Chương 23 Thời khắc hoảng hốt từ biệt quê hương
Thổ Phồn có qua lại rất mật thiết với các quốc gia ở Thiên Trúc, Tưởng Sư Nhân ở lại liên lạc, quốc vương Phệ Xá Lị đích thân hộ tống Vương Huyền Sách lên bắc, đến biên giới Phệ Xá Lị. Từ Phệ Xá Lị đi về phía bắc là đến đất Nê Bà La. Phong tục của Nê Bà La đại thể tương tự như Thiên Trúc, tuy nhiên lúc này lại là phiên thuộc của Thổ Phồn.
Quốc vương Nê Bà La tên là Na Lăng Đề Bà. Mấy năm trước Na Lăng Đề Bà vẫn là vương tử, thúc phụ của ông ta phản loạn, giết phụ thân của ông ta soán vị. Na Lăng Đề Bà trốn đến Thổ Phồn, được Tùng Tán Cán Bố che chở. Sau đó Tùng Tán Cán Bố phái đại quân giúp ông ta dẹp loạn, lập Na Lăng Đề Bà làm quốc vương. Thế là Na Lăng Đề Bà nhận Thổ Phồn làm mẫu quốc của mình, đồng thời gả nữ nhi của mình là công chúa Xích Tôn cho Tùng Tán Cán Bố.
Vương Huyền Sách qua lại giữa Đại Đường và Thiên Trúc nhiều lần, đường đi đều qua Thổ Phồn, Nê Bà La, cũng có quen biết Na Lăng Đề Bà. Sau khi đến vương thành, Na Lăng Đề Bà đích thân nghênh đón, dẫn hắn vào vương cung. Thổ Phồn có một ngàn hai trăm kỵ binh tinh nhuệ đóng quân ở Nê Bà La, đông bản cầm quân tên là Xích Đức Tán, từng cùng với Tùng Tán Cán Bố và Vương Huyền Sách tây chinh, rất kính phục Vương Huyền Sách, lập tức cùng đến vương cung chào đón Vương Huyền Sách.
Vương Huyền Sách kể lại chuyện mình gặp phải ở Thiên Trúc, Na Lăng Đề Bà và Xích Đức Tán đều giận tím mặt, quở trách quốc vương Đế Na Phục.
“Vương thiếu khanh, quốc uy của Đại Đường không thể mất, ngài đã đến mượn quân, Nê Bà La ta sẽ toàn lực tương trợ”, Na Lăng Đề Bà khảng khái: “Quốc gia của ta tuy nhỏ, chỉ có bảy ngàn quân, nhưng toàn bộ đều là chiến sĩ tinh nhuệ. Bản vương giao toàn bộ cho ngài mang đi, đánh tan tên quốc vương giả mạo kia!”.
“Vương thiếu khanh”, Xích Đức Tán cũng tỏ thái độ: “Thổ Phồn ta còn có một ngàn hai trăm binh lính tinh nhuệ đóng quân ở đây, đương nhiên đều cho ngài mượn hết. Nhưng việc này còn phải báo cho tán phổ của ta. Ngài vui lòng chờ mấy ngày, ta phái ngựa tốc hành chạy về La Ta, nội trong sáu bảy ngày sẽ quay lại”.
Vương Huyền Sách cảm ơn rối rít, Xích Đức Tán lập tức phái người chạy về thành La Ta xin chỉ thị của Tùng Tán Cán Bố. Trong thời gian chờ đợi, toàn bộ quân đội Nê Bà La được huy động, bảy ngàn người sẵn sàng ra trận, chuẩn bị lương thảo, chiến mã, khí giới, triệu tập dân phu, phụ binh. Bảy ngày sau, mệnh lệnh của Tùng Tán Cán Bố truyền đến, lệnh Xích Đức Tán thống lĩnh toàn bộ quân đội đi theo Vương Huyền Sách tiêu diệt quốc vương Đế Na Phục. Tùng Tán Cán Bố có chí hướng rất lớn, sớm đã thèm thuồng Thiên Trúc trù phú, Giới Nhật Vương chết cũng coi như mất đi đối thủ lớn nhất, lập tức mật lệnh Xích Đức Tán, vẽ sơ đồ quan ải các nơi ở Thiên Trúc, nắm tình hình mọi mặt, xem sau này Thổ Phồn có thể đánh tới Thiên Trúc hay không.
Hôm sau tổng cộng tám ngàn hai trăm người từng hàng từng hàng xuất phát, từ núi cao tuyết phủ tràn xuống, tiến thẳng đến thành Khúc Nữ. Các vương quốc ven đường đều xem như thành viên của liên minh mười sáu vương quốc, quốc vương Cưu Ma La hạ lệnh, đại quân đến đâu, các thành trì cung cấp lương thảo đến đó, vì vậy Vương Huyền Sách tiến quân rất nhanh chóng, sau mười lăm ngày ngắn ngủi đã đến phía bắc sông Hằng, vòng qua chiến trường hai bên đang giằng co đánh thẳng đến thành Khúc Nữ.
Mới đầu nghe nói Vương Huyền Sách dẫn quân đến, Na Thuận hết sức kinh hãi, nhưng nghe thấy chỉ có hơn tám ngàn người lại lập tức cười to, lệnh cho Chiến Đà điều động năm vạn quân từ tiền tuyến vượt qua sông Hằng dàn quân chặn đánh.
