← Quay lại trang sách

Chương 1 Mọi nơi và không nơi nào

Khi mới bắt đầu viết sách, tôi không tránh khỏi cảm giác bị thao túng của nỗi sợ hãi lên toàn bộ cơ thể và tâm trí mình. Nỗi sợ đó ngày càng rõ ràng hơn khi tôi nhận ra các kết luận trong nghiên cứu của mình đi ngược lại những niềm tin, ý niệm đã xuất hiện lâu đời. Những lúc như thế, tôi ngay lập tức có suy nghĩ: “Mình là ai mà dám nói điều này?” hay “Mình sẽ khiến mọi người nổi giận mất, nếu dám thách thức niềm tin của họ.”

Trong những giây phút yếu lòng đầy bất định và rủi ro như thế, tôi thường tìm kiếm nguồn cảm hứng từ những nhà cải cách và những kẻ nổi loạn dũng cảm. Sự can đảm của họ đã tiếp thêm sức mạnh cho ước mơ trở thành một người dám đứng lên của tôi. Tôi đọc và xem mọi thứ về họ, từ mọi nguồn có thể tiếp cận – mọi cuộc phỏng vấn, mọi bài viết, mọi bài giảng, mọi cuốn sách. Nhờ đó, khi cần họ, khi bị nỗi sợ hãi bủa vây, khi vùng vẫy trong bộn bề lo lắng, tôi có thể cảm thấy như họ đang ở bên và cổ vũ mình. Quan trọng hơn cả, khi tôi giãi bày âu lo, họ không phải chịu đựng nỗi phiền muộn của tôi.

Để xây dựng quy trình này, tôi đã tốn không ít thời gian. Trong những năm đầu tiên, tôi đã thử phương pháp ngược lại – nghĩ đến hình ảnh của những người thường chỉ trích, đay nghiến mình. Tôi ngồi vào bàn và hình dung khuôn mặt của những vị giáo sư mà mình không thích nhất, những đồng nghiệp hà khắc, hay ngờ vực nhất và cả những anh hùng bàn phím kém vị tha nhất. Tôi nghĩ rằng: Nếu có thể làm hài lòng họ, hay ít nhất là học được cách im lặng tuyệt đối, tôi vẫn sẽ ổn. Kết quả chính là kịch bản tồi tệ nhất có thể xảy ra đối với một nhà nghiên cứu hay một nhà khoa học xã hội: những kết luận được gấp lại nhẹ nhàng mà không có cơ hội nhìn thấy thế giới; những kết luận chỉ động chạm khẽ khàng tới những ý niệm chung đang tồn tại nhưng không làm phật lòng ai; những kết luận an toàn, được lọc sạch sẽ và khiến người ta thấy dễ chịu. Nhưng không có điều gì trong số đó là thật. Chúng chỉ là thứ đồ cống nạp cho có lệ mà thôi.

Vậy nên, tôi đã quyết định gạt bỏ hoàn toàn những kẻ thích chì chiết và những kẻ giật dây cho nỗi sợ hãi ra khỏi tâm trí. Thay vào đó, tôi bắt đầu đến gần những con người đã định hình thế giới bằng lòng quả cảm và óc sáng tạo. Đó là những người mà trong cuộc đời họ, ít nhất có một lần đã khiến người khác phải nổi điên. Những con người đó mang màu sắc cá nhân rất riêng biệt. Đó là J.K. Rowling, tác giả của cuốn Harry Potter mà tôi vô cùng yêu thích. Tôi nghĩ đến bà khi bản thân đang loay hoay tìm cách trình bày về thế giới ý tưởng mới mẻ và kỳ lạ của mình, một thế giới được thai nghén và sinh ra từ nghiên cứu của tôi. Tôi tưởng tượng bà sẽ nói với tôi: Những thế giới mới quan trọng thật đấy, nhưng để lột tả được chúng thì không phải việc dễ dàng. Hãy kể những câu chuyện về sự hình thành của thế giới đó. Dù thế giới mới có điên rồ và kỳ quái đến mức nào đi nữa, chúng ta vẫn sẽ bắt gặp chính mình trong những câu chuyện tưởng như hoang đường đó.

Tác giả, nhà hoạt động xã hội Bell Hooks là người đã truyền sức mạnh cho tôi trong những buổi trao đổi đầy thách thức về chủ đề chủng tộc, giới tính hay giai cấp. Bà cũng là người truyền cảm hứng cho tôi về việc dạy học – một sứ mệnh thiêng liêng, và cả việc học – nỗi vất vả đáng giá và đầy ý nghĩa. Rồi Ed Catmull, Shonda Rhimes và cả Ken Burns luôn đứng phía sau, thì thầm vào tai tôi trong lúc tôi đang kể một câu chuyện nào đó. Họ nhắc nhở tôi khi tôi trở nên nóng vội và bắt đầu bỏ qua các chi tiết cũng như các đoạn đối thoại mang lại ý nghĩa cho câu chuyện. “Hãy để chúng tôi xuất hiện và đồng hành cùng câu chuyện,” họ nài nỉ. Vô số nhạc sĩ và nghệ sĩ đã xuất hiện, trong đó có cả Oprah. Lời khuyên của bà đã trở thành châm ngôn trong nghiên cứu của tôi: “Đừng nghĩ bạn có thể dũng cảm đối diện với cuộc sống và công việc mà không khiến một ai thất vọng. Không có chuyện đó đâu.”

Tuy vậy, người cố vấn lâu năm nhất và tận tâm nhất của tôi lại là Maya Angelou. Tôi biết đến tác phẩm của bà hơn 30 năm trước khi tôi vẫn đang học về thi ca ở trường đại học. Từ khoảnh khắc biết đến bài thơ “Still I Rise” (tạm dịch: Tôi vẫn vươn lên), mọi thứ với tôi đều thay đổi. Bài thơ ẩn chứa sức mạnh và vẻ đẹp phi thường. Tôi thu thập mọi cuốn sách, bài thơ và bài phỏng vấn của Angelou. Tác phẩm của bà đã thực sự khai mở tâm hồn, thúc đẩy bước chân và chữa lành vết thương trong tôi. Với tôi, bà vừa là người mang đến niềm vui, vừa là người thầy nghiêm khắc.

Tuy nhiên, có một câu nói của Maya Angelou mà tôi hoàn toàn không tán thành. Đó là câu trích dẫn nói về cảm giác thuộc về1. Tôi bắt gặp nó khi đang giảng dạy một khóa học về chủ đề chủng tộc và giai cấp tại Đại học Houston. Trong buổi phỏng vấn với Bill Moyers trên sóng truyền hình vào năm 1973, Tiến sĩ Angelou đã nói:

1 Nguyên văn: “belonging”, Ám chỉ cảm giác thuộc về, gắn bó với một nơi nào đó (gia đình, nhóm bạn bè, nhóm xã hội,...) hay với một ai đó (bố mẹ, vợ chồng,...) để không cảm thấy lạc lõng trong cuộc sống. (ND)

“Bạn chỉ tự do khi nhận ra mình không thuộc về nơi nào – bạn thuộc về mọi nơi và cũng không thuộc về nơi nào cả. Cái giá phải trả rất đắt. Phần thưởng nhận được cũng xứng đáng không kém.”

Tôi vẫn còn nhớ chính xác những gì mình đã nghĩ khi đọc được câu nói đó. Thật sai lầm! Thế giới sẽ ra sao nếu chúng ta chẳng thuộc về nơi nào? Chỉ còn là một đám người cô đơn cộng sinh với nhau thôi. Mình không nghĩ bà ấy hiểu được sức mạnh của cảm giác thuộc về.

