương, vì vậy bản vương liền mời bệ hạ đến du lãm giới âm ti này để hiểu biết thêm một chút.”
Lý Thế Dân gật đầu, hỏi: “Xin hỏi Âm vương, vì sao phải mở giới âm ti, xây dựng ngục Nê Lê ở Đông Thổ?”
Viêm Ma La Vương thở dài: “Bệ hạ chắc hẳn cũng biết, văn minh huy hoàng của thế giới phương Đông này đã truyền thừa hàng ngàn năm, từ Hoàng Đế dựng nên văn minh Hoa Hạ đến nay đã có ba ngàn ba trăm hai mươi lăm năm, trong thời gian đó triều đại thay đổi, biến loạn không ngừng. Vua không biết thương cảm bách tính, xa hoa dâm dật. Tôi không biết thần phục đế vương, phản loạn khắp nơi. Lê dân bách tính không biết chung sống hài hòa. Phụ mẫu huynh đệ không biết yêu thương kính trọng lẫn nhau. Nhân gian mặc dù có ba giáo Phật, Đạo, Nho giáo hóa, nhưng lại không hề có một tín ngưỡng nào trở thành nguyên tắc chuẩn mực để mọi người phải tuân theo. Vì vậy nhân gian này mới trở nên rối ren, không chuyện ác nào không có. Giả dụ như thời Ngũ Hồ (năm di tộc gồm Hung Nô, Tiên Ti, Hạt, Đê, Khương) loạn Hoa, binh lính tàn sát bách tính, lấy thịt người làm đồ ăn, nuôi người sống để giết thịt, gọi là ‘cừu hai chân’. Gây ra tội ác ngập trời đồng loại ăn thịt lẫn nhau như vậy, chẳng lẽ những người này không sợ bị trừng phạt sao?”
Ngũ Hồ loạn Hoa[*] chỉ trước thời điểm này không đến ba trăm năm, sĩ tộc phía bắc vẫn còn nhớ rõ, Lý Thế Dân đương nhiên biết rõ giai đoạn lịch sử này, nhớ tới cảnh tượng đáng sợ của loạn thế Tùy Mạt mấy năm trước, không khỏi gật đầu: “Bệ hạ nói rất đúng. Theo Trẫm thấy, cai quản thiên hạ chính là cai quản bách tính, vỗ về bách tính, trọng nhân tài, mạnh chính trị. Khiến quốc gia cường thịnh, bách tính an cư lạc nghiệp, tuyển chọn nhân tài, khiến quan lại thanh liêm, đưa ra những biện pháp thi hành chính sách hữu hiệu, trên dưới tuân thủ, vận hành hiệu suất cao, như thế mới có thể tạo nên một thịnh thế huy hoàng.”
[*] 62 Do Tấn triều hủ bại, quan lại tham ô tàn độc, gây cuộc nội loạn tám Vương tranh giành xâu xé; thừa dịp năm dân tộc Hồ rầm rộ khởi binh, nên được gọi là Ngũ Hồ Loạn Hoa, mở đầu cho thời đại hỗn loạn mệnh danh Ngũ Hồ Thập Lục Quốc.
Viêm Ma La Vương lắc đầu: “Bệ hạ nói là việc nước, bản vương nói lại là lòng người.”
“Lòng người?” Lý Thế Dân kinh ngạc.
“Không sai!” Viêm Ma La Vương nói: “Bản vương xin hỏi bệ hạ, khi quốc gia cường thịnh tất nhiên có thể khiến bách tính an cư lạc nghiệp, lòng dân an bình. Nhưng trên đời này có gì cường thịnh vĩnh hằng không? Sông Hằng còn có khi đầy khi vơi, biển cả còn có lúc hóa nương dâu, một quốc gia sao có thể cường thịnh mãi mãi? Mà một khi quốc gia suy bại, bệ hạ lấy cái gì để ràng buộc bách tính?”
Lý Thế Dân kinh hãi, vội vàng đứng dậy: “Xin Âm vương dạy bảo.”
