Phụ lục A LA NA THUẬN
A La Na Thuận không phải là nhân vật hư cấu, chỉ có điều trong chính sử hiếm nhắc đến, tư liệu cũng đặc biệt ít. Chủ yếu xuất hiện trong các sự kiện liên quan ở phần giới thiệu về Thiên Trúc trong “Tân Cựu Đường thư”.
“Cựu Đường thư - Tây Nhung[183] - Thiên Trúc”:
Năm Trinh Quán thứ mười, sa môn[184] Huyền Trang tới nơi này, mang hơn sáu trăm bộ kinh luận tiếng Phạn về. Đầu tiên là phái trưởng sử hữu suất phủ Vương Huyền Sách đi sứ Thiên Trúc, bốn quốc vương Thiên Trúc đều phái sứ triều công. Quốc vương Trung Thiên Trúc là Thi La Dật Đa (Siláditya) chết, nội quốc xảy ra đại loạn, than tử là Phục Đế - A La Na Thuận soán lập, phát binh chống cự Huyền Sách. Huyền Sách cùng ba mươi kỵ binh chiến đấu với địch, không địch lại, hêĩ tên, toàn bộ bị bắt, cống vật đều bị cướp. Huyền Sách dũng cảm đào thoát trong đêm, đi đến Thố Phồn, phát động một ngàn hai trăm người tinh nhuệ và hơn bảy ngàn kỵ binh của vương quốc Nê Bà La cho Huyền Sách. Huyền Sách và phó sứ Tưởng Sư Nhân dẫn quân hai vương quốc này đến đánh Trung Thiên Trúc, sau ba ngày liên phá thành, chém đầu hơn ba ngàn, dẫn nước chết chìm vạn người, A La Na Thuận bỏ thành mà trốn, Tưởng Sư Nhân bắt được. Bắt làm tù binh cùng một vạn hai ngàn nam nữ, bò ngựa hơn ba vạn con.
Thế là Thiên Trúc chấn động, áp giải A La Na Thuận về.
Năm hai mươi hai về tới kinh thành, Thái Tông vui mừng, lệnh quan lại cáo tông miếu, nói với quan thần: “Một đám người suốt ngày chỉ biết nghe ca ngắm múa, miệng mồm mở ra chỉ toàn lời xúc xiểm xấu xa, ấy chính là nguyên nhân dẫn đến suy đồi đạo đức. Nếu Bà La Môn không trở mặt đánh cướp của sứ giả ta, thì cớ gì lại bị bắt làm tù binh như thế được đây? Xưa Trung Sơn có thói xấu là tham lam tài bảo, đến Thục hậu cũng vì tham trâu đá đẻ vàng[185] mà dẫn đến họa diệt quốc, mọi sự đều có căn nguyên gốc rễ mà thành cả.”
“Tân Đường thư” ghi lại cơ bản tương tự “Cựu Đường thư”, có điều quá trình khúc chiết cặn kẽ hơn. Nhưng ghi chép về A La Na Thuận, tài liệu sử sách còn thiếu sót. Có người nói hắn là tể tướng của đế quốc Giới Nhật, có người nói hắn là quyền thần, một số sử liệu phương Tây khẳng định hoàn toàn không biết lai lịch người này thế nào. Lịch sử của Ấn Độ nằm trong các kinh điển tôn giáo, một khi người này không có quan hệ gì với tôn giáo thì rất khó lưu truyền tới nay. Nhưng A La Na Thuận lên ngôi bằng cách soán vị thì không có để phải nghi ngờ. Qua việc khi Vương Huyền Sách mượn binh tấn công thành Khúc Nữ, gần như không có quốc vương nào trợ giúp A La Na Thuận, có thể thấy hắn rất không được lòng người khác.
Căn cứ chế độ Tát Mông Tháp của đế quốc Giới Nhật, A La Na Thuận chỉ khống chế được khu vực xung quanh thành Khúc Nữ, thậm chí Vương Huyền Sách cầm tù hơn mười ngàn người, bắt ba mươi ngàn bò dê trở về Đại Đường, các quốc vương xung quanh cũng không hề ngăn cản, chỉ sợ là các quốc gia ấy cũng vui mừng khi thấy nó diệt vong. Sau đó quốc vương Cưu Ma La giao hảo với Đại Đường, Vương Huyền Sách một lần nữa đi sứ Thiên Trúc, cho thấy giữa Vương Huyền Sách và đám người quốc vương Cưu Ma La tồn tại không ít quan hệ hợp tác. Đương nhiên những điều này chắc chắn không được ghi lại trong sách sử. “Trung Thiên Trúc hành ký” do Vương Huyền Sách viết đã bị thất lạc từ lâu, người viết đành phải cố gắng khôi phục lại như cũ trong tiểu thuyết.
Còn A La Na Thuận trong quyển sách này đến từ một chuyện rất thú vị được Huyền Trang ghi chép trong “Đại Đường - Đại Từ Ân tự - Tam Tạng đại sư truyện”.