Suốt hơn 20 năm, mỗi khi nghĩ về câu nói đó, tôi lại cảm thấy cơn giận dữ cuộn lên trong mình. Tại sao bà ấy lại nói như vậy? Không đúng chút nào hết. Cảm giác thuộc về là thiết yếu. Chúng ta phải thuộc về cái gì đó, ai đó, nơi nào đó chứ. Tôi dần nhận ra cơn giận của mình bùng lên vì hai lý do. Đầu tiên, Tiến sĩ Angelou có ý nghĩa lớn với tôi đến mức tôi không thể chịu đựng được việc chúng tôi bất đồng về một quan điểm cơ bản đến thế. Thứ hai, nhu cầu hòa nhập và nỗi đau khi không thuộc về nơi nào là một trong những trang đau đớn nhất trong chính cuộc đời tôi. Tôi không thể định nghĩa khái niệm “không thuộc về nơi nào” là tự do. Nỗi đau lớn nhất của tôi chính là việc chưa bao giờ thực sự cảm thấy mình thuộc về bất kỳ nơi đâu hay bất cứ ai, và đó là nỗi thống khổ đã theo tôi gần hết thời niên thiếu.

Đó không bao giờ là sự tự do đối với tôi.

Trải nghiệm về cảm giác không thuộc về nơi nào đánh dấu những mốc thời gian trong cuộc đời tôi, bắt đầu từ khi tôi còn nhỏ. Tôi học mẫu giáo ở trường Paul Habans nằm ở bờ Tây New Orleans. Đó là năm 1969, và dù thành phố lúc đó – hay đến giờ vẫn vậy – tuyệt vời thế nào đi nữa, đó vẫn là nơi nạn phân biệt chủng tộc bóp nghẹt chúng tôi. Các trường học chỉ chính thức xóa bỏ nạn phân biệt chủng tộc vào năm tôi bắt đầu đi học. Một đứa trẻ mới 4 tuổi như tôi lúc đó không biết và cũng chẳng hiểu gì nhiều về những điều đang xảy ra, nhưng tôi biết mẹ tôi là người bộc trực và cương quyết. Bà đã nhiều lần lên tiếng và thậm chí còn viết thư gửi đến tờ Times-Picayune để chất vấn tính hợp pháp của cái mà chúng tôi gọi là “điều tra dựa trên đặc tính cá nhân2”. Tôi có thể cảm nhận được sự nhiệt huyết của bà, nhưng với tôi lúc đó, bà chỉ là một người tình nguyện hỗ trợ tôi trong các tiết sinh hoạt và là người đã may những chiếc váy suông ca-rô màu vàng đồng bộ với nhau cho tôi, cho chính bà và cho con búp bê Barbie của tôi.

2 Hành động nghi ngờ và bắt giữ các đối tượng dựa trên chủng tộc của họ chứ không phải do đặc điểm cá nhân của các cấp chính quyền.

Chúng tôi từ Texas chuyển đến và điều đó gây cho tôi nhiều khó khăn. Tôi nhớ bà tôi da diết nhưng cũng háo hức muốn làm quen với các bạn mới ở trường và ở khu chung cư nhà mình. Tuy nhiên, mọi thứ nhanh chóng trở nên phức tạp. Hàng tá danh sách được lập ra trong các tiết sinh hoạt, từ bảng điểm danh đến thư mời dự sinh nhật. Một ngày nọ, một vị phụ huynh cùng tổ chức tiết sinh hoạt với mẹ tôi đã chìa danh sách đó trước mặt bà và nói: “Hãy xem tất cả những đứa da màu trong này đi! Nhìn vào tên của chúng đi! Chúng đều có tên Casandra!”

Hừ!, mẹ tôi nghĩ. Có thể đó là lý do vì sao tôi luôn bị gạt khỏi bữa tiệc của các bạn học người da trắng. Mẹ tôi lấy tên đệm của bà làm tên chính, còn tên khai sinh của bà là Casandra. Tên đầy đủ của tôi trong danh sách đó ư? Casandra Brené Brown. Nếu bạn là người Mỹ gốc Phi và đang đọc đến đây, bạn sẽ hiểu rất rõ vì sao những gia đình người da trắng lại không mời tôi đến nhà chơi. Đó cũng là lý do vì sao một nhóm sinh viên đại học người Mỹ gốc Phi đã đưa cho tôi một mảnh giấy vào cuối học kỳ, trên đó ghi dòng chữ: “Đúng rồi. Cô đúng là Brené Brown rồi.” Họ đã đăng ký khóa học về các vấn đề phụ nữ phải đối mặt mà tôi đứng lớp và gần như ngã ngửa khi tôi bước tới bàn giáo viên trong buổi học đầu tiên. Một sinh viên hỏi: “Cô không phải là Casandra Brené Brown chứ?” Đúng đấy. Đó cũng là lý do vì sao khi tôi đi phỏng vấn cho công việc bán thời gian – làm lễ tân ở một phòng khám tại San Antonio, một người phụ nữ đã nói: “Cô là Brené Brown! Thật là một sự ngạc nhiên thú vị!” Đúng vậy, thú vị hơn nữa là tôi đã rời khỏi buổi phỏng vấn trước khi ngồi xuống.

Những gia đình người da màu đối xử với tôi vô cùng nồng nhiệt, đồng thời họ cũng rất sửng sốt khi tôi bước vào cửa. Một người bạn nói rằng tôi là người da trắng đầu tiên từng ở trong nhà của cậu ấy. Thật khó để hiểu thấu được mọi việc khi bạn chỉ mới 4 tuổi và mục đích bạn ở đó chỉ để chơi đùa và ăn bánh với bạn bè. Đáng ra việc cảm thấy thân thuộc ở trường mẫu giáo là chuyện vô cùng đơn giản thì tôi lại phải chật vật để hiểu được lý do mình luôn cảm thấy bị gạt ra khỏi mọi cuộc chơi.

Một năm sau, chúng tôi chuyển tới khu Garden Districy để bố tôi có thể tới Đại học Loyola gần hơn, và tôi được chuyển tới trường Holy Name of Jesus. Tôi theo Giáo hội Episcopal3, đồng nghĩa với việc tôi là đứa duy nhất ở trường không theo Công Giáo. Đó là rào cản giữa tôi và cảm giác thuộc về. Sau một, hai năm luôn đứng ngoài mọi cuộc chơi, bị đàm tiếu và có những lúc bị gạt ra ngoài lề, tôi được đưa đến chỗ làm lễ và thấy Chúa đang đợi mình. Ít nhất lúc đó tôi nghĩ như vậy. Hóa ra đó là một giám mục. Ông đưa cho tôi bản in của cuốn Tín điều Nicea (Nicene Creed) và chúng tôi lần lượt đọc từng dòng. Khi chúng tôi đọc xong, ông trao cho tôi một tờ giấy để mang về cho bố mẹ. Tờ giấy ghi: “Giờ Brené đã là người Công Giáo.”

3 Một nhánh của Anh quốc giáo tại Mỹ. (BTV)

Mọi thứ diễn ra khá tốt đẹp trong vài năm kế tiếp khi tôi đã bắt đầu quen với nếp sống mới ở New Orleans, phần nhiều là bởi tôi đã có người bạn thân nhất trên đời – Eleanor. Nhưng sau đó, một loạt biến cố xảy ra. Năm tôi học lớp bốn, chúng tôi rời New Orleans đến Houston. Sau đó, chúng tôi rời Houston đến Washington D.C. khi tôi học lớp sáu. Tới năm tôi học lớp tám, chúng tôi lại rời Washington để quay trở về Houston. Sự xáo trộn và lúng túng mà mọi người thường phải trải qua ở trường cấp hai, với tôi lại càng tăng thêm bội phần do tôi liên tục là “học sinh mới”. Đặc ân duy nhất vớt vát lại chính là trong suốt những năm tháng biến động đó, bố mẹ tôi vẫn luôn vui vẻ và hòa thuận với nhau. Điều đó có nghĩa là bất chấp những xáo trộn tôi gặp phải với những ngôi trường, những người bạn và những người xung quanh thay đổi liên tục, gia đình vẫn là chốn an toàn của tôi. Thậm chí, nó còn giống như một nơi có thể chạy trốn cảm giác lạc lõng, vô định. Khi tất cả mọi thứ đều gạt tôi ra ngoài, tôi vẫn cảm thấy mình thuộc về ngôi nhà và gia đình của mình.