Na Thuận tự mình dẫn năm vạn đại quân, trong đó có ba trăm tượng binh, một vạn kỵ binh, thanh thế rất mạnh. Qua sông Hằng ba mươi dặm, thám báo quay về bẩm tấu, nói Vương Huyền Sách đóng quân cách đó mười dặm, xây dựng hàng phòng ngự, bày trận chờ địch. Na Thuận hạ lệnh đại quân áp tới, Chiến Đà quen thuộc địa hình vùng này, cho rằng không thể liều lĩnh, bởi vì bên trái là gò núi rừng rậm nối nhau, bên phải là khu vực đầm lầy, chỉ có ở giữa là khu vực đông bằng hẹp dài, năm vạn đại quân không thể dàn hàng được. Vương Huyền Sách chọn nơi này làm chiến trường hiển nhiên là để triệt tiêu ưu thế binh lực của bên mình.
Na Thuận không cho là vậy, đây là trận chiến đầu tiên của hắn từ khi lên ngôi. Hắn phải đường đường chính chính đánh bại Vương Huyền Sách, phải làm kinh sợ những kẻ phản loạn Thiên Trúc. Chiến Đà biết quân chủ của mình rất cứng đầu, đồng thời hắn cũng tin chắc phe mình có ưu thế tuyệt đối, cũng không cần phải dùng mưu kế để giành chiến thắng. Chiến Đà hạ lệnh cho bộ binh đi trước, kỵ binh ở hai cánh, tượng binh theo phía sau, sau đó ra lệnh cho một quân đoàn vạn người phát động tấn công, đánh phá hàng phòng ngự của đối phương, mở đường cho kỵ binh tấn công. Sau khi kỵ binh đột nhập trận doanh của địch, làm xáo trộn trận thế sẽ dùng tượng binh càn quét, hoàn toàn đánh tan đội quân của Vương Huyền Sách.
Vương Huyền Sách chọn nơi này làm chiến trường, đương nhiên đã chuẩn bị kỹ càng. Để ngăn chặn đối phương tấn công, hắn dựng lên ba lớp rào sừng hươu, toàn bộ giữ ở thế thủ. Vì vậy đợt tấn công đầu tiên của bộ binh đế quốc liền gặp đòn phủ đầu như bão táp, liên quân trốn sau rào sừng hươu vạn tên cùng bắn, vô số binh lính đang xung phong bị bắn gục, nhưng vẫn còn rất nhiều binh lính tràn đến.
Trường mâu bộ binh dài đến ba bốn trượng, hai bên cách hàng rào sừng hươu bắt đầu chiến đấu quyết liệt, chiến sự ngay từ khi bắt đầu đã thảm khốc vô cùng, trong ngoài hàng rào sừng hươu, hai bên hàng ngàn người phải bỏ mạng, thi thể chất cao gần bằng hàng rào. Sau nhiều lần giằng co, quân đế quốc dựa vào ưu thế đông người, gian nan phá được hàng rào sừng hươu thứ nhất. Vương Huyền Sách hạ lệnh rút quân về sau hàng rào thứ hai.
Nhưng lớp hàng rào thứ hai cũng không thể giữ được bao lâu, quân đế quốc dũng mãnh tiến lên, khó khăn lắm cuối cùng cũng phá được. Các binh sĩ khiêng rào sừng hươu đi, dọn sạch chướng ngại vật cho kỵ binh tiến lên, cùng hò hét lao tới lớp rào cuối cùng như thủy triều. Na Thuận nhìn mà mở cờ trong bụng, nếu không có gì bất trắc, sau nửa canh giờ sẽ có thể phá được lớp hàng rào cuối cùng, đánh vào quân trận của Vương Huyền Sách. Nhưng nguyên soái Chiến Đà lại có một chút bất an, cục diện tiến triển quá mức thuận lợi, binh lực của Vương Huyền Sách rõ ràng ở thế vô cùng yếu, vì sao lại áp dụng thế thủ trên đồng bằng?
Trong hàng rào sừng hươu, Vương Huyền Sách tay chống trường kiếm, lạnh lùng đứng giữa trung quân. Môi một lớp rào sừng hươu, hắn bố trí một ngàn người phòng thủ. Lúc này trung quân chỉ còn lại không quá hai ngàn người, Xích Đức Tán và những người khác không rõ đã đi đâu. Đứng bên cạnh Vương Huyền Sách là nội tướng do quốc vương Nê Bà La phái đến, nội tướng chưa bao giờ trải qua cục diện hiểm ác như thế, kinh hồn bạt vía: “Thiếu khanh, lớp rào sừng hươu thứ ba sắp bị phá vỡ rồi!”.
“Phá thì phá thôi, dựng rào sừng hươu chính là để kẻ thù phá mà!”, Vương Huyền Sách lạnh nhạt nói.
Nội tướng nhăn nhó: “Ngài mạo hiểm như vậy, trên thực tế là đưa chính mình vào chỗ chết. Một khi không nắm chắc được thời cơ hoặc xuất hiện chuyện ngoài ý muốn, chúng ta tất sẽ bị giày xéo thành thịt nát”.
