← Quay lại trang sách

Chương 15 Hồn vào âm ti, phách vượt Vong Xuyên

Đêm đó trăng sáng gió lặng, ánh trăng yên ả trải khắp núi Hoắc, phủ kín chùa Hưng Đường. Ánh trăng giống như một loại thuốc làm đông cứng, ngay cả gió núi thổi quanh năm cũng ngừng, đến không khí đang lưu thông dường như cũng ngưng kết lại.

Trong chùa Hưng Đường rộng lớn yên ắng chỉ có tiếng côn trùng kêu, có đàn kiến bò trên thân cây nơi góc tường, xây dựng một thế giới mới ở nơi loài người không nghe thấy. Thỉnh thoảng có tiếng bước chân chỉnh tề của đội tuần tra cấm quân vang lên, tiếng phiến giáp cọ xát vào nhau lanh lảnh vang trong gió.

Đêm đó các bên thế lực đều nín thở ngưng thần, im lặng chờ đợi thời khắc cuối cùng.

Hai người căng thẳng nhất có lẽ là Ngụy Trưng và Uất Trì Kính Đức. Ngụy Trưng mặc triều phục, tay cầm trường kiếm, đích thân đứng trên lối ra dưới Thập Phương Đài, lo lắng dõi mắt nhìn ánh trăng trầm tịch. Thập Phương Đài này là chỗ ở mà Ngụy Trưng đích thân lựa chọn cho Lý Thế Dân, mục đích là để lấy may, ngụ ý là mười phương thế giới vô lượng vô biên đều nằm dưới sự khống chế của thiên tử. Quan trọng hơn là vừa ý với địa hình của Thập Phương Đài này. Xung quanh Thập Phương Đài là bốn tòa thiền viện vây quanh, bốn vị trọng thần Bùi Tịch, Ngụy Trưng, Đỗ Như Hối, Uất Trì Kính Đức đang ở, hết thảy mọi hoạt động trong phòng của thiên tử đều diễn ra ngay trước mắt mọi người. Mà ngoài trăm bước vừa may còn có một mỏm núi nhỏ, Uất Trì Kính Đức phái ba trăm quân tinh nhuệ đóng ở đó, bên trên còn lắp sáu bộ nỏ Phục Viễn. Loại nỏ lớn tầm bắn ba trăm bước này có thể khống chế toàn bộ phạm vi trong tầm mắt.

“Kế hoạch của kẻ địch rất chu đáo tỉ mỉ, rốt cuộc ta còn quên điều gì không?” Ngụy Trưng cau mày suy ngẫm.

Đúng lúc này từ xa xa vang lên tiếng áo giáp va chạm, Uất Trì Kính Đức mặc nguyên bộ áo giáp, tay cầm roi thép vội vã đi tới.

“Ngụy đại nhân, tất cả cấm quân đều đã sắp xếp xong, theo chỉ thị của ngài, ngoài lỏng trong chặt, đội tuần tra sáu tổ, nửa canh giờ đổi gác.” Uất Trì Kính Đức nói nhỏ, nhìn phòng ngủ trên Thập Phương Đài. Đèn đã tắt, hoàng đế có lẽ đã ngủ, nhưng không biết hắn có thể ngủ được không.

“Ta vẫn không yên lòng!” Ngụy Trưng lẩm bẩm nói: “Kẻ thù lên kế hoạch nhiều năm như vậy, còn nói rõ với chúng ta đêm nay sẽ phát động thì chúng phải nắm chắc cả mười phần! Gã mưu tăng này cực khó đối phó, một khi không tìm ra điểm mấu chốt trong đó, sợ là chúng ta sẽ phải ngã đau.”

Uất Trì Kính Đức cũng căng thẳng không kém, cầm roi thép đứng sánh vai với Ngụy Trưng, thấp giọng hỏi: “Đầu óc ta thua kém các ngài, Ngụy đại nhân, ngài nói, ta làm! Cho dù phải liều mạng cũng tuyệt đối không để bệ hạ bị tổn hại dù chỉ là một sợi tóc.”

“Thái giám trong phòng đã đổi thành cấm quân hết chưa?” Ngụy Trưng hỏi.

“Đổi rồi, tổng cộng sáu tên, đều do bệ hạ đích thân chọn lựa, là những người từng đi theo bệ hạ từ khi còn ở Thái Nguyên, thân thủ rất tốt, trung thành tuyệt đối.” Uất Trì Kính Đức nói: “Ngoài ra Đỗ Sở Khách cũng truyền đến tin tức, đã khống chế việc phòng thủ Hoắc Ấp, lại điều đến ba ngàn người từ quân phủ Thái Nguyên, cộng thêm một ngàn năm trăm người của quân phủ Tấn Châu, lúc này tổng cộng đã có bốn ngàn năm trăm người mai phục giữa núi Hoắc và Hoắc Ấp.”

Điều động quân phủ là mệnh lệnh của hoàng đế mấy ngày trước theo đề nghị của Uất Trì Kính Đức. Uất Trì Kính Đức cho rằng đối phương rất có khả năng sẽ gây ra một trận phản loạn, phải có đại quân trú đóng để kịp thời trấn áp. Mặc dù Ngụy Trưng không nghĩ vậy nhưng cũng cảm thấy có phòng bị trước vẫn tốt hơn. Lúc này chỉ riêng ở Hoắc Sơn, quân phủ và cấm quân đã có hàng vạn người, đủ để trấn áp một trận phản loạn quy mô nhỏ.

“Không đúng… Không đúng…” Hắn càng nói như vậy, trong lòng Ngụy Trưng lại càng bất an. Mưu tăng Pháp Nhã là người ra sao? Một lão già đã thành tinh! Hắn lại dại dột phát động phản loạn hay sao? Cho dù hắn dám thì Bùi Tịch cũng không dám! Đại Đường quét sạch các phản vương trong thiên hạ, một nửa trong đó là công lao của Lý Thế Dân. Dù trong tay Bùi Tịch có binh quyền cũng không dám khai chiến với Lý Thế Dân! Âm mưu lần này của đối phương tuyệt đối không phải là phản loạn quân sự, nhưng có thể là cái gì? Ám sát…

“Ngụy đại nhân!” Uất Trì Kính Đức hỏi: “Ngài cho người kiểm tra Thập Phương Đài chưa? Trong đó có mật đạo gì không?”