Nhưng mọi thứ bắt đầu rạn nứt. Lần cuối cùng chuyển về Houston là điểm khởi đầu của chuỗi ngày dài khổ sở khi cuộc hôn nhân của bố mẹ tôi dần đi tới hồi kết. Và đúng lúc đó, sự xuất hiện của đội Bearkadettes như một món gia vị rất “gắt” được thêm vào mớ hỗn độn ấy.

Gia đình tôi quay về Houston khi tôi sắp học xong lớp tám và may mắn thay, tôi vẫn còn đủ thời gian để tham gia đội cổ vũ của trường, đội Bearkadettes. Cơ hội đó là tất cả đối với tôi. Trong một ngôi nhà càng ngày càng nhiều tiếng rì rầm tranh cãi của bố mẹ mà tôi luôn nghe thấy qua bức tường phòng ngủ, đội cổ vũ là sự cứu rỗi linh hồn. Tôi chỉ cần hình dung cảnh các cô gái xếp hàng trong bộ áo gi-lê lụa màu xanh viền trắng và váy ngắn, tất cả đều đội chung bộ tóc giả, đi giày cao bồi màu trắng, đội mũ cao bồi nhỏ màu trắng và thoa lớp son môi đỏ rực rỡ, hiên ngang tiến vào sân bóng của trường với khán đài chật kín chỗ, còn khán giả không dám rời chỗ trong nửa đầu trận đấu vì sợ bỏ lỡ những cú đá cao và những màn biểu diễn được biên đạo đều tăm tắp. Đó là sự cứu rỗi của tôi, là chốn an toàn mới rất đẹp đẽ với những bước chân ngay ngắn hoàn hảo.

Tám năm học múa ba lê đủ giúp tôi vượt qua việc học thuộc bài nhảy và chế độ ăn kiêng hai tuần chỉ toàn đồ lỏng đã giúp tôi vượt qua quy trình kiểm tra cân nặng gắt gao. Tất cả các cô gái lúc đó đều gần như kiệt sức với chế độ ăn chỉ toàn súp bắp cải và nước lọc. Thật khó để nghĩ đến việc cho phép một cô bé 12 tuổi tuân theo chế độ ăn kiêng như vậy, nhưng vì một lý do nào đó, lúc đó, việc ấy có vẻ bình thường.

Cho đến nay, tôi không chắc liệu mình đã bao giờ muốn một thứ gì đó mãnh liệt hơn khao khát giành một vị trí trong đội cổ vũ không. Sự hoàn hảo, sự chính xác và vẻ đẹp của nó không chỉ bù đắp cho hiện trạng lục đục ngày càng nghiêm trọng của bố mẹ tôi ở nhà, mà còn mang lại cảm giác thuộc về hết sức thiêng liêng. Tôi sẽ có một người “chị cả” giúp tôi trang trí tủ cá nhân của mình. Chúng tôi sẽ có những buổi tiệc ngủ và hẹn hò với các cầu thủ bóng bầu dục. Với một đứa trẻ đã xem vở nhạc kịch Grease 45 lần, tôi biết đây sẽ là sự khởi đầu của một cuộc sống thời trung học ngập tràn những bài hát tự động cất lên và các bài nhảy tự phát phiên bản thập niên 1980.

Và hơn hết, tôi có thể trở thành một phần của một thứ gì đó mà tất cả đều xoay quanh sự trật tự và ngăn nắp. Đội Bearkadettes là hiện thân của cảm giác thuộc về trong tôi.

Tôi không thực sự có người bạn nào nên phải tự mình vượt qua các thử thách trong bài kiểm tra. Bài nhảy khá dễ học – các bước nhảy vui tươi được thể hiện trên nền nhạc “Swanee” (bài hát có câu “tôi yêu em làm sao, tôi yêu em làm sao” ấy). Có nhiều động tác trượt qua lại với các điệu múa tay kiểu jazz và có cả một phần dành cho những cú đá cao. Tôi có thể đá cao hơn hầu hết các cô gái ngoại trừ một vũ công tên LeeAnne. Tôi luyện tập nhiều đến mức ngủ rồi cũng có thể thực hiện bài nhảy. Đến bây giờ, tôi vẫn nhớ vài phần của bài nhảy đó.

Ngày kiểm tra thật đáng sợ và tôi không chắc do quá căng thẳng hay do chế độ ăn kiêng quá hà khắc mà khi tỉnh dậy, tôi thấy đầu óc quay cuồng và tình trạng đó không hề thuyên giảm sau khi được mẹ đưa đến trường. Giờ đây, khi đã là mẹ của hai đứa trẻ – một tuổi thiếu niên và một tuổi nhi đồng – tôi cảm thấy thật khó để tưởng tượng ra nổi ngày trước tôi đã phải tự bước vào một mình như thế nào, khi xung quanh tôi là từng nhóm cô gái ùa ra khỏi xe và nắm tay nhau cùng chạy vào trường. Nhưng tôi nhanh chóng nhận ra vấn đề lớn hơn: tôi buộc phải tự bước vào một mình.

Tất cả các cô gái, ý tôi là tất cả bọn họ, đều chải chuốt từ đầu đến chân. Một số người mặc quần soóc lụa màu xanh và váy ngắn màu vàng, những người khác mặc áo sát nách xanh – vàng với chân váy trắng nhỏ nhắn. Trên tóc họ là đủ các kiểu nơ xanh và vàng. Và tất cả đều được trang điểm kỹ càng. Tôi không trang điểm chút nào và mặc chiếc quần ngắn cotton màu xám cùng áo nịt màu đen. Không ai bảo tôi nên ăn vận theo màu sắc biểu trưng của trường. Ai ai trông cũng rạng rỡ và tươi vui. Còn tôi trông chẳng khác nào một cô gái thảm hại có bố mẹ suốt ngày cãi nhau.

Tôi vượt qua bài kiểm tra cân nặng khi chỉ thừa 3kg. Kể cả như vậy, thì hình ảnh các cô gái bước xuống bàn cân và chạy về phía tủ đồ, giàn giụa nước mắt vẫn làm tôi ám ảnh.

Chúng tôi được gắn số lên áo và phải nhảy theo nhóm năm hoặc sáu người. Dù đầu óc quay cuồng nhưng tôi vẫn hoàn thành tốt bài nhảy. Khi mẹ đến đón, tôi cảm thấy khá tự tin và giữ bình tĩnh về nhà đợi kết quả. Người ta sẽ dán số vào ngay buổi tối hôm đó. Từng giây từng phút trôi qua tựa như một thước phim quay chậm.

Cuối cùng, vào lúc 6 giờ 05 phút, chúng tôi tới bãi đỗ xe của ngôi trường cấp ba mà tôi sẽ theo học. Toàn bộ gia đình tôi – mẹ, bố, em trai và các em gái – đều ở trong xe. Tôi đi xem kết quả và sau đó chúng tôi sẽ tới San Antonio để thăm ông bà. Tôi tiến tới tấm bảng treo ở ngoài cửa phòng tập. Đứng cạnh tôi là một cô gái cùng nhóm thi với tôi. Cô ấy là người rạng rỡ nhất, tươi vui nhất trong đám đông. Và trên hết, tên cô ấy là Kris. Đúng vậy, cô ấy thậm chí còn sở hữu một trong những cái tên được cả đám con trai và lũ con gái ước ao nhất, chúng tôi ai cũng mong có được cái tên như vậy.

Danh sách được sắp xếp theo thứ tự. Nếu trong đó có số của bạn thì bạn được chọn vào đội. Nếu không, bạn bị loại. Số của tôi là 62. Mắt tôi dán chặt vào dãy số 60: 59, 61, 64, 65. Tôi nhìn lại lần nữa. Tôi không tài nào hiểu nổi. Tôi nghĩ nếu nhìn chằm chằm vào nó đủ lâu và nếu vũ trụ thấu hiểu được niềm hy vọng của tôi mong manh đến mức nào, số của tôi sẽ hiện ra một cách thần kỳ. Tôi bị tiếng hét của Kris kéo ra khi đang cố thương lượng với vũ trụ. Cô nhảy cẫng lên và trước khi tôi có thể hiểu được điều gì đang xảy ra, bố cô ấy đã nhảy ra khỏi xe, chạy tới, bế bổng cô lên và xoay một vòng, giống như trong phim vậy. Sau này, tôi nghe phong thanh rằng tôi là một vũ công cự phách nhưng không có tố chất phù hợp với Bearkadettes. Không nơ. Không tỏa sáng. Không chơi cùng nhóm nào. Không bạn bè. Không có nơi nào để thuộc về.