Vương Huyền Sách liếc mắt nhìn hắn: “Tám ngàn người muốn đánh bại năm vạn người, nếu không mạo hiểm làm sao có cơ hội chiến thắng?”.
Đúng lúc này phía hàng rào sừng hươu vang lên tiếng hò hét và hoan hô, lớp rào sừng hươu thứ ba đã lung lay sắp đổ.
Nội tướng nhắm mắt lại, sắc mặt tái nhợt, hắn biết sau phút chốc sẽ phải đối mặt với đợt tấn công sấm sét của kỵ binh đối phương.
Còn trong quân trận đối diện, Na Thuận cũng hưng phấn nắm tay: “Hàng rào sắp bị phá rồi, người đâu, kỵ binh tấn công!”.
Nguyên soái Chiến Đà định nói gì đó nhưng lại ngậm miệng. Hắn chỉ cảm thấy kỳ lạ, Vương Huyền Sách hùng hổ mà đến, chẳng lẽ mình chỉ dùng một vạn quân tiên phong đã hoàn toàn đánh tan rồi? Làm sao có thể như vậy?
Nhưng kỵ binh tấn công là sách lược đã định, hắn cũng không phản đối.
Một vạn kỵ binh từ hai cánh xuất phát, chậm rãi tăng tốc, sau mấy chục bước liền bắt đầu bứt tốc, tạo thành hai cơn lốc ầm ầm quét về phía quân trận của kẻ thù. Tuy nhiên đúng lúc kỵ binh vừa tăng tốc chạy được một đoạn, đột nhiên từ rừng rậm đồi núi bên trái vang lên tiếng vó ngựa nặng nề, một dòng nước lũ màu đen từ đồi núi tràn tới, chính là quân tinh nhuệ Thổ Phồn và một bộ phận kỵ binh Nê Bà La biến mất đã lâu, dẫn đầu là Xích Đức Tán và Tưởng Sư Nhân!
Thì ra kỵ binh do Xích Đức Tán thống lĩnh sớm đã mai phục trong rừng rậm trên đồi núi, Vương Huyền Sách chịu hi sinh lớn như thế chính là để điều kỵ binh từ hai cánh của Na Thuận đi, sau khi làm cho hai cánh hở ra mới cho kỵ binh của Xích Đức Tán đột kích, tiến hành đánh vào sườn. Vì thế Vương Huyền Sách không tiếc lấy bản thân làm mồi nhử, đưa chính mình vào chỗ chết, chính là để đổi lấy thời cơ chiến đấu trong chớp mắt này.
Na Thuận và Chiến Đà hoàn toàn không ngờ được kỵ binh đối phương lại đánh vào sườn mình vào thời khắc mấu chốt này. Trong hỗn loạn, Xích Đức Tán và Tưởng Sư Nhân dẫn thiết kỵ giống như một lưỡi đao đâm vào quân trận. Kỵ binh với sức công phá mạnh mẽ nhanh chóng lao thẳng vào quân trận bộ binh, chưa cân vung đao đã khiến toàn bộ trận hình trở nên hỗn loạn.
“Ổn định lại!”. Chiến Đà lớn tiếng hạ lệnh: “Đội binh trường thương tập trung xếp trận, ngăn chặn tốc độ của đối phương!”.
Chiến Đà là một tướng tài, trong tình hình hỗn loạn như thế vẫn cố gắng khống chế được quân đội, đội binh trường thương khẩn cấp tập trung xếp trận, tạo thành một rừng trường thương rậm rạp để ngăn chặn tốc độ của Xích Đức Tán. Tuy nhiên Chiến Đà vừa tập hợp trường thương binh xong, sắc mặt lập tức tái nhợt, thì ra ý đồ của Xích Đức Tán và Tưởng Sư Nhân căn bản không phải đánh tan bộ binh. Ba ngàn kỵ binh đều giương cung đặt tên, bắn ra một loạt mũi tên lửa về phía đàn voi chiến của hắn!
Sau khi kỵ binh của Xích Đức Tán bắn tên lửa, tình thế đột nhiên thay đổi. Voi chiến to lớn như vậy, kỵ binh tinh nhuệ Thổ Phồn cho dù nhắm mắt lại mà bắn cũng không thể bắn trượt. Lẽ ra voi chiến da rất dày, cho dù trúng mấy mũi tên cũng không có hề hấn gì, nhưng trên những mũi tên lửa này lại có rất nhiều dầu hỏa, một khi bám vào da voi sẽ bốc cháy rừng rực, muốn dập cũng không dập được. Trên lưng ngựa của những kỵ binh này còn có rất nhiều bình sứ, bên trong đựng đầy dầu hỏa, sau khi châm lửa vừa phi ngựa vừa ném vào đàn voi chiến, voi chiến lập tức bốc cháy. Binh lính trên lưng voi bị lửa đốt, kêu thảm thiết nhảy xuống khỏi đó, còn voi chiến bị lửa đốt ngẩng đầu kêu ầm ĩ, chạy lung tung khắp nơi.
Ba trăm con voi chiến lập tức hỗn loạn, chạy như điên khắp nơi, lao thẳng vào quân trận vỡ tan, vô sô binh lính chết thảm dưới chân voi.