Viêm Ma La Vương xua tay: “Bệ hạ, khi đó phải dựa vào tín ngưỡng trong lòng người! Tín ngưỡng là cái gì? Tất cả mọi người tin phục, tôn sùng, sợ hãi thánh hiền và thần linh, coi sự yêu ghét của họ là nguyên tắc hành vi của mình. Bản vương xây dựng giới âm ti, lập ra ngục Nê Lê này chính là phải cho những người sống biết, tất cả mọi việc bọn họ làm trên dương gian, sau khi chết đều phải chịu phán xét ở âm ti! Phàm là người khi còn sống làm chuyện chia rẽ ly gián, phỉ báng hại người, nhục mạ quân vương tôn trưởng, lừa dối gạt người, sau khi chết đều phải đày vào Ngục Rút Lưỡi. Phàm là người khi còn sống làm chuyện chia rẽ cốt nhục, xúi bẩy phụ tử, huynh đệ, tỉ muội, phu thê bất hòa, sau khi chết phải vào Ngục Thiết Thụ. Đạo tặc cướp bóc, ức hiếp người yếu, lừa gạt phụ nữ trẻ em, vu cáo phỉ báng, mưu chiếm tài sản vợ con người khác, sau khi chết đều phải đày vào Ngục Vạc Dầu. Phàm là người bất kính bề trên, không hiếu kính phụ mẫu, mưu nghịch, phản quốc, sau khi chết đều đày vào Ngục Huyết Trì. Bệ hạ nghĩ xem, khi trong lòng người đều có nỗi sợ hãi sau khi chết bị phán xét này, giới nhân gian sẽ như thế nào?”
Lý Thế Dân chấn động, hai mắt sáng rực nhìn chằm chằm Viêm Ma La Vương. Lòng dạ đế vương không phải do đế vương và người thường có cấu tạo khác nhau mà là vị trí của mỗi người khác nhau, phương thức suy nghĩ cũng khác nhau. Từ khi lên ngôi tới nay, Lý Thế Dân một lòng lo nghĩ, thức khuya dậy sớm, toàn tâm toàn ý tạo ra một thịnh thế huy hoàng, khiến giang sơn Đại Đường thống nhất muôn đời. Thủ đoạn chính trị của hắn cực kỳ thân dân, cũng không phải vì hắn và bách tính có tiếng nói chung gì, mà là những người trải qua loạn thế cuối thời Tùy đều bị những vụ nổi dậy long trời lở đất, ào ào vũ bão của nhân dân làm cho khiếp đảm. Sức mạnh của nhân dân thật sự quá lớn, mạnh mẽ như Đại Tùy thống nhất thiên hạ mà chỉ sau mấy năm ngắn ngủi đã bị xé tan thành từng mảnh.
Năm xưa hắn bình định Lưu Hắc Thát, đứng trên đất Hà Bắc rộng lớn nhìn mấy chục vạn kẻ tạo phản rợp trời ngập đất tràn đến, nỗi sợ hãi trong lòng đúng là khó có thể diễn tả. Đây chính là con dân Đại Tùy mười năm trước! Có cầm roi đánh hắn, trên mặt hắn vẫn phải tươi cười. Có giơ chân đá hắn, hắn cũng không dám có một câu oán hận!
Hắn từng vô số lần nghĩ: Rốt cuộc làm thế nào mới có thể đóng dây cương cho bách tính? Làm thế nào mới có thể khiến mặt thô bạo của bách tính không còn xuất hiện, ngoan ngoãn làm con dân Đại Đường? Thủ đoạn hắn nghĩ ra chính là lời của Lão Tử, để dân ít nghĩ, để dân no bụng, cho bách tính ăn no, cho bách tính lưu luyến ngôi nhà nhỏ ấm áp của mình, vì vậy hắn mới siêng năng chính sự, vắt hết óc lo nghĩ cho dân sinh.
Giờ đây Viêm Ma La Vương lại đóng dây cương cho bách tính từ một góc độ khác! Nếu như sống trên nhân gian không phải trạm cuối cùng của đời người, không phải người chết như đèn tắt, ngược lại, tất cả mọi việc họ làm trên nhân gian đều có quỷ thần ghi chép lại, sau khi chết phải bị phán xét tại âm ti, vậy còn ai dám phản nghịch? Còn ai dám tạo phản? Còn ai dám làm việc ác mà không hề cố kỵ?
Lý Thế Dân cực kỳ thông minh, trong nháy mắt đã hiểu rõ hết thảy. Giới âm ti do Viêm Ma La Vương xây dựng quả thực là tấm chắn cuối cùng của đế vương nhân gian, là vũ khí tốt nhất để kiểm soát lòng người!
“Đa tạ Âm vương chỉ bảo!” Lần này sự cung kính của Lý Thế Dân là xuất phát từ tận đáy lòng.