“Trước khi bệ hạ vào ở ta đã kiểm tra kỹ rồi, hơn nữa…” Ngụy Trưng nhanh chóng lắc đầu: “Khi đó ta chọn lựa Thập Phương Đài này chính là bởi thiền đường này được xây trên một tảng đá lớn, ngươi xem, dưới nền của thiền đường này là một tảng đá trơn nhẵn, đục xuyên qua đá làm mật đạo…” Ông lắc đầu: “Sợ rằng sức người không thể làm được!”

Hai người đều không biết mưu đồ của đối phương rốt cuộc là gì, đã không thể làm rõ thì đành phải tùy cơ ứng biến, chờ đợi đối phương ra tay trước. Hai người bàn bạc một hồi, quyết định canh gác cả đêm trước cửa thiền đường của Lý Thế Dân, không tin gã mưu tăng kia còn có thể giở trò.

Đêm đó mặc dù có Ngụy Trưng và Uất Trì Kính Đức gác ngoài cửa nhưng Lý Thế Dân vẫn hoảng hốt không yên, luôn bị ám ảnh bởi một nỗi sợ hãi khó tả. Từ khi khởi binh năm Đại Nghiệp thứ mười ba đến nay đã được mười ba năm, không biết đã trải qua bao nhiêu trận đánh hung hiểm, kiếm trong tay đã giết vô số người, hắn chưa bao giờ cảm thấy run sợ. Nhưng đêm nay hắn lại sợ hãi thật sự.

Đế vương là chủ của thiên hạ, không sợ hãi là bởi vì thiên hạ đều nằm trong sự khống chế của hắn. Các cường hào thời Tùy Mạt như Vương Thế Sung, Đậu Kiến Đức, Tiết Cử ai chẳng là hào kiệt một phương, nhưng đều bại trong tay hắn. Hiệt Lợi Khả Hãn của Đột Quyết hùng bá thảo nguyên, cường hào bốn phương đều trở thành vây cánh của hắn, mà Lý Thế Dân lại có thể đứng bên cầu Vị Thủy ung dung đối đáp trước mấy trăm ngàn đại quân Đột Quyết, khiến Hiệt Lợi không dám xâm lấn phía nam. Đấu với người, Lý Thế Dân trước nay chưa bao giờ lo lắng hay sợ hãi, nhưng bây giờ vị đế vương này lại phải đối mặt với địa ngục âm ti mà mình không cách nào khống chế. Người kiện hắn lại là huynh đệ ruột thịt mà hắn đã tự tay giết chết.

Tuy nói vô tình nhất là nhà đế vương, nhưng khi ở Thái Nguyên hắn vẫn còn nhỏ, huynh trưởng rất nhân hậu, luôn luôn yêu quý và bảo vệ hắn, sau đó mặc dù đã chuyển biến thành như nước với lửa, nhưng dù sao cũng cùng một khúc ruột sinh ra, cũng đã từng là huynh đệ thân thiết. Sau binh biến Huyền Vũ Môn, trên đời này không có người nào dám nhắc tới hai cái tên Kiến Thành và Nguyên Cát trước mặt hắn. Chính bản thân Lý Thế Dân cũng thường cố tình quên đi. Hắn giết hết hậu tôn của hai chi Kiến Thành và Nguyên Cát, sửa lại gia phả, sau này còn phải sửa đổi cả giai đoạn lịch sử này. Nhưng hắn biết, dù có làm cho tất cả mọi người đều quên chuyện này, thì nó vẫn là vết nhơ mãi khắc sâu trong lòng hắn.

Bây giờ huynh đệ ruột thịt bị mình tự tay sát hại lại đang kiện hắn, dâng cáo trạng ở một nơi mà quyền lực của hắn không thể vươn tới được! Mà hắn lại không thể không đến trước mặt hai người đó để đối chất, biện giải!

Trong phòng yên tĩnh dị thường, thậm chí có thể nghe thấy tiếng thở dài của sáu tên thị vệ cấm quân canh gác ngoài cửa. Lý Thế Dân không ngừng trở mình trên giường, đầu óc nặng nề, vô số suy nghĩ lướt qua trong đầu như đèn kéo quân. Đúng lúc này hắn đột nhiên ngửi thấy một mùi thơm ngọt, tinh thần căng thẳng bỗng thả lỏng triệt để, nhanh chóng chìm vào trong mơ.

“Thiên tử Đại Đường… Thiên tử Đại Đường…” Đột nhiên hắn nghe thấy bên tai có người gọi. Cách xưng hô này rất quái dị, Lý Thế Dân thoáng kinh ngạc, lại lập tức cảm thấy người hơi lạnh. Hắn mở mắt ra, đột nhiên kinh hãi.

Mình không còn nằm trên giường nữa!

Trước mắt là một vùng tối tăm lạnh lẽo. Hắn đang đứng trên mặt đất, bên tai có tiếng gió thổi qua xào xạc. Hắn kinh ngạc ngồi xuống sờ sờ mặt đất, đột nhiên toát mồ hôi lạnh khắp người. Không ngờ dưới đất lại là cỏ dại um tùm!

“Đây là nơi nào?” Lý Thế Dân lẩm bẩm.

Nơi hắn đang đứng dường như là một vùng hoang dã trống trải, cỏ dại mọc dày, trên trời không có trăng, tối đen như mực, gần như giơ tay lên không nhìn thấy năm ngón tay. Sao có thể như vậy được? Rõ ràng ta đang nằm ngủ trong Thập Phương Đài, sao giờ lại ở vùng hoang vu này?

Không đúng, đây không phải một vùng hoang vu bình thường. Hắn nhớ rất rõ hôm nay là rằm tháng tư, trăng sáng vằng vặc, chỉ cần ớ trên thế giới này, mỗi một tấc đất đều được trăng rằm chiếu sáng. Tại sao ở đây lại không có một tia sáng nào? Mặt trăng đâu rồi?

Nỗi sợ hãi vô cùng vô tận lan tràn trong lòng Lý Thế Dân.

“Thiên tử Đại Đường…” Văng vẳng tiếng người gọi hắn.

Lý Thế Dân ngẩng đầu nhìn, thấy xa xa có hai quầng sáng mờ mờ, lại thành rất nổi bật trong thế giới đen như mực này. Hắn không dám trả lời, sờ sờ xung quanh, phát hiện có một mô đất cao bằng nửa thân người, vội vàng ngồi xuống nấp sau mô đất thò đầu lên quan sát. Hắn lại sờ sờ trên người, không có đao kiếm hộ thân, nhưng kỳ quái hơn là trên người hắn lại đang mặc triều phục chính quy, trên đầu còn đội mũ thông thiên!

