← Quay lại trang sách

Lời dẫn 2

Lúc này là năm Đại Đường Trinh Quán thứ mười bốn, theo lịch Ba Tư là năm thứ chín của kỷ nguyên Y Tự Hầu (Yazdegerd)[12], cũng là năm thứ ba mươi lăm từ khi Giới Nhật Vương (Harsha)[13] Thiên Trúc tại vị.

Vùng núi phía đông đế quốc Tát San Ba Tư[14] tỉnh Hô La San[15]. Nửa đêm cuối hạ, trời mưa to.

Mưa lớn cọ rửa đồi núi và chiến trường, một cuộc chiến thảm khốc giữa đế quốc Ba Tư và Đại Thực[16] vừa mới kết thúc. Trong khe núi khắp nơi đều là xác của binh sĩ tử trận, những cây giáo gãy gập, những thanh kiếm cong queo, những tấm lá chắn bọc da vỡ vụn. Cờ xí bị chém đổ cuộn giữa bùn đất, trên thân chiến mã và chiến tượng đã chết cắm chi chít mũi tên. Thi thể các chiến sĩ phần lớn không còn nguyên vẹn, tay cụt chân gãy và đầu lâu phân tán khắp các ngóc ngách chiến trường. Nước mưa hòa lẫn máu tươi chảy thành từng dòng trên mặt đất.

Trên chiến trường, một đám “người bất tịnh”[17] mặc áo trắng đang thu dọn thi thể. Bọn họ dùng vải thô màu trắng quấn thi thể lại, cứ hai người một đội khiêng xác lên đỉnh núi. Đám người bất tịnh như một đàn kiến tha mồi, tạo thành hàng dài trên đường núi. Trời mưa đường trơn, không ít người bị trượt chân và lăn xuống vách núi, nhưng cũng chẳng có ai nói lời nào, người phía sau tiếp nhận thi thể của người phía trước để lại, lặng lẽ tiến lên.

Bởi bọn họ biết, quốc vương Y Tự Hầu đệ tam đang đợi mình trên đỉnh núi. Nói đúng hơn là ông ta đang đợi thi thể của những dũng sĩ này, để dùng nghi lễ long trọng nhất an táng họ trong tháp tĩnh lặng, giúp họ trở về với vòng tay của thần Bái Hỏa giáo[18] - A Hồ Lạp Mã Tư Đạt[19] (Ahura Mazda).

Đám người bất tịnh khiêng thi thể lên đến đỉnh núi, Y Tự Hầu đệ tam đứng đợi bên đường. Nước mưa ướt đẫm toàn thân ông ta, ánh mắt đờ đẫn, trên mặt không rõ nước mưa hay là nước mắt. Có quan nội thị[20] định giơ ô che mưa cho quốc vương liền bị Y Tự Hầu đệ tam đẩy ra. Nhìn thi thể các chiến sĩ được khiêng đến, Y Tự Hầu đệ tam phân phó bằng giọng khàn khàn: “Mặc vương phục và áo chính đạo vào cho ta, ta phải nghênh đón họ”.

Viên quan nội thị mặc áo bào chỉ vàng vào cho Y Tự Hầu, bên ngoài khoác áo chính đạo màu trắng, lại thắt dây lưng thánh được dệt từ bảy mươi hai sợi lông đuôi trâu trắng, đội vương miện, cuối cùng là đưa quyền trượng đúc bằng vàng cho ông ta. Y Tự Hầu nắm quyền trượng hành lê, bình tĩnh nhìn đám người bất tịnh khiêng thi thể binh sĩ đi lướt qua bên cạnh mình lên chỗ cao trên núi. Ở đó có năm tòa đàn tế thánh hỏa đứng sùng sững, trên đàn tế, ngọn lửa thiêng đang cháy hùng hực. Năm tòa thánh hỏa là lửa của Tát San, lửa của tế tự, lửa của thắng lợi, lửa của chiến sĩ và lửa của Y Tự Hầu. Trong đó bốn tòa thánh hỏa trước đã cháy bốn trăm năm chưa hề tắt, chúng lần lượt tượng trung cho vận mệnh của Tát San Ba Tư, vận khí của Bái Hỏa giáo, vận hung của quân đội Tát San và vận mệnh của binh lính. Còn tòa thánh hỏa cuối cùng thì tượng trưng cho vận mệnh của Y Tự Hầu đệ tam, đến nay mới chỉ cháy được chín năm.