Tôi chỉ có một mình. Và tôi cảm thấy vô cùng tuyệt vọng.

Tôi quay về xe nhà mình và ngồi ở hàng ghế sau, rồi bố tôi lái xe đi. Bố mẹ tôi không nói lời nào. Không một lời nào. Sự im lặng như mũi dao cứa sâu vào trái tim tôi. Họ cảm thấy xấu hổ vì tôi và thay cho tôi. Bố tôi từng là đội trưởng của đội bóng. Mẹ tôi là đội trưởng đội cổ vũ. Tôi không là gì. Bố mẹ tôi, đặc biệt là bố tôi, luôn xem việc phải trở nên tuyệt vời và hòa nhập tốt quan trọng hơn bất kỳ thứ gì khác. Tôi không tuyệt vời. Tôi không hòa nhập.

Và lúc đó, lần đầu tiên tôi cảm thấy mình cũng không thuộc về gia đình này.

Câu chuyện về đội cổ vũ dễ bị xem là chuyện vặt vãnh so với các vấn đề lớn lao hơn mà thế giới đang phải đối mặt hiện nay. (Tôi có thể thấy hashtag #vandequantrongcuathegioi đâu đó quanh đây). Nhưng bạn có biết, nó có ý nghĩa với tôi đến nhường nào không? Tôi không biết đó là sự thật hay chỉ là câu chuyện mà tôi tự tưởng tượng trong giây phút im lặng đó, nhưng dù thế nào, hôm đó cũng là ngày mà tôi không còn thuộc về gia đình – đơn vị nguyên thủy nhất, quan trọng nhất trong tất cả các nhóm xã hội của chúng ta. Nếu bố mẹ tôi an ủi hay nói rằng tôi đã rất nỗ lực hay tốt hơn nữa, nếu họ làm điều tôi thực sự mong muốn trong giây phút đó, nếu họ bênh vực tôi, nói rằng điều đó thật tệ và tôi xứng đáng được lựa chọn – thì câu chuyện này sẽ không phải là câu chuyện định hình và vẽ nên hành trình cuộc đời tôi. Nhưng mọi việc sau này lại diễn ra chính xác như vậy.

Chia sẻ câu chuyện này khó khăn hơn tôi tưởng. Tôi phải lên iTunes để tìm lại bài hát trong buổi kiểm tra và khi mới nghe hết đoạn đầu, tôi bắt đầu khóc. Việc không được chọn vào đội cổ vũ không làm tôi gục ngã, nhưng tôi khóc cho cô gái mà tôi không thể an ủi lúc đó. Cô gái đó không hiểu chuyện gì đang xảy ra và vì sao lại như vậy. Tôi khóc cho bố mẹ tôi – những người được trang bị quá ít ỏi để có thể làm gì đó với nỗi đau và tổn thương của tôi. Họ không thể nói ra những lời an ủi, hay chí ít là xuất hiện và trấn an kịp thời lúc tôi cảm thấy không thuộc về họ. Đó là những giây phút mà nếu không nói ra và không giải quyết, chúng sẽ khiến chúng ta sống một cuộc đời luôn tuyệt vọng trong việc tìm kiếm cảm giác thuộc về và hòa nhập. May mắn thay, bố mẹ tôi chưa bao giờ rơi vào ảo tưởng rằng nghĩa vụ của người làm cha làm mẹ sẽ kết thúc khi con cái rời khỏi nhà. Chúng tôi đã học về lòng dũng cảm, sự tổn thương và cảm giác thực sự thuộc về nhau. Đó là một điều kỳ diệu bé nhỏ.

Thậm chí trong bối cảnh chúng ta phải chịu đựng sự nghèo khó, bạo lực, vi phạm nhân quyền thì cảm giác không thuộc về gia đình vẫn là một trong những nỗi đau nguy hiểm nhất. Đó là bởi nó có sức mạnh làm tan vỡ trái tim, bẻ gãy tinh thần của chúng ta và dập tắt cảm giác trân trọng bản thân. Cả ba đều xảy ra với tôi. Khi những thứ đó bị phá vỡ, chỉ có ba kết quả và đó là những thứ tôi đã kiểm chứng trong cuộc sống cũng như trong công việc:

Bạn sống trong nỗi đau dai dẳng và luôn tìm kiếm sự giải thoát bằng cách khiến nó tê liệt và/hoặc bắt người khác phải chịu nỗi đau đó.

Bạn phủ nhận nỗi đau của mình và sự phủ nhận đó sẽ dẫn đến việc bạn tìm cách truyền lại nỗi đau cho người khác hay cho con cái.

Bạn tìm thấy lòng dũng cảm để làm chủ nỗi đau rồi biến nó thành sự cảm thông và đồng cảm với bản thân cũng như người khác, từ đó, bạn có thể nhìn thấy những nỗi đau khác trên thế giới này theo cách riêng của mình.

Tôi chắc chắn đã trải qua hai kết quả đầu. Ơn Chúa, tôi đã vượt qua để tới được kết quả thứ ba.

Sau cơn ác mộng mang tên Bearkadettes, những cuộc cãi vã ở nhà tôi ngày càng gay gắt. Chúng thường là những trận chiến thiếu kiểm soát. Bố mẹ tôi không có kỹ năng giải quyết vấn đề theo cách khác. Khi tự nhủ rằng bố mẹ mình là những người duy nhất trên thế giới phải chật vật để duy trì hôn nhân, tôi cảm thấy vô cùng xấu hổ. Tất cả bạn bè của các em tôi khi đến nhà tôi thường gọi bố mẹ tôi là “Cô chú B” với vẻ thân mật, như thể họ là những người rất tuyệt. Nhưng tôi biết về những cuộc cãi vã bí mật đó và hiểu rằng so với những người bạn có bố mẹ tuyệt vời không thua gì trên ti-vi, tôi lại một lần nữa trở thành kẻ ngoài cuộc. Có lẽ vì vậy mà sự xấu hổ về bí mật đó ngày càng tích tụ.

Tất nhiên, quan điểm được phát triển từ những kinh nghiệm. Tôi không có kinh nghiệm trong việc liên kết và nhìn nhận những gì đang xảy ra, còn bố mẹ tôi chỉ đang cố gắng sống với nhau một cách hòa hợp nhất có thể, vậy nên tôi không cho là họ từng nghĩ đến việc chia sẻ quan điểm của họ với chúng tôi. Tôi dám chắc mình là đứa duy nhất trong thành phố, thậm chí là trên thế giới, sống sót sau vở kịch nhảm nhí này, bất chấp sự thật rằng trường cấp ba của tôi được đưa tin khắp nước Mỹ vì số học sinh tự tử đáng báo động. Mãi về sau, khi thế giới đã thay đổi và người ta bắt đầu nói về những khó khăn của bản thân, tôi mới nhận ra đã có bao cặp vợ chồng hoàn hảo phải ly dị, phải chết do sống quá nghèo khổ, hay may mắn hơn, đang trên đà tái hợp.

Đôi khi, điều nguy hiểm nhất đối với đứa trẻ chính là sự im lặng mà ở đó, chúng sẽ tự vẽ nên câu chuyện của riêng mình – những câu chuyện mà gần như trong đó, chúng luôn là nhân vật cô độc, không đáng được yêu thương và không có cảm giác thuộc về nơi đâu. Đó là câu chuyện của tôi, thế nên, thay vì thực hiện những cú đá cao trong giờ giải lao giữa trận bóng, tôi giấu cần sa trong chiếc ghế lười và chơi cùng những đứa trẻ lêu lổng, tìm kiếm những ai cùng nhóm với mình bằng mọi cách. Tôi không bao giờ cố gắng cho bất kỳ điều gì nữa. Thay vào đó, tôi trở nên sành sỏi trong việc hòa nhập bằng cách làm bất kỳ điều gì để cảm thấy người khác cần mình và cảm thấy mình là một phần của cái gì đó.