Viêm Ma La Vương cười: “Lục đạo chúng sinh, từ phượng hoàng thiên long cho tới côn trùng đều không thoát khỏi luân hồi này. Mà lòng dân Đông Thổ tham lam ngu muội, giới âm ti không có người quản hạt, sau khi chết phần lớn thành cô hồn dã quỷ, một số làm hại nhân gian, số khác quấy nhiễu âm ti. Thiên đạo hoang phế, âm ti hỗn loạn, bất kể người hay ma đều không có một sức uy hiếp mạnh mẽ khiến bọn chúng sợ hãi, khiến bọn chúng phải kiêng dè. Vì vậy Phật Tổ mới lệnh bản vương đi tới Đông Thổ này xây dựng giới âm ti, quản lý lòng người ở giới nhân gian và giới âm ti.”
“Trẫm hoàn toàn ủng hộ!” Lý Thế Dân nghiêm mặt nói: “Nếu cần Trẫm làm việc gì, mời Âm vương cứ việc lên tiếng!”
“Vậy tốt!” Viêm Ma La Vương đột nhiên đứng lên, chắp tay với Lý Thế Dân: “Bản vương tại đây giao hẹn với bệ hạ, ngài quản giới nhân gian, ta quản giới âm ti. Đồng lòng hợp sức, làm trong sạch lòng người trong lục đạo!”
Lý Thế Dân vô cùng mừng rỡ, điều này có nghĩa là giới âm ti đã thừa nhận địa vị đế vương của mình!
Hai vị đế vương đạt thành khế ước trên điện U Minh này.
“Đây chính là việc thứ nhất!” Viêm Ma La Vương lại ngồi xuống, nói với Lý Thế Dân: “Còn có một việc, đó là vụ kiện. Mấy ngày trước đại ca Lý Kiến Thành, tam đệ Lý Nguyên Cát của ngài đệ đơn kiện ngài tàn sát huynh đệ đoạt ngôi vị hoàng đế, vì vậy bản vương mời bệ hạ đến tranh biện một phen.”
Sự vui mừng của Lý Thế Dân lập tức tan thành mây khói, sống lưng lạnh toát, nhìn về phía Thôi Giác xin giúp đỡ.
Thôi Giác cười nói: “Âm vương, đã như vậy sao không truyền khổ chủ đến, mọi người cùng đối chất, cũng dễ dàng cho việc phán xét!”
Viêm Ma La Vương gật đầu, sai quỷ sai đi truyền Lý Kiến Thành, Lý Nguyên Cát. Lý Thế Dân thầm kêu khổ trong lòng, mình giết huynh đoạt vị là chuyện ván đã đóng thuyền, tại sao Thôi Giác còn để hai người này đến đây? Đời này hắn chưa từng sợ hãi, nhưng nhìn thấy hai huynh đệ Lý Kiến Thành, Lý Nguyên Cát đã chết trong tay mình lại không khỏi run rẩy.
Thôi Giác cười cười với hắn, tỏ ý không sao. Lý Thế Dân thấy vậy mới bình tĩnh hơn một chút.
Một lát sau Kiến Thành và Nguyên Cát đến, quỳ rạp xuống trong đại điện, hai tay giơ đơn kiện, cao giọng kêu oan. Viêm Ma La Vương sai người nhận lấy đơn kiện, nhìn qua một chút, hỏi Lý Thế Dân: “Bệ hạ, hai người này kiện ngài bày phục binh tại Huyền Vũ Môn, thí huynh soán vị, ngài tự tay bắn chết huynh trưởng Kiến Thành, có việc này hay không?”
Lý Thế Dân bất đắc dĩ, đứng dậy nói: “Quả thực có việc này.”
Viêm Ma La Vương sầm mặt suy nghĩ một lát, thản nhiên nói: “Bệ hạ có biết tội nghiệt này phải nhận hình phạt thế nào không?”
“Mặc dù có việc này, nhưng Thế Dân cũng có nỗi khổ tâm.” Lý Thế Dân nói: “Khi đó bản vương và Kiến Thành đã giương cung bạt kiếm, tất phải phân ra thắng bại. Trước đó Kiến Thành cũng mưu sát Trẫm nhiều lần, Trẫm há có thể khoanh tay chịu chết? Năm Vũ Đức thứ tám, Trẫm nhận lời mời đến trong cung thái tử dự tiệc, nào ngờ Kiến Thành lại hạ độc trong rượu, nếu không có thúc phụ Lý Thần Thông hộ giá, bản vương đã chết trong tay chúng từ lâu rồi. Nhưng bản vương vẫn niệm tình huynh đệ, không dám lấy oán báo oán. Không ngờ năm sau Đột Quyết xâm lấn, Kiến Thành đề nghị thái thượng hoàng cho Nguyên Cát cầm quân xuất chinh. Vốn Trẫm cũng không có gì dị nghị, tuy nhiên bọn chúng lại bắt tâm phúc của Trẫm là Uất Trì Kính Đức, Tần Quỳnh, Trình Tri Tiết đi theo Nguyên Cát xuất chinh, còn đòi khống chế toàn bộ binh mã của phủ Tần Vương. Sau đó bản vương nghe thấy tin tức, nói là Nguyên Cát sớm đã có ý định điều đại tướng và binh mã của bản vương ra ngoài kinh thành rồi chôn sống toàn bộ, tiếp theo dẫn quân vây Trường An, ép phụ hoàng giết ta. Đến nước này, bản vương dù không suy nghĩ cho tính mạng của chính mình thì cũng phải suy nghĩ cho những tướng sĩ vô tội đó!”