Đây là phục trang của thiên tử được Lý Uyên đặt ra trong thời Vũ Đức, bình thường hắn rất ít mặc. Lần này tuần thú Hà Đông xem như về thăm nhà, cần tế bái Bắc Đô, vì vậy mới mang một bộ triều phục chính thức. Nhưng tại sao bây giờ lại đang mặc trên người như thế này?

Những suy nghĩ này chỉ lóe lên trong đầu, Lý Thế Dân không suy nghĩ nhiều hơn, tập trung tinh thần quan sát hai quầng sáng phía xa. Hai quầng sáng này cực kỳ quái dị, dường như có người cầm đèn lồng, nhưng đèn lồng hình như có thể tùy ý biến hóa, hình dạng không ngừng thay đổi. Lúc ánh lửa đến gần, Lý Thế Dân bỗng sợ dựng tóc gáy. Hắn nhìn thấy rõ ràng bóng người đằng sau ánh lửa, không ngờ lại giống hệt hai quỷ sai từng xuất hiện lúc ở quan ải Thái Bình.

Còn hai quầng sáng đó không phải đuốc, càng không phải đèn lồng, mà là vô số ngọn lửa nhỏ bé tụ lại với nhau. Những ngọn lửa nhỏ bé này dường như là có sinh mạng, không ngừng biến ảo theo bước chân của bọn chúng, lúc nào cũng ở phía trước hai tên quỷ sai để soi đường cho chúng.

“Thiên tử Đại Đường!” Hai tên quỷ sai đó rất tinh mắt, bóng tối dày đặc này dường như không hề ảnh hưởng đến tầm nhìn bọn chúng, từ xa xa đã nhìn thấy Lý Thế Dân trốn sau mô đất. Một trong hai tên lập tức cười nói: “Để bọn ta đi tìm vất vả quá. May mà bệ hạ vẫn đến đúng giờ, bây giờ chúng ta đi luôn thôi!”

“Ngươi nói cái gì?” Đã bị phát hiện, Lý Thế Dân cũng không trốn nữa, nhảy dựng lên hỏi: “Đến đúng giờ? Ngươi nói… Chẳng lẽ nơi này lại là… âm ti?”

Trong lòng hắn vô cùng sợ hãi, ngay cả tiếng nói cũng run run.

“Đương nhiên là âm ti.” Quỷ sai đó tỏ vẻ rất khó hiểu: “Ngài cần gặp Viêm Ma La Vương, không đến âm ti thì có thể đi đâu? Bệ hạ nhớ là không được đi lung tung, âm ti này hung hiểm trùng trùng, nơi đây là vùng luyện yêu hoang dã, thỉnh thoảng lại có ác quỷ chạy trốn khỏi ngục Nê Lê đến đây định tu luyện thành yêu, mặc dù Viêm Ma La Vương đã phái quỷ sai đi lùng bắt nhưng vẫn còn có cá lọt lưới.”

Lý Thế Dân toát mồ hôi lạnh, lẩm bẩm nói: “Không ngờ Trẫm lại vào địa ngục thật… Vào địa ngục thật…”

Tên quỷ sai kia cười: “Bệ hạ, nơi này không phải địa ngục, ngục Nê Lê mười tám tầng ở phía sau Âm Sơn. Nơi này là Âm Dương giới, chính là chỗ giao giới của âm dương.”

Lý Thế Dân càng hoảng sợ hơn: “Trẫm không đi, Trẫm không đi! Trẫm đang sống khỏe mạnh, còn chưa băng hà, vì sao lại đến giới âm ti này? Trẫm phải về, Trẫm còn phải cai trị Đại Đường, lập nên chiến công hiển hách, tạo ra thịnh thế huy hoàng, làm sao có thể chết được!”

Nói rồi xoay người định đi. Hai quỷ sai đó cũng không ngăn cản hắn, chỉ lạnh nhạt hỏi: “Bệ hạ, âm ti không đường, ngài về kiểu gì?”

Lý Thế Dân mới ngẩn ra. Đúng thế, mình về kiểu gì? Nơi này tối lửa tắt đèn, gió lạnh từng cơn, mình vừa tỉnh lại đã ở đây rồi, về bằng đường nào?

“Bệ hạ vẫn nên đi cùng hai người bọn ta thì hơn!” Quỷ sai khuyên nhủ: “Trước khi hai người bọn ta đi đón ngài, Thôi phán quan đã dặn dò rất kỹ, nhất định không được ép buộc bệ hạ, nếu không hai người bọn ta đã trực tiếp câu hồn phách ngài rồi, ngài không đi cũng phải đi.”

Lý Thế Dân nghe thấy chúng nhắc đến Thôi Giác, không khác nào người đuối nước vớ phải cọc, liên tục kêu lên: “Đúng đúng, Thôi Giác là cựu thần của Trẫm, bây giờ là phán quan âm ti. Hắn ở đâu? Trẫm phải gặp hắn!”

Quỷ sai nói: “Hai người bọn ta nhận dụ lệnh trực tiếp từ Viêm Ma La Vương, đến đây mời bệ hạ đi biện giải. Trước khi đi, Thôi phán quan đã đến gặp Viêm Ma La Vương rồi. Thực ra bệ hạ không cần hoang mang như vậy, cũng không phải vào âm ti là chết chắc. Ngài có thể hoàn dương hay không, được hưởng dương bao nhiêu đều được ghi trong sổ sinh tử. Chỉ cần tra sổ sinh tử, chưa hết dương thọ, Viêm Ma La Vương tự nhiên sẽ đưa ngài hoàn dương.”

Lý Thế Dân nghe vậy thì yên tâm hơn một chút, hỏi: “Trẫm chưa chắc đã hết dương thọ, vì sao lại bị các ngươi câu hồn dẫn đến giới âm ti này?”

“Mấy ngày trước hai người bọn ta đã nói với ngài rồi mà. Âm ti có một vụ kiện chờ ngài biện giải, vì thế Viêm Ma La Vương mới mời ngài đến.” Quỷ sai nói.

Vừa nghe nói đến vụ kiện đó, trong lòng Lý Thế Dân lại càng khó chịu hơn. Tuy nhiên hắn cũng không làm gì được, mặc dù hắn là hoàng đế nhưng nơi này lại không nằm trong phạm vi thế lực của hắn, loại tiểu quỷ tầm thường trước mắt này cũng không dám đắc tội, đành phải theo hai quỷ sai đó đi về phía trước.