Trong suốt những cuộc cãi vã triền miên và ngày càng gay gắt của bố mẹ, ba đứa em của tôi thường vào phòng tôi ngồi đợi. Là con cả, tôi bắt đầu sử dụng siêu năng lực hòa nhập mới hình thành của mình để tìm hiểu điều gì đã dẫn đến những cuộc cãi vã rồi từ đó lên kế hoạch can thiệp một cách có tính toán nhằm “khiến mọi thứ tốt đẹp hơn”. Tôi có thể là cứu tinh cho các em và cho gia đình. Khi can thiệp thành công, tôi tự xem mình là anh hùng. Khi thất bại, tôi đổ lỗi cho bản thân và càng quyết tâm tìm kiếm phương thức mới. Tôi chỉ vừa nghĩ đến điều này khi viết đến đây – giây phút đó chính là lúc tôi bắt đầu chọn công việc nghiên cứu thay vì đắm chìm trong tổn thương.

Khi nhìn lại, tôi nhận ra có lẽ nhờ cảm giác không thuộc về đâu, tôi mới có sự nghiệp như ngày hôm nay. Lúc còn là một đứa trẻ, rồi trở thành thiếu niên, sau khi quan sát rồi nghiên cứu hành vi và tâm lý của con người, tôi đã tìm thấy cơ chế đối phó cơ bản của mình đối với cảm giác không thuộc về nơi đâu. Tôi tìm kiếm các hình mẫu chung và mối liên kết. Tôi biết nếu nhận dạng được các hình mẫu trong hành vi của người khác và liên kết các đặc điểm đó với những gì họ cảm nhận cùng những gì họ đang làm, tôi có thể tìm ra cách kết nối với họ. Tôi sử dụng kỹ năng nhận dạng hình mẫu để phán đoán người khác muốn gì, nghĩ gì hay đang làm gì. Tôi học cách nói những gì cần nói hay cách xuất hiện đúng lúc. Tôi trở thành chuyên gia hòa nhập với mọi người, một con tắc kè hoa. Và là một người lạ cô độc với chính bản thân mình.

Theo thời gian, tôi ngày càng hiểu về những người xung quanh hơn cả những gì họ hiểu về chính họ, nhưng trong quá trình đó, tôi lại đánh mất bản thân. Năm 21 tuổi, tôi vào đại học rồi bỏ học, sống sót qua cuộc ly hôn của bố mẹ, đi phượt châu Âu trong sáu tháng và làm đủ mọi việc ngu ngốc để tự hủy hoại chính mình, chỉ thiếu mỗi ma túy. Nhưng tôi ngày càng kiệt sức. Tôi vẫn cố gắng tiếp tục dù bên trong tôi đang dần mục rữa. Anne Lamott đã gói gọn kiểu trốn chạy đó một cách hoàn hảo trong câu nói: “Cuối cùng, tôi sa đọa nhanh hơn tốc độ tự hạ thấp tiêu chuẩn của mình.”

Vào năm 1987, tôi gặp Steve. Vì lý do nào đó, tôi ở bên anh nhiều hơn so với bất kỳ ai kể từ người bạn thân đầu tiên của tôi, Eleanor. Anh thấu hiểu tôi. Và mặc dù anh gặp tôi trong những ngày tôi đắm chìm trong sự buông thả bản thân, anh vẫn thấy được con người thật của tôi và thích tôi. Anh cũng gặp phải tổn thương gia đình giống như tôi, nên anh nhận ra nỗi đau đó, và lần đầu tiên trong cuộc đời của cả hai, chúng tôi kể cho nhau nghe về những trải nghiệm của mình. Chúng tôi mở lòng với nhau. Có những lúc, chúng tôi nói chuyện qua điện thoại hơn 10 tiếng đồng hồ. Chúng tôi nói về mỗi trận cãi vã mà mình chứng kiến, nỗi cô đơn mà mình đang đấu tranh và nỗi đau thấu tâm can vì không thuộc về nơi nào.

Khởi đầu từ tình bạn, tiếp đến là rung động và cuối cùng là một tình yêu nảy nở. Đừng bao giờ xem thường sức mạnh của việc được thấu hiểu. Khi ai đó thực sự thấu hiểu và yêu thương bạn, sẽ rất mệt mỏi nếu bạn cứ tiếp tục sống không đúng với bản chất. Có những ngày, tình yêu của anh tựa như món quà. Những ngày khác, tôi lại ghét anh vì điều đó. Nhưng khi tôi bắt đầu nhìn thấy con người thật của chính mình, trong tôi ngập tràn cảm giác tiếc thương và khao khát. Tiếc thương cho cô gái chưa bao giờ thuộc về bất kỳ đâu và khao khát tìm ra tôi là ai, tôi thích cái gì, tôi tin vào điều gì và tôi muốn đi đến đâu. Steve không hề cảm thấy nản lòng trước nỗ lực tìm kiếm tâm hồn của tôi. Anh yêu việc đó. Anh ủng hộ nó.

Vậy nên, không đâu thưa Tiến sĩ Angelou, không thuộc về nơi nào không thể là sự tự do hay điều gì đó tốt đẹp được. Tôi vẫn không hiểu ý của bà là gì.

Bảy năm sau khi gặp nhau, Steve và tôi kết hôn. Anh tốt nghiệp trường y và làm việc tại bệnh viện nội trú. Tôi tốt nghiệp đại học và học lên cao học. Năm 1996, một ngày sau khi kết thúc khóa học thạc sĩ, tôi quyết định biến cam kết sống tốt hơn trở thành hiện thực, bao gồm bỏ rượu và thuốc lá. Thú vị thay, người bảo trợ tổ chức bỏ rượu AA4 đầu tiên của tôi đã nói với tôi: “Tôi không nghĩ cô thuộc về AA. Cô nên thử các buổi gặp mặt hai người.” Người tổ chức các cuộc gặp mặt hai người lại bảo tôi quay về AA hoặc thử OA5 do “Cô không hẳn thuộc về chúng tôi”. Bạn có tin được không? Thậm chí còn không thuộc về AA, rốt cuộc tôi thuộc về nơi nào?

4 Alcoholics Anonymous - Hội những người cai rượu.

5 Overeaters Anonymous - Chương trình hỗ trợ những người có vấn đề về ăn uống.

Cuối cùng, một người bảo trợ nói với tôi rằng tôi là tổng hợp của nhiều chất gây nghiện: do tôi sử dụng bất kỳ thứ gì có thể để không cảm thấy bị tổn thương. Cô ấy khuyên tôi hãy tìm một nhóm những người có thể nói chuyện – bất kể nhóm nào, miễn là tôi dừng uống rượu, hút thuốc, quan tâm quá mức tới mọi thứ và ăn uống không kiểm soát. Hẳn nhiên rồi.

Những năm đầu của cuộc hôn nhân thực sự khó khăn. Chúng tôi không có tiền và tinh thần của cả hai luôn bị vắt kiệt, từ bệnh viện của Steve đến nơi học cao học của tôi. Tôi sẽ không bao giờ quên mình đã nói với một nhà trị liệu ở trường rằng tôi không nghĩ cuộc hôn nhân này sẽ tốt đẹp. Cô ấy nói: “Có lẽ vậy. Anh ấy yêu cô nhiều hơn rất nhiều so với cô yêu anh ấy.”

Bắt đầu từ những năm tôi 20 tuổi, hành trình từ một chuyên gia hòa nhập với người khác đến cảm giác thuộc về đích thực kéo dài vài thập kỷ. Trong những năm tháng tuổi 30, tôi đã ngừng hủy hoại bản thân theo cách này, và thay thế bằng một cách hủy hoại khác: từ bỏ các buổi tiệc tùng để đổi lấy sự cầu toàn. Tôi vẫn phải vật lộn với việc là một kẻ ngoài cuộc – thậm chí trong công việc – nhưng điều đã thay đổi là phản ứng của tôi khi phải đối mặt với những việc giống như chuyện ngày xưa không nhìn thấy số của mình trên bảng thông báo. Thay vì âm thầm chịu đựng nỗi xấu hổ, tôi nói ra nỗi sợ và nỗi đau của mình. Liệu tôi muốn một cuộc đời sống trong khuôn mẫu hay sao? Không. Khi người ta bảo tôi không thể làm luận văn định tính, tôi vẫn làm. Khi họ cố thuyết phục tôi đừng nghiên cứu về nỗi xấu hổ, tôi vẫn làm. Khi họ nói rằng tôi không thể trở thành giáo sư hay viết ra những cuốn sách mà độc giả thực sự muốn đọc, tôi vẫn làm.