“Ngươi nói láo!” Thấy Lý Thế Dân ngụy biện, Kiến Thành lập tức giận dữ: “Ta hạ độc trong rượu của ngươi lúc nào? Hôm đó ngươi uống rượu, sau đó ôm bụng chẳng qua chỉ là để vu oan cho ta. Nếu ta hạ độc mà ngươi đã uống vào thì làm sao còn có thể sống được nữa?”
Kiến Thành là người thành thật, nói đạo lý với Lý Thế Dân, nhưng Nguyên Cát tính tình nóng nảy, thấy kẻ thù ngồi bên trên liền xông tới định đánh. Lý Thế Dân vừa định né tránh, Viêm Ma La Vương đã hùng hổ vỗ án, quát: “Âm ti trọng địa, ai cho đám tiểu quỷ các ngươi làm càn? Người đâu, áp giải xuống cho bản vương, đưa vào Ngục Thiết Thụ bảy ngày!”
Hai người lập tức sững sờ, để mặc quỷ sai kéo xuống, ra đến cửa đại điện mới sợ hãi hét lên.
Viêm Ma La Vương lộ vẻ lúng túng, chắp tay với Lý Thế Dân: “Âm ti mới lập, những tiểu quỷ này không hiểu quy củ, để bệ hạ phải kinh sợ.”
Lý Thế Dân còn chưa hết sợ, cố nở nụ cười trên khuôn mặt tái nhợt.
“Chuyện này có chút khó khăn.” Viêm Ma La Vương nói với Thôi Giác: “Thôi phán quan, ngươi thấy nên xử lý thế nào?”
Thôi Giác chắp tay nói: “Bệ hạ, không bằng mang sổ sinh tử tới xem một chút. Thiện ác trên nhân gian đều được ghi lại, không cần nhân chứng cũng có thể phán xét!”
Viêm Ma La Vương gật đầu, sai Thôi Giác đi lấy sổ sinh tử. Thôi Giác đứng dậy đi vào trong làn sương khói lượn lờ phía trong đại điện, một lát sau mang một cuộn giấy to lớn ra, cố ý đứng trên bậc thềm bên cạnh Viêm Ma La Vương. Tại vị trí này, Lý Thế Dân vừa hay có thể thấy rõ động tác của hắn và nội dung trên sổ sinh tử, không khỏi lén lút quan sát.
Thôi Giác chậm rãi mở sổ sinh tử ra, bên trên có rất nhiều tên người được sắp xếp theo niên đại. Hắn kéo một lát, Lý Thế Dân tinh mắt, lập tức nhìn thấy tên mình, phần nội dung ghi: “Lý Thế Dân, người Thành Kỷ, Lũng Tây, làm thiên tử thứ hai của Đại Đường, niên hiệu Trinh Quán. Sinh vào năm Tùy Khai Hoàng thứ mười chín, băng hà năm Đường Trinh Quán thứ mười ba…”
“Băng hà năm Trinh Quán thứ mười ba…” Lý Thế Dân lập tức chết sững: “Trẫm… còn mười năm nữa đã chết rồi sao?”
Hắn không khác gì gặp sét đánh giữa trời quang, mình mới ba mươi mốt tuổi, hào hoa phong nhã, tại sao chỉ còn có mười năm tuổi thọ? Bốn mươi mốt tuổi, cho dù các đế vương tuổi thọ không dài đi chăng nữa thì đây vẫn được tính là đoản mệnh. Thịnh thế huy hoàng, giang sơn Đại Đường của mình, mười năm ngắn ngủi có thể làm ra được thành tựu gì?