Một ngày nọ, đại sư Giới Hiền đích thân giảng cho Huyền Trang “Du Già sư địa luận”, nghe giảng có hàng ngàn người. Lúc đang giảng, một vị Bà La Môn dự thính lúc thì khóc lóc, lúc thì cười to. Đại sư Giới Hiền mới hỏi, thì ra người này là người Đông Thiên Trúc, từng có một nguyện vọng rất kỳ dị trước mặt Quan Thế Âm Bồ Tát, hi vọng trở thành một quốc vương. Nguyện vọng này ngay cả Quan Thế Âm Bồ Tát cũng không chịu nổi, lập tức hiện thân quát hắn không nên có ý nghĩ như vậy. Bồ Tát nói, hôm nay đại sư Giới Hiền giảng “Du Già sư địa luận”, ngươi đi nghe giảng, được nghe Phật pháp sẽ có thể thấy Phật, cần gì làm vua?
Sau đó chuyện càng thú vị hơn, không biết vì sao đại sư Giới Hiền lại đưa người Bà La Môn này đến chỗ Giới Nhật Vương, nguyên nhân cụ thể Huyền Trang không nói, có khả năng đại sư Giới Hiền cho rằng đây là người được Quan Thế Âm Bồ Tát điểm hóa, cần thành toàn cho hắn được phú quý. Có lẽ Giới Nhật Vương còn kinh ngạc hơn cả các độc giả chúng ta, nhưng với địa vị của đại sư Giới Hiền, Giới Nhật Vương cũng không thế cho qua chuyện được, đành ban tặng cho hắn ba thôn trang. Theo chế độ Tát Mông Tháp, ba thôn trang này chính là đất phong, nguyện vọng của người Bà La Môn này cũng xem như trở thành sự thật, được làm quốc vương.
Vì vậy, A La Na Thuận trong tiểu thuyết có thể coi như là hình tượng hợp nhất của hai người này!
Ngoài ra, trong lịch sử đại Đường còn có một ghi chép về A La Na Thuận:
Sau khi Lý Thế Dân băng hà, trước Chiêu lăng cho dựng tượng quốc vương của các quốc gia mà ông từng tiêu diệt trong đời. Trong số tượng quốc vương đứng trên đạo thần của Chiêu lăng có một người là A La Na Thuận.
Y TỰ HẦU ĐỆ TAMY Tự Hầu đệ tam (? - năm 651 sau Công nguyên), còn gọi là Gia Tư đế Cách Đức đệ tam, trong sử liệu Trung Quốc có chỗ gọi là Y Tự Sĩ, đó là lỗi chính tả do “Tân Đường thư” ghi chép sai.
Y Tự Hầu đệ tam là quốc vương thời mạt của đế quốc Tát San Ba Tư, cháu nội của Khố Tư Lỗ đệ nhị.
Thời đại Khố Tư Lỗ đệ nhị là thời đại hùng mạnh nhất của Tát San Ba Tư. Năm 628 sau Công nguyên, sau khi Khố Tư Lỗ đệ nhị bị con trưởng Hi Lỗ Gia giết chết, chính trị của Tát San Ba Tư hoàn toàn hỗn loạn, đến tận năm 634 sau Công nguyên. Trong thời gian sáu năm ngắn ngủi, chín vị hoàng đế thay nhau lên ngôi, thay nhau bị người ta giết. Cuối cùng mọi người giết mãi cũng mệt, tìm được Y Tự Hầu đệ tam đang lẩn trốn trong dân gian, đưa lên ngôi, cục diện chính trị xem như ổn định lại. Năm đó Y Tự Hầu đệ tam hai mươi mốt tuổi.
Y Tự Hầu đệ tam rất giống Sùng Trinh thời Minh mạt, đế quốc sắp sửa sụp đổ, cục diện chính trị không yên, ngoại tộc áp sát, quốc khố trống không, thuế má hao hụt, cường hào nổi lên, quân phiệt cát cứ. Quan trọng hơn là sự trỗi dậy của người Ả Rập.
Ả Rập thời đại bành trướng, quân đội không gì cản nổi, đồng thời mở ba chiến tuyến, đông đánh Ba Tư, bắc phạt Bái Chiêm Đình, tây chinh Ai Cập. Ba Tư đánh đâu thua đó, mặc dù thỉnh thoảng có thắng lợi nhưng cuối cùng không thể thay đổi được đại cục. Trong chiến dịch mang tính quyết định Ca Địch Tây Á (Qadisiyyah[186]), ngay cả tể tướng đế quốc, trụ cột quốc gia là Lỗ Tư Tháp Mỗ cũng bị bắt chém đầu.
Trong thời gian này xảy ra một chuyện. Năm 637 sau Công nguyên, trước chiến dịch Ca Địch Tây Á, người A Rập phái sứ giả đến Thái Tây Phong chiêu hàng, Y Tự Hầu đệ tam bị chọc giận, cho rằng bọn họ là những kẻ man di xin cơm ăn, liền nói: “Nếu các ngươi muốn xin một chút đồ ăn thức uống, ta có thể ban tặng các ngươi, sau đó cút về sa mạc đi”. Sứ giả Ả Rập thỉnh cầu ban tặng cho bọn họ một khối đất, quả nhiên Y Tự Hầu đệ tam sai người lấy ra một khối đất, để sứ giả Ả Rập cõng đi.