Vùng luyện yêu này tương đối rộng lớn, hắn bước thấp bước cao đi theo hai tên quỷ sai vài dặm, khắp nơi đều là đồng không mông quạnh, vắng vẻ đìu hiu, bóng tối xung quanh đặc quánh như mực, không nhìn thấy gì ngoài phạm vi vài thước được hai chiếc đèn lồng tựa như có sinh mạng ấy chiếu sáng.

“Quỷ sứ xưng hô thế nào?” Lý Thế Dân bắt đầu tìm cách giao hảo với hai tên quỷ sai.

“Hai người bọn ta ở âm ti không có họ tên, chỉ là hai Vô thường”, quỷ sai nói.

“Vô thường?” Lý Thế Dân tò mò hỏi: “Có nghĩa là gì?”

“Vạn vật vô thường, có sống tất có chết. Vô thường khiến sinh diệt tuần hoàn, vì vậy những sứ giả âm ti thường xuyên đi lại giữa hai giới âm dương câu hồn đoạt mạng như bọn ta được gọi là Vô thường.” Một trong hai Vô thường xem ra rất hay nói, giảng giải cặn kẽ cho Lý Thế Dân

Lý Thế Dân cũng thường xuyên đọc kinh Phật, đương nhiên hiểu những gì hắn nói. Nghĩ đến những gì mình đã trải qua, đúng là sinh lão vô thường, phú quý vô thường, quyền vị vô thường, trong lòng chợt cảm thấy bi thương.

“Hai chiếc đèn lồng trước mặt chúng ta là cái gì? Vì sao lại là rất nhiều ngọn lửa ngưng tụ lại với nhau?” Lý Thế Dân hỏi.

“Lửa này gọi là minh hỏa, chính là hài cốt người chết biến thành. Âm ti không có nhật nguyệt, lúc nào cũng tối đen như mực. Ở dưới âm ti thời gian dài, các hồn ma cũng quen với tối tăm. Để dẫn đường cho ma mới không đi lạc, hai người bọn ta mới mang theo minh hỏa bên người”, Vô thường đáp.

“À!” Lý Thế Dân coi như được mở mang tầm mắt, tất nhiên là rất sợ hãi, nhưng lại cũng có phần hiếu kỳ.

Đi tiếp một đoạn không xa, không trung dần dần sáng hơn. Nói là sáng hơn nhưng thực ra cũng vẫn rất tối tăm, chỉ là giơ tay có thể lờ mờ thấy năm ngón tay chứ không đen đặc như trước nữa. Lý Thế Dân thấy địa thế phía trước rất cao, giống như một con rồng khổng lồ màu đen đang nằm, có vẻ như là một dãy núi, còn dưới chân dãy núi này là một tòa thành hùng vĩ. Khoảng cách quá xa, Lý Thế Dân cũng không thấy rõ, nhưng nhìn tường thành kéo dài vào trong bóng tối vô cùng vô tận cũng đoán được tòa thành này có quy mô cực lớn.

“Đó là cái gì?” Lý Thế Dân kinh ngạc hỏi.

Vô thường ngẩng đầu lên nhìn một chút: “À, ngọn núi phía trước chính là Âm Sơn, ngục Nê Lê mười tám tầng ở phía sau Âm Sơn. Tòa thành dưới chân núi gọi là thành Phong Đô, ma quỷ dưới âm ti phần lớn sống trong thành này. Viêm Ma La Vương cũng tọa trấn tại điện Viêm Ma La trong thành.”

“Không ngờ cũng tương tự như giới nhân gian”, Lý Thế Dân thấy rất lạ lẫm.

Tiếp tục đi về phía trước, khoảng cách đến tòa thành đó càng ngày càng gần, hồn ma trên đường cũng nhiều hơn, một số đang đi về phía tòa thành giống như Lý Thế Dân, phần lớn đều tóc tai bù xù, mặc áo trắng, ủ rũ chậm chạp đi dưới sự áp tải của quỷ sai. Vô thường giới thiệu với Lý Thế Dân, đây là hồn ma mới chết từ giới nhân gian với giới súc sinh, bị quỷ sai câu đến điện Viêm Ma La, tiến hành phán xét theo công tội khi còn sống. Còn từ trong thành cũng có rất nhiều hồn ma quần áo tả tơi, cổ đeo gông, tay bị xích đi ra, những hồn ma này đều đau khổ kêu khóc như bị xé rách tim gan, vô cùng thê thảm.

Lý Thế Dân sợ hãi nổi da gà, hỏi Vô thường, Vô thường cười nói: “Bệ hạ, từ trong thành đi ra phần lớn là ác quỷ đã bị phán xét, căn cứ ác nghiệp khác nhau mà đưa đến các tầng trong ngục Nê Lê chịu phạt, đương nhiên là đau khổ rồi.”

Lý Thế Dân tái mặt, lập tức không dám hỏi nữa.

Đi tiếp không xa, đột nhiên nghe thấy tiếng nước ào ào, xa xa phía trước xuất hiện một dòng sông rộng hơn mười trượng, nước sông chảy xiết, còn bốc lên mùi tanh hôi. Trên sông có một cây cầu, cây cầu này gồm ba tầng thượng trung hạ, đại bộ phận ma mới đều đi qua tầng thứ hai, cũng có người đi qua tầng dưới cùng. Tầng dưới cùng gần như ngang với mặt nước đỏ đậm như máu. Lý Thế Dân tinh mắt, nhìn thấy dưới nước có vô số xác chết trôi, còn có những quái vật dữ tợn thỉnh thoảng từ dưới nước nhảy lên nuốt chửng những ma mới đó.

“Dòng sông này vì sao lại kinh khủng như thế?” Lý Thế Dân kinh hãi trong lòng, hỏi Vô thường.

Vô thường cười ha ha nói: “Bệ hạ, dòng sông này gọi là Vong Xuyên, chính là ranh giới thật sự giữa nhân gian và âm ti, qua sông này chính là âm ti. Con đường chúng ta đang đi này chính là đường Hoàng Tuyền mà nhân gian thường nói. Cây cầu trên sông gọi là cầu Nại Hà, tầng trên chỉ người lương thiện mới có thể đi qua, tầng giữa là người thiện ác khó phân cần phải phán xét, tầng dưới thì là những người làm nhiều việc ác trên dương gian, đã trồng ác nghiệp, phải nhận ác báo. Nước sông máu dưới cầu có vô số rắn rết, sóng lớn cuồn cuộn, gió tanh tạt vào mặt, hồn ma của ác nhân rơi xuống sông, vĩnh viễn không được siêu sinh.”