Thôi Giác cũng nhìn thấy, hắn hơi run lên, sau đó lẳng lặng lấy ra một cây bút từ trong tay áo, nhẹ nhàng thêm hai gạch ngang vào dưới chữ “nhất” (chữ “nhất” thêm hai gạch ngang thành chữ “tam”). Động tác của hắn cực nhanh, chỉ trong nháy mắt đã viết xong, sau đó cất bút vào trong tay áo. Viêm Ma La Vương ngồi đối diện với hắn, bị sổ sinh tử che khuất nên không hề phát hiện. Lý Thế Dân đứng sau lưng Thôi Giác lại nhìn rất rõ ràng, lập tức trợn mắt: “Băng hà năm Trinh Quán thứ ba mươi ba!”
Đầu tiên hắn cực kỳ sợ hãi. Tự ý sửa sổ sinh tử, đây chính là trọng tội!
Cần biết nhân quả của nhân gian vẫn luôn tuần hoàn, sửa đổi một mắt xích trong đó, những mắt xích tiếp theo cũng sẽ thay đổi, cuối cùng toàn bộ đều thay đổi. Lý Thế Dân thật sự không ngờ Thôi Giác to gan đến mức này. Có điều nhớ lại những việc làm của người này trên dương gian, dẫn theo mấy trăm dân quân đã dám tập kích Tống Kim Cương, một thân một mình dẫn theo hai tùy tùng đã dám ám sát Tầm Tương, hắn còn có việc gì không dám làm nữa?
Lý Thế Dân mừng thầm, sửa lại như vậy là mình sẽ tăng được hai mươi năm tuổi thọ! Năm Trinh Quán thứ ba mươi ba, cũng có nghĩa mình còn có thể làm hoàng đế ba mươi năm nữa!
Hắn là đế vương lại cực kỳ khôn ngoan, trong lòng có kích động đến mấy thì ngoài mặt vẫn bình thản vô cùng. Lúc này Thôi Giác đã đưa sổ sinh tử cho Viêm Ma La Vương xem rồi. Viêm Ma La Vương ngẩn ra: “Bệ hạ rõ ràng còn ba mươi năm tuổi thọ, vậy tại sao ti Minh Ngục lại nhận đơn kiện của Kiến Thành và Nguyên Cát? Không lẽ còn có thể giữ một người sống ở đây không chịu thả về?”
“Thần cũng không biết là chuyện gì.” Thôi Giác ngẩn ra: “Bệ hạ, theo luật pháp của giới âm ti, chúng ta căn bản hoàn toàn không có quyền câu hồn thiên tử Đại Đường! Nếu chỉ còn tuổi thọ tám năm mười năm, mặc dù không thể câu hồn nhưng lại có thể câu phách, làm người ta mất phách, suốt ngày ốm đau, tinh thần hoảng hốt. Nhưng còn ba mươi năm tuổi thọ thì câu phách cũng không được phép!”
Viêm Ma La Vương không nghĩ tới lại có chuyện như vậy, lập túc sầm mặt nhìn chủ sự ti Chiêu Hồn: “Mã chủ sự, chuyện này rốt cuộc là thế nào?”
Lão già ngồi dưới cột ngọc ti Chiêu Hồn cũng biến sắc mặt, vội vàng đứng dậy cáo lỗi: “Cái này… để thần đi tra hỏi rõ ràng!”
Lão già đó vội vã đi ra, Viêm Ma La Vương vẻ mặt âm trầm ngồi đó không nói một lời. Lý Thế Dân và Thôi Giác cũng mắt nhìn mũi, mũi nhìn miệng, giống như tượng gỗ. Trong đại điện tĩnh lặng như chết.
Một lát sau Mã chủ sự vội vã chạy vào, xấu hổ quỳ gối thi lễ: “Tâu bệ hạ, lỗi tại thần cai quản không nghiêm. Thần đã tra hỏi rõ ràng, đó là một ti tào của thần nhận hối lộ của Kiến Thành và Nguyên Cát nên mới tiếp nhận đơn kiện này, sai người đi câu hồn phách của thiên tử Đại Đường.”
“Lớn mật!” Viêm Ma La Vương bị mất mặt với Lý Thế Dân, lập tức nổi giận: “Đưa tên ti tào đó vào tầng mười tám ngục Nê Lê! Lý Kiến Thành, Lý Nguyên Cát đưa hối lộ, tội ác tày trời, sau khi chịu hết khổ sở ở Ngục Thiết Thụ lại đưa vào Ngục Dao Cưa! Còn ngươi, đường đường là chủ sự, thuộc hạ nhận hối lộ lại không thể phát hiện, luận xử theo tội không làm tròn chức trách, cách chức chủ sự ti Chiêu Hồn, đến ngục Nê Lê làm quỷ sai!”