Trong mưa lớn, các ma cát (thầy cúng) và tín đồ không ngừng cho thêm củi và dầu hỏa vào đế giữ cho thánh hỏa không tắt. Bởi vì đây là thánh hỏa cuối cùng của đế quốc Tát San Ba Tư và Bái Hỏa giáo. Bốn năm trước, trước thế tấn công của người Đại Thực, Y Tự Hầu đệ tam phải bỏ đô thành chạy trốn về biên giới phía đông của đế quốc. Người Đại Thực gần như phá hủy tất cả các đàn tế và thánh hỏa của Bái Hỏa giáo. Trong bốn năm qua, Y Tự Hầu đệ tam dẫn hoàng tộc Ba Tư và các con dân đi theo ông ta vừa đánh vừa chạy, bị người Đại Thực đánh đuổi về phía đông, thánh hỏa mang theo gần như cũng bị phá hủy gần hết.

Trên đỉnh núi, người Ba Tư vừa xây dựng xong một tòa tháp tĩnh lặng. Tòa tháp này vô cùng lớn, được xây bằng đá tảng, hình trụ cao, không có đỉnh. Trong tháp là một bục tròn được xây ghép bằng những khối đá dài, để thi thể không làm bẩn đất đai, những khối đá này được ghép với nhau rất kín kẽ. Bục tròn chia làm ba vòng, mỗi một vòng dùng phẩm màu vẽ ra các ô hình chữ nhật để đặt thi thể. Theo giáo lý của Bái Hỏa giáo, vòng ngoài đặt thi thể nam nhân, vòng giữa đặt thi thể nữ nhân, vòng trong cùng đặt thi thể các ấu tử. Giữa các vòng có lối đi để người bất tịnh khiêng thi thể vào.

Lúc này đám người bất tịnh đặt các thi thể chỉnh tề trên bục đá theo giới tính và độ tuổi, chỉ sau chốc lát, vô số thi thế đã phủ kín tòa tháp tĩnh lặng, chất đống như núi. Một số thi thể vẫn còn chảy máu, được nước mưa gột rửa, máu tươi chảy theo rãnh đến vị trí chính giữa vòng trong cùng. Đó là một cái giếng sâu, đáy giếng và thành giếng đều lát đá. Đáy giếng nối với bốn rãnh thoát nước, phần cuối của rãnh thoát nước có cát và than củi. Nếu là trước kia, thi thể sẽ phơi nắng và bị chim ăn nhiều năm, sau đó cát và than củi sẽ lọc sạch những vụn xương và dịch xác còn sót lại. Nhưng lúc này đây lại có máu tươi chảy qua. Sau tầng lọc thứ nhất, nước mưa trong hơn một chút, và tiếp tục chảy vào giếng ngầm, đáy giếng trải lớp cát dày. Một chút máu loãng cuối cùng được giữ lại ở đây, nước mưa biến thành nước tinh khiết, chảy vào sông, ngấm dần xuống đất.

Đây là mục đích cuối cùng của các tín đồ Bái Hỏa giáo, không để thân thể mình làm ô nhiễm bất cứ một tấc đất nào.