Đến lúc này quân trận của Na Thuận đã hoàn toàn sụp đổ, Xích Đức Tán nắm lấy cơ hội, cùng Tưởng Sư Nhân chia nhau dẫn kỵ binh tung hoành ngang dọc, đánh thẳng vào trung quân của Na Thuận, phòng ngự của bộ binh trên đường bị đánh tan, hoàn toàn không thể ngăn cản được ba ngàn thiết kỵ ầm ầm lao tới.
Na Thuận sớm đã kinh hoàng, sắc mặt trắng bệch. Dù thế nào hắn cũng không thể ngờ được, cục diện vừa rồi vẫn còn tốt đẹp, tại sao chỉ sau một chớp mắt đã thành ra thế này? Nhìn ba ngàn kỵ binh lao thẳng tới nơi, bốn vạn đại quân của mình lại sụp đổ, nguyên soái Chiến Đà biết cục diện đã khó mà cứu vãn, lập tức nói: “Bệ hạ, rút thôi!”.
“Ta tuyệt đối sẽ không rút lui!”, Na Thuận điên cuồng hét lên: “Chẳng lẽ chịu thất bại như vậy sao?”.
“Không được coi là thất bại”, Chiến Đà nói: “Chỉ cần chủ lực của đối phương bị tiên phong của chúng ta kiềm chế thì sẽ không tính là thất bại. Ba ngàn kỵ binh này cũng chỉ có tác dụng nhất thời. Lúc này phải bảo đảm an toàn cho bệ hạ”.
Trong lúc đang tranh cãi, Tưởng Sư Nhân đã giết vào tới trung quân, thân vệ của Na Thuận lũ lượt bị đánh tan. Thấy đối phương cuồn cuộn lao tới, Na Thuận vô cùng uất ức nhưng không thể không lui binh. Tưởng Sư Nhân sai người chém đổ vương kỳ, hô to: “Quốc vương Đế Na Phục chết rồi!”.
Ba ngàn người cùng hô lên, âm thanh vang vọng khắp nơi. Quân đội đế quốc vốn đã chống đỡ một cách khó khăn, vừa thấy vương kỳ bị chém đổ, lập tức sụp đổ ý chí, toàn quân hoàn toàn tan rã.
Vương Huyền Sách phía trước đang rơi vào cảnh khốn cùng vẫn nhìn chằm chằm vào trung quân của Na Thuận, vừa thấy vương kỳ đổ xuống, hắn lập tức mừng rõ, truyền lệnh cho tất cả mọi người cùng nhau hô lên: “Quốc vương Đế Na Phục chết rồi!”.
Bộ binh và kỵ binh đang tấn công Vương Huyền Sách vừa nghe thấy quốc vương Đế Na Phục đã chết đều kinh hãi, có một số người quay lại nhìn, phát hiện chẳng những vương kỳ của quân mình đã đổ mà cả trung quân cũng đã sụp đổ, lập tức lòng quân hoảng loạn. Vương Huyền Sách ra lệnh: “Tất cả mọi người lên ngựa, xông về phía trước! Chỉ cần vẫn còn một hơi thở, cứ tiếp tục xông về phía trước! Không được nhìn sang hai bên, không được nhìn lại phía sau, chỉ cần phía trước có đường, chỉ cần phía trước có kẻ thù, cứ liều mạng xông về phía trước!”.
Lúc này Vương Huyền Sách chỉ còn lại ba ngàn người, đồng loạt lên ngựa hò hét xông ra. Lúc này kỵ binh của quân đội đế quốc đang xung phong lao tới, hai bên ầm ầm va chạm như hai làn sóng lao thẳng vào nhau, vô số người ngã văng xuống ngựa. Nhưng tất cả binh lính của Vương Huyền Sách đều tuân theo mệnh lệnh: Xông về phía trước!
Bọn họ lao qua kỵ binh đế quốc đang xung phong, lại xông qua bộ binh đế quốc chạy phía sau, bọn họ xuyên qua khu vực trống không giữa chiến trường, mang quyết tâm chỉ tiến không lùi xông thẳng vào trong đại quân của Na Thuận. Quân đoàn bộ binh của Na Thuận bị voi chiến phát điên và kỵ binh của Xích Đức Tán tấn công làm cho hỗn loạn, lúc này lại gặp phải quân đội của Vương Huyền Sách từ trước mặt lao thẳng tới, lập tức hoàn toàn sụp đổ. Bộ binh đế quốc như bốn vạn con ruồi không có đầu chạy lung tung khắp nơi, vô số người bị truy đuổi tới đầm lầy, vô số người bị giẫm đạp mà chết, đại bộ phận thì tan tác chạy về phía sau với Na Thuận.
Cả cục diện vô cùng kỳ lạ, Na Thuận dẫn tàn binh chạy phía trước, Vương Huyền Sách và Xích Đức Tán dẫn kỵ binh đuổi theo phía sau, nguyên đội kỵ binh của Na Thuận thì đuổi theo sau cùng. Na Thuận và Chiến Đà nhìn thấy rất rõ, lúc này chỉ cần mình có thể quay lại ngăn cản, Vương Huyền Sách sẽ gặp phải tình cảnh trước sau giáp kích, chiến cuộc có thế hoàn toàn thay đổi.