Khi đó có đại thần cho rằng ban tặng đất đai ý nghĩa không lành. Quả nhiên mấy tháng sau người Ả Rập tấn công vào Thái Tây Phong, Y Tự Hầu đệ tam từ bỏ đô thành, hoảng hốt trốn chết. Đây cũng trở thành nỗi đau vĩnh viễn trong lòng Y Tự Hầu đệ tam, cho nên ở phần cuối tiểu thuyết, ông ta mới cố chấp mang đi một vốc đất từ Thiên Trúc, đáng tiếc thứ ấy vốn không phải của ông ta nên dù thế nào cũng không mang đi được.
Y Tự Hầu đệ tam vừa chống cự vừa trốn chạy đến vùng núi tỉnh Hô La San ở cực đông đế quốc, nhiều lần phái sứ giả đến Đại Đường xin giúp đỡ, nhưng khi đó Đại Đường chưa mở được lối đi sang Tây Vực nên cũng lực bất tòng tâm.
Năm Trinh Quán thứ mười hai, Y Tự Hầu đệ tam phái sứ giả xin giúp đõ, tặng Lý Thế Dân một con rắn hoạt nhục, hình dạng như chuột, dài chín tấc, có thể bắt chuột trong hang.
Năm Trinh Quán thứ mười ba, Y Tự Hầu đệ tam lại phái sứ giả xin giúp đỡ, nhưng vẫn không có kết quả.
Năm Trinh Quán thứ mười tám, Y Tự Hầu đệ tam lùi về Thổ Hỏa La, thuê quân đội Thổ Hỏa La chống cự người Ả Rập, một lần nữa sai sứ khẩn cầu Đại Đường giúp đỡ.
Năm Trinh Quán thứ hai mươi hai, Y Tự Hầu đệ tam và Thổ Hỏa La liên hợp phái sứ giả đến cầu viện Đại Đường. Cũng chính là năm này, quân Đường đánh cho Tây Đột Quyết thiệt hại nghiêm trọng, chinh phục đại bộ phận đất đai, khu vực khống chế cơ bản tiếp giáp Thổ Hỏa La, nhưng vẫn không có năng lực trực tiếp phái quân đội.
Đến thời Đường Cao Tông, năm Vĩnh Huy thứ hai, trong một cuộc chiến với Đại Thực, Y Tự Hầu đệ tam thuê quân đội Thổ Hỏa La tác chiến, nhưng sau khi chiến đấu ông ta ban tặng quá ít, thái độ kiêu căng, khiến quân đội Thổ Hỏa La nổi loạn. Y Tự Hầu đệ tam trốn đến một hiệu xay bột trong thành Mộc Lộc, kết quả là bị chủ hiệu giết chết.
Tâm nguyện cầu viện Đại Đường của Y Tự Hầu đệ tam cuối cùng cũng được hoàn thành trong thời Ti Lộ Tư, nhi tử của ông ta. Năm 658 sau Công nguyên, cuối cùng Đường Cao Tông tiêu diệt Tây Đột Quyết, tiếp giáp với Thổ Hỏa La. Năm 661 sau Công nguyên lập ra Ba Tư đô đốc phủ, phong Ti Lộ Tư làm quốc vương Ba Tư, chính thức ủng hộ người Ba Tư chống lại Đại Thực.
GIỚI NHẬT VƯƠNGGiới Nhật Vương (khoảng 590 - 647 sau Công nguyên), tên thật là Hạt Lợi Sa Phạt Đàn Na, dịch ý là Hỉ Tăng. Giới Nhật Vương là đức xưng của ông. Phụ thân là quốc vương Quang Tăng, huynh trưởng là Vương Tăng, tiểu muội là La Già Thất Lợi.
Giới Nhật Vương thích kịch và văn học, đến nay vẫn lưu truyền nhiều vở kịch do ông sáng tác như “Long Hi ký”, “Anh Lạc ký”, “Chung Tình ký” (Ratnavali, Nagananda và Priyadarsika), là tác phẩm quan trọng trong lịch sử văn học của Ấn Độ cổ đại.
Khoảng năm 600 sau công nguyên, sau khi vương triều Cấp Đa sụp đổ, bắc Ấn Độ từ từ hình thành cục diện bốn vương quốc lớn giằng co quân sự với nhau. Lần lượt là Thản Ni Sá ở phía tây, do quốc vương Quang Tăng trị vì, định đô tại thành Thản Ni Sá. Ở giữa là Mục Khắc Lí, do quốc vương Nhiếp Khải trị vì, định đô tại thành Khúc Nữ. Ma Lạp Bà ở phía tây nam, không rõ quốc vương là ai, vị trí đô thành hiện nay giới sử học vẫn còn tranh luận. Cao Đạt ở phía đông “Cao Đạt là tên dịch phương Tây, người Đường dịch ý là đất Kim Nhĩ”, do quốc vương Thiết Thưởng Ca trị vì, đô thành là Bôn Na Phạt Đàn Na.
Bốn vương quốc lớn chia ra kết thành đồng minh, hai phe đối đầu nhau. Sau khi Cao Đạt và Ma Lạp Bà kết minh, quốc vương Quang Tăng cũng gả nữ nhi là La Già Thất Lợi cho quốc vương Nhiếp Khải của vương quốc Mục Khắc Lí, hai bên chính thức kết minh.