Vất vả trọn một đêm, đám người bất tịnh mới đưa được hết các thi thể vào trong tháp tĩnh lặng. Lúc này đã là sáng sớm, trời vẫn còn mưa, trên núi trắng xóa sương mù. Y Tự Hầu đệ tam dẫn theo hoàng tộc Ba Tư và các ma cát bắt đầu làm lễ tế. Các ma cát cất lên những lời tế cổ xưa của Bái Hỏa giáo, Y Tự Hầu đệ tam cởi dây lưng thánh ra, hai tay giơ lên, khẽ đưa qua đưa lại:

“Chúng ta ca ngợi sự thuần khiết của chính giáo đồ, những linh thể lương thiện mà mạnh mẽ, họ là kỵ binh khỏe mạnh nhất, là thủ lĩnh cơ trí nhất, người ủng hộ kiên định nhất, là vũ khí sắc bén nhất.

Khi thần Tư Phan Đức Mại Nữu[21] nâng trời lên cao, sáng tạo mặt đất, súc vật, sông suối và thực vật, bảo vệ thai nhi trong bụng thân mẫu, giúp chúng giữ được sinh mệnh, chờ đến khi sinh nở, kết hợp xương thịt, lông tóc, tay chân, lục phủ ngũ tạng và bộ phận sinh dục lại thành toàn thể, thần Mã Tư Đạt (Mazda) kêu gọi các linh thể đến đây trợ giúp bảo vệ trời, đất, sông suối và thực vật.

Chúng ta ca ngợi sự thuần khiết của chính giáo đồ, các linh thể lương thiện mà mạnh mẽ. Họ vô cùng anh dũng, từ trên cao lao xuống giáng vào kẻ thù những đòn tấn công mạnh mẽ, trên chiến trường chém đứt cánh tay khỏe mạnh của kẻ địch tà ác.

Chúng ta ca ngợi sự thuần khiết của chính giáo đồ, các linh thể lương thiện mà mạnh mẽ. Họ tạo thành vô số quân đội mặc áo giáp, cầm binh khí, giương cao tinh kỳ hình tia chớp…”

Lúc này, khe núi vang lên tiếng động nặng nề, một đội trọng kỵ binh[22] Ba Tư đang lao tới chân núi.

Với sự trợ giúp của người hầu, tướng quân đi đầu phải tháo đồ bảo vệ như mũ sắt, khiên ngực, giáp trụ, bao cổ tay ra mới có thể nhảy xuống khỏi lưng ngựa, sau đó gần như dùng cả tay và chân để bò lên trên núi. Bầu không khí trên núi lập tức trở nên căng thẳng.

Y Tự Hầu đệ tam lẳng lặng nhìn, sắc mặt trắng bệch vì căng thẳng.

Đại ma cát nói nhỏ: “Thưa bệ hạ, là tướng quân Phi Lỗ Tán. E rằng người Đại Thực lại sắp tấn công rồi. Bệ hạ vẫn nên dẫn theo hoàng tộc đi trước! Ra khỏi vùng núi này vài trăm dặm chính là sông Ấn. Vùng Ngũ Hà này sông suối chằng chịt, người Đại Thực lớn lên ở sa mạc chắc chắn không thể nào vượt qua. Tát San Ba Tư chúng ta mới có thể giữ lại được thánh hỏa cuối cùng”.

Y Tự Hầu đệ tam nắm chặt quyền trượng, năm ngón tay miết đến trắng bệch: “Nếu không có con dân và quân đội, ta vượt qua sông Ấn còn có ý nghĩa gì? Vượt qua sông Ấn thì sao? Chẳng lẽ lại để Giới Nhật Vương bắt được, áp giải đến thành Khúc Nữ (Kannauj)[23] treo cổ? Còn không bằng chết ở chỗ này cùng với các con dân, chết trên đất mẹ Ba Tư ta!”.

Đại ma cát hết lời khuyên bảo: “Bệ hạ, an nguy của bệ hạ ảnh hưởng đến sự tồn vong của Ba Tư chúng ta!”.

Cuối cùng Y Tự Hầu đệ tam rơi nước mắt, nói: “Bốn năm trước ta không chiến mà chạy, bỏ lại thủ đô, vì thế mới dẫn đến vận mệnh vong quốc diệt tộc. Từ lúc đó ta đã quyết tâm, bất kể đi tới đâu đều phải đi với con dân của mình. Tuyệt đối không từ bỏ một người nào nữa”.