Lý Thế Dân muốn hỏi xem mình có thể đi tầng nào, đã mấp máy môi nhưng lại không dám hỏi. Im lặng đi một lát, cách đầu cầu không xa lại có một quán trà. Trong lều quán có một lão thái bà đang bán nước trà, đại bộ phận quỷ sai đi qua đều dừng lại ở đây một lát để đám ma mới uống nước trà rồi mới đi tiếp.

“Bệ hạ, đi lâu như vậy hẳn là cũng khát nước rồi?” Vô thường cười nói: “Không bằng vào quán trà ngồi nghỉ một lát, uống bát trà rồi đi tiếp.”

Trong lòng Lý Thế Dân cảm thấy vô cùng cổ quái, âm ti này thật sự không khác dương thế là bao, ngay cả quán trà cũng có. Hắn gật đầu, theo hai Vô thường đi vào quán trà. Một trong hai Vô thường cười nói với lão bà: “Mạnh Bà, cho một chén trà ngon, vị này là đại quý nhân của giới nhân gian, nhất định không thể thất lễ.”

Lão bà này đầu tóc bạc trắng, dáng vẻ tiều tụy, thoạt nhìn lại có vẻ dữ tợn. Bà liếc nhìn Lý Thế Dân, gật đầu: “Thì ra là Tuệ Ca Nhi đến rồi, đương nhiên phải chiêu đãi thật tốt.”

Vừa nói vừa lấy một ấm trà ra.

Lòng Lý Thế Dân xao động, lúc nhỏ hắn gọi là Tuệ Nhi, bình thường người nhà vẫn gọi là Tuệ Ca Nhi, từ khi búi tóc đến nay không còn dùng tên này nữa, sau khi làm hoàng đế, ngay cả mẫu thân hắn là Đậu Thị cũng rất ít gọi như vậy. Tại sao bà lão dưới âm ti này lại biết?

Lý Thế Dân im lặng không nói, đỡ lấy chén trà, thấy nước trà màu vàng đậm, cũng không có mùi lạ gì. Hắn suy nghĩ một lát, đang định uống thì đột nhiên từ bên kia cầu Nại Hà có một người chạy tới, lạnh lùng nói: “Không được uống trà…”

Lý Thế Dân kinh ngạc, vội vàng đặt bát trà xuống, ngẩng đầu lên nhìn, thấy một người đàn ông trẻ tuổi mặc áo gấm đen, trên đầu đội mũ cánh mềm đang vội vã chạy tới. Người đàn ông này tướng mạo rất anh tuấn, nho nhã, trên mặt lại đầy vẻ lo lắng. Hai tên Vô thường trong quán trà vội vàng đi ra quỳ lạy nghênh đón: “Thuộc hạ bái kiến phán quan đại nhân!”

Lý Thế Dân vui vẻ trong lòng, cao giọng hỏi: “Phía trước có phải là Thôi khanh?”

Người vừa chạy tới chính là Thôi Giác, hắn phất tay cho hai tên Vô thường đứng dậy, sau đó đi vào quán trà quỳ lạy Lý Thế Dân: “Cố thần Thôi Giác tham kiến bệ hạ!”

Lý Thế Dân cũng không suy nghĩ nhiều, từ khi vào âm ti tới giờ, hắn vẫn không ngừng bất an, lòng đầy lo lắng sợ hãi. Lúc này nhìn thấy Thôi Giác, cuối cùng cũng xem như tìm được chỗ dựa dẫm, vội vàng đỡ vai Thôi Giác nâng lên, tươi cười nói: “Thôi khanh, cuối cùng Trẫm cũng gặp được khanh rồi!”

Thôi Giác tỏ vẻ áy náy: “Đều do thần chậm trễ khiến bệ hạ phải chịu khổ. Bệ hạ, ngài không thể uống trà này…”

Hắn quay lại nhìn hai tên Vô thường, lạnh lùng nói: “Ai bảo các ngươi dẫn bệ hạ đến uống canh Mạnh Bà?”

“Ơ…” Hai tên Vô thường lo sợ nói: “Theo quy định, tất cả ma mới đi vào thành Phong Đô đều phải uống canh Mạnh Bà, quên mất ký ức kiếp trước kiếp này, mới có thể đi vào luân hồi.”

Thôi Giác giận dữ: “Ngươi làm sao biết thiên tử Đại Đường đã hết tuổi thọ, phải vào luân hồi? Chẳng lẽ không biết quy định hồn ma có kiện cáo trước điện Viêm Ma La không được uống canh Mạnh Bà hay sao?”

“Uống canh này vào sẽ quên mất ký ức kiếp trước kiếp này?” Lý Thế Dân toát mồ hôi lạnh. May mà Thôi Giác chạy tới kịp, nếu không thì dù mình có hoàn dương cũng sẽ quên mất mọi chuyện, trở thành một phế nhân.

Hai tên Vô thường vội quỳ xuống cầu xin: “Phán quan đại nhân tha mạng, thật ra đó là… là ý của Lý Kiến Thành và Lý Nguyên Cát. Chúng thuộc hạ đã nhận hối lộ của bọn chúng nên không thể không…”

Thôi Giác nghiến răng nói: “Các ngươi giỏi lắm, lập tức đến điện Viêm Ma La nhận tội!”

Tên Vô thường toàn thân run rẩy, lại không dám trái lệnh, ảo não cúi đầu đi qua cầu Nại Hà đến thành Phong Đô.

“Bệ hạ!” Thôi Giác áy náy: “Canh Mạnh Bà này không uống được, uống vào sẽ quên hết ký ức kiếp trước kiếp này, trở thành một kẻ đần độn. Quy định của âm ti là tất cả ma mới đến âm ti và hồn ma đi đến ti Luân Hồi đều phải uống một bát canh Mạnh Bà để quên hết kiếp trước và mọi chuyện dưới âm ti.”

Lý Thế Dân thở phào một hơi: “May mà Thôi khanh đến kịp thời, bằng không Trẫm đã trúng độc thủ của kẻ gian rồi.”