Thản Ni Sá ở phía tây, khi đó người Áp Đạt bị xua đuổi ra khỏi Ấn Độ, chiếm vùng Thổ Hỏa La, thường xuyên xâm lấn. Trong một lần bị xâm lấn, quốc vương Quang Tăng phái Vương Tăng và Hỉ Tăng thảo phạt người Áp Đạt, bản thân lại mắc bệnh nặng. Hỉ Tăng rời khỏi tiền tuyến về đô thành hầu hạ phụ thân, Quang Tăng trước khi chết muốn tước quyền kế vị của Vương Tăng, đế Hỉ Tăng lên ngôi. Nhưng Hỉ Tăng chỉ đồng ý tạm thời nhiếp chính, sau khi phụ vương chết sẽ lại trả ngôi vị cho Vương Tăng. Mặc dù Huyền Trang và thi nhân cung đình Ba Na đã ghi lại rất nhiều chuyện huynh kính đệ nhường rất cảm động, nhưng chân tướng chuyện quốc vương Quang Tăng tước quyền kế vị của trưởng tử vẫn khó bề phân biệt.
Vương Tăng lên ngôi được một năm, đại chiến bốn vương quốc bùng nổ. Ma Lạp Bà tấn công Mục Khăc Lí, giet chết quốc vương Nhiếp Khải, cầm tù La Già That Lợi. Vương Tăng và Bà Ni dẫn kỵ binh báo thù, Hỉ Tăng theo sau dẫn tượng binh tiếp viện. Sau khi kịch chiến, Ma Lạp Bà bị diệt, quốc vương chết trận.
Quốc vương Thiết Thưởng Ca tuyên bố điều đình, sau đó là nghi án lịch sử về cái chết của Vương Tăng. Khi quốc vương Thiết Thưởng Ca tại vị, địa điểm chết của Vương Tăng vẫn tồn tại hai cách nói, lại không hề rõ ràng, có thê lưu truyền tới nay chỉ có ghi chép của Huyền Trang, “Giới Nhật Vương truyện” của Ba Na và bia Giới Nhật Vương sau này khai quật được.
“Giới Nhật Vương truyện” ghi lại:
Giới Nhật Vương biết được tin, Vương Tăng mặc dù dễ dàng chiến thắng quân đội của Ma Lạp Bà, lại trúng quỷ kế của quốc vương Cao Đạt là Thiết Thưởng Ca. Vương Tăng hoàn toàn tin tưởng quốc vương Thiết Thưởng Ca, lột bỏ vũ khí, một mình gặp phải bất hạnh tại quân trướng của chính mình.
Bia Giới Nhật Vương thì ghi lại:
Trong chiến tranh, vua các vương quốc được Cát Tường Thiên bảo vệ giống như chiến mã khó thuần, ngoan ngoãn dưới roi của Vương Tăng, tất cả bị bắt giam. Ngài diệt trừ kẻ thù, giành được sự yêu quý của nhân dân khắp mọi nơi, lại bởi vì lời the nguyện cao thượng, phải bỏ mạng trong doanh trại quân địch.
Ngoài ra thời gian và quá trình bị hại của Vương Tăng không nói tỉ mỉ.
Vì vậy nhà sử học Ấn Độ là Mã Tông Đạt (R.C.Majumdar) đưa ra quan điểm: Mặc dù quốc vương Thiết Thưởng Ca trực tiếp giết chết Vương Tăng, nhưng rất có thể Giới Nhật Vương đã tham dự âm mưu sát hại huynh trưởng của mình. Ngoài ra nguyên nhân chủ yếu khiến Vương Tăng gặp phải nguy hiểm là đại thần Bà Ni thất trách, mà nhìn vào quan hệ giữa Bà Ni và Giới Nhật Vương thì Giới Nhật Vương cũng rất khó thoát tội.
Về nghi án này, điểm quan trọng nhất vẫn là “Giới Nhật Vương truyện” của Ba Na. Đây là Ba Na viết theo lệnh của Giới Nhật Vương, ghi lại tính hợp pháp chính đáng của Giới Nhật Vương. Chẳng hạn như: “Thiên thần tiên đoán ấu tử trở thành quốc vương kế tiếp ”; “Phụ thân là quốc vương Quang Tăng hi vọng ấu tử lên ngôi”; “Con trưởng Vương Tăng ngu dốt nên không muốn lên ngôi”.
Xem kỹ lại thì ba lí do chứng tỏ tính hợp pháp này Lý Thế Dân đều đã từng sử dụng.
Nhưng trong “Giới Nhật Vương truyện”, Ba Na dùng rất nhiều phép ẩn dụ hai ý nghĩa, có một chỗ chí mạng: “Giống như Đế Thích Thiên đứng đầu các thiên thần, Hỉ Tăng dường như bận xóa đi vết nhơ giết chết Agraja”.
Agraja trong tiếng Phạn có hai ý nghĩa, vừa là Bà La Môn, lại vừa là huynh trưởng. Bởi vì Đế Thích Thiên từng giết chết huynh trưởng của mình là Chúng sắc, chặt mất ba cái đầu của Chúng sắc.