Nhưng mọi chuyện đâu có dễ dàng như vậy, quân đội một khi sụp đổ sẽ biến thành vô số hạt cát rời rạc. Ba bốn vạn người tán loạn chạy trốn, ai dám dừng lại vì sợ sẽ gặp họa bị vạn người giẫm đạp. Na Thuận và Chiến Đà rất không cam lòng nhưng vẫn bị bại binh cuốn theo khiến việc trốn chạy cũng chật vật hơn rất nhiều. Vương Huyền Sách và Xích Đức Tán rất giỏi sử dụng kỵ binh, đặc biệt là khi quân địch đã bị đánh tan, tác dụng tốt nhất của kỵ binh không phải kích sát mà là truy đuổi. Phần lớn kỵ binh không nhanh không chậm bám theo bại binh, không cho bọn chúng nghỉ ngơi, không cho bọn chúng dừng lại, một khi có người dừng lại lập tức chém chết. Còn một bộ phận nhỏ kỵ binh thì xâm nhập vào đám bại binh, đao chém tên bắn, gây ra hoảng loạn, làm cho bọn chúng phải tiếp tục duy trì trạng thái tan rã. Nếu nói ba bốn vạn tàn quân là một chiếc chiếu thì Vương Huyền Sách chính là người cuốn chiếu. Việc hắn cần làm là nhấc lên một góc chiếu, cuốn chiếc chiếu này lại, quét sạch quân địch.
Kỵ binh đế quốc theo sát phía sau thấy tình hình này biết là đại thế đã mất, không lòng dạ nào tiếp tục đuổi theo nữa, tán loạn bỏ chạy khắp nơi. Vương Huyền Sách không còn nỗi lo phía sau, khẩn trương đuổi giết.
Cảnh tượng bốn vạn đại quân sụp đổ giống như trời long đất lở, bị kẻ thù giết chết, giẫm đạp lẫn nhau mà chết, một số tên không tìm được phương hướng chạy thẳng vào đầm lầy, bị đầm lầy nuốt chửng mà chết. Ba mươi dặm đường mới chạy được một nửa, bốn vạn đại quân cũng chỉ còn một nửa, trên đường chạy trốn, không ít người còn bị mệt chết, ngay cả Chiến Đà cũng chết trong loạn quân.
Chạy hết ba mươi dặm đường, đám tàn quân càng cảm thấy trong lòng lạnh buốt. Phía trước là sông Hằng mênh mông. Trên sông Hằng vốn có thuyền, tuy nhiên mấy vạn người chen lấn bên sông Hằng, trong chốc lát có thể qua sông được mấy người? Tàn quân điên cuồng chen nhau lên thuyền, kỵ binh của Vương Huyền Sách tràn tới, xua đuổi tàn quân xuống sông, trên sông Hằng phút chốc xuất hiện từng mảng xác chết trôi.
Thân binh của Na Thuận bảo vệ hắn lên thuyền, nhưng lúc này tàn binh mặc kệ hắn có phải quốc vương hay không, chỉ biết chen lấn, vô số tàn binh tràn lên thuyền. Na Thuận còn chưa lên thuyền đã thấy thân thuyền ngả sang một bên, sau đó lật nghiêng, chìm xuống dưới nước. Vô số tàn binh rơi xuống nước, cùng kêu lên thảm thiết. Cả sông Hằng toàn là binh lính bị nước cuốn trôi, vô cùng thê thảm.
Na Thuận ngơ ngẩn nhìn mặt sông, phía sau có truy binh, phía trước không có thuyền sang sông. Hắn đột nhiên điên cuồng cười to, cười ngặt nghẽo, nước mắt giàn giụa. Sau đó hắn quỳ rạp xuống bờ sông, khóc nức nở.
Phía sau đột nhiên yên tĩnh. Na Thuận lau nước mắt, quay người lại nhìn, thấy phía sau không còn cấm vệ của mình mà là vô số kỵ binh ngoại quốc áp tới, tạo thành một hình bán nguyệt dọc theo bờ sông bao vây hắn lại. Trong đội kỵ binh, Vương Huyền Sách thúc ngựa đi lên, im lặng nhìn hắn.
Na Thuận rút trường kiếm ném ra, cắm xuống mặt đất giữa hai người.
“Nếu muốn giết ta báo thù, ta sẽ cho ngươi cái đầu của mình”, Na Thuận bình thản nói: “Không thể đợi nàng trên nhân gian, ta sẽ vào trong luân hồi tìm nàng. Ta đã chán ghét nhân gian này đến cùng cực rồi!”.
°°°
Năm Trinh Quán thứ hai mươi, Vương Huyền Sách mượn tám ngàn hai trăm quân của Thổ Phồn và Nê Bà La, đại phá năm vạn đại quân của quốc vương Đế Na Phục, bắt sống quốc vương Đế Na Phục, cả Thiên Trúc đều khiếp sợ.
