← Quay lại trang sách

Chương 2 Hành trình đi tìm cảm giác thuộc về đích thực

“Bạn chỉ tự do khi bạn nhận ra mình không thuộc về nơi nào – bạn thuộc về mọi nơi và cũng không thuộc về nơi nào cả. Cái giá phải trả rất đắt. Phần thưởng nhận