Đúng lúc này vị thống soái quân đội hơn năm mươi tuổi Phi Lỗ Tán cũng trèo lên đến đỉnh núi, cúi người hành lễ với Y Tự Hầu đệ tam: “Thần Phi Lỗ Tán tham kiến quốc vương vĩ đại, vị vua của vạn vua Ba Tư. Có một tin tốt cần bẩm báo bệ hạ, người Đại Thực đã rút quân rồi”.

Y Tự Hầu đệ tam ngẩn ra: “Rút quân? Vì sao lại rút quân?”.

Tướng quân Phi Lỗ Tán nói: “Lúc đầu thần cũng không hiếu, nên mới mạo hiểm bắt một tên lính địch về thẩm vấn. Vì thế mới biết được, thì ra Cáp Lý Phát (Caliph)[24] của Đại Thực ra lệnh, chỉ đánh tan chúng ta chứ không tiêu diệt, tập kết quân đội, đánh đuổi về hướng đông”.

Đại ma cát giật mình kinh hãi: “Người Đại Thực rốt cuộc đang muốn giở trò gì?”.

Y Tự Hầu đệ tam cười thảm: “Bởi vì người Đại Thực biết được ta muốn vượt sông Ấn, tới Thiên Trúc tị nạn. Chỉ sợ bọn chúng cũng muốn tiến vào Thiên Trúc, khổ nỗi sông Ấn quá hiểm, cho nên mới thúc ép ta khai chiến với Giới Nhật Vương của Thiên Trúc trước. Một khi ta đột phá được phòng tuyến sông Ấn, người Đại Thực sẽ theo đuôi mà vào”.

Y Tự Hầu đệ tam bỗng nhiên giận dữ: “Chẳng lẽ bây giờ ta lại bị người Đại Thực coi thường đến mức này sao? Chẳng lẽ trong mắt bọn chúng, con dân Ba Tư chính là một đám cừu để mặc bọn chúng chăn thả trên thảo nguyên hay sao?”.

Tâm tình của các hoàng tộc và ma cát xung quanh đều trở nên nặng nề, dẫu mưa buổi sớm dội xuống đầu có lạnh cũng không sánh được với cảm giác buốt giá trong lòng. Y Tự Hầu đệ tam nhìn xa xăm về hướng đông, phía ngoài dãy núi mưa mù chính là đất Càn Đà La[25], qua Càn Đà La là sông Ấn do năm dòng sông khác hội tụ mà thành, được người Thiên Trúc gọi đó là đất Ngũ Hà. Đất Ngũ Hà giống như bàn tay to lớn của thần Phạm Thiên[26] mở ra, sông suối chằng chịt, đầm lầy thần bí, dòng nước chảy xiết bảo vệ vùng đất rộng lớn, màu mỡ, ấm áp, sữa và mật chảy khắp nơi phía sau nó. Nhưng dù Y Tự Hầu có dùng tính mạng của mấy trăm ngàn con dân vượt qua sông này đánh vào Thiên Trúc, cuối cùng cũng chỉ mang lại lợi ích cho người Đại Thực. Trước có Giới Nhật Vương, sau có người Đại Thực, kết cục duy nhất của đế quốc Tát San Ba Tư chính là bị hai đế quốc cường đại này cắn xé từng miếng một, hóa thành tro bụi.

Y Tự Hầu đệ tam ngỡ ngàng, rốt cuộc ta có thể đi đến nơi nào?

Phi Lỗ Tán đề nghị: “Bệ hạ, chúng ta đi lên phía bắc được không? Nếu được Thổ Hỏa La[27] (Tochari) tiếp nhận, chúng ta có thể dựa vào địa thế chống lại người Đại Thục, nếu lùi thì có thể tiến vào biên giới Đại Đường, được đế quốc Đại Đường che chở. Ba năm trước bệ hạ trình quốc thư cho hoàng đế Lý Thế Dân khẩn cầu viện trợ, hắn cho rằng đường xa không kịp nên không xuất binh. Nếu như chúng ta tới gần…”.

Y Tự Hầu đệ tam xót xa lắc đầu: “Thổ Hỏa La thuộc Tây Đột Quyết, tính tình người Đột Quyết khanh biết rõ hơn ta. Mấy trăm ngàn người chúng ta một khi tiến vào thảo nguyên sẽ bị con sói này nuốt trọn ngay lập tức. Ta quyết định…”.

Y Tự Hầu đệ tam đưa tay giật vương miện xuống, mái tóc xõa ra, mặc cho mưa to trút xuống đầu. Ông ta vung quyền trượng vàng chỉ về phía đông lớn tiếng hét lên: “Ta phải dẫn theo các ngươi phá tan sông Ấn này! Ta phải cướp lấy một mảnh đất ở Thiên Trúc, làm cho thánh hỏa của đế quốc Tát San Ba Tư chúng ta bùng cháy vĩnh hằng! Ta phải đồng thời khai chiến với hai đế quốc lớn, nếu không thể sinh tồn thì là chết!”.

Hoàng tộc, ma cát và tướng sĩ xung quanh cùng điên cuồng hô to: “Sinh tồn! Sinh tồn! Sinh tồn…”.

Y Tự Hầu đệ tam hét to: “Khiêng thánh hỏa lên, đi theo ta, chúng ta phải vượt sông!”.

“Vượt sông!”

“Vượt sông!”

“Vượt sông!”

Tiếng hò hét vang dội như sấm làm rung chuyển ngọn núi. Người Ba Tư dùng những cây gỗ tròn to lớn buộc chặt vào tế đàn thánh hỏa, hơn trăm người một tổ hò hét khiêng lên vai. Y Tự Hầu đệ tam đi đầu, ông ta dùng quyền trượng vàng chống xuống đất, đội mưa gió lặn lội đi trên đường núi. Hơn năm trăm người khiêng năm tòa đàn tế thánh hỏa to lớn đi theo sau lưng ông ta, thánh hỏa chiếu sáng vùng biên giới phía đông của đế quốc Tát San Ba Tư, dẫn đường cho những người Ba Tư cuối cùng đi đến vùng đất chảy đầy sữa và mật.

[*] [12] Yazdegerd III (624-651), cũng gọi là Yazdgerd hay Yazdiger là hoàng đế thứ 38 và cũng là vị hoàng đế cuối cùng của Vương triều Sassanid.

[*] [13] Harsha, còn gọi là Harshavardhana hoặc “Harsha vardhan” là Hoàng đế Ấn Độ, trị vì ở miền Bắc trong vòng 57 năm. Giữa thế kỷ VI TCN, sau khi đế quốc Gupta bị diệt vong, miền Bắc Ấn Độ bị chia thành nhiều vương quốc và các nước cộng hòa nhỏ. Harsha đã thống nhất những nước cộng hòa từ vùng Punjab tới miền Trung Ấn Độ và xưng đế năm 606.

[*] [14] Tát San Ba Tư (Nhà Sassanid hay Tân Đế quốc Ba Tư) là triều đại Hỏa giáo cuối cùng của Đế quốc Ba Tư trước sự nổi lên của đạo Hồi. Đây là một trong hai đe quốc hùng mạnh nhất vùng Tầy Á trong vòng 400 năm. Lãnh thổ của đế quốc Sassanid khi đó bao gồm Iran, Iraq, Armenia, Afghanistan, phía tây Thổ Nhĩ Kỳ và một phần của Syria, Pakistan, Kavkaz, Trung Á và Ả Rập.

[*] [15] Hô La San tức chỉ vùng đông bắc Iran ngày nay. Trong tiếng Ba Tư cổ, Hô La San có nghĩa là vùng đất phía đông. (Chú thích sách gốc)

[*] [16] Đại Thực hay Nhà Abbas - tức triều đại Hồi giáo thứ ba của người Ả Rập. Đại Thực là cách gọi đế quốc Ả Rập thời Đường, Tống.

[*] [17] Theo quốc giáo của đế quốc Ba Tư cổ đại là Bái Hỏa giáo, người thường không được tiếp xúc với thi thể, thi thể chi có thế do những người chuyên trách di chuyển, những người này được gọi là người bất tịnh, nghĩa là người không sạch sẽ. (Chú thích sách gốc)

[*] [18] Hỏa giáo còn được gọi là Hiên giáo, Hỏa Hiên giáo, Hóa Yêu giáo hay Bái Hỏa giáo, là một trong những tôn giáo lâu đời nhất của nhân loại. Tôn giáo này tòn thờ thần trí tuệ Ahura Mazda là vị thần tối cao. Tôn giáo phát triển mạnh ở Ba Tư từ thế kỷ VII TCN sau đó phát triển sang các nước ở Trung Đông, An Độ và Trung Hoa.

[*] [19] Ahura Mazda (còn được gọi là Ohrmazd, Ahuramazda, Hourmazd, Hormazd [Hoặc Nhĩ Mạt Tư Đức], Hurmuz, Aramazd và Azzandara) là vị thần đại diện cho kiến thức, sự thông thái, hài hòa. Ahura Mazda còn được gọi là thần Lửa, người tạo ra ánh sáng ban ngày và nắng ấm, tượng trưng cho trật tự và cái Thiện. Ahura Mazda được thờ phụng với tư cách là vị thần tối cao của Bái Hỏa giáo, cùng với các vị thần đầu tiên và gọi thường xuyên nhất trong các Yasna.Từ Ahura có nghĩa là ánh sáng và Mazda có nghĩa là sự khôn ngoan, như vậy Ahura Mazda là chúa tể của ánh sáng và sự khôn ngoan.

[*] [20] Tên một chức quan chuyên coi sóc chuyện nội bộ trong cung đình, cũng là tên thường gọi để chỉ hoạn quan.

[*] [21] Thần Tư Phan Đức Mại Nữu hay Spand Mainyu tượng trưng cho trí tuệ thánh khiết.

[*] [22] Kỵ binh chia làm hai loại: trọng kỵ và khinh kỵ. Về cơ bản thì hai loại ky binh được trang bị tương tự nhau, lối đánh cũng gần giống nhau, nhưng trọng kỵ còn có trách nhiệm đánh tay đôi với các đơn vị tinh nhuệ của kẻ địch.

[*] [23] Thành Khúc Nữ hay Kannauj là một thành phố cổ nay thuộc địa phận bang Uttar Pradesh, Ấn Độ.

[*] [24] Cáp Lý Phát (Khalifah hay Caliph) là lãnh tụ hợp nhất chính giáo của các nước theo đạo Hồi.

[*] [25] Can Đà La (hay Kiền Đà La) là một vùng miền tây bắc Ấn Độ, ngày nay thuộc về Afghanistan và một phần của Pakistan. Ngày xưa Can Đà La là một trung tâm văn hóa nghệ thuật Phật giáo. Trong thế kỉ thứ I, II, Phật giáo Đại thừa cũng bắt đầu xuất hiện tại đây.

[*] [26] Phạm Thiên là một vị thần trong đạo Hindu (Nam thần deva), thần của sự sáng tạo và là một trong ba vị thần Trimurti, hai thần còn lại là Vishnu và Shiva.

[*] [27] Thổ Hỏa La hay Tochari là Trung Á cổ đại theo cách gọi của người Hy Lạp cổ, tiếng Trung gọi là Nguyệt Chi hay Đại Nguyệt Chi, ban đầu dân cư ở đây định cư trong các vùng đồng cỏ khô cằn thuộc miền đông khu vực lòng chảo Tarim, ngày nay có lẽ thuộc Tân Cương, Cam Túc và có thể là cả Kỳ Liên Sơn ở Trung Quốc.