Sau khi bắt được Na Thuận, Vương Huyền Sách vượt qua sông Hằng, tiến thẳng đến ngoài thành Khúc Nữ. Lực lượng canh phòng thành Khúc Nữ đã bị tiêu diệt gần hết, nghe nói quốc vương bị bắt liền mở cửa thành đầu hàng. Vương Huyền Sách tiến vào thành Khúc Nữ, ngay lập tức cả Thiên Trúc chấn động. Quân đội đế quốc vốn đang giằng co với quốc vương Cưu Ma La lập tức đầu hàng. Liên quân mười sáu quốc gia do quốc vương Cưu Ma La dẫn đầu tiến vào thành Khúc Nữ tiếp quản.
Chư vị vương hầu vô cùng cảm kích Vương Huyền Sách, đồng thời lại có chút sợ hãi. Binh mã Thổ Phồn và Nê Bà La vẫn đóng quân trong thành Khúc Nữ làm bọn họ đứng ngồi không yên. Bèn tìm Vương Huyền Sách thương lượng, sẵn sàng tặng ba vạn trâu ngựa, cùng với đao cung vàng ngọc khao quân. Trận chiến này Thổ Phồn thiệt hại năm trăm người, Nê Bà La tổn thất hơn hai ngàn người, có thể nói là hi sinh to lớn, Vương Huyền Sách không hề khách khí, nhận lấy trâu ngựa bảo vật, chia một nửa cho Xích Đức Tán và nội tướng Nê Bà La, hai người đều rất mừng rỡ. Trước kia bọn họ đánh trận trên cao nguyên giá rét, dù có hi sinh cả vạn người cũng không nhận được báo đáp hậu đãi như vậy, cảm thấy Thiên Trúc này quả thật trù phú. Xích Đức Tán vui vẻ nói với Vương Huyền Sách: “Vương thiếu khanh, sau khi trở về ta sẽ khuyên bảo tán phổ phát binh Thiên Trúc”.
Vương Huyền Sách sững sờ một lát, sau đó mới biết Tùng Tán Cán Bố lại có ý đồ đánh chiếm về phía nam.
“Đông bản, ngươi nói cho ta biết, lần này tác chiến các ngươi chết trận bao nhiêu người?”, Vương Huyền Sách trầm ngâm một lát, hỏi.
Xích Đức Tán suy nghĩ một lát: “Ta mang đến một ngàn hai trăm người, bây giờ còn lại bảy trăm người. Chết trận sa trường hơn hai trăm người”.
“Vậy những chiến sĩ khác sao lại chết?”, Vương Huyền Sách hỏi.
Xích Đức Tán ảo não: “Khí hậu Thiên Trúc quá mức nóng bức, mới từ trên núi tuyết xuống liền có hơn trăm người cảm nắng. Sau đó uống nước sông ở Thiên Trúc lại có hơn trăm người mắc dịch bệnh. Cho tới bây giờ không ngờ đã có hơn hai trăm người chết vì không hợp thủy thổ. May mà bọn ta không ở lại lâu, nếu không đám anh hùng núi tuyết đánh đâu thắng đó của ta e rằng không còn mấy người có thể sống sót trở về”.
“Nếu như tán phổ dẫn đại quân từ núi tuyết xuống chinh chiến, bất kể chiến tranh thắng bại thế nào, ngươi cho rằng có mấy người có thể trở về?”, Vương Huyền Sách hỏi.
Xích Đức Tán trợn tròn mắt, những suy nghĩ kỹ càng lại không nhịn được rùng mình một cái. Khí hậu Thiên Trúc và Thổ Phồn hoàn toàn là hai cực trái ngược, những chiến sĩ cao nguyên này của mình một khi tới đại lục Thiên Trúc mùa mưa kéo dài, nóng bức ẩm ướt này, sợ rằng thật sự sẽ phải chôn xương nơi dị quốc. Vừa rồi Xích Đức Tán bị tiền tài làm đầu óc mê muội, lúc này được Vương Huyền Sách nhắc nhở mới tỉnh táo lại.
Hắn thầm kêu may mắn, nếu không mình về nói với tán phổ, tán phổ dẫn đại quân tiến vào Thiên Trúc, chỉ sợ mình sẽ trở thành tội nhân của Thổ Phồn!
Sau khi trở về quả thật Xích Đức Tán báo cáo rõ mọi chuyện. Tùng Tán Cán Bố như bị dội nước lạnh lên đầu, lập tức không còn có lòng tơ tưởng kéo binh về nam tranh hùng. Đến cuối đời Tùng Tán Cán Bố, người Thổ Phồn vẫn không về nam mà chỉ lên bắc và tây tiến, cùng Đại Đường và Đột Quyết tranh bá Tây Vực.
Sau khi trấn an xong binh lính Thổ Phồn và Nê Bà La, Vương Huyền Sách đưa ra một điều kiện với đám quốc vương Cưu Ma La, Na Thuận tự ý giết sứ giả Đại Đường, tội không thể tha, chính mình đã diệt quốc gia của hắn, phải áp giải thành viên hoàng thất trở lại Đại Đường giao nộp tù binh bù đắp sai lầm. Đám quốc vương Cưu Ma La đang muốn phân chia lại đế quốc, đương nhiên chỉ mong Vương Huyền Sách dẫn hết hoàng thất và quý tộc của đế quốc đi, lập tức đồng ý. Các quốc vương khác cũng đều có tư lợi, ngang nhiên lùng khắp thành Khúc Nữ, bắt hết toàn bộ quý tộc và quan chức từng phản đối liên minh mười sáu vương quốc, giao cho Vương Huyền Sách làm tù binh để hắn dẫn về Đại Đường.