Sau khi Vương Tăng chết, Hỉ Tăng kế thừa vương vị với sự ủng hộ của Bà Ni. Huyền Trang ghi lại rất nhiều chuyện cảm động xoay quanh việc Giới Nhật Vương từ chối không chịu nhận vương vị, thậm chí cuối cùng Bồ Tát cũng phải tự mình hiện thân khuyên bảo ông ta lên ngôi, Giới Nhật Vương mới miễn cưỡng nghe lời.
Sau khi lên ngôi, Giới Nhật Vương tìm được hoàng muội là La Già Thất Lợi, nhưng La Già Thất Lợi đã xuất gia làm tì kheo ni[187]. Thế là Giới Nhật Vương tạm nắm chính quyền cai quản Mục Khắc Lí. Mấy năm sau sáp nhập hai vương quốc, thành lập đế quốc Giới Nhật. Sau đó trải qua hơn mười năm tấn công, cuối cùng đến năm 619 sau Công nguyên, chiến thắng quốc vương Thiết Thưởng Ca, thống nhất cả miền bắc Ấn Độ.
Sau đó Giới Nhật Vương tiếp tục mở rộng, nam chinh Già Lâu Kỳ ở nam Ấn Độ, kết quả chiến bại ở sông Nại Mạt Đà[188] (Narmada). Giới Nhật Vương trị vì bốn mươi mốt năm, cả Thiên Trúc có ba mươi năm hòa bình, các giai cấp và giáo phái chung sống hoà bình, kinh tế phát triển. Tuy nhiên ông không có con nối dõi, sau khi băng hà bị A La Na Thuận soán vị. Đế quốc Giới Nhật bị diệt.
LIÊN HOA DẠHình tượng Liên Hoa Dạ đến từ chuyện tì kheo ni Liên Hoa Sắc trong kinh Phật. Liên Hoa sắc được coi là thần túc đệ nhất trong các tì kheo ni đệ tử của Phật, còn dịch là Ưu Bát La Hoa sắc. Do chuyện của bà dính dáng đến một số vấn đề luân lí mà độc giả bình thường khó có thể chấp nhận, hơn nữa cần phục vụ cho nội dung tiểu thuyết, vì vậy đã sửa đổi một chút về tên và thân thế của bà.
Chuyện của Liên Hoa Sắc có nhiều phiên bản trong kinh Phật, phiên bản lưu truyền rộng nhất là kiếp trước Liên Hoa Sắc là một nữ nhân đáng thương, do tuổi già nhan sắc tàn phai mà bị chồng bỏ. Bà cầu xin độc giác thánh giả: Mong kiếp sau được một thân đoan chính trang nghiêm, sắc hương đều đủ, kiều diễm động lòng người giống như hoa sen xanh; muốn gì được nấy, không thiếu nam nhân; có đại thần thông giống như độc giác thánh giả, và có thể gặp được tri thức đại thiện, đại sư Phật Đà, đích thân nhận phụng dưỡng.
Sau khi chuyển thế thành Liên Hoa sắc, những nguyện vọng này toàn bộ đều ứng nghiệm.
Liên Hoa Sắc sinh ra đã vô cùng xinh đẹp, dung mạo vô song, lại lần lượt gặp chuyện trượng phu và mẫu thân mình loạn luân, chính mình lại cùng mẫu thân sinh thờ chung một trượng phu.
Liên Hoa Sắc tuyệt vọng trở thành kỹ nữ, thành danh kỹ trong thành Vương Xá, một đêm giá năm trăm đồng tiền vàng.
Sau đó Liên Hoa Sắc quyến rũ một thiếu niên bán hương, hai người sinh ra một cặp song sinh nam nữ rồi vứt bỏ chúng. Cặp song sinh này lớn lên lại đính hôn ước, li kỳ hơn là nam hài tử trong cặp song sinh ấy khi lớn lên lại lấy Liên Hoa Sắc làm vợ, thành ra bà cùng nữ nhi của chính mình thờ chung một chồng. Nhìn chung cuộc đời của Liên Hoa Sắc có thể nói là câu chuyện loạn luân làm người ta kinh ngạc nhất trong lịch sử.
Sau đó Liên Hoa Sắc được Mục Kiền Liên điểm hóa, xuất gia làm tì kheo ni. Nhưng trước đó khi bà là kỹ nữ, có một thiếu niên nghèo khó yêu bà. Liên Hoa Sắc nói với hắn kiếm đủ năm trăm đồng tiền vàng rồi quay lại tìm mình. Thiếu niên đó bán sức lao động kiếm được năm trăm đồng tiền vàng, lúc đến tìm Liên Hoa Sắc thì bà đã làm tì kheo ni nên từ chối hắn. Thiếu niên đó lại thừa dịp bà ngủ say mà cưỡng bức bà. Sau khi tỉnh dậy Liên Hoa Sắc thi triển thần thông, thiếu niên sợ quá mà chết.