Đó không phải là việc chuyển từ điểm cực đoan này – chỉ nhờ hòa nhập mới tìm thấy giá trị – tới điểm cực đoan khác – chỉ bằng cách trở nên khác biệt, bướng bỉnh, nổi loạn mới tìm thấy giá trị. Chúng là hai mặt của một đồng xu. Tôi thật ra vẫn khao khát cảm giác thuộc về, và việc quyết định trở thành kẻ khác biệt trong nghề gần như lúc nào cũng khiến tôi lo âu và cảm thấy thiếu thốn. Đó không phải là quyết định lý tưởng nhất. Nhưng tôi đã đi đủ xa, thử đủ nhiều để hiểu rằng việc bị đồng hóa với người khác và làm những gì người ta mong muốn sẽ khiến tôi phải trả giá đắt – có thể là sức khỏe, hôn nhân hay sự tỉnh táo. Dù rất muốn hòa nhập, tôi vẫn chọn làm điều khác biệt trước khi hi sinh bất kỳ thứ gì.

Sau đó, vào năm 2013, một vài kỳ tích nho nhỏ đã xuất hiện và từ đó dẫn tới một trong những khoảnh khắc quan trọng nhất trong cuộc đời tôi. Oprah Winfrey đã mời tôi làm khách mời trên một chương trình mà tôi vô cùng yêu thích: Super Soul Sunday.

Đêm trước chương trình, tôi đi ăn với một trong những nhà sản xuất và quản lý của mình, anh ấy tên là Murdoch (người Scotland sống ở West Village và giờ đây có thể nói y’all6 giỏi không kém gì tôi). Sau bữa tối, khi chúng tôi đang rảo bước về khách sạn, anh ấy dừng lại ở một góc đường và hỏi tôi: “Brené, cô đang ở đâu?”

6 Tiếng lóng của “you all” (tất cả các bạn).

Khi tôi trả lời anh một cách lém lỉnh: “Ở góc đường Michigan và Chicago”, tôi biết tôi đang cảm thấy bị tổn thương. Và khi Murdoch giải thích rằng trong suốt bữa tối, tôi đã ở trạng thái “như trên mây” thế nào – Lịch sự và thân thiện ư? Có chứ. Nhưng ở thực tại ư? Không – tôi ngay lập tức hiểu điều gì đang xảy ra. Tôi nhìn Murdoch và thừa nhận: “Tôi đang làm những việc mà tôi làm khi sợ hãi. Tôi đang lơ lửng trên cuộc đời, quan sát và nghiên cứu nó thay vì tận hưởng cuộc sống.”

Murdoch gật đầu: “Tôi biết. Nhưng cô phải tìm cách dừng lại và đưa bản thân quay trở lại đây. Đó là việc quan trọng đấy. Tôi không muốn cô bỏ lỡ những năm tháng như vậy. Đừng nghiên cứu về khoảnh khắc này nữa. Hãy đắm chìm trong nó.”

Sáng hôm sau, khi tôi đang sửa soạn để gặp Oprah lần đầu tiên, con gái nhắn tin cho tôi. Con bé muốn chắc chắn là tôi đã ký và đưa lại tờ giấy xin phép đi dã ngoại của trường cho nó. Sau khi đảm bảo chắc chắn với con bé, tôi ngồi bên mép giường và cố kìm nước mắt. Tôi bắt đầu nghĩ: Tôi cần giấy xin phép để ngừng việc luôn nghiêm túc và luôn sợ hãi lại. Tôi cần giấy xin phép để tận hưởng niềm vui của ngày hôm nay. Và đó là lúc ý tưởng nhen nhóm. Sau khi đưa mắt khắp phòng để đảm bảo không ai nhìn thấy việc siêu ngớ ngẩn tôi sắp sửa làm, tôi bước tới chiếc bàn trong phòng, ngồi xuống và viết cho mình một tờ giấy xin phép trên giấy nhớ lấy ra từ cặp đựng máy tính. Tờ giấy chỉ ghi đơn giản: “Cho phép cảm thấy phấn khích, ngớ ngẩn và vui vẻ.”

Đó là tờ xin phép đầu tiên trong hàng trăm tờ giấy mà tôi tiếp tục viết cho chính mình sau này. Đến giờ, tôi vẫn viết chúng và chỉ dẫn mọi người sức mạnh của phương pháp đặt ra mục đích này. Nó thực sự hiệu quả. Nhưng cũng như tờ giấy xin phép mà bạn đưa cho con mình, chúng được phép đi tham quan sở thú, nhưng vẫn phải lên xe buýt. Hãy đặt mục tiêu lên xe buýt. Tuân thủ nó. Ngày hôm đó, tôi đã lên chuyến xe buýt của mình.

Lúc đó, tôi không nhận ra nhưng giờ nhìn lại, những tờ giấy xin phép đó thực ra chính là nỗ lực để tôi có thể cảm thấy thuộc về chính mình chứ không phải ai khác.

Oprah và tôi đã có buổi gặp mặt đầu tiên đầy cảm xúc trước máy quay, chúng tôi đã pha trò và cười đùa trong vài phút. Cô ấy là tất cả những gì mà tôi tưởng tượng. Quyết liệt và tốt bụng. Nhẹ nhàng và cứng rắn. Một tiếng đồng hồ trôi qua nhanh như chớp mắt. Khi kết thúc chương trình, Oprah quay sang nhìn tôi và bảo: “Chúng ta nên quay thêm một giờ nữa, một tập nữa.” Tôi nhìn quanh ái ngại, như thể chỉ nghĩ đến việc đó thôi cũng đủ khiến chúng tôi gặp rắc rối.

“Thật ư?” Tôi hỏi. “Cô chắc chứ?”

Oprah mỉm cười: “Thật. Chúng ta còn nhiều điều cần nói với nhau lắm.”

Tôi đưa mắt về căn phòng studio tối om mà tôi cho là phòng điều khiển và nói: “Cô có nghĩ là chúng ta nên xin phép không?”

Oprah lại mỉm cười: “Thế cô nghĩ chúng ta nên hỏi ý kiến ai?” Cô ấy không nói câu này với thái độ kiêu ngạo hay điều gì đó tương tự. Tôi nghĩ là cô ấy cho rằng câu hỏi của tôi khá hài hước.

“Ồ, đúng rồi. Tôi xin lỗi. Vậy thì có chứ. Có! Tôi thích điều này! Nhưng tôi có nên thay quần áo không? Ôi không! Tôi chỉ có mỗi bộ này với quần bò và giày cao bồi ở đây.”

“Giày và quần bò đều được. Tôi sẽ cho cô mượn áo.”

Cô ấy bước vào thay đồ, nhưng đi được vài bước, cô quay lại nói: “Maya Angelou đang ở đây. Cô có muốn gặp bà ấy không?”

Mắt tôi mờ đi. Thời gian như ngừng lại. Thế này là quá nhiều với tôi rồi. Chắc tôi chết mất.

“Brené? Này? Cô có muốn gặp Tiến sĩ Maya không?” Tôi nghĩ chắc tôi thực sự sẽ phát điên lên mất nếu Oprah cứ hỏi đi hỏi lại: “Thích không nào?”

Tôi nhảy ra khỏi ghế: “Có chứ. Ôi Chúa ơi! Có.”

Oprah nắm tay tôi bước vào căn phòng màu xanh lá thứ hai bên kia hành lang, từ căn phòng mà tôi sửa soạn cho chương trình. Chúng tôi bước vào và điều đầu tiên tôi chú ý là màn hình ti-vi mà Tiến sĩ Angelou đang ngồi cạnh. Trên màn hình là hình ảnh hai chiếc ghế trống mà Oprah và tôi đã ngồi lúc nãy.