Cuối cùng Vương Huyền Sách nghe nói bắt được quá nhiều người, đi tới quân doanh tạm giam tù binh xem xét, lập tức kinh ngạc, già trẻ nam nữ đông nghịt một vùng, đếm sơ qua không ngờ lên tới một vạn hai ngàn người!
“Gì thế này…”, Vương Huyền Sách khó tin: “Đây đều là tàn dư của Na Thuận? Sao lại nhiều như vậy?”.
Quốc vương Cưu Ma La cười, nói: “Không nhiều, những kẻ này mới chỉ là đầu sỏ trong đám tàn dư của Na Thuận mà thôi”.
Sợ Vương Huyền Sách không nhận, ông ta ghé vào bên tai Vương Huyền Sách nói nhỏ: “Thiếu khanh đánh một trận diệt quốc, dâng tù binh chuộc lỗi, đây là chuyện huy hoàng và long trọng cỡ nào? Nếu chỉ dẫn đi dăm ba trăm người, há không làm hỏng uy danh của Đại Đường? Ha ha, thiếu khanh hiểu mà”.
Vương Huyền Sách chấn động trong lòng, đúng vậy, đây là công diệt quốc! Hơn nữa không giống đám Lý lĩnh, Lý Tích, Hầu Quân Tập, chính mình phải đơn thương độc mã đi đến đất khách quê người, mượn quân đội quốc gia khác tiêu diệt một cường quốc đương thời.
Về quy mô mà nói, đế quốc Giới Nhật này cũng không kém hai đại quốc Đông - Tây Đột Quyết là bao, mà tiêu diệt một Đông Đột Quyết, hai đời phụ tử Đại Đường tích lũy quốc lực, hao phí hơn mười năm mới làm được. Còn mình chỉ mượn hơn tám ngàn người, một trận chiến diệt quốc! Mặc dù trong đó có rất nhiều cơ duyên trùng hợp, quân đội đế quốc có hơn phân nửa bị liên minh mười sáu quốc gia ngăn chặn, Na Thuận sau khi lên ngôi không có căn cơ, không được ủng hộ, nhưng dù sao đây cũng là đại công diệt quốc thật sự. Vừa nghĩ đến điều này, trong lòng Vương Huyền Sách lập tức như có lửa cháy, quyết định ngầm chấp nhận đoàn tù binh một vạn hai ngàn người này.
Ba ngày sau, Vương Huyền Sách dẫn quân đội Thổ Phồn, Nê Bà La, áp tải đoàn tù binh khổng lồ bắt đầu lên đường về Đại Đường. Sau khi bị bắt, Na Thuận bị giam cầm đơn độc trong hoàng cung, sau khi đoàn tù binh tụ tập ngoài cửa hoàng cung, Vương Huyền Sách đi vào hoàng cung áp giải Na Thuận ra ngoài.
Nhìn Na Thuận quả thật là dáng vẻ của một vị vua vong quốc, hắn xõa tóc, đi chân đất, mặc áo xô, bế con của mình, cô đơn từ trong hoàng cung đi ra. Cửa cung chật hẹp mà cao ngất làm nền cho bóng dáng cô đơn cùng vô hạn bể dâu.
Sau khi đi ra cửa cung, Na Thuận im lặng nhìn tường hoàng cung, nơi đó dường như vẫn còn một vũng máu ánh vào mắt Na Thuận. Hắn lặng lẽ rơi nước mắt, cúi đầu thì thầm: “Nhi tử của ta, đây là chỗ mẫu thân con đã chết, phụ tử hai ta lại phải đi rồi! Đi đến nơi xa vạn dặm, kiếp này cũng không biết chúng ta còn có thế gặp lại mẫu thân con hay không”.
Dứt lời, Na Thuận giao hài tử cho một cung nhân bên cạnh, đi tới chỗ Liên Hoa Dạ chết, quỳ xuống đất, sau đó nằm úp xuống, toàn thân dán sát mặt đất, hai cánh tay dang ra. Mọi người im lặng nhìn, đây là nghi lễ cao nhất của Thiên Trúc, ngũ thể đầu địa. Hắn đang sám hối với Liên Hoa Dạ.
Na Thuận khóc nức nở, nước mắt chảy xuống đất, lan ra thành vệt nước. Đêm hôm đó, máu của Liên Hoa Dạ cũng chảy xuống mặt đất như vậy, loang lổ một khoảng. Bây giờ Na Thuận lại để nước mắt của mình chảy xuống nơi đây.
Vương Huyền Sách kéo hắn lên: “Người chết không thế sống lại được, đi thôi!”.
Na Thuận đứng lên, lau khô nước mắt, lẩm bẩm nói: “Đại Đường cũng có tường hoàng cung và luân hồi chứ?”.