Nhưng cuối cùng Liên Hoa Sắc vẫn tu thành quả vị A La Hán, sau khi Đề Bà Đạt Đa phản bội Đức Phật, bị Liên Hoa Sắc trách cứ. Đề Bà Đạt Đa giận dữ đánh nát đầu bà. Đây chính là nguồn gốc của tội thứ ba “Giết A La Hán” trong năm nghịch tội của Phật giáo. Tội thứ tư “Phá hòa hợp tăng[189]” và tội thứ năm “Xuất Phật thân huyết[190] cũng đều liên quan đến Đề Bà Đạt Đa.
ĐÔNG NỮ QUỐCBởi vì có ghi chép rằng trên hải đảo tây nam đất Đông La Mã có một nữ quốc được gọi là Tây nữ quốc, cho nên Tô Bì nằm trên cao nguyên Thanh Tạng liên được gọi là Đông nữ quốc, chính là Tây Vực nữ nhi quốc. “Tùy Thư” ghi lại “Quốc vương nơi này họ Tô Bì, tên là Mạt Hạt”.
Đây là ghi chép của Huyền Trang trong “Đại Đường Tây Vực ký”:
Trong núi Đại Tuyết có vương quốc Tô Phạt Lạt Nã Cù Thản La, là Đông nữ quốc. Đời đời lập nữ nhi làm quốc vương, vì thế gọi là nữ quốc. Đông giáp Thố Phồn, bắc giáp Vu Điền, tây giáp Tam Ba Ha.
Nhưng thực ra nữ nhi quốc ở Trung Quốc không chỉ có một vương quốc Tô Bì. “Cựu Đường Thư” ghi lại:
Đông nữ quốc là giống lạ ở Tây Khương, giữa Tây Hải có nữ quốc, gọi là Đông Nữ Yên. Có tục lập nữ nhi làm quốc vương. Đông giáp Mậu Châu, Đảng Hạng, đông nam giáp Nhã Châu… Nữ vương gọi là tân tựu… Nếu nữ vương chết… Vương tộc tìm lập hai người, lớn là quốc vương, nhỏ là tiểu vương. Nếu quốc vương chết, tiểu vương tự kế vị.
Vị trí này rất rõ ràng, là ở vùng tây bắc đất Xuyên, có thể gọi là Xuyên Tây nữ nhi quốc.
Tuy nhiên trong “Tân Đường thư” và “Cựu Đường thư”, hai nữ quốc này bị hợp làm một, các nhà sử học bao gồm Lữ Tư Miễn đều đã bóc tách rất nhiều nhưng đến nay vẫn còn có tranh luận.
Khi tác giả viết sách này, bởi vì tư liệu về Tây Vực nư quốc thật sự quá ít, liền mượn dùng một phần cơ cấu của Xuyên Tây nữ quốc. Khi Tùng Tán Cán Bố thống nhất cao nguyên Thanh Tạng, Tô Bì đã bị Thổ Phồn thôn tính.
Ngoài ra phải nói rõ, Huyền Trang chưa từng đến Tô Bì. Ngài đã đi qua một trăm mười quốc gia, nhưng số quốc gia được ghi lại trong “Đại Đường Tây Vực ký” lại lớn hơn nhiều, rất nhiều trong đó là ngài nghe nói, bao gồm cả Tô Bì. Huyền Trang dù chưa đi qua Tô Bì nhưng ghi chép lại rất chính xác. Vì vậy trong tiểu thuyết tác giả cho Huyền Trang đi một chuyến cũng xem như phù hợp.
VƯƠNG HUYỀN SÁCHVương Huyền Sách tổng cộng ba lần đi sứ Thiên Trúc, cũng có người nói là đi bốn lần.
Lần đầu tiên là năm Trinh Quán thứ mười bảy (năm 643 sau Công nguyên), bởi vì Giới Nhật Vương phái sứ giả đi sứ Đại Đường, Lý Thế Dân lệnh Lý Nghĩa Biểu, Vương Huyền Sách đến Thiên Trúc thăm hỏi đáp lễ.
Sự kiện này có thể liên quan đến Huyền Trang. Huyền Trang rời khỏi Thiên Trúc về Đại Đường năm 641 sau Công nguyên, Giới Nhật Vương phái sứ giả đi sứ Đại Đường năm 642, năm sau đến Trường An. Cho nên nói quan hệ bang giao giữa Thiên Trúc và Đại Đường là do Huyền Trang thúc đẩy cũng không phải không có cơ sở. Chỉ có điều Huyền Trang mất thời gian ba năm trên đường, đến tận năm 645 mới trở lại Trường An, sứ giả của Giới Nhật Vương không thể gặp được ngài.
Khi đó Vương Huyền Sách đi chín tháng trên đường, năm 643 đến thành Khúc Nữ, gặp Giới Nhật Vương. Sau đó chu du Thiên Trúc, trèo lên núi Linh Thứu, khắc bia trong núi, lại đến chùa Ma Ha Bồ Đề lập bia, đến nay bia vẫn còn, chỉ có điều quá dài, không tiện trích lục. Cho nên lần đầu tiên Vương Huyền Sách đến Thiên Trúc thực ra không phải làm đồ đệ cho Huyền Trang. Tác giả đẩy sớm thời gian Vương Huyền Sách đi sứ lên năm 641 là phục vụ cho tình tiết của tiểu thuyết, không cần truy đến cùng.