Maya Angelou nhìn thẳng vào tôi: “Xin chào, Tiến sĩ Brown. Tôi xem chương trình của cô nãy giờ đấy.”

Tôi bước tới, bắt tay bà và nói: “Được gặp bà thực sự là niềm vinh hạnh đối với tôi. Bà có ý nghĩa rất lớn với tôi. Bà đóng một vai trò quan trọng trong cuộc sống của tôi.”

Bà vẫn cầm tay tôi và đặt tay kia lên tay tôi. “Cô đang làm một công việc có ý nghĩa quan trọng. Hãy cứ tiếp tục nhé. Hãy cứ nói về công việc của cô. Đừng dừng lại và đừng để bất kỳ ai cản đường.”

Rồi tôi kể cho bà nghe, thỉnh thoảng khi tôi dạy học, tôi tắt đèn và mở một cuốn băng cát-xét cũ cho cả lớp nghe. Trong cuốn băng là bài thơ “Our Grandmothers” (tạm dịch: Người bà của chúng tôi) do chính bà sáng tác và thu âm. Tôi kể rằng có những lúc tôi chỉ bật đi bật lại câu: “Tôi sẽ không lung lay...”

Bà nắm tay tôi chặt hơn, nhìn thẳng vào mắt tôi rồi hát bằng giọng chậm rãi và sâu lắng: “Như một cái cây trồng bên bờ sông, tôi sẽ không lung lay.” Rồi bà nắm chặt tay tôi và nói: “Đừng để bị dao động nhé, Brené!”

Như thể bà thu hết mọi can đảm mà tôi sẽ cần trong suốt cuộc đời và trao chúng lại cho tôi. Đời người mấy lần nhận được một món quà kỳ diệu như vậy, giây phút thức tỉnh tâm trí bạn và góp phần định hình con người bạn. Nhưng tôi đã được tặng món quà đó. Bạn sẽ làm gì nếu đang dành phần lớn cuộc đời để tìm cách hòa nhập với người khác thì bỗng nhiên Maya Angelou hát cho bạn nghe và bảo bạn đừng bị lung lay? Bạn nhận ra điều mình cần làm là phải đứng vững. Bạn phát triển, vươn ra, nhưng quyết tâm không rời bỏ chính mình. Hay ít nhất, bạn bắt đầu cố gắng làm điều đó.

Sáu tháng sau ngày kỳ diệu đó, tôi ngồi trong một căn phòng màu xanh khác ở Chicago. Lần này, tôi đang diễn thuyết tại một trong những sự kiện về tinh thần lãnh đạo lớn nhất thế giới. Ban tổ chức đặc biệt khuyên tôi nên mặc “đồ công sở” tới sự kiện. Tôi nhìn xuống chiếc quần vải và đôi giày mềm màu đen của mình, cảm thấy mình như người đi mượn. Hoặc trông như người đi dự đám tang vậy.

Tôi ngồi với một diễn giả khác (người phụ nữ mà sau này đã trở thành bạn tốt của tôi) và cô ấy hỏi tôi cảm thấy thế nào. Tôi thú nhận là mình đang lo sợ và rằng tôi không thể ngăn được cảm giác như thể mình đang chơi trò mặc quần áo cho búp bê. Cô ấy bảo tôi trông “rất đẹp” nhưng nét mặt thì lại nói rằng Tôi biết mà. Khổ lắm chứ. Nhưng chúng ta có thể làm được gì đây?

Tôi đứng dậy ngay lập tức, lấy chiếc va li của mình đang nằm dưới chân tường, bên cạnh va li của những diễn giả khác và vào nhà vệ sinh. Vài phút sau, tôi bước ra trong chiếc áo sơ mi màu xanh thủy thủ, quần jeans tối màu và đôi guốc. Người phụ nữ nhìn tôi, mỉm cười và nói: “Tuyệt vời. Cô dũng cảm lắm.”

Không rõ ý cô ấy thực sự là gì, nhưng tôi vẫn cười: “Không hẳn. Đây là điều cần thiết. Tôi không thể lên sân khấu, nói về sự chân thật và lòng dũng cảm trong khi chính mình không cảm thấy bản thân chân thật và dũng cảm chút nào. Tôi thực sự không thể làm được. Tôi ở đây không phải để con người công sở của tôi có thể nói với con người công sở của họ. Tôi ở đây để nói những lời từ trái tim tôi đến trái tim họ. Đây mới là tôi.” Đó là bước tiến quan trọng khác trong quá trình học cách cảm thấy thuộc về chính mình.

Vài tuần sau, tôi lại có dịp đụng độ với thế giới công sở một lần nữa. Khi đang xem qua thông tin về các sự kiện diễn thuyết sắp tới, tôi đọc được lời nhắn của một người tổ chức sự kiện như sau: “Chúng tôi đã nghe bà diễn thuyết tại hội nghị năm ngoái. Chúng tôi rất mong bà có thể tới diễn thuyết cho các lãnh đạo của đơn vị chúng tôi. Khi chúng tôi xem bài diễn thuyết của bà, bà có nói đến tầm quan trọng của việc biết được giá trị cốt lõi – chúng tôi rất thích điều đó. Tuy nhiên, bà có nhắc đến lòng tin như một trong hai giá trị soi đường của bà. Do bối cảnh diễn thuyết lần này thuộc phạm vi doanh nghiệp, chúng tôi sẽ rất biết ơn nếu bà không nhắc đến lòng tin. Lòng dũng cảm là giá trị còn lại của bà và nó rất tuyệt vời. Bà có thể chỉ nói về mỗi nó thôi được không?”

Tôi cảm thấy lồng ngực mình thắt lại và mặt mỗi lúc một nóng bừng. Ít lâu trước đó, một câu chuyện tương tự cũng từng xảy ra. Ban tổ chức sự kiện nói với tôi rằng dù họ “biết ơn phương pháp tiếp cận trực tiếp và chất phác của tôi”, họ mong tôi không dùng từ thô tục do điều này có thể khiến một số “khán giả trung thành” quay lưng, những người “đã châm chước cho tôi” nhưng vẫn cảm thấy bị xúc phạm.

Nhảm nhí. Toàn là nhảm nhí. Tôi không làm nữa. Tôi thà không diễn thuyết còn hơn. Tôi chán phải làm theo ý người khác rồi.

Tôi đã dành toàn bộ sự nghiệp của mình để ngồi bên biết bao con người, lắng nghe họ kể về những giây phút khó khăn nhất, đau khổ nhất trong đời họ. Sau 15 năm làm công việc này, tôi có thể tự tin nói rằng những câu chuyện về nỗi đau và lòng dũng cảm gần như luôn luôn bao gồm hai điều: cầu nguyện và chửi rủa. Đôi khi hai điều này còn xảy ra cùng lúc.

Tôi xỏ chân vào giày, bước ra cửa và đi dạo quanh nhà. Lúc đó, tôi nghĩ về câu trả lời của mình. Khi đi hết ngã rẽ cuối cùng để về nhà, tôi đã quyết định về lời phản hồi cho đề nghị này và những đề nghị tương tự về sau: Nếu anh nghĩ tôi sẽ gọt giũa sự thật hay phủ một lớp bóng bẩy lên trải nghiệm thực sự của người khác thì anh sai rồi. Tôi sẽ không làm mấy trò như Joe Pesci7 trong Goodfellas, nếu anh không chịu được việc tôi nói những từ mà anh cho là thô tục như “biến đi” hay “chết giẫm”, hay nếu anh cần tôi phải giả vờ rằng lòng tin không quan trọng thì tôi không phải là người anh cần tìm. Có rất nhiều giáo viên, diễn giả tuyệt vời ngoài kia và anh chỉ cần tìm một người ăn mặc đẹp đẽ, kể câu chuyện đẹp đẽ và nói lời đẹp đẽ. Đó không phải là tôi. Đó không còn là tôi.

7 Một nhân vật tội phạm trong phim Goodfellas.

Tôi sẽ không lung lay.