Mã chủ sự vẻ mặt ảo não lui ra.
Viêm Ma La Vương sai Thôi Giác cất sổ sinh tử đi, an ủi Lý Thế Dân một lát, cười nói: “Bản vương và bệ hạ mới gặp đã thân, mặc dù còn muốn trò chuyện nữa, nhưng bệ hạ ở âm ti đã lâu, nếu không kịp thời hoàn hồn, sợ thân thể trên dương gian sẽ thối rữa, cho nên bản vương cũng không giữ bệ hạ nữa. Để Thôi phán quan đưa bệ hạ hoàn dương!”
Lý Thế Dân thở phào một hơi, chắp tay nói: “Đa tạ âm vương!”
Cuộc gặp của hai vị đế vương đến đây kết thúc, Viêm Ma La Vương tiễn hắn ra ngoài đại điện, lệnh cho Thôi Giác đưa về dương gian. Hai người rời khỏi chủ điện, Thôi Giác dẫn hắn đi về phía Âm Sơn, Lý Thế Dân mới thấp giọng cảm tạ: “Đa tạ Thôi khanh! Ân này đức này Trẫm trọn đời không quên!”
Thôi Giác xua tay, thở dài: “Tất cả mọi chuyện đều có thiên định. Thần làm như vậy cũng chưa chắc không phải ông trời cố ý an bài, thần không dám kể công. Bệ hạ là quân chủ anh minh, thần cũng hy vọng bệ hạ có thể xây dựng thịnh thế huy hoàng cho Đại Đường này, cũng coi như là thần góp phần tạo phúc cho nhân gian!”
Lý Thế Dân cực kỳ cảm kích: “Trẫm về dương thế nhất định sẽ sắc phong trọng chức cho Thôi khanh. Thôi khanh còn có hậu nhân nào ở nhân thế không? Trẫm sẽ cho hắn một đời phú quý, ba đời vinh hoa.”
Trong mắt Thôi Giác lộ ra vẻ tiếc nuối sâu sắc, hắn cười khổ lắc đầu, lại không nói gì. Hai người cứ thế yên lặng đi, đột nhiên Lý Thế Dân thấy xung quanh toàn là vách đá dựng đứng, suối ngầm chảy xiết, vội hỏi: “Thôi khanh, chẳng phải chúng ta cần về dương thế hay sao? Nơi này là nơi nào?”
“Âm Sơn.” Thôi Giác trả lời đơn giản: “Âm ti là như vậy, có đường đến không có đường về, nơi hoàn dương nằm ở Âm Sơn. Nhân tiện mời bệ hạ tham quan mười tám tầng ngục Nê Lê.”
Lý Thế Dân nghe vậy mới hiểu, nhìn Âm Sơn địa thế gập ghềnh lồi lõm, lớn như núi Thục, cao tựa Lư Sơn, cỏ không mọc được, đỉnh cao tận trời, người không qua lại, hang không khói mây, khe không nước chảy. Trước núi sau núi, đầu trâu mặt ngựa quát hét, nửa ẩn nửa hiện, ma đói ma khát khóc than.
Đang đi, đột nhiên phía trước có một đám cô hồn dã quỷ cụt tay đứt chân thậm chí mất đầu tràn tới, nhìn thấy Lý Thế Dân đều quát mắng: “Lý Thế Dân đến rồi! Lý Thế Dân đến rồi! Trả lại mạng cho ta!”
Lý Thế Dân quan sát kỹ đám ma quỷ này, không khỏi lạnh toát trong lòng. Những người khác hắn không nhận ra, nhưng trong đó có mấy người quả thật rất quen thuộc, một gã đàn ông trung niên to khỏe chính là Lưu Hắc Thát, còn một người tướng mạo nho nhã lại là Vương Thế Sung! Còn có mấy người tướng mạo cũng có chút quen quen, nhưng hắn không nhớ ra được là ai.
Thôi Giác nhíu mày, nói nhỏ: “Bệ hạ, những người này đều là phản vương, tặc khấu thời Tùy Mạt, toàn là oán nghiệp uổng mạng, không bị cai quản, không được siêu sinh, lại không có lộ phí, đều là cô hồn dã quỷ, sợ là cũng bị Lý Kiến Thành và Lý Nguyên Cát xúi giục đến tìm bệ hạ tranh luận.”
“Trẫm nhận ra…” sắc mặt Lý Thế Dân trắng bệch: “Thôi khanh, làm thế nào bây giờ?”