Lần thứ hai Vương Huyền Sách đi sứ, theo “Cựu Đường thư” và “Tân Đường thư ghi lại là năm Trinh Quán thứ hai mươi hai, là năm 648 sau Công nguyên. Trên thực tế, theo khảo chứng thì có lẽ là xuất phát năm 646, năm 647 đến nơi, năm 648 là năm Vương Huyền Sách trở lại Trường An.
Nhiệm vụ Vương Huyền Sách đi sứ năm đó rất khó xác định. Theo “Đại Đường - Đại Từ Ân tự - Tam Tạng đại sư truyện” nói, là bởi vì quốc vương Cưu Ma La thỉnh cầu “Lão Tử”, Lý Thế Dân lệnh Huyền Trang phiên dịch “Lão Tử”, sai Vương Huyền Sách đưa qua. Có cách nói khác là Lý Thế Dân lệnh Vương Huyền Sách đi cầu thuốc trường sinh.
Lần này đi sứ Thiên Trúc, Vương Huyền Sách lập nên một truyền kỳ. “Cựu Đường thư” nói rất ít, “Tân Đường Thư” lại ghi chép cặn kẽ:
Năm hai mươi hai, phái trưởng sử hữu vệ suất phủ Vương Huyền Sách đi sứ, lấy Tưởng Sư Nhân làm phó sứ. Chưa đến nơi thì Thi La Dật Đa đã chết, tình hình trong đế quốc rất hỗn loạn, bề tôi Na Phục Đế - A La Na Thuận tự xưng vương, phát binh chống lại Huyền Sách. Khi đó có vài chục ky binh, đánh thua, đều chết, cống vật bị cướp sạch. Huyền Sách chạy đến phía tây Thố Phồn, hịch triệu các vương quốc láng giềng, Thố Phồn đưa ngàn người đến, Nê Bà La đưa bảy ngàn kỵ đến, Huyền Sách tiến đến thành Chiến Trà Bác Hòa La (thành Khúc Nữ), đánh giết ba ngày thì phá được, chém đầu ba ngàn, chìm nước vạn người. A La Na Thuận bỏ thành chạy trốn, tập hợp tàn binh hòng phục hận, bị Sư Nhân bắt được, chém đầu hàng ngàn. Những người còn lại bảo vệ cho thê tử của quốc vương thì bị chặn ở sông Càn Đà Vệ (sông Ấn Độ), Sư Nhân dẹp tan loạn binh, bắt vương phi, vương tử, bắt sống một vạn hai nghìn người, súc vật ba vạn, phá hủy năm trăm tám mươi thành thị. Quốc vương Đông Thiên Trúc - Thi Cưu Ma (quốc vương Cưu Ma La) tặng trâu ngựa ba vạn, cùng cung, đao, vòng ngọc. Vương quốc Già Một Lộ[191] hiến dị vật, và dâng bản đồ, xin tượng Lão Tử.
SA BÀ MỊBất kể ghi lại trong chính sử nào, Sa Bà Mị luôn liên quan đến Vương Huyền Sách.
“Cựu Đường thư” viết:
Thế là cả Thiên Trúc chấn động, bắt A La Na Thuận mang vể… Lúc đó có phương sĩ Na La Nhĩ - Sa Bà Mị tự xưng thọ hai trăm tuổi, nói có thuật trường sinh. Thái Tông vô cùng lễ kỉnh, cho ở trong Kim Biểu Môn, tạo thuốc trường sinh. Lệnh thượng thư bộ Binh Thôi Đôn Lễ phụ trách, lệnh thiên hạ hái các loại dược thạch kỳ lạ, nhiều không đếm được. Sau nhiều năm tháng, thuốc thành, dùng lại không hiệu quả, sau đó trả về bản quốc.
“Tân Đường thư” lại viết;
Huyền Sách bắt A La Na Thuận về dâng trước cung… Được phương sĩ Na La Nhĩ - Sa Bà Mị, tự xưng hai trăm tuổi, có thuật bất tử, đế vương bèn cấp chỗ cho hắn luyện đan, lại lệnh thượng thư bộ Binh Thôi Đôn Lễ bảo vệ. Sứ giả đi khắp thiên hạ, hái quái dược dị thạch, lại phái sứ giả đi các vương quốc Bà La Môn. Có nước phép gọi là Trà Giả, ra từ cối đá, có voi đá canh giữ, nước có bảy loại màu, có thể nóng có thể lạnh, có thể diệt cỏ cây, kim loại, chạm vào như rửa tay, dùng đầu lâu múc vào hồ lô. Có cây gọi là Trớ Lại La, lá như cây lê, mọc trong hang giữa vách núi, trước có rắn độc khống lồ trông coi, không thể vào. Muốn lấy lá của nó, dùng tên bắn vào cành thì lá rụng, chim tha đi lại dùng tên bắn thì lấy được lá. Đủ thứ cổ quái như thế. Sau đó thuật không hiệu nghiệm, có chiếu trả về, không đi được, chết tại Trường An.
Chuyện Lý Thế Dân uống thuốc trường sinh của Sa Bà Mị dẫn đến băng hà, chính sử triều Đường có nhiều ghi chép.