“Ôi, hôm nay làm phiền bệ hạ đến miếu phán quan thăm hạ thần, Bùi Tịch đại nhân lại hiến hết tài sản, mời thần chiếu cố bệ hạ dưới âm ti, thần đương nhiên phải cố gắng hết sức. Biết bệ hạ sắp đến, thần đã cố ý tới điện Viêm Ma La xem xét về vụ kiện của bệ hạ, đang nghĩ cách tranh luận, không nghĩ bệ hạ đã đến rồi. May mà còn chưa xảy ra chuyện lớn!” Thôi Giác vui vẻ nói.

Lý Thế Dân lại càng thêm vui mừng, may mà ban ngày mình đến miếu phán quan tìm Thôi Giác, Bùi Tịch lại thành tâm hiến toàn bộ gia tài, cầu xin Thôi Giác chiếu cố mình, nếu không mình đi tới âm ti, lạ người lạ đất, quả thật không biết phải dựa dẫm vào đâu.

“Thôi khanh vất vả quá!” Lý Thế Dân cảm tạ, nhưng hắn cũng tò mò, hỏi: “Tại sao Thôi khanh lại tới âm ti làm phán quan?”

Thôi Giác cười khổ: “Năm Vũ Đức thứ sáu, thần đang làm huyện lệnh Hoắc Ấp, đúng lúc đó Viêm Ma La Vương từ Tây Phương đi tới Đông Thổ, xây dựng ngục Nê Lê, phán xét thiện ác nhân gian, quản lý sinh tử luân hồi. Viêm Ma La Vương còn thiếu một phán quan, nên đã hóa thành một tăng nhân đến nhân gian tìm thần, hỏi thần có nguyện ý đi làm phán quan hay không. Khi đó thần đã làm huyện lệnh sáu năm, cảm thấy đường làm quan vô vọng, thế là quyết định treo cổ mà chết, cùng theo Viêm Ma La Vương vào giới âm ti.”

Lý Thế Dân rất khó xử, liên tục xin lỗi: “Đều do phụ tử Trẫm thưởng phạt bất công, không biết trọng dụng anh tài, mới khiến Thôi khanh đại tài mãi vẫn phải làm huyện lệnh, Trẫm…”

Thôi Giác cảm khái: “Bệ hạ đừng nói vậy. Thần làm phán quan sáu năm, nhìn thấu cả chuyện nhân gian lẫn âm ti, mới biết nhân quả tuần hoàn này đã được định trước, không phải sức người có khả năng thay đổi. Có điều ban ngày bệ hạ truy phong thần làm Thứ sử Bồ Châu kiêm Thái Phỏng sứ hai mươi bốn châu Hà Bắc, thần cũng xem như có một chút công danh trên nhân gian.”

Lý Thế Dân càng thêm áy náy, chỉ dựa vào việc vừa rồi hắn ngăn cản mình uống canh Mạnh Bà, việc phong thưởng này xem chừng đã có vẻ sơ sài. Có điều lúc này hắn đang ở địa bàn của người ta, cũng không tiện hứa hẹn gì nữa.

“Thôi khanh tài cao, Trẫm sớm đã nghe. ‘Yên phân đỉnh thượng tam tầng lục, Kiếm tiệt mâu trung nhất thốn quang.’ Thật là tuyệt cú.” Lý Thế Dân khen ngợi.

Thấy Lý Thế Dân cũng đã từng đọc thơ của mình, trong lòng Thôi Giác cũng rất vui vẻ: “Đâu có, đâu có. Thần chỉ làm được mấy bài thơ thô thiển, đâu so được với hùng tài đại lược của bệ hạ. Thơ văn của bệ hạ, lúc thần ở nhân gian cũng thường xuyên đọc. ‘Tái ngoại bi phong thiết, Giao Hà băng dĩ kết. Hạn Hải bách trùng ba, Âm Sơn thiên lý tuyết.’*[*] Bước chân mạnh mẽ, tư thế hào hùng, khí phách của đế vương chốn nhân gian hiển lộ rành rành!”

[*] 61 Tạm dịch nghĩa: Gió lạnh than khóc nơi tái ngoại (phía Bắc Trường thành), mười phần thê lương, trên sông Giao (Giao Hà), đường sông đã đóng thành băng dày. Trên sa mạc rộng lớn (Hạn Hải), từng đụn cát như sóng liên miên không dứt, trên Âm Sơn, tuyết phủ ngàn dặm.

Hai người cười ha hả, Lý Thế Dân nói: “Bây giờ chúng ta cũng đang ở dưới chân Âm Sơn này!”

Thôi Giác nhìn ngọn Âm Sơn xa xa, cũng cảm thấy rất thú vị, không khỏi mỉm cười. Lý Thế Dân đột nhiên nghĩ đến một chuyện: “Thôi khanh, bây giờ đại quân của Trẫm dưới sự chỉ huy của Lý Tĩnh và Lý Tích đang huyết chiến với Hiệt Lợi Khả Hãn ở vùng Âm Sơn, không biết kết quả trận chiến này thế nào?”

Mùa đông năm ngoái Đông Đột Quyết gặp thiên tai, súc vật chiến mã chết cóng rất nhiều. Các thế lực Tiết Diên Đà, Hồi Ngật bị Đột Quyết áp bức lũ lượt phản kháng, Lý Thế Dân cho rằng thời cơ phản kích Đột Quyết đã đến, lệnh cho Đô đốc Bính Châu Lý Tích, Binh bộ Thượng thư Lý Tĩnh thống soái mười mấy vạn đại quân chia làm sáu đường tấn công Đột Quyết, bây giờ đang chém giết trên đại thảo nguyên. Lý Thế Dân đặt rất nhiều kỳ vọng vào trận chiến này, đồng thời cũng vô cùng lo lắng. Đây chính là trận chiến then chốt để hắn lập nên chiến công hiển hách của Đại Đường, đến âm ti cũng không nhịn được mà phải hỏi dò.

Thôi Giác suy nghĩ một lát: “Bệ hạ, việc này liên quan đến thiên cơ, thần không dám tiết lộ. Có điều bệ hạ yên tâm, trận chiến này đủ để giữ cho biên cương Đại Đường yên ổn trăm năm.”

“Tốt!” Lý Thế Dân nghe vậy thì cực kỳ vui mừng.