Vương Huyền Sách không biết nên trả lời thế nào, Na Thuận nhìn hắn cầu khẩn, Vương Huyền Sách đành phải thở dài một tiếng: “Đại Đường cũng nằm trong thế giới sa bà, sao lại không có luân hồi. Na Thuận, tường hoàng cung Đại Đường huy hoàng cao lớn, hơn thành Khúc Nữ cả trăm lần. Đô thành Trường An của Đại Đường dân số trăm vạn, người người chen vai sát cánh, có lẽ rất nhiều năm sau, tại khu Tây Thị trong Trường An, ngươi tình cờ quay đầu lại, bỗng nhìn thấy một nữ nhân xinh đẹp như hoa sen nở rộ, thướt tha đi về phía ngươi…”.
Na Thuận khóc nức nở.
Đại quân áp giải tù binh rời khỏi hoàng cung, đi trên phố hẹp trong thành Khúc Nữ, vừa đến cổng thành đột nhiên phía trước có tiếng ồn ào, không ít binh lính kêu lên sợ hãi. Vương Huyền Sách và đám quốc vương Cưu Ma La vội vàng đi tới, chỉ thấy một lão giả râu dài tóc ngắn chậm rãi bước đi tới trước mặt. Binh lính xung quanh tiến lên ngăn cản, lão giả đó lại không thèm để ý, đưa tay nhặt một đóa hoa bắn ra, phất ống tay áo một cái, binh lính xung quanh giống như trúng ma chú, tới tấp ngã xuống, hôn mê bất tỉnh.
Các chiến sĩ Thổ Phồn bên cạnh giận tím mặt, mười mấy người giương cung đặt tên, lũ lượt bắn tới. Lão giả đó xòe bàn tay ra, khẽ chụp một cái, mười mấy mũi tên không ngờ lại lơ lửng giữa không trung, đứng yên không động!
Những người xung quanh nhìn mà xôn xao. Lão giả đó mở miệng hô một tiếng: “Nổ!”.
Những mũi tên đang lơ lửng giữa không trung đột nhiên nổ tung, hóa thành khói xanh biến mất. Binh lính xung quanh sợ líu lưỡi, ngây ngốc nhìn người này, không dám ngăn cản nữa. Lão giả chắp tay, lặng lẽ cúi đầu, ung dung mà đi.
Lúc này đám Vương Huyền Sách đã chạy ra, vừa nhìn thấy liền kinh hãi, không ngờ lại là Sa Bà Mị!
Mấy ngày nay hắn quá bận rộn, không ngờ lại quên mất lão phạm nhân quan trọng bị nhốt trong ngục bảy tầng này!
“Sa Bà Mị!” Vương Huyền Sách hét lớn: “Ta không đến ngục bảy tầng tìm ngươi, không ngờ ngươi lại tự chui đâu vào rọ!”.
Sa Bà Mị vẻ mặt bi thương, sắc mặt xám ngoét, dường như chỉ một ngày đã già đi hàng chục tuổi. Ông ta nhìn đám tù binh đông nghịt, lẩm bẩm nói: “Đế quốc huy hoàng lại thành ra nông nỗi này! Chẳng lẽ là lão hòa thượng đã sai rồi sao?”.
Vương Huyền Sách rút trường kiếm ra chĩa vào cổ ông ta, lạnh lùng nói: “Nói, ngươi trù tính hàng chục năm, âm thầm khống chế đế quốc Giới Nhật, rốt cuộc muốn làm gì?”.
“Bây giờ nói ra còn có ý nghĩa sao?” Sa Bà Mị đột nhiên rơi lệ, nửa như khóc nửa như đang cười: “Ba mươi năm khổ tâm tính toán, có được một đế quốc lớn nhất trên đời, lại tan biến một cách hoang đường như thế. Lão hòa thượng là tội nhân thiên cổ, dù trăm kiếp phải xuống địa ngục cũng không chuộc được tội”.
Vương Huyền Sách cau mày: “Sa Bà Mị, ngươi rốt cuộc muốn làm gì?”.
Sa Bà Mị thần sắc nghiêm túc, chắp tay cúi chào: “Lão hòa thượng đến đây đế nộp mình thú tội”.
“Nộp mình thú tội?”, Vương Huyền Sách kinh ngạc.
“Từ duyên pháp mà nói, lão hòa thượng mới là đầu sỏ thật sự”, Sa Bà Mị thản nhiên nói: “Ngươi đã phải mang tù binh về Đại Đường dâng cho hoàng đế, trong số tù binh này làm sao có thể thiếu lão hòa thượng được? Cho nên lão hòa thượng tự mình xin được trói lại, làm một tù binh vong quốc”.
Vương Huyền Sách nhìn ông ta, gật đầu: “Cho dù ngươi không nói, trong đám tù binh chuộc tội này cũng không thể thiếu ngươi. Người đâu, trói lại!”.
Binh lính Thổ Phồn như sói như hổ xông tới trói gô Sa Bà Mị lại. Sa Bà Mị vẻ mặt bình tĩnh, lặng lẽ đi theo binh lính Thổ Phồn, hòa vào trong đám tù binh. Không biết đi được bao lâu, ông ta đột nhiên quay lại, nhìn Vương Huyền Sách đang ở xa xa, nhỏ giọng cười khẽ: “Hoàng đế Đại Đường, lão hòa thượng biết luyện thuốc trường sinh, nhất định có thể giúp ngài vạn thọ vô cương!”.