Khi Steve về nhà, tôi kể cho anh về quyết tâm mới của mình rồi ngồi xuống và tựa vào vai anh. Tôi nói: “Khó thật đấy anh ạ. Em không thuộc về bất kỳ đâu. Em không thuộc về nơi nào hết. Mọi nơi em đến, em đều là kẻ ngoài cuộc luôn cố phá vỡ quy tắc và nói về những điều không ai nói. Em không thuộc về một hội nhóm cụ thể nào cả. Và đây sẽ là cách em sống cho đến hết cuộc đời.”

Steve không cố khích lệ tôi. Thay vào đó, anh đồng tình và nói rằng đúng là tôi không thuộc về bất kỳ nhóm nào cả. Anh cũng nhắc tôi rằng tôi thuộc về nơi có anh và hai đứa con Ellen và Charlie, và rằng tôi có thể cầu nguyện hay chửi rủa như thế nào cũng được, miễn là tôi có đủ tiền để nộp cho Charlie cho mỗi từ chửi tục.

Tôi mỉm cười, nhưng cảm thấy nước mắt dâng trào. Tôi nói với Steve: “Em đã sống cả một đời lạc lõng giữa những đám đông. Thật khó khăn. Đôi khi, ngôi nhà của chúng ta là nơi duy nhất em cảm thấy không hoàn toàn một mình. Em luôn có cảm giác em đang đi trên một con đường mà chính bản thân em cũng không thể nào hiểu nổi vì cả chặng đường ấy chỉ có duy nhất một kẻ độc hành là em. Không có ai đi trước em và bảo em rằng: ‘Không sao đâu. Có những giáo sư, nhà nghiên cứu, người kể chuyện, nhà lãnh đạo, người khởi nghiệp, người chửi thề..., tất cả bọn họ đều tin vào giá trị của lòng tin. Việc của bạn lúc này là vững tin bước tiếp’.”

Steve nắm tay tôi và bảo: “Anh biết điều này thực sự khó khăn. Và em hẳn phải thấy cô đơn lắm. Em khá lập dị – là người dị biệt theo nhiều cách khác nhau. Nhưng vấn đề là thế này em ạ: Có hơn 20 diễn giả ở hội nghị lớn về tinh thần lãnh đạo đó, và em là diễn giả được xếp hạng cao nhất. Trong chiếc quần jeans và đôi guốc. Em thấy không, làm sao em biết được có ai thuộc về vị trí đó xứng đáng hơn em? Em sẽ luôn luôn thuộc về mọi nơi em xuất hiện mà ở đó em là em, em nói về bản thân em và công việc của em một cách chân thật.”

Và đó chính là khoảnh khắc của đời tôi.

Cuối cùng tôi đã hiểu ra tầng ý nghĩa cơ bản và thực tế trong lời của Maya Angelou. Tôi hôn Steve, chạy vào phòng làm việc, lấy máy tính xách tay ra và tìm kiếm trên Google câu nói của bà. Mang máy tính quay lại ghế bành, tôi đọc nó cho Steve nghe:

“Bạn chỉ tự do khi bạn nhận ra mình không thuộc về nơi nào – bạn thuộc về mọi nơi và cũng không thuộc về nơi nào cả. Cái giá phải trả rất đắt. Phần thưởng nhận được cũng xứng đáng không kém.”

Đó là giây phút mà câu chuyện về hành trình đi tìm bản ngã của tôi đã bước sang một trang mới – câu chuyện về một cô gái trẻ cô đơn, không tỏa sáng, đứng vô vọng trước cửa phòng tập tìm kiếm con số chứng minh cô ấy thuộc về một nơi nào đó. Tôi đã đạt được thành công trong sự nghiệp. Tôi có một người bạn đời tuyệt vời với những đứa con tuyệt vời. Nhưng tôi vẫn không ngừng bị ám ảnh bởi câu chuyện không thuộc về thế giới này hay không thuộc về gia đình, cho đến giây phút đó.

Steve biết điều gì đó đang thay đổi trong tôi. “Cái giá phải trả rất đắt. Nhưng phần thưởng là em có thể đưa công trình nghiên cứu của mình bước ra ánh sáng của thế giới một cách chân thực – chân thực với những người đã chia sẻ câu chuyện của họ, cuộc đời của họ với em.”

Tôi hỏi Steve liệu anh có thực sự hiểu được sự ngang trái kỳ lạ của việc cô đơn nhưng vẫn cảm thấy thuộc về –thật sự thuộc về là như thế nào không. Anh nói: “Có. Anh cũng hay cảm thấy như vậy. Đó là nghịch lý của việc cảm thấy cô đơn nhưng cũng thấy thật mạnh mẽ. Đôi khi các ông bố, bà mẹ nổi cáu vì anh không kê thuốc kháng sinh cho con họ. Điều đầu tiên họ nói là: ‘Mọi bác sĩ khoa Nhi khác đều làm vậy. Tôi chỉ làm theo số đông thôi.’ Điều này thật không dễ chấp nhận nhưng anh luôn tin vào suy nghĩ: Chỉ mỗi mình làm vậy cũng chẳng sao cả. Cách làm của người khác không phải là điều tốt nhất cho đứa trẻ này. Mình tin là vậy. Chấm hết.”

Tôi càng ngày càng lĩnh hội nhanh hơn. Tôi giải thích với Steve rằng dù giờ đây tôi cảm thấy mình đã hiểu được sự tổn thương và lòng dũng cảm khi tự đứng trên đôi chân của mình là như thế nào nhưng tôi vẫn không thể dứt bỏ cảm giác mong muốn là một phần của cái gì đó. Tôi muốn “có hội có hè”. Anh ấy bảo: “Em có nhóm của em, nhưng nó nhỏ và không phải ai trong nhóm đó cũng đồng tình hay làm cùng một việc giống nhau. Nhưng thành thật mà nói, em cũng ghét những nhóm hội như vậy còn gì.” Tôi biết anh nói đúng, nhưng tôi vẫn muốn hiểu sâu hơn nữa.

Cuối cùng, tôi đứng lên và bảo anh rằng tôi phải nghiền ngẫm câu nói của Maya và nghiên cứu sâu hơn về cảm giác thuộc về. Lời anh đáp lại vẫn khiến tôi bật cười: “Ồ, anh biết rồi. Anh biết phải làm thế nào rồi. Muốn anh đi mua đồ ăn tối không? Anh sẽ rất vui nếu có thể gửi cho em ít đồ ăn khi em bước vào cái mê cung nghiên cứu của mình. Lần cuối cùng em nghiền ngẫm nghiên cứu để tìm ra điều khiến em khó chịu đã mất tận hai năm đấy.”

Tôi cầm trong tay bản ghi chép đầy đủ của cuộc phỏng vấn giữa Bill Moyers và Maya Angelou, và lần đầu tiên tôi đọc những dòng sau:

MOYERS: Bà có thuộc về nơi nào không?

ANGELOU: Vẫn chưa.

MOYERS: Bà có thuộc về ai không?

ANGELOU: Càng ngày càng nhiều hơn. Ý tôi là, tôi thuộc về chính mình. Tôi rất tự hào về điều đó. Tôi rất quan tâm đến cách tôi nhìn Maya. Tôi rất thích Maya. Tôi rất thích khiếu hài hước và lòng dũng cảm. Và khi tôi thấy mình đang hành xử theo cách... không khiến bản thân thấy hài lòng, thì tôi phải tự giải quyết chuyện đó.

Tôi ngẩng mặt lên sau khi đọc đoạn trao đổi này và nghĩ: Maya thuộc về Maya. Tôi thuộc về tôi. Tôi hiểu rồi. Tôi chưa hoàn toàn thuộc về tôi nhưng ít nhất là tôi đang cố gắng từng chút một.

Lần này, việc hóa giải mê cung nghiên cứu của tôi mất đến bốn năm. Tôi quay lại với những dữ liệu cũ, thu thập dữ liệu mới và bắt đầu phát triển Lý thuyết Cảm giác thuộc về đích thực.

Tôi khám phá ra rằng có nhiều điều mình cần phải học về ý nghĩa của cảm giác thuộc về đích thực.