Hai người đang nói chuyện, đột nhiên có một đám ác ma ồn ào từ bên kia cầu Nại Hà đi tới, toàn bộ tóc tai bù xù, đi chân đất, trên người mặc áo bào màu trắng. Tầng trên và tầng giữa cầu Nại Hà đều có quỷ sai canh gác, tầng dưới quá hung hiểm, không có quỷ sai trông coi, đám hồn ma này liền chạy qua tầng dưới, đạp lên sông máu mà đi. Trên đường có mấy ác ma bị quái thú dưới sông ăn thịt, cả đám đều lộ vẻ sợ hãi, nhưng vì có hai tên dẫn đầu quát tháo nên vẫn phải cuống cuồng chạy tiếp.

Hai tên dẫn đầu vừa sang đến bờ bên này đã ngó loạn: “Thế Dân ở đâu? Thế Dân ở đâu?”

Đột nhiên có một hồn ma nhìn thấy Lý Thế Dân trong quán trà, lập tức chỉ hắn kêu to. Đám hồn ma kia vừa nhìn thấy Lý Thế Dân liền cực kỳ giận dữ, không ngừng rống giận lao tới quán trà. Mới đầu Lý Thế Dân không biết có chuyện gì, thấy có người, à có hồn ma, lại dám gọi tên mình nhất thời cũng nổi nóng, nhưng lúc chúng tiến lại gần, Lý Thế Dân như bị giội nước lạnh lên đầu, tứ chi buốt giá, cả người ngây ra như tượng gỗ.

Hai hồn ma dẫn đầu không ngờ lại là đại ca Lý Kiến Thành và tam đệ Lý Nguyên Cát của hắn.

Từ khi hắn giết hai người bọn họ ở binh biến Huyền Vũ Môn đến bây giờ đã được ba năm. Lúc này ba huynh đệ gặp lại nhau ở âm ti, cảm giác vô cùng phức tạp. Lý Kiến Thành và Lý Nguyên Cát không thay đổi gì nhiều so với khi còn sống. Kiến Thành vẫn là dáng vẻ ba mươi bảy tuổi như khi chết, vẫn nho nhã phúc hậu, chỉ có tóc tai bù xù, sắc mặt trắng nhợt. Nguyên Cát thì vẫn là một thanh niên gầy gò nham hiểm hai mươi ba tuổi như xưa. Đám hồn ma đi theo phía sau họ, Lý Thế Dân cũng đều biết cả, chính là hậu tôn của Kiến Thành và Nguyên Cát bị hắn tru sát sau binh biến Huyền Vũ Môn, bao gồm An Lục Vương Lý Thừa Đạo, Hà Đông Vương Lý Thừa Đức, Vũ An Vương Lý Thừa Huấn.

Nhìn thấy Lý Thế Dân mặc long bào đỏ vàng, đầu đội mũ thông thiên, thù hận trong lòng Kiến Thành và Nguyên Cát lập tức bùng nổ. Lý Kiến Thành quát to một tiếng: “Thế Dân, ngươi cũng có ngày hôm nay! Trả lại mạng cho ta!” Nói xong liền xông lên tóm cổ áo hắn mà đánh.

Hai huynh đệ cùng mười người con của họ tràn vào quán trà, vây quanh Lý Thế Dân đấm đá. Lý Thế Dân lúc này thật sự sợ hãi, thiên tử có oai hùng, có dũng mãnh đến mấy cũng là người, nhìn thấy huynh đệ và các tôn tử từng chết trong tay mình đột nhiên xuất hiện trước mặt, cảm giác sợ hãi tột độ khiến xương tủy cũng phải run rẩy.

Lý Thế Dân thân thủ vô cùng tốt, lách ra chui vào phía trong bếp đun nước pha trà của Mạnh Bà, nhất quyết không chịu đi ra ngoài.

Đám hồn ma Kiến Thành đang định xông vào, Thôi Giác đột nhiên quát lớn một tiếng: “Đám ác quỷ các ngươi dừng tay cho ta!”

Cảnh tượng quá ồn ào, Kiến Thành không nhìn thấy là ai nên cũng không để ý, Nguyên Cát lại kéo hắn lại, nói nhỏ: “Là Thôi phán quan!”

Kiến Thành giật mình quay lại nhìn, sắc mặt bất thiện khom người thi lễ: “Quỷ dân Kiến Thành ra mắt Thôi phán quan!”

Thôi Giác cười lạnh một tiếng: “Âm ti cũng có âm luật, các ngươi dẫn đám quỷ này đến đả thương thiên tử nhân gian, đã biết tội chưa?”

“Thiên tử nhân gian?” Kiến Thành giận dữ: “Hừ! Hắn mà là thiên tử cái gì? Ngôi thiên tử này chính là tàn sát huynh đệ, mưu triều soán vị mà có!”

“Ngươi dám thóa mạ ta?” Thôi Giác giận dữ.

Kiến Thành sợ hãi, vội vàng biện bạch: “Đại nhân bớt giận, quỷ dân chỉ thóa mạ Lý Thế Dân…”

Nguyên Cát bên cạnh nói: “Đại nhân, khi còn sống ngài cũng là thần tử của nhà họ Lý ta, từ Thái Nguyên đến Hoắc Ấp, chúng ta quân thần tương đắc, mong ngài niệm một chút tình hương hỏa. Đây là gia sự của nhà họ Lý ta, mong đại nhân khoanh tay đứng nhìn.”

Thôi Giác cười lạnh: “Ngươi chưa từng làm vua, ta chưa từng làm bề tôi của ngươi. Nhà họ Lý các ngươi đối xử với ta rất tốt hả? Bệ hạ vừa tới Hoắc Ấp liền truy phong cho ta làm thứ sử Bồ Châu, còn khi thái tử và thái thượng hoàng tại vị đã bỏ mặc ta sáu năm, đâu hề nhớ tới tình cũ? Ta không cần biết địa vị ở nhân gian của các ngươi thế nào, đến âm ti chỉ là hồn ma bình thường. Thiên tử Đại Đường bây giờ chính là khách của Viêm Ma La Vương mời đến, nếu các ngươi còn dám lộn xộn, cẩn thận ta diệt hồn phách các ngươi, khiến các ngươi vĩnh viễn không được siêu sinh! Cút hết cho ta!”

“A…” Đám Kiến Thành không dám không tuân theo, đành phải quỳ xuống đất khóc lóc: “Đáng thương cho chúng ta, oan khuất này biết tỏ cùng ai!”

Nguyên Cát thì hung hăng nhìn phía sau bếp quát: “Thế Dân, ngươi cứ chờ đấy! Viêm Ma La Vương đã thụ lý đơn kiện của bọn ta. Lúc nào đến trước điện Viêm Ma La, chúng ta sẽ tiếp tục tranh luận!”