“Không sao!” Thôi Giác nói: “Cho chút tiền siêu độ bọn chúng là được.”
“Cho tiền là có thể siêu độ?” Lý Thế Dân thắc mắc.
Thôi Giác cười khổ: “Bệ hạ quên sự hủ bại ở ti Chiêu Hồn rồi à? Giới âm ti thành lập chưa lâu, âm luật chưa nghiêm. Làm hồn ma ở đây quá khổ, có tiền rồi, những hồn ma này có thể đến ti Luân Hồi chạy chọt, tìm nhà nào tốt để đầu thai, đâu còn tới dây dưa với bệ hạ làm gì nữa?”
“Nhưng bây giờ trên người Trẫm đâu có tiền!” Lý Thế Dân cười khổ. Xem ra Viêm Ma La Vương cũng cai quản không nghiêm, nếu không tại sao lại có nhiều sơ hở như vậy?
“Không sao!” Thôi Giác cười nói: “Bệ hạ quên rồi sao? Bùi Tịch đại nhân tán hết gia tài, cầu xin thần bảo vệ bệ hạ, thần tự nhiên có thể dùng tiền bạc của ông ấy để mua đường cho bệ hạ.”
Thế là Thôi Giác liền thương lượng với đám hồn ma phía trước, mặc dù bọn chúng cực kỳ căm hận Lý Thế Dân, nhưng có cơ hội đầu thai vào nhà người tốt cũng rất thỏa mãn. Sau khi được Thôi Giác bảo đảm, đám hồn ma này mới giải tán.
Lý Thế Dân lúc này mới thấy nhẹ nhõm trong lòng, tiếp tục đi theo Thôi Giác. Đi lên đến đỉnh núi bỗng thấy ánh đỏ đầy trời, phát hiện đây không phải đỉnh núi bình thường mà là một cái hang trời to lớn. Hang trời này rộng chừng trăm trượng, bốn phía lửa cháy hừng hực, ở giữa có một chiếc đĩa to lớn xoay tròn do vô số dây xích rộng ba thước tạo thành, không ngừng chuyển động, không bao giờ dừng lại. Mà trên dây xích, mỗi một mắt xích đều có một hồn ma đang nằm, bị khóa chặt vào đó không thể cử động, theo dây xích xoay tròn. Trên dây xích bên cạnh lại có những móc câu sắc nhọn, những móc câu này móc vào trong miệng hồn ma. Hai dây xích chuyển động ngược nhau, đem lưỡi hồn ma rút thẳng ra ngoài.
Những hồn ma này kêu gào thảm thiết, máu tươi chảy đầy dây xích, vô cùng thê thảm.
“Đây… Đây là nơi nào?” Lý Thế Dân cực kỳ hoảng sợ.
“Ha ha, thưa bệ hạ, đây chính là Ngục Rút Lưỡi, là tầng thứ nhất trong mười tám tầng ngục Nê Lê.” Thôi Giác nói: “Phàm những người khi còn sống mà chia rẽ ly gián, phỉ báng hại người, mồm mép liến thoắng, nói dối gạt người, sau khi chết sẽ bị đưa vào Ngục Rút Lưỡi chịu hành hạ. Tại mười tám ngục Nê Lê, thời gian bị hành hạ dài hay ngắn cũng khác nhau tùy theo mức độ tội ác nặng nhẹ khác nhau. Bị hành hạ ngắn nhất, tính theo thời gian ở địa ngục, một ngày bằng ba ngàn bảy trăm năm mươi năm ở nhân gian. Mỗi ngục đều đau khổ hơn ngục trước đó hai mươi lần, thời gian tăng gấp đôi. Đến ngục Nê Lê thứ mười tám, quả thực đau khổ không cách nào hình dung được.”
Lý Thế Dân tái mặt, thảo nào vừa rồi Kiến Thành và Nguyên Cát lại kêu thê thảm như vậy, bị đày vào Ngục Thiết Thụ bảy ngày, theo thời gian ở nhân gian mà tính chính là bảy vạn tám ngàn bảy trăm năm mươi năm…
“Thưa bệ hạ, dưới Ngục Rút Lưỡi là tầng thứ hai, Ngục Tiễn Đao.” Thôi Giác vừa đi vừa giảng giải, theo bậc thang xây dựng trên vách hang trời dẫn Lý Thế Dân đi xuống địa ngục.