Theo “Tư Trị Thông giám - Đường kỷ thập thất”:
Mùa đông, tháng mười, năm Mậu Ngọ, lập Bà La Môn ở vương quốc Ô Đồ[192] (Udra) là Lư Già Dật Đa làm Hoài Hóa đại tướng quân. Dật Đa nói có thể luyện thuốc bất tử. Cao Tông muốn luyện. Đông Đài thị lang Hách xử Tuấn can gián: “Dài ngắn có mệnh, không phải thuốc có thể kéo dài. Cuối thời Trinh Quán, tiên đế phục dược của Na La Nhĩ - Sa Bà Mị, lại không có hiệu quả. Khi sắp băng hà, danh y không biết làm sao, bàn bạc quy tội Sa Bà Mị, đòi giết chết, lại sợ bị Nhưng Địch chê cười mà ngừng. Gương trước không xa, mong bệ hạ xem xét kỹ”. Cao Tông liền dừng.
Theo “Cựu Đường thư - Hiến Tông bản kỷ”:
Thời Đường Hiến Tông, trọng thần Lý Phiên Ngôn nói “Văn hoàng đế(Lý Thế Dân) uống thuốc trường sinh của tăng sĩ người Hồ, liên phát bệnh nặng không cứu được”.
Về Sa Bà Mị, tác giả không thể nói quá nhiều, bởi vì ông ta chính là thần chết mà Vương Huyền Sách mang từ Thiên Trúc về cho Lý Thế Dân. Muốn biết về sau thế nào, chờ xem hạ hồi phân giải.
[*] [180] Chiến Chủ hay Yuddhapati là một vương quốc cổ, nằm cách sông Hằng 300 dặm về hướng đông, nay thuộc khu Ghazipur, Uttar Pradesh, Ấn Độ.
[*] [181] Ca Ma Lâu Ba hay Đông Huy hay Kamarupa là một vương quốc cổ ở Ấn Độ, lãnh thổ bao gồm thung lũng sông Brahmaputra và những vùng kế cận, nay là thành phố Guwahati, bang Assam, Ấn Độ.
[*] [182] Tức Vân Nam ngày nay. Nhà Tùy lập phủ tổng quản Nam Ninh, năm Trinh Quán thứ tám đổi Nam Ninh Châu thành Lãng Châu, lập phủ đô đốc Lãng Châu ở Thạch Thành, là thành phố Khúc Tĩnh ở Vân Nam hiện nay. (Chú thích sách gốc)
[*] [183] Tây Nhung là tên gọi dân tộc thiểu số ở phía Tây Trung Quốc cổ đại, đồng thời cũng là tên gọi của một quốc gia vào thời Xuân Thu, Chiến Quốc.
[*] [184] Sa môn là những tín đồ Phật giáo xuất gia tu hành.
[*] [185] Thục vương tham lam ngu tối, có sở thích sưu tầm những đồ vật lạ quý hiếm. Bấy giờ Tân Huệ Văn Vương đang có kế hoạch đánh chiếm nước Thục nhưng ngặt nỗi đường đi rất khó khăn nên sai thợ lấy đá khối tạc thành hình con trâu đặt ớ giữa biên giới Tấn và Thục. Hàng ngày sai người đem một thỏi vàng ra đặt dưới đít trâu rồi phao tin ầm nên rằng “trâu đá ĩa ra vàng”, vua Thục hám của lạ đã cho quân dọn đường để lấy bằng được con trâu đá đó. Tuy nhiên Thục đế chưa kịp mang con “trâu đá” về lấy vàng thì quân đội nước Tấn đã bất thình lình tràn theo con đường mới làm tiến thẳng vào kinh đô nước Thục, vua Thục không chống cự nổi phái mở cửa thành đầu hàng rồi bị phế truất thành Thục hầu.
[*] [186] Al-Qãdisiyyah là một thành phố lịch sử ở miền nam Mesopotamia, phía tây nam al-Hillah và al-Kũfah ở Iraq.
[*] [187] Là nữ tu xuất gia trong Phật giáo, dân gian thường gọi là ni cô.
[*] [188] Sông Nại Mạt Đà hay Narmada, cũng gọi là Rewa, là một sông ở Trung Ấn Độ và là sông lớn thứ năm tại tiểu lục địa Ấn Độ. Đây là sông lớn thứ ba chảy hoàn toàn trong lãnh thố Ấn Độ, sau sông Hằng và Godavari.
[*] [189] Bản chất của tăng sư là thanh tịnh và hòa hợp, nên khi các tăng sư không còn hòa hợp, chia thành nhóm riêng, sinh hoạt và làm pháp riêng, thì gọi là Tăng bị phá hay “phá hòa hợp Tăng”.
[*] [190] Tội “xuất Phật thân huyết” là tội ám hại Phật, khiến Phật chảy máu.
[*] [191] Ngoài ghi chép trong Cựu Đường thư và Tân Cựu Đường thư thì hầu như không thấy tên quốc gia này trong các biên sử khác, hay ghi chép của Huyền Trang.
[*] [192] Ô Đồ hay Udra (Odra, Oda) nay là miền bắc bang Orissa, thủ đô Bhubaneswar.