Một đám hồn ma khóc lóc một hồi rồi không cam lòng rút đi.

“Bệ hạ, có thể đi ra được rồi!” Thấy đám hồn ma đã đi xa, Thôi Giác mới gọi Lý Thế Dân ra.

Lý Thế Dân sợ vỡ mật, nắm tay áo Thôi Giác nói: “Thôi khanh, chuyện hôm nay Trẫm nên làm thế nào cho phải?”

Thôi Giác cười khổ nói: “Đám hồn ma nhà họ Lý ở dưới âm ti không thiếu tiền tài thế lực, với thù hận của hai người này chỉ sợ sẽ bỏ tiền mua chuộc không ít hồn ma đối nghịch với bệ hạ, hơn nữa người chết trong tay bệ hạ quả thực không ít, như Đậu Kiến Đức, Vương Thế Sung thậm chí còn có những cựu bộ chưa tiến vào luân hồi. Thần chỉ sợ bọn chúng sẽ liên thủ gây bất lợi cho bệ hạ.”

Lý Thế Dân choáng váng mặt mày, không ngờ ngoài Kiến Thành và Nguyên Cát, hắn còn phải đối mặt với đám địch thủ cũ này của mình nữa! Không cần Thôi Giác nói thêm, hắn cũng biết mình có bao nhiêu kẻ thù, đám cường hào loạn thế thời Tùy Mạt có kẻ nào không bị diệt trong tay hắn? Mỗi người cũng có ít nhất mấy chục vạn thủ hạ, sợ là số hồn ma này tụ lại không đủ trăm vạn thì cũng không kém là bao.

Vốn cho rằng giết chết bọn chúng đã là nhổ cỏ tận gốc, không ngờ xuống âm ti vẫn còn phải đối mặt với bọn chúng. Lý Thế Dân thật sự hối hận, sớm biết thế này thì hắn đã chịu khó cúng bái, siêu độ cho đám oan hồn này rồi.

“Thôi thế này!” Thôi Giác suy nghĩ một lát: “Chúng ta không đi cầu Nại Hà, cũng không vào thành Phong Đô, chỗ đó là nơi hồn ma tụ tập rất nhiều, một mình thần sợ là không bảo vệ nổi sự an toàn của bệ hạ. Thần dẫn bệ hạ đi đường thủy, từ Vong Xuyên ngược dòng lên, đi vào Âm Sơn. Thần biết một đường nhỏ có thể đi thẳng vào điện Viêm Ma La. Sau khi vào trong điện, bệ hạ có thể an toàn tuyệt đối.”

Lý Thế Dân mừng rỡ: “Tất cả đều dựa vào Thôi khanh!”

Hai người rời khỏi quán trà của Mạnh Bà đi đến bờ sông Vong Xuyên. Vừa đến bờ sông, Lý Thế Dân liền xanh mặt. Sông này tanh hôi khó ngửi, trong dòng nước đỏ đậm còn có nhiều xác chết trôi không toàn thây. Dưới sông đầy rắn rết và các loại quái thú kỳ dị đang ăn xác chết, còn có những hồn ma rơi xuống sông nhưng chưa chết hẳn, giơ tay vùng vẫy, tiếng kêu thê lương, cực kỳ đau khổ.

Thấy Lý Thế Dân lộ vẻ thương xót, Thôi Giác bình thản nói: “Bệ hạ không cần thương xót, âm ti coi trọng nhất nhân quả luân hồi, mức độ đau khổ phải chịu dưới âm ti đều căn cứ thiện ác ở dương gian mà chịu. Chỉ có người ở nhân gian làm ác, sau khi chết mới rơi vào sông máu ở Vong Xuyên, bị rắn đồng chó sắt tranh nhau ăn thịt, vĩnh viễn bị đày đọa không có đường ra.”

Lý Thế Dân gật đầu, hít sâu một hơi, lại suýt bị không khí tanh hôi làm cho nôn mửa.

Bên bờ sông có một chiếc đò. Thôi Giác dẫn Lý Thế Dân lên đò, đò không lớn cũng chỉ có thể chở được hai ba người, bao gồm cả người lái đò. Lý Thế Dân nhìn người đưa đò, lại giật mình kinh hãi. Người này không có hai mắt, hốc mắt trống rỗng, gầy như bộ xương khô.

Chuyện dưới âm ti này quá mức kỳ dị, hắn không dám hỏi nhiều, nghe thấy Thôi Giác nói: “Đến đường núi Âm Sơn.”

Người đưa đò im lặng chống sào. Nước sông chảy xiết, đò lại phải đi ngược dòng nhưng cũng không biết vì sao, người đưa đò chỉ nhẹ nhàng chống sào một cái, chiếc đò đã phá sóng mà đi, nước sông rẽ sang hai bên, mũi đò sắc nhọn gạt hết đám xác chết trôi và các loại quái thú, chạy ngược dòng nước với tốc độ rất nhanh.

Lý Thế Dân cảm thấy rất ngạc nhiên.

Dòng sông ngày càng hẹp, sau đó không ngờ lại chui vào một hang núi tối tăm. Nước sông từ trong hang núi chảy ra, chiếc đò đi xuyên qua hang. Dòng sông uốn lượn, rẽ đông rẽ tây đi khoảng nửa canh giờ cuối cùng mới đến một bến đò nhỏ. Nói là bến đò, thực ra chỉ là một hang núi nhỏ, có bậc thang từ bờ sông dẫn lên. Chiếc đò được lái dừng lại bên cạnh bậc thang, Thôi Giác đỡ Lý Thế Dân nhảy xuống. Hai chân chạm đất, Lý Thế Dân mới cảm thấy yên tâm hơn một chút.

“Nơi này chính là đường núi Âm Sơn.” Thôi Giác nói: “Từ đây đi lên là đến cung điện của Viêm Ma La Vương.”

Hai người đi vào hang núi, lại đi vòng vèo một hồi, trèo hàng ngàn bậc thang mới đến cuối hang. Đây là một khe núi kẹp giữa hai đỉnh núi, từ đây có thể nhìn thấy một cung điện to lớn cách đó không xa, bao phủ bên trong minh hỏa bay đầy trời, xung quanh còn có những làn khói màu xám vô cùng thần bí.

Thôi Giác dừng chân, mỉm cười nói: “Bệ hạ, đã thật sự đến giới âm ti rồi đó.”