Phía dưới Ngục Tiễn Đao là Ngục Thiết Thụ, Lý Thế Dân nhớ Kiến Thành và Nguyên Cát bị đày xuống đây. Hắn nhìn một chút, lại không tìm được hai người này. Đập mắt hắn là từng phiến từng phiến rừng cây bằng sắt đứng thẳng, mỗi một cành cây phiến lá đều là một lưỡi dao sắc, vô số thân thể hồn ma bị đâm xuyên qua, treo trên cây sắt.
Tầng thứ tư là Ngục Nghiệt Cảnh. Nơi này lại tương đối yên bình, chỉ có hơn trăm tấm gương hình lục lăng dựng đứng, không ít ngục sai dắt hồn ma đi qua trước các tấm gương, bên cạnh có người ghi chép. Thôi Giác nói: “Ngục Nghiệt Cảnh này có chức năng phán xét và thẩm tra. Người sau khi chết bất kể che giấu thế nào, chỉ cần đến soi vào lục lăng kính đều hiện hình, sau đó căn cứ tội nghiệt bất đồng mà đưa đến các ngục khác.”
Tầng thứ năm là Ngục Chưng Lung.
Hai người đi xuống đến đây liền cảm thấy có gió nóng tạt vào mặt, nóng bức không chịu nổi. Ở giữa hang trời có một lồng hấp to lớn, bên ngoài không thể nhìn vào, lại nghe thấy vô số tiếng kêu thảm thiết vọng ra. Thôi Giác giới thiệu: “Người gây xích mích gia đình, phao tin thất thiệt, hãm hại, phỉ báng người khác, sau khi chết vào Ngục Chưng Lung. Hồn ma bị hấp đến lúc toàn thân thối rữa như bùn, sau đó gió lạnh thổi qua, nặn lại thân thể, đưa vào Ngục Rút Lưỡi.”
Tầng thứ sáu là Ngục Đồng Trụ. Giữa hang trời đứng sừng sững mấy ngàn cây cột đồng đường kính ba tấc, cao tới một trượng. Dưới những cột đồng này có lửa cháy, nung cột đồng nóng đỏ, những hồn ma bị lột sạch quần áo, hai tay ôm cột đồng bị nướng sống. Mùi da thịt bị nướng cháy khét lẹt gây mũi, tiếng kêu thê thảm khiến Lý Thế Dân chỉ muốn bịt chặt tai lại.
Thôi Giác còn định dẫn hắn đi xuống dưới, Lý Thế Dân vội vàng xua tay: “Thôi khanh, Thôi khanh, đủ lắm rồi, Trẫm không muốn xem nữa. Cảnh tượng thảm thiết ở địa ngục này làm Trẫm ớn lạnh sống lưng.”
Thôi Giác cười ha hả: “Cũng được, bệ hạ đã không muốn xem thì thần cũng không dám miễn cưỡng. Chúng ta đi thôi, hoàn dương sớm sẽ tốt hơn.”
Hai người đang nói chuyện, đột nhiên xa xa cỏ người cao giọng hô lên: “Bệ hạ, không được đi xuống…”
Lý Thế Dân và Thôi Giác đều giật mình, hai người cùng ngẩng đầu lên, thấy trên sườn núi xa xa có hai bóng người đang cuống cuồng chạy vội tới. Khoảng cách quá xa, hai người cũng không thấy rõ tướng mạo, có điều nhờ ánh lửa có thể thấy một người trong đó đầu trọc lốc, không ngờ lại là một hòa thượng!
“Bọn họ là ai?” Lý Thế Dân kinh ngạc hỏi.
Thôi Giác sắc mặt âm trầm, lạnh lùng nói: “Một hòa thượng không biết điều.”
Hai người đứng nhìn, Thôi Giác toát mồ hôi lạnh. Hắn biết nếu để hòa thượng và gã Thiên Trúc này chạy đến trước mặt Lý Thế Dân sẽ có hậu quả gì. Giờ khắc này hắn chỉ muốn phát điên, lệnh cho quỷ sai giết chết hai người này. Nhưng Lý Thế Dân đang ở bên cạnh, nếu ra lệnh sẽ khiến toàn bộ kế hoạch sụp đổ.
Lý Thế Dân cũng nheo mắt nhìn, dưới địa ngục lại xuất hiện một hòa thượng, điều này có ý nghĩa gì?
Đúng lúc này hai người nhìn thấy trên vách hang trời lặng lẽ xuất hiện hai bóng người mờ mờ ảo ảo, như thật như không. Một người trong đó tay cầm cung, chậm rãi kéo dây cung. Trong ánh lửa, đầu mũi tên sắc lạnh như bắn ra ánh sáng chói mắt hướng về phía hai bóng người đang chạy…