Chương 1 Đại Thừa Thiên
Đại Đường, năm Trinh Quán thứ mười lăm, mùa xuân tháng Hai. Trung Thiên Trúc[28], ngoài thành Khúc Nữ, bờ nam sông Hằng.
Sáng sớm tinh mơ, mặt trời mọc lên từ phía đông sông Hằng, cây rừng, chùa chiền, thành quách và con người đều được bao phủ trong ánh sáng lấp lánh phản chiếu từ mặt sông, có tiếng chuông chùa xa xa vọng đến, tiếng nước róc rách hòa lẫn tiếng chuông, mây lành giăng giăng, tưởng như là cõi tịnh thổ của Phật gia.
Lúc này bên bờ nam sông Hằng mọc lên vô số công trình kéo dài ngút tầm mắt. Nhà cửa, Phật điện, đài cao, quân doanh chiếm một dải kéo dài vài chục dặm, xung quanh là vô số tượng binh và kỵ binh qua lại tuần tra, giáp sắt kêu lẻng kẻng, ánh đao thương chói mắt, ngay cả trên sông Hằng cũng có mấy trăm chiếc thuyền không ngừng tuần tiễu, gần như phong tỏa hoàn toàn khu vực này. Một đại hội biện luận về kinh Phật được cả Thiên Trúc chú ý sắp diễn ra, quy tụ hơn hai mươi vị quốc vương, ba ngàn tăng lữ từ Ngũ Thiên Trúc[29], Bà La Môn[30] và những tín đồ tôn giáo khác lên tới hơn ba ngàn người, dân chúng từ các nơi nghe tin mà tới cũng phải chừng mấy vạn người.
Đang là năm thứ ba mươi sáu Giới Nhật Vương trị vì. Từ khi lên ngôi tới nay, Giới Nhật Vương đánh đông dẹp bắc, chinh phạt các vương quốc khác, voi không hạ bành, quân không cởi giáp, trừ cao nguyên Đức Can[31] (Deccan) vẫn chưa thể chinh phục, Ngũ Thiên Trúc về cơ bản đã thống nhất được ba khu vực, năm mươi mấy vương quốc phải khuất phục xưng thần, xây dựng lại vương triều thống nhất đầu tiên từ sau khi đế quốc cấp Đa[32] (Gupta) sụp đổ. Từ đó cả đế quốc hai mươi năm không có chiến tranh, bước vào thời đại huy hoàng hùng mạnh nhất.
Từ nửa năm trước, Giới Nhật Vương đã bắt đầu trù bị cho đại hội luận kinh này, xây dựng một Phật điện hùng vĩ ở bờ nam sông Hằng làm hội trường chính. Phía đông Phật điện xây dựng hai tòa thảo điện to lớn, mỗi tòa có thế chứa ngàn người. Phía tây Phật điện xây dựng hành cung. Phía trước thì xây dựng đài cao trăm thước để thờ cúng tượng Phật bằng vàng cao đúng bằng người ông ta.
Phía xa xa vang lên tiếng kèn lệnh trầm hùng, mặt đất lập tức chấn động như sấm rền, cây cối, nhà cửa, thậm chí mặt đất xung quanh đều nhấp nhô như sóng gợn, mắt thường cũng có thể thấy được.
Đưa mắt nhìn ra xa, có thể thấy từ phía thành Khúc Nữ một đội tượng binh xếp hàng dài đi tới, đủ ba trăm con voi lớn. Trên lưng một trăm con phía trước, mỗi con có ba chiến sĩ, một người cầm cờ, hai người thổi kèn lệnh, tiếng kèn chấn động trời đất. Trên lưng một trăm con ở giữa là những người biểu diễn, vừa múa vừa hát trên lưng voi. Còn lại một trăm con phía sau là một trăm đội diễn tấu nhạc.
Sau khi tượng binh đi qua, đi nối ngay sau đó là một con voi trắng to lớn, trên lưng chở một pho tượng Phật bằng vàng. Giới Nhật Vương năm mươi tuổi, hóa trang thành Đế Thích Thiên[33] (Indra), tay cầm phất trần theo hầu phía bên phải tượng Phật. Quốc vương Cưu Ma La[34] (Kumara) quyền thế chỉ đứng sau Giới Nhật Vương thì hóa trang thành Phạm Thiên, tay cầm lọng vàng đi ở bên trái. Phía sau có mười tám vị quốc vương đi theo, cùng hóa trang thành thị vệ. Theo kinh Phật ghi lại, Phật Đà (Buddha - Phật Thích Ca) lên trời giảng Phật pháp cho mẫu thân, sau khi trở lại nhân gian, hai vị thần hộ pháp Đế Thích Thiên và Phạm Thiên dùng lễ nghi này nghênh đón Phật Đà.
Ngồi ngay ngắn trên lưng voi lớn đi sát theo phía sau là một tăng nhân đến từ đế quốc Đại Đường, chính là Huyền Trang. Phía sau Huyền Trang có ba trăm con voi đi theo, ngồi bên trên là cao tăng của các vương quốc tham gia luận kinh, các đại thần, những người đức cao vọng trọng đến từ các tôn giáo khác. Đội ngũ đi tới hội trường, đầu tiên là thỉnh tượng Phật xuống, việc này do đích thân Giới Nhật Vương cõng tượng Phật trên lưng trèo lên đài cao trăm thước rồi mới cung kính đặt xuống[35].
Giới Nhật Vương đứng bên rìa đài cao, lớn giọng nói: “Ta nghe nói, mặt trời vừa mọc, ánh đèn ánh nến liền âm u thất sắc. Thiên lôi vang động, tiếng búa tiếng rìu đều tan biến không còn. Nay có đại sư Đại Đường là Huyền Trang viết ra ‘Chế Ác Kiến Luận’[36], phá hết tạp âm trên thế gian. Ta như tìm được bảo tháp quang minh trong đêm đen đằng đẵng, khiến ta như bừng tỉnh ngộ, tâm cảnh được mở rộng. Nhưng thế gian có muôn vàn đạo lý, nhiều người nghi ngờ, vì vậy ta liền đặc biệt triệu tập người có tài đức trong thiên hạ đến luận đạo biện kinh với đại sư. Mời đại sư Huyền Trang lập luận”.
Huyền Trang đi lên đài cao, đứng bên cạnh Giới Nhật Vương, ngài Tây du Thiên Trúc tính đến thời điểm này cũng đã được mười hai năm. Hiện tại, Huyền Trang bốn mươi hai tuổi, chân tóc bắt đầu điểm bạc, khuôn mặt hơi sạm, ánh mắt sâu sắc bình tĩnh. Lúc này ngài hoàn toàn cải đổi cách ăn mặc theo kiểu Thiên Trúc, trên người mặc áo bảy mảnh, vòng xuống dưới nách, vắt qua vai trái, vai phải để trần, vạt áo vắt dài đến eo.
Từ khi đặt chân tới Thiên Trúc đến nay, trước tiên Huyền Trang cầu học năm năm ở chùa Na Lan Đà[37] (Nalanda),sau đó đi khắp Ngũ Thiên Trúc, đến hàng trăm quốc gia và thành trì, đạp khắp núi tuyết, rừng mưa, hoang mạc, sông ngòi và cao nguyên, chúng sinh trong mắt, chúng tướng nhập tâm. Trên đường đi đàm kinh luận đạo với các tôn giáo khác chưa bao giờ thua, sớm đã trở thành một trong mười vị cao tăng đại đức của chùa Na Lan Đà, được chùa Na Lan Đà cung phụng ở mức cao nhất, vào có người hầu Bà La Môn, ra có voi có liễn đưa đón, hành tẩu qua các quốc gia có thể so với bậc vương hầu.
Nguyên nhân dẫn đến đại hội luận kinh lần này là một vụ khiêu chiến. Mấy năm nay chùa Na Lan Đà là thánh địa của Phật giáo Đại thừa, lại bị một cao tăng thuộc Phật giáo Tiểu thừa là Bát Nhã Cúc Đa đè cho không ngẩng đầu lên được. Bát Nhã Cúc Đa là đế sư của ba đời vua một vương quốc lớn ở Nam Thiên Trúc, ông ta chuyên tâm viết một tác phẩm phá tan giáo lý Đại thừa, chùa Na Lan Đà mấy năm liền không nghĩ ra được phương pháp bác bỏ. Chỉ tới khi Huyền Trang đến và nghiên cứu, ngài liền viết “Chế Ác Kiến Luận”, bẻ gãy lý luận của Bát Nhã Cúc Đa. Sau khi đọc xong “Chế Ác Kiến Luận”, Giới Nhật Vương cực kỳ hâm mộ, lập tức muốn cho hai người luận kinh, nhưng Bát Nhã Cúc Đa lại lấy cớ từ chối. Tín ngưỡng của bản thân Giới Nhật Vương vốn là Bà La Môn giáo, trên vành tai của ông ta có một nốt ruồi đỏ, sau khi có người nói đó là nốt ruồi Phật khiến Giới Nhật Vương cảm thấy rất hứng thú, đến lúc tuổi già từ từ ngả về Phật giáo Đại thừa. Sau khi được thấy tài học của Huyền Trang, lòng tin của ông ta tăng vọt, muốn để Huyền Trang khiêu chiến với các luận sư đỉnh cao của toàn bộ Ngũ Thiên Trúc. Vì thế mới có pháp hội lần này.
Huyền Trang đi lên đài cao, sau khi thi lễ với Giới Nhật Vương liền công bố luận đề của mình:
Tông: Chân cố cực thành sắc, bất ly vu nhãn thức;
Nhân: Tự hứa sơ tam nhiếp, nhãn sở bất nhiếp cố;
Dụ: Do như nhãn thức.
(Tạm giải nghĩa là:
Luận đề: Theo đúng chân lý, cực thành sắc (Những hiển sắc cực kỳ vi tế trong phạm trù tương quan như ánh sáng, bóng tối, chói chang, u ám; và những phạm trù tương quan với vật thể như dài, ngắn, vuông tròn) không tách lìa khỏi nhãn thức (cách nhìn nhận).
Luận cứ: Ta tự nhận định áp đặt cực thành sắc vào một trong ba mục đứng đầu của lục trần, lục căn, lục thức (tự thân gồm lục căn: mắt, tai, mữi, lưỡi, da, tư tưởng [nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ýl kết hợp với ngoại cảnh là lục trần: màu sắc, âm thanh, mùi hương, chất vị lưỡi nếm được, cảm giác và những gì năm điều trên lưu lại [sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp] mà hình thành nên lục thức (vọng tưởng gom nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức) chứ không áp đặt vào nhãn căn.
Luận chứng: Ví dụ như nhãn thức.)
Tông tức là luận đề, nhân là luận cứ, dụ là luận chứng. Đây là một luận đề căn cứ vào thuyết nhân minh[38]. Luận đề vừa đưa ra, đám đông phía dưới nhất thời rơi vào thế hỗn loạn, tất cả đều rỉ tai thì thầm, thấp giọng bàn tán về đoạn nhân minh luận này.
Sau khi công bố xong luận đề, theo quy tắc luận kinh, Huyền Trang phải đưa ra mức đặt cược của mình. Huyền Trang bình thản nhìn mọi người, tay phải làm đao chém vào cổ mình: “Nếu ai có thế phá vỡ một chữ trong đó, xin chém đầu cảm tạ”.
Đám người lập tức xôn xao, như vậy chẳng khác nào đánh cược tính mạng. Người Thiên Trúc luận kinh mặc dù thỉnh thoảng cũng có người đặt cược tính mạng, nhưng hai bên đều là đại đức của các phái, thông thường sẽ không thật sự lấy mạng đối phương. Có điều nếu người ta vẫn cứ muốn lấy mạng thì người thua tất nhiên không thế từ chối. Đặc biệt là trong đại hội luận kinh quy mô lớn chấn động Ngũ Thiên Trúc này, một khi đặt cược tất nhiên phái thực hiện, nếu không sẽ mất hết danh tiếng. Bởi vậy có thể thấy Huyền Trang tự tin đến mức độ nào.
Mọi người tham gia luận kinh không ngừng thở gấp, phân tích luận đề này tỉ mỉ hơn, càng xem càng khiếp sợ. Cả luận đề kết cấu nghiêm cẩn, luận chứng kín kẽ, về lí luận không hề có sơ hở.
Trọn một ngày, mọi người vẫn nghiên cứu thảo luận, lại không có người nào dám khiêu chiến. Giới Nhật Vương mừng rỡ, nhưng ngày thứ hai các luận sư vẫn yên lặng, liên tiếp yên lặng năm ngày, bầu không khí dần trở nên kỳ lạ, dường như có một dòng chảy ngầm đang cuộn trào. Huyền Trang tinh ý phát hiện ra, ngài suy nghĩ nhiều lần liền quyết định kết thúc hội luận kinh này, xin phép Giới Nhật Vương: “Thưa bệ hạ, bần tăng cho rằng hội luận kinh này đã cho thấy rõ chân lý không thế bàn cãi của giáo pháp Đại thừa, bây giờ có thế kết thúc được rồi”.
Giới Nhật Vương cười: “Đại sư không cần sốt ruột, ta mời đại sư xem một vở kịch hay”.
Huyền Trang không hiểu vở kịch mà Giới Nhật Vương nói là gì, nhưng sau đó lập tức biết được, Giới Nhật Vương thật sự mời ngài xem một vở kịch. Bên ngoài Phật điện dựng một sân khấu kịch, Giới Nhật Vương mời các luận sư và quốc vương, đại thần các phiên quốc ngồi trong Phật điện xem kịch, là một vở kịch do ông ta tự mình sáng tác: Long Hỉ Ký.
Vở kịch này được Giới Nhật Vương cải biên từ một điển tích của Phật giáo, chủ yếu là nói về thái tử Vân Thừa của Trì Minh Quốc vào trong núi tình cờ gặp công chúa Ma La Gia Bà Địa của Tất Đà Quốc. Hai người ái mộ lẫn nhau, lại không biết thân phận của đối phương, cũng không biết đối phương yêu mình. Có một lần công chúa tình cờ nhìn thấy thái tử Vân Thừa, lén nghe thấy thái tử Vân Thừa miêu tả về nữ tử mình yêu, trong lòng vô cùng đau khổ. Lúc này hoàng huynh của công chúa muốn gả nàng cho thái tử Vân Thừa, thái tử Vân Thừa không biết nàng chính là nữ tử mà mình vẫn tương tư nên dứt khoát cự tuyệt. Công chúa thì lại cho rằng thái tử đã yêu người khác, tâm tàn ý lạnh, muốn tự sát. Thái tử Vân Thừa cứu được công chúa, lúc này hai người mới hiểu rõ sự tình bèn kết thành lương duyên.
Sau khi cưới, có một ngày thái tử Vân Thừa đi dạo bên bờ biển, nhìn thấy kim sí điểu[39] mỗi ngày đều phải ăn một con rồng, xương rồng chất đống thành núi, thái tử thấy mà thương xót. Lúc này thái tử Loa Kế của long cung đích thân đến làm vật hi sinh cho kim sí điểu, thái tử Vân Thừa nhìn thấy cảnh Loa Kế và mẫu thân lưu luyến từ biệt, liền mặc lễ phục màu đỏ giống như Loa Kế, nằm trên tảng đá tế tự để chết thay cho rồng.
Kim sí điểu bay đến tha thái tử Vân Thừa bay về đỉnh núi. Mũ miện của thái tử Vân Thừa lại rơi xuống biệt viện của công chúa Ma La Gia Bà Địa. Công chúa biết sự tình, vội vã tìm tới đỉnh núi, nhưng thái tử Vân Thừa bị ăn thịt chỉ còn sót lại chút máu thịt thừa và xương trắng. Tất cả mọi người đều cảm động và đau xót, lúc này nữ thần Già Lê[40] cầm bình tịnh thủy từ trên trời hạ xuống, dùng cam lộ cứu sống thái tử Vân Thừa. Sau đó, vô số con rồng đã chết cũng sống lại theo. Kim sí điểu thề từ nay về sau không sát sinh nữa, vì vậy loài rồng vô cùng vui mừng.
Trên sân khấu, trước hết chủ gánh hát đọc lời chúc: “Hôm nay là ngày lễ long trọng. Quân vương của các thuộc quốc dưới chân cai trị của hoàng đế Hỉ Tăng[41] từ xa xôi đến Châu đều tụ tập một nơi, có lời khách khí, mời tại hạ đến, nói với tại hạ: ‘Chúng ta nghe nói hoàng đế Hỉ Tăng ngự bút cung thân viết một vở kịch tên là Long Hỉ ký, chuyện trong vở kịch có nguồn gốc từ Trì Minh Bản Sinh Thoại. Để thể hiện sự kính trọng đối với hoàng đế Hỉ Tăng, chúng ta khẩn cầu ngươi diễn vở này. Vậy thì tại hạ sẽ thỏa mãn kỳ vọng của mọi người. Chuẩn bị trang phục!”.
Thái tử Vân Thừa đeo mặt nạ vàng và hạ thần A Đê Ly đeo mặt nạ gỗ bước ra sân khấu.
Thái tử Vân Thừa: Ta hiểu rõ thanh xuân là nguồn gốc sinh ra dục niệm, ta cũng không phải không biết nó chỉ là mây khói lướt qua. Người đời đều hiểu nó ngăn cản việc phân biệt thiện duyên và ác duyên, chỉ tiếc không cách nào dằn được sự ước thúc của túi da. Ta lại hưởng thụ nó, đêù do tuổi thanh xuân của ta luôn thành kính phụng dưỡng song thân, vui vẻ bình yên.
A Đê Ly: Này, bạn của ta. Ngài còn chưa đủ khổ cực hay sao? Ở trong rừng cùng hai người già yếu chẳng còn sống được bao lâu thì có gì là vui! vẫn là nên tìm một chút niềm vui, đừng khư khư cố chấp hau hạ phụ mẫu đã già như vậy nữa, hãy hưởng thụ sự may mắn khi làm hoàng đế, muốn gì được nấy, muốn vui vẻ thế nào cũng được!
Trong lúc hai người đang tranh luận, công chúa Ma La Gia Bà Địa đeo mặt nạ bạc và thị nữ đeo mặt nạ lá cây nhanh nhẹn ra sân khấu.
Công chúa cất tiếng hát: Thưa Già Lê Thiên, gương mặt ngài tỏa rạng ánh hoàng kim tươi sáng giống như nhị hoa sen nở rộ. Cầu xin ngài rủ lòng từ bi cho con được thỏa nguyện…
“Long Hỉ ký” tổng cộng có năm màn, nếu diễn hết phải mất mấy canh giờ. Sau khi diễn được hai màn, lúc công chúa treo cổ tự tử trên cây vô ưu, tâm tình khán giả căng thẳng nhất, Giới Nhật Vương đột nhiên thở dài với Huyền Trang: “Đại sư, ngài biết vì sao ta thích xem kịch không?”.
Huyền Trang lắc đầu.
Giới Nhật Vương nói: “Ta viết vở kịch này từ mười năm trước, từ đó tới giờ, gánh hát này, những con hát này đều chỉ diễn một vở đó. Họ diễn nó trọn mười năm. Ngài xem các kép hát này, thái tử anh tuấn nhân từ, hết sức uy nghi, trên đời này có người nào giống thái tử hơn hắn? Ngài xem công chúa này, xinh đẹp động lòng người, hiểu ý người khác, có người nào giống công chúa hơn nàng? Vì sao? Bởi vì mười năm đóng kịch, các nhân vật kia đã thấm nhuần vào nội tâm và xương tủy của bọn họ, dường như họ đã hòa làm một với nhân vật rồi, không phân biệt được nữa. Cho nên ta thường mượn chuyện này để suy nghĩ, thật và giả trong cuộc đời này rốt cuộc có gì khác nhau? Ngôi vua và đế quốc này của ta có phải cũng là một vở kịch? Thần dân và quân đội dưới sân khấu có phải cũng là nhân vật trong vở kịch?”.
Huyền Trang suy nghĩ một lát, lắc đầu: “Thưa bệ hạ, bần tăng không bao giờ so sánh thật với giả”.
“Sao?”, Giới Nhật Vương hỏi: “Vậy nên so sánh thật với thứ gì?”.
“Ảo!” Huyền Trang nói: “Phật gia nói thật chính là không điên đảo, không hư vọng, không thể ban cãi, chí lí vĩnh hằng. Nhưng vĩnh hằng này trên thực tế cũng nằm trong sinh diệt vô thường, vạn vật như bong bóng. Đó chính là ảo. Thật và ảo là sự khác nhau của các tầng lớp sinh mệnh. Bệ hạ hãy xem tổ kiến dưới gốc cây sa la kia”.
Giới Nhật Vương nhìn lại, bên cạnh sân khấu kịch, dưới gốc cây sa la quả nhiên có một tổ kiến.
“Kiến chúa ngồi trên vương tọa nhìn kiến thợ trong vương quốc vất vả bận rộn nuôi dường nó, nó đương nhiên cho rằng đây là chân thật chứ không phải hư ảo” Huyền Trang cười nói: “Nếu có ngày nó luân hồi vãng sinh thành người, đứng dưới gốc cây nhìn tổ kiến này, nhìn kiến chúa trên vương tọa và nhớ lại kiếp trước, vậy đó là chân tướng hay là ảo giác?”.
Giới Nhật Vương lộ vẻ suy tư.
“Thưa bệ hạ, sự khác nhau của các tầng lớp sinh mệnh, nhìn thật lại là ảo, nhìn ảo lại là thật!”, Huyền Trang nói: “Ngài có thể nghĩ được như vậy là đã chạm tới biên duyên của đại đạo rồi”.
Giới Nhật Vương vừa ngạc nhiên vừa vui mừng: “Đại sư quả thật đã vén màn mây mờ cho ta. Vậy thì đại sư, nếu ta vãng sinh, có thể sinh ra ở cung trời Đâu Suất[42] không?”.
Huyền Trang đang định trả lời, đột nhiên có khói bay tới. Hai người kinh ngạc quay lại, thấy bên trong Phật điện có khói đặc tuôn ra. Mới đầu hai người cho rằng trong điện đang đốt hương, nhưng chưa đầy một khắc lại có ngọn lửa mãnh liệt mượn thế gió lan ra, nửa tòa Phật điện bao phủ trong khói lửa!
Đám đông bị kinh động, xung quanh Phật điện tụ tập hàng ngàn hàng vạn người, có một số người la hét cứu hỏa, còn đâu thì tháo chạy tứ tán, cả đám người chen lấn xô đẩy, giẫm đạp lẫn nhau, cảnh tượng hỗn loạn vô cùng. May mà xung quanh Phật điện trống trải, không có gì ngăn cản, nên đám đông phân tán khá nhanh.
Thị vệ của Giới Nhật Vuơng và quân đội vội vã cứu hỏa, thậm chí Giới Nhật Vương cũng đích thân xách một thùng nước tham gia dập lửa. Huyền Trang xông vào Phật điện, ôm một pho tượng Phật đi ra, lại bị Giới Nhật Vương ra lệnh cho thị vệ áp giải ra, bảo vệ chu đáo.
Huyền Trang nói: “Bệ hạ, Phật điện bị đốt, bần tăng phải góp sức cứu hỏa”.
Giới Nhật Vương sắc mặt xanh mét, nhìn một vòng xung quanh, nói: “Đại sư, hiện thời thứ đang bùng cháy nào phải lửa lớn, mà chính là lòng tham của chúng sinh đó. Nội tình chuyện này không đơn giản như vậy đâu, các ngươi bảo vệ đại sư cho tốt, có người đến gần giết không cần hỏi!”.
Huyền Trang kinh ngạc, cùng với thị vệ đi tới dưới gốc cây sa la đó, các thị vệ đứng vòng quanh rút đao cảnh giác đề phòng. Huyền Trang ngẩng đầu lên nhìn, biết thế lửa trong Phật điện đã không thể khống chế được nữa. Giới Nhật Vương hiển nhiên cũng biết rõ, sau một phen phí công liền lui ra ngoài dưới sự bảo vệ của các thị vệ. sắc mặt ông ta âm trầm, mặt đầy vết khói hun lửa cháy. Lúc này biểu huynh của Giới Nhật Vương, tể tướng Bà Ni lặng lẽ đến nói thầm gì đó với ông ta, Giới Nhật Vương suy nghĩ một lát, lắc đầu. Huyền Trang loáng thoáng nghe thấy Giới Nhật Vương nói nhỏ: “Đã chơi thì phải chơi thật lớn!”.
Bà Ni yên lặng, hai người đứng sánh vai đến tận lúc toàn bộ Phật điện bị ngọn lửa nuốt chửng. Giới Nhật Vương quay lại nói với mọi người: “Ta muốn hỏi một câu, vì tòa Phật điện này, sáu tháng nay các thợ thuyền ngày đêm vất vả, nó cũng là nơi mà ta, đế quốc của ta cùng các thần dân hao tổn biết bao tâm huyết. Vậy mà có một số người lại cho một mồi lửa đốt mất, rốt cuộc bọn chúng muốn làm gì?”.
Giới Nhật Vương nghiêm mặt nói, mọi người lũ lượt cúi đầu.
Một lão giả nói nhỏ: “Có lẽ là thiên tai cũng chưa biết chừng”.
“Thiên tai à?”, Giới Nhật Vương cười lạnh: “Ta lại cho rằng đó là nhân họa! Ngươi không tin sao?”.
Lão giả kia không dám nói thêm lời nào, Giới Nhật Vương phất tay áo bỏ đi.
Hôm sau Giới Nhật Vương chuyển địa điểm luận kinh về hành cung của mình, mời Huyền Trang bắt đầu giảng kinh. Mặc dù vẫn không có người khiêu chiến, nhưng các vị đại đức giảng kinh đàm pháp cũng vui vẻ hài hòa. Trọn mười tám ngày, luận đề của Huyền Trang treo ớ cửa hội trường, vậy mà lại không có ai khiêu chiến. Giới Nhật Vương mời Huyền Trang đi lên đài cao, công khai tuyên bố Huyền Trang chiến thắng trong đại hội luận biện lần này, theo quy tắc phải định ra tôn hiệu để tặng cho người chiến thắng luận kinh. Chùa Na Lan Đà định ra hiệu: Đại Thừa Thiên!
Trên hội trường lập tức vang lên tiếng trống, mấy vạn người cùng chúc mừng, vài chục thiếu nữ mang giỏ hoa đi quanh đài cao rải. Giới Nhật Vương đích thân dẫn Huyền Trang từ trên đài cao xuống, vô số người tràn tới hoan hô. Nhưng đúng lúc này, đột nhiên xảy ra sự cố, một bóng trắng từ trong đám đông xông tới, đoản đao trong tay lóa lên thành một vệt ánh sáng nhắm về phía Giới Nhật Vương đi phía trước Huyền Trang.
Giới Nhật Vương nhiều năm chinh chiến, mặc dù tuổi đã ngoài năm mươi nhưng thân thủ lại không hề kém đi. Ông ta kêu to một tiếng, ngả người ra phía sau, tránh được lưỡi đao trong gang tấc, ngã ngửa xuống cầu thang. Huyền Trang đang đi sau lưng Giới Nhật Vương, vội vàng đỡ ông ta dậy, lôi kéo chạy ngược lên cầu thang.
Đoản đao va vào tường bật lại, lăn xuống theo bậc thang. Thích khách đó lao tới nhặt đoản đao lên tiếp tục đuổi giết. Lúc này đám người xung quanh mới phản ứng lại, tể tướng Bà Ni quát to: “Mau! Bảo vệ bệ hạ!”.
Nhưng thị vệ và quân đội đều ở bên ngoài đám đông, bên trong thì hỗn loạn nên càng không thể chen vào được. Thích khách đó hiển nhiên là dày dạn kinh nghiệm, sớm dự tính được chuyện này, thậm chí ngay cả việc Giới Nhật Vương không có đường chạy chỉ có thể chạy ngược lên cầu thang, cũng nằm trong tính toán của hắn. Hắn cầm đoản đao thuận theo bậc thang đuổi giết. Hai bên cầu thang bày một số hoa tươi, Giới Nhật Vương ném toàn bộ hoa tươi về phía thích khách. Thích khách cười khẩy vung đao gạt ra, hai chân đột nhiên phát lực nhảy lên thành cầu thang, sau đó tung người lên cao, đoản đao chém về phía Giới Nhật Vương.
Giới Nhật Vương tay không tấc sắt, đang hoảng loạn, Huyền Trang nhanh trí chạy lên trên đỉnh đài cao, nhổ xuống một giá nến làm từ đồng vàng to bằng ngón cái dài hơn ba thước ném cho Giới Nhật Vương: “Bệ hạ, bắt lấy!”.
Giới Nhật Vương cuống cuồng chạy lên vài bước, bắt được giá nến bèn quay lại đâm ngay. Thích khách đang ở giữa không trung nên không có chỗ mượn lực, giơ đoản đao trong tay lên cản nhưng đã chậm một bước, bị giá nến đâm trúng vai. Thích khách giận tím mặt, vung đoản đao, xoay người như bánh xe chém tới. Giới Nhật Vương dùng giá nến như trường kiếm, đón đỡ, đâm chém, hai người đánh nhau kịch liệt.
Đang chém giết, xoẹt một tiếng, giá nến bị chặt đứt. Thích khách mừng rỡ, không ngờ Huyền Trang lại nhổ xuống một giá nến khác ném tới: “Bệ hạ, bắt lấy!”.
Giới Nhật Vương bắt lấy, chưa được mấy hiệp, giá nến lại bị chặt đứt. Lúc này Huyền Trang lại hô: “Bệ hạ, bắt lấy!”.
Huyền Trang lại ném tới một vật, Giới Nhật Vương cho rằng vẫn là giá nến bèn đưa tay bắt lấy, suýt nữa bị đè đến gãy cổ tay, rồi vội vàng dùng hai tay đưa vật kia về phía trước. Thích khách cũng cho rằng đó lại là giá nến nên vung đao chém xuống, không ngờ chỉ nghe thấy một tiếng boong ngân dài, nước lạnh hắt thẳng vào đầu. Thích khách còn chưa hiểu có chuyện gì, trước mắt liền xuất hiện một bóng đen to lớn, uỳnh một tiếng đập thẳng vào trán hắn.
Thích khách đổ vật xuống đất, hôn mê bất tỉnh.
Đồ vật kia lăn loong coong xuống bậc thang, không ngờ lại là chậu đông dùng để tắm Phật. Thứ này nặng tới hơn hai mươi cân, cũng không biết Huyền Trang làm thế nào lại có thể bê được. Giới Nhật Vương vừa mới định thần liền vội vã giật lấy đoản đao trong tay thích khách, cười khổ nói: “Đại sư, Lần đầu tiên ta cảm thấy binh khí còn không tốt bằng Phật khí”.
Huyền Trang cũng bật cười. Lúc này Bà Ni mới dẫn các thị vệ chen tới nơi, trói gô thích khách lại. Giới Nhật Vương bèn dặn: “Dẫn đến hội trường, làm cho hắn tỉnh lại. Ta phải đích thân thẩm vấn”.
°°°
Trên hội trường, trước Phật điện cháy trụi, thích khách bị trói gô quỳ trên bãi đất trống, trán có một cục u lớn, thoạt nhìn cực kỳ dữ tợn. Xung quanh thị vệ vương cung giới nghiêm toàn diện, cung lên dây, đao xuất vỏ, ngăn cách thích khách với đám đông.
Sau khi tắm rửa thay quần áo, Giới Nhật Vương dẫn Huyền Trang và quốc vương, trọng thần các phiên quốc, người có danh vọng các giới đi tới hội trường, ngồi lên vương tọa. Mọi người cũng lần lượt ngồi xuống. Giới Nhật Vương sắc mặt âm trầm nhìn thích khách: “Vì sao phải ám sát ta?”.
Thích khách đó cúi đầu không nói.
Giới Nhật Vương nói: “Là ta khuyết thiếu đức hạnh, hay là có tư thù với ngươi? Ngươi có gì cứ nói. Hôm nay trước mặt các vị vương hầu và chúng đại đức, chỉ cần ta phạm phải điều gì có lỗi với ngươi, ta bảo đảm sẽ trả lại công bằng cho ngươi!”.
Thích khách đó lộ vẻ xúc động, nói nhỏ: “Bệ hạ đối xử bình đẳng với thần dân, thần dân trên dưới đế quốc đều nhận được ân huệ của ngài, ngài không hề làm gì có lỗi với tiểu nhân”.
“Vậy sao ngươi phải ám sát ta?”, Giới Nhật Vương hỏi.
Thích khách yên lặng một lát: “Là tiểu nhân ngu muội cuồng vọng, bị ngoại đạo đầu độc, nhận tiền bạc của bọn chúng mới đến ám sát bệ hạ”.
Người xung quanh lập tức xôn xao, tất cả mọi người đều biết một cơn bão táp khó tránh khỏi được sắp ập đến. Ám sát đế vương có quyền thế nhất Thiên Trúc, nhất định là máu chảy thành sông.
Giới Nhật Vương tiếp tục hỏi: “Vì sao ngoại đạo lại muốn ám sát ta?”.
Thích khách nói: “Bởi vì bệ hạ triệu tập quốc vương, đại thần và đại đức cao tăng các vương quốc, hao hết quốc khố để nuôi dưỡng tăng nhân, đúc tượng Phật. Các tôn giáo khác oán than dậy đất, đều cho rằng bệ hạ hoàn toàn bỏ rơi bọn họ. Gần đây người Ba Tư xâm nhập đất Ngũ Hà, biên giới không yên, ngoại đạo cho rằng cơ hội đã đến. Đầu tiên bọn họ phóng hỏa đốt cháy Phật điện, khiến bách tính cho rằng bệ hạ không còn được các thần phù hộ, sau đó phái tiểu nhân đến ám sát ngài…”.
Cả đám người xôn xao kinh hãi, chuyện còn nghiêm trọng hơn dự đoán của tất cả mọi người. Nếu quả thật như thế, việc này sẽ dẫn đến một đợt thanh trừng lớn trong cả đế quốc Giới Nhật. Bởi vì chuyện này không phải tranh giành quyền lực đơn thuần mà là dính dáng đến ngoại tộc và chiến tranh. Thiên Trúc từ xưa đến nay nhiều lần bị ngoại tộc xâm lấn, hai ngàn năm trước, bị người Nhã Lợi An (Aryan)[43] xâm lấn lưu vực sông Hằng và dung hợp vào đây, thành lập chế độ đẳng cấp. Trên thực tế, ngay cả các đời quốc vương như Giới Nhật Vương cũng đều là hậu duệ của người Nhã Lợi An. Một ngàn năm trăm năm trước, người Ba Tư, người Mã Kỳ Đốn[44] (Macedonia) lại lần lượt xâm lấn. Sau khi đế quốc Quý Sương[45](Kushan) trỗi dậy cũng vượt qua vùng Ngũ Hà, chiếm lĩnh lưu vực sông Hằng. Chỉ mới hơn một trăm năm trước, sau khi người Áp Đạt[46] (Hephthalite) thành lập đế quốc cũng xâm lấn Thiên Trúc, đánh qua sông Ấn, chiếm lĩnh Bàng Già Phổ[47] (Punjab). Phụ thân của Giới Nhật Vương là quốc vương Quang Tăng[48] (Prabhakar Vardhana) cũng từng tác chiến với người Áp Đạt. Vì vậy người Thiên Trúc cực kỳ mẫn cảm với việc ngoại tộc xâm lấn. Chuyện này còn dính dáng đến người Ba Tư, như vậy rõ ràng Giới Nhật Vương đang chiếm được đạo nghĩa, ông ta muốn gây ra sóng gió lớn thế nào cũng không có vấn đề gì.
Trong lúc mọi người thấp thỏm trong lòng, Giới Nhật Vương hỏi: “Vậy thì những kẻ ngoại đạo đó là ai? Hãy nói ra, ta khoan thứ cho ngươi”.
Mọi người lập tức kinh hãi. Tất cả đều hiểu, chỉ cần thích khách tiện tay chỉ bừa, không biết có bao nhiêu người rơi đầu xuống đất, bao nhiêu người nước mất nhà tan, thậm chí ngay cả mười chín vị quốc vương ở đây cũng không biết có bao nhiêu người còn sống trở về.
Thích khách đang định nói, quốc vương Cưu Ma La đột nhiên đứng lên: “Bệ hạ, bản vương có mấy câu không biết có nên nói hay không?”.
Giới Nhật Vương nhìn ông ta như cười như không: “Ngài là chiến hữu trung thực nhất của ta, đương nhiên không có chuyện gì là không thể nói”.
Quốc vương Cưu Ma La thật sự không muốn làm trái ý Giới Nhật Vương trong lúc này. Ông ta là đồng minh của Giới Nhật Vương trong giai đoạn đầu. Ba mươi năm trước, chính nhờ có sự giúp đỡ của quốc vương Cưu Ma La, Giới Nhật Vương trẻ tuổi mới chiến thắng kẻ thù hùng mạnh là quốc vương Thiết Thưởng Ca[49] (Shashanka), đặt căn cơ thống nhất Thiên Trúc. Để đáp lại, Giới Nhật Vương làm cho quốc vương Cưu Ma La trở thành vị vua mạnh mẽ nhất Thiên Trúc, chỉ xếp sau mình. Liên minh của hai người chính là nền tảng ổn định của đế quốc Giới Nhật. Nhưng nếu ông ta không đứng ra, một khi Giới Nhật Vương tức giận, vung dao đồ tể, cục diện khó mà thu vén được.
Quốc vương Cưu Ma La cúi rạp xuống: “Bệ hạ gặp phải kẻ gian ám sát, toàn bộ con dân Ngũ Thiên Trúc người người đều căm hận, hi vọng lùng bắt kẻ chủ mưu về quy án. Nhưng việc này liên lụy quá lớn, không bằng mời bệ hạ cùng mười tám vị quốc vương di giá vào nội điện, sau khi mọi người thương nghị sẽ đưa ra quyết định?”.
Mười tám quốc vương và các vị đại thần cùng phụ họa: “Đúng đúng đúng, quốc vương Cưu Ma La nói rất đúng, mời bệ hạ di giá”.
“Cũng được, dẫn thích khách này cùng đi!” Giới Nhật Vương lạnh lùng cười, đứng phắt dậy bước đi. Các vị quốc vương vội vàng đi theo, đám thị vệ áp giải thích khách đi sau cùng.
Xung quanh hội trường không có ai rời đi, tất cả mọi người đều vô cùng lo lắng, dường như trên đầu đang có sấm rền chớp giật. Huyền Trang và các vị đại đức cũng không rời đi, mọi người ùn lặng ngồi, chờ đợi các quốc vương đưa ra phán quyết.
Hơn hai canh giờ sau, lúc mọi người sắp kìm nén đến cực hạn, Giới Nhật Vương, quốc vương Cưu Ma La và các quốc vương mới quay trở lại. sắc mặt của bọn họ đều không được tốt, chỉ có Giới Nhật Vương tinh thần phấn chan, trực tiếp đi tới ngồi xuống vương tọa. Tể tướng Bà Ni cầm một quyển văn thư đứng sau lưng ông ta.
Các thị vệ đẩy thích khách đến quỳ xuống trước mặt Giới Nhật Vương.
Giới Nhật Vương nói: “Ta lấy nhân đức trị quốc, tất cả quốc sự không bao giờ lấy tư oán cá nhân làm trọng. Hôm nay thích khách này bị người khác xúi giục, nhận tiền tài của chúng, có ý đồ ám sát ta. Theo lí mà nói, phải nghiêm trị không tha. Nhưng ta có nói sẽ khoan thứ cho hắn thì không thể nuốt lời. Người đâu, thả hắn ra!”.
Các thị vệ đi tới cắt đứt dây trói cho hắn, thích khách liên tục khấu đầu cảm ơn rối rít, chạy vào đám đông rồi biến mất không còn thấy bóng dáng tăm hơi.
“Nhưng…”, Giới Nhật Vương nghiến răng giận dữ: “Một kẻ mãng phu ngu muội ta có thể khoan thứ, còn kẻ chủ mưu có ý đồ họa loạn quốc gia, dẫn người Ba Tư xâm lấn Thiên Trúc ta thì không thể khoan thứ! Vừa rồi ta và các vị quốc vương cùng thẩm vấn thích khách, thích khách đó cũng khai một danh sách, ta sẽ dựa vào đó để đào ra loạn đảng”.
Giới Nhật Vương vẫy tay, Bà Ni mở văn thư ra, bắt đầu đọc tên. Cứ đọc ra một cái tên lại có thị vệ tiến lên, bắt người rời trong đám đông mang ra đè quỳ xuống đất. Một lúc sau, trong hội trường đã có tới hơn trăm người quỳ, toàn bộ đều là người có quyền thế danh vọng rất cao trong các vương Hầu của đế quốc Giới Nhật!
Những người xung quanh mặt đều biến sắc, âm tiết từ miệng Bà Ni giống như vô thường đoạt mạng, không ngờ đọc mãi vẫn không hết. Người có mặt ở đây lập tức bị bắt, người không có ở đây vừa bị đọc tên, kỵ binh xung quanh liền mang theo vương lệnh chạy đi bốn phía đến các vương quốc bắt người. Trên danh sách này của Bà Ni không ngờ lại ghi đến năm trăm cái tên! Tại hội trường có hơn hai trăm người lập tức bị bắt giữ, thậm chí bên cạnh Huyền Trang cũng có một số đại đức ngoại đạo bị bắt.
Hơn hai trăm người này mặt xám như tro, người nào người nấy đều thảm thiết kêu oan, tiếng than khóc, tiếng cầu khẩn vang lên khắp nơi. Các thị vệ cầm roi da đi tới đánh lung tung một trận, những người này mới ngậm miệng không dám kêu tiếp. Quốc vương Cưu Ma La và quốc vương các phiên thuộc biết rõ đây là giao dịch giữa mình và Giới Nhật Vương, răng bị đánh gãy cũng đành phải nuốt vào bụng, ngoài mặt thì lộ vẻ cực kỳ căm phẫn, mãnh liệt yêu cầu Giới Nhật Vương trừng phạt nghiêm khắc những người này, tất cả phải bị chém đâu, gia quyến phải bị giáng làm tiện dân.
Giới Nhật Vương hết sức không đành lòng: “Mặc dù ta bị ám sát, nhưng nỗi đau cơ thể chẳng bằng nỗi đau ở trong lòng! Các ngươi đều là những người đức cao vọng trọng, đế quốc đối đãi với các ngươi không tệ, Ngũ Thiên Trúc lại là mảnh đất sinh dưỡng các ngươi. Các ngươi ám sát ta, ta có thể chấp nhận, nhưng vì sao phải cấu kết với người Ba Tư, dẫn ngoại tộc xâm lấn gia viên và đất đai của chúng ta?”.
Những kẻ tử tội gào khóc kêu oan, Giới Nhật Vương vẻ mặt đầy thương cảm, lắc đầu thở dài: “Mấy năm nay ta hết lòng tin theo Phật pháp, Phật gia từ bi, cũng không muốn tạo nhiều sát nghiệp. Các ngươi đều là người có thân phận, tước bỏ đẳng cấp của các ngươi, giáng gia quyến các ngươi làm tiện dân, trong lòng ta cũng không nỡ. Bà Ni, năm người đầu tiên trong danh sách, chém đầu tại chỗ. Những người khác kể cả gia quyến, đuổi ra khỏi biên giới! Rời khỏi mảnh đất này, ta hi vọng các ngươi có thể nghĩ rõ ràng, mẫu quốc là gì, gia viên là gì!”.
Những kẻ tử tội lại bắt đâu lũ lượt cầu khấn quốc vương của minh. Các quốc vương quay mặt đi làm như không nhìn thấy. Danh sách này xử lý thế nào vốn chính là kết quả sau khi mọi người cò kè mặc cả với nhau, bây giờ làm sao còn có thể đổi ý?
Bà Ni quát to: “Kẻ nào còn kêu oan, đưa vào thủy lao, từ từ thẩm vấn, lúc ấy phải dụng hình triệt đế lôi ra đồng đảng sau lưng chúng!”.
Những kẻ tử tội ngẩn người ra, lập tức đưa mắt nhìn nhau. Không ít người trong lòng vô cùng ấm ức, nhưng họ đều biết rõ mình đã bị quốc vương vứt bỏ, một khi bị đưa vào thủy lao thẩm vấn, chỉ sợ kết cục còn thê thảm hơn. Nghĩ đến đây, mọi người đều mặt xám như tro, xuội lơ dưới đất, ai cũng không dám mở miệng kêu oan nữa, lập tức có thị vệ tới áp giải đi, cùng với gia quyến bị đuổi ra ngoài biên giới. Năm người còn lại bị đưa ra ngoài hội trường, chém đầu tại chỗ.
Đại hội luận kinh kéo dài mười tám ngày cuối cùng lại hạ màn trong âm mưu và máu tanh.
°°°
Đêm đó Huyền Trang nghỉ ở hành cung của Giới Nhật Vương. Hành cung rất lớn, Huyền Trang ở một mình trong một tòa viện. Mặc dù là hành cung tạm thời nhưng được xây dựng không kém phần tráng lệ, tường nhà đan bằng tre gỗ, dùng vôi quét lên, khắc bích họa Phật giáo tinh xảo, cửa sổ cũng có các loại hình vẽ nhiều màu. Nóc nhà được lợp bằng cỏ tranh, sau đó lợp ngói và ván gỗ lên. Còn nền nhà thì dùng phân bò trát phẳng, bên trên rải đầy hoa tươi. Người Thiên Trúc cho rằng như vậy mới là sạch sẽ nhất.
Mở cánh cửa đan bằng lá cây ra, có thể nhìn thấy sông Hằng. Trăng sáng chiếu xuống, nước sông chảy qua, ánh trăng và ánh sáng phản chiếu từ mặt sông hắt lên trên mặt Huyền Trang lạnh giá. Huyền Trang ngồi dưới ánh trăng sông Hằng, bắt đầu suy ngẫm.
Bỗng nhiên bên ngoài vang lên tiếng bước chân lộn xộn, thỉnh thoảng còn có tiếng kim loại va chạm. Huyền Trang đang nhập định bèn mở mắt ra, lại nghe thấy Giới Nhật Vương thấp giọng dặn dò: “Các ngươi ở lại đây, ta tự mình đi gặp đại sư”.
Huyền Trang vội vàng đứng dậy mở cửa, liền nhìn thấy bên ngoài là Giới Nhật Vương dẫn theo một đám thị vệ đang đứng sẵn ở đó rồi.
Giới Nhật Vương cười nói: “Còn tưởng sẽ quấy rầy giấc ngủ của đại sư, không ngờ ngài vẫn còn chưa ngủ”.
Huyền Trang cũng cười: “Ánh trăng bên sông Hằng giống như một quyến kinh văn, có thể đọc được. Làm sao bần tăng nỡ ngủ?”.
Giới Nhật Vương cười lớn, cùng Huyền Trang đi vào bên trong và ngồi xuống giường. Huyền Trang rót cho Giới Nhật Vương một cốc nước mía, ông ta trong lòng không yên, cầm cốc nước, ngập ngừng muốn nói lại thôi.
“Bệ hạ đến đế nói rõ chuyện hôm nay sao?”, Huyền Trang dứt khoát hỏi rõ.
Giới Nhật Vương sửng sốt: “Đại sư có thể đoán được à?”.
“Bệ hạ có nói, đã chơi phải chơi thật lớn!”, Huyền Trang gật đầu: “Bần tăng vừa rồi cũng đang suy nghĩ, nếu bệ hạ không đến nói rõ, có lẽ bần tăng sẽ vĩnh viễn chôn giấu trong lòng”.
“Không ngờ đại sư lại nghe thấy!”, Giới Nhật Vương khẽ thở dài bất đắc dĩ: “Cũng phải. Đại sư có thiên nhãn thần thông, có thế nhìn rõ mười phương thế giới, làm sao lại không nhìn thấu mánh khóe nho nhỏ này của ta. Huống hồ lúc thích khách tấn công, đại sư còn ở bên cạnh ta. Vốn dĩ ta cũng không định giấu đại sư, có điều hôm nay quá nhiều chuyện, đến lúc này mới có chút rảnh rỗi, mong đại sư thông cảm”.
“Không dám!” Huyền Trang vội vàng nói: “Đây là đại sự quốc gia, bần tăng là một tăng nhân, vốn không nên được biết, làm sao dám làm phiền bệ hạ tự mình đến giải thích”.
Giới Nhật Vương cười khổ: “Thôi, dù sao thì ta cũng đến đây rồi, bây giờ sẽ nói rõ ngọn nguồn mọi chuyện với đại sư. Đại sư cũng biết, cuối tháng mười năm ngoái, quốc vương Y Tự Hầu đệ tam của Tát San Ba Tư dẫn hàng trăm ngàn người Ba Tư chạy đến Càn Đà La lánh nạn. Hắn bị người Đại Thực xua đuổi, ước mơ lớn nhất chính là vượt qua đất Ngũ Hà về phía đông, tiến vào Thiên Trúc tị nạn”.
Huyền Trang gật đầu: “Người Ba Tư tiến vào Thiên Trúc, đối với người Ba Tư mà nói là tránh họa, còn đối với Thiên Trúc thì lại là tai họa”.
“Đúng vậy!”, Giới Nhật Vương than thở: “Mấy trăm ngàn người Ba Tư rải rác khắp vùng Càn Đà La, cách sông Ấn nhìn chằm chằm vào Thiên Trúc. Mặc dù Y Tự Hầu đệ tam không dám trắng trợn đem quân vượt sông tiến đánh, nhưng có một đám ngoại tộc đông như vậy ở ngay sát biên giới, đất Ngũ Hà làm sao có thể yên ổn. Mùa đông năm ngoái ta ngự giá thân chinh, liên tiếp tiêu diệt hai nhóm phản loạn, chính là người Ba Tư ở sau lưng kích động bọn chúng”.
“Điều này bần tăng đương nhiên biết. Nhưng bần tăng không hiểu một chuyện là…” Huyền Trang chần chừ một lát, hết sức thận trọng hỏi: “Vì sao hôm nay bệ hạ phải diễn vở kịch kia, giết một đám người đó?”.
Giới Nhật Vương vẻ mặt nặng nề, tiếp tục nói: “Ta nhắc tới người Ba Tư, chuyện hôm nay đương nhiên liên quan đến chúng. Hai vụ phản loạn kia đã bình, nhưng dục vọng khó bình. Đế quốc của ta yên bình hai mươi năm, dã tâm của quốc vương các quốc gia khác cũng bị áp chế hai mươi năm. Các quốc vương cùng ta tranh bá Thiên Trúc năm đó đều già cả rồi, đối với bọn họ, hoặc là thần phục đến lúc chết già, hoặc là tìm cách vãn hồi những tiếc nuối năm đó trước khi chết già. Mà đương nhiên là có một số quốc vương không cam lòng thần phục đến lúc chết già”.
Huyền Trang bàng hoàng tỉnh ngộ, nói: “Ba Tư quấy rối biên cương, vương quyền lại không ổn định, đốt cháy dục niệm trong lòng một số quốc vương. Cho nên bọn họ mới mượn đại hội luận kinh lần này, đốt cháy Phật điện, đầu tiên phải làm như bệ hạ đang rơi vào loạn trong giặc ngoài, sau đó bóng gió với dân chúng rằng Phật điện bị đốt và ngài không còn nhận được sự phù hộ của Phạm Thiên nữa”.
Giới Nhật Vương tán thưởng nhìn Huyền Trang: “Đại sư nói hay lắm, nói tiếp đi”.
“Khi đó mặc dù bệ hạ đoán được tâm tư những người này, nhưng lại không thể nào truy tìm được hung thủ phóng hỏa”, Huyền Trang vô cùng cẩn trọng, cân nhắc từng câu từng chữ: “Mặc khác, bệ hạ muốn dựng quyền uy sẽ phải dùng thủ đoạn mạnh mẽ tra ra người phóng hỏa để trả lời dân chúng. Nhưng chuyện này nội tình phức tạp, người phóng hỏa hành động kín đáo, trong thời gian ngắn không thể nào tra ra được. Điều này chính là tính toán của người phóng hỏa. Bệ hạ lại không thể để bọn chúng dắt mũi, vì vậy mới phải chơi một trận lớn, bày ra cảnh tượng hung hiểm chính mình bị ám sát”.
“Tuyệt diệu, tuyệt diệu! Chẳng những bóc kén kéo tơ toàn bộ sự việc, thậm chí ngay cả ý nghĩ của ta cũng đoán không sai lệch chút nào!” Giới Nhật Vương bị người khác nhìn thấu tâm tư, chẳng những không tức giận mà còn hưng phấn không thôi: “Mời đại sư tiếp tục nói”.
Chuyện đến nước này, Huyền Trang cũng đành phải tiếp tục suy luận, bởi vì ngài cảm thấy Giới Nhật Vương còn có mục đích khác, dường như đang thử tài chính mình. Huyền Trang nói: “Đối với dân chúng mà nói, thích khách ám sát ngài đương nhiên là người phóng hỏa, một kế thất bại liền bày kế khác, phải giết được ngài mới cam lòng. Đến lúc đó ngài đại triển thần uy, một mình chống lại, bắt được thích khách…”.
Giới Nhật Vương đỏ mặt: “Mặc dù màn kịch được sắp xếp từ trước, nhưng không ngờ ta thực sự đã già rồi, sức khỏe kém xa trước kia. May mà có đại sư giúp đỡ mới khiến vở kịch này giống thật hơn một chút”.
Huyền Trang cười: “Khi đó dù bần tăng nhìn ra được nhưng lại không hiểu mục đích của bệ hạ là gì. Vậy nên, bệ hạ muốn diễn, bần tăng đương nhiên phải giúp một tay”.
Giới Nhật Vương thoải mái cười lớn.
Huyền Trang tiếp tục nói: “Sau đó lời khai của thích khách chẳng những buộc chuyện phóng hỏa và ám sát lại với nhau, thậm chí còn đóng đinh người phóng hỏa lên cột sỉ nhục vì câu kết với người Ba Tư, bán đứng toàn bộ Thiên Trúc, khiến tất cả mọi người đều oán giận. Thế là ngài liền trở thành người nắm đạo nghĩa trong tay, vì ngài chống lại giặc ngoài nên mới bị người ta phóng hỏa, mới bị người ta ám sát. Ngài có thể bắt thích khách khai ra bất cứ người nào, nghiền nát người đó dễ dàng như bẻ cành khô”.
“Không sai!”, Giới Nhật Vương nói: “Ta nghỉ ngơi dưỡng sức hai mươi năm, bọn chúng thật sự đã quên ta từng đánh giết, sinh tồn từ máu và lửa. Vậy thì, ta sẽ làm cho bọn chúng nhớ lại cảnh tượng bị chinh phục hai mươi năm trước thêm lần nữa. Kỳ thực ta cũng biết rõ, lòng người khó đầy, lòng tham không đáy. Ta hiểu những quốc vương này, có một số người ẩn nhẫn tìm cơ hội, có một số người thì bị đại thần xung quanh xúi bẩy, vậy thì ta sẽ làm cho thích khách đứng trước mặt bọn chúng, xem bọn chúng có khuất phục hay không! Nếu kẻ nào không khuất phục, ta cũng không phải hổ đã rụng răng, ngay sau đó thích khách liền khai ra tên hắn, rồi ta đưa tượng binh đến diệt quốc gia của hắn. Hừ, trước đại nghĩa, ai dám ngăn trở? Có điều dù ta già rồi, nhưng bản lãnh phán đoán lòng người lại không hao hụt, đám quốc vương này không có một kẻ nào cứng cỏi, toàn bộ đều thỏa hiệp. Và, nếu thỏa hiệp rồi thì bọn chúng lại phải thương lượng xem trả giá gì để dập tắt lửa giận của ta?”.
“Cái giá mà bệ hạ muốn chính là tiêu diệt những kẻ xúi bẩy bọn họ?”, Huyền Trang hỏi: “Cũng chính là năm trăm quan lớn và người có danh vọng đó?”.
Giới Nhật Vương cười: “Làm sao mà có nhiều người xúi bẩy bọn chúng như vậy. Năm trăm người này là những người vốn có địch ý với ta trong các vương quốc. Những kẻ từng phản đối ta, những kẻ từng hãm hại ta, xúi bẩy quốc vương phản bội ta, làm tổn hại lợi ích của ta, nhân cơ hội lần này ta giăng một mẻ bắt gọn bọn chúng”.
Huyền Trang mặc dù không đành lòng, nhưng cũng biết trong trò đấu đá chính trị này, nếu không phải ngươi chết thì là ta chết. Giới Nhật Vương rất cao tay thao túng một màn ám sát, một mẻ bắt gọn toàn bộ những người phản đối trong đế quốc. Mặc dù mưu kế sử dụng không quá vinh quang, nhưng chỉ dùng năm cái đầu người mà bóp chết cuộc nội loạn của đế quốc từ trong trứng nước cũng coi như là một việc thiện lớn. Đồng thời ngài không khỏi khâm phục mưu lược và sự tàn nhẫn của Giới Nhật Vương, vị vương giả kế thừa cơ nghiệp tổ tiên, tuổi thiếu niên khởi binh, trong vòng mười mấy năm đã bình định được Thiên Trúc này quả nhiên không thể xem thường được.
Thấy Huyền Trang im lặng, Giới Nhật Vương cũng bớt hưng phấn: “Đại sư, có một số việc quả thực là bất đắc dĩ, muốn làm thánh nhân, trước phải làm đồ tể. Đây chính là nỗi xót xa của mỗi bậc vương giả”.
“Bần tăng đương nhiên có thể hiếu được”, Huyền Trang gật đầu đồng ý.
“Vậy thì tốt!” Giới Nhật Vương thở phào nhẹ nhõm, vẻ mặt không ngờ lại có chút nặng nề: “Đại sư, hôm nay ta đến nói rõ nội tình với ngài chính là hi vọng đại sư có thế hiểu rõ nỗi khổ tâm của ta. Không đến nước vạn bất đắc dĩ, ta không muốn động đao binh”.
“Bệ hạ nhân từ!”, Huyền Trang thuận miệng đáp. Ngài biết Giới Nhật Vương có lời phải nói, lẳng lặng chờ đợi.
Giới Nhật Vương không ngờ Huyền Trang lại bình tĩnh như thế, không khỏi có chút thất vọng. Đối mặt với tăng nhân này, quyền mưu trí tuệ của ông ta dường như hoàn toàn không thể sử dụng được. Người sừng sững không động, tĩnh tọa như gốc tùng, mặc ngươi là gió nhẹ, gió to hay gió bão đều không thể làm gì được.
Đúng lúc này, ngoài sân vang lên một tiếng cười già nua: “Bệ hạ thấy đệ tử này của lão tăng có hợp nhãn không?”.
Huyền Trang kinh ngạc, vội vàng nhảy xuống giường, chạy như bay ra ngoài sân. Dưới ánh trăng sóng sánh, hai lão tăng mỉm cười nhìn ngài. Một tăng nhân già nua trong đó chính là đại sư Giới Hiền, sư phụ của Huyền Trang, lãnh tụ Phật giáo Đại thừa của Ngũ Thiên Trúc, trụ trì chùa Na Lan Đà, người bên cạnh đại sư Giới Hiền cũng là cao tăng chùa Na Lan Đà, Sư Tử Âm.
Đại sư Giới Hiền năm nay tuy đã một trăm mười ba tuổi, nhưng thân thể xương cốt vẫn khỏe mạnh, tinh thần còn minh mẫn, chỉ có điều mắc chúng thống phong (bệnh gout) nghiêm trọng, hằng ngày đi lại phải ngôi kiệu, vì vậy hơn mười năm nay không rời khỏi chùa Na Lan Đà. Huyền Trang dù thế nào cũng không ngờ sư phụ lại tới thành Khúc Nữ này giữa đêm khuya, tìm tới chỗ mình ở. Trong lòng ngài đột nhiên trĩu xuống, biết tất có việc lớn xảy ra. Huyền Trang tiến lên cung kính thi lễ, hai tay chắp trước ngực, sau đó cúi chào. Đây là lễ thứ tư trong chín lễ, cũng là lễ hằng ngày giữa ngài và đại sư Giới Hiền.
“Sư phụ, tại sao lúc này người lại đến thành Khúc Nữ? Đường đi trắc trở như vậy, sư phụ có thể chịu được không?”, Huyền Trang lo lắng nói.
Lúc này Giới Nhật Vương từ trong nhà đi ra, có chút xấu hổ: “Là ta mời đại sư tới”.
Đại sư Giới Hiền nói: “Mười năm không ra khỏi chùa Na Lan Đà, trên đường đi được ngắm nhìn phong cảnh sông Hằng, tâm cảnh cũng tốt hơn một chút. Trên đường đi, hoàng đế Giới Nhật phái sứ giả sắp xếp chu đáo, ta rất ổn, con không cần lo lắng”.
Hai tịnh nhân[50] khiêng kiệu đưa đại sư Giới Hiền vào trong nhà. Mọi người cùng đi vào theo. Sau đó, hai người kia cáo lui rồi đóng cửa phòng lại.
“Sư phụ, rốt cuộc xảy ra chuyện gì rồi?”, Huyền Trang hỏi: “Tại sao sư phụ cũng rời khỏi Na Lan Đà?’.
Đại sư Giới Hiền thở dài: “Ta rời khỏi Na Lan Đà đương nhiên là tới tìm con. Nửa tháng trước bệ hạ phái sứ giả đến Na Lan Đà, muốn ta phái con đi làm đại sự. Việc này đối với Phật môn có công đức vô lượng, đâu chỉ là bảy tầng tháp. Nhưng ta cũng biết rõ hung hiểm trong đó, phải đến trao đổi với con, nghe xem ý con thế nào mới tính tiếp được”.
Huyền Trang gật đầu: “Đệ tử hiểu rồi. Xin hỏi sư phụ rốt cuộc là chuyện gì?”.
“Mời bệ hạ nói!”, đại sư Giới Hiền nói.
“Được rồi!”, Giới Nhật Vương không vòng vo, liền nói thẳng: “Chuyện này ta bắt đầu trù bị từ mùa đông năm ngoái, chỉ duy nhất một điều là không có người nào có thể gánh vác. Từ sau khi nhìn thấy đại sư, ta đã hiểu rằng chỉ ngài mới có thể giúp được. Có điều việc này quá mức nguy hiểm, vì vậy mới mời đại sư Giới Hiền tới, xin đại sư cân nhắc cho kỹ”.
“Sao?”, Huyền Trang quá mức ngạc nhiên: “Bần tăng chỉ là một tăng nhân, lại có thể san sẻ việc gì giúp bệ hạ?”.
“Ta muốn mời đại sư đi thu phục một quốc gia!”.
[*] [28] Chính là Trung Ấn Độ. Thời cổ đại, Ấn Độ gồm vô số nước nhỏ san sát, chia thành năm khu vực Đông, Tây, Nam, Bắc, Trung. (Chú thích sách gốc)
[*] [29] Ngũ Thiên Trúc cũng gọi Ngũ Ấn Độ. Gọi tắt: Ngũ Thiên, Ngũ Trúc, Ngũ An. Năm khu vực: Đông, Tây, Nam, Bắc, Trung, được gọi chung là Ngũ Thiên Trúc. Theo Đại Đường Tây Vực ký quyến hai, bờ cõi của Ngũ Ấn Độ như sau: Chu vi rộng hơn chín vạn dặm, ba mặt đêù giáp biển, phía Bắc giáp núi Đại Tuyết, về địa hình thì phía bắc rộng, phía nam hẹp, có hình bán nguyệt, gồm hơn bảy mươi nước.
[*] [30] Bà La Môn là danh từ chi một đẳng cấp, một hạng người tại Ấn Độ. Người thuộc đẳng cấp Bà La Môn là các tu sĩ, triết gia, học giả và các vị lãnh đạo tôn giáo. Dân chúng Ấn Độ rất tôn trọng đẳng cấp này.
[*] [31] Đức Can hay Deccan là một cao nguyên lớn tại Ấn Độ và chiếm phần lớn miền nam Ấn Độ. Cao nguyên trái rộng trên tám bang và là một môi trường sống rộng lớn, bao phủ Trung và Nam Ấn Độ. Bản thân từ Đức Can trong tiếng Phạn là dáksiọa có nghĩa là phía nam.
[*] [32] Đế quốc Cấp Đa hay Gupta tồn tại từ năm 320 đến 550 ở phần lớn bắc Ấn Độ, đông nam Pakistan, một phần của tây Ấn Độ và Bangladesh ngày nay.
[*] [33] Thần Indra hay còn gọi là Đế Thích Thiên, vị thần của sấm sét. Là một trong những vị thần tối cao của đạo Hindu (Ấn Độ).
[*] [34] Cưu Ma La hay còn gọi là Kamara, Kamarupa, Assam là một bang nằm ở vùng Đông Bắc Ấn Độ. Tọa lạc ở phía nam của dãy Himalaya. Vị quốc vương Cưu Ma La được nhắc đến ở đây là Bhaskaravarman (600-650).
[*] [35] Theo ghi chép của Huyền Trang, quả thật là tượng Phật bằng vàng. Vì Giới Nhật Vương có thể cõng được nên đoán là tượng gỗ, bên ngoài thếp vàng bạc. (Chú thích sách gốc)
[*] [36] Chế Ác Kiến Luận là luận tập gồm 1.600 đoạn, bác bỏ lập luận chi trích giáo pháp Đại thừa dài 700 đoạn của các tăng sư giáo phái Tiêu thừa, điển hình như Bát Nhã Cúc Đa (Prajnagupta). Cuốn luận này cùng bản Hội tông luận đều được viết bằng tiếng Phạn trong thời gian Huyền Trang ở Ấn Độ, đều bị thất lạc cả bản gốc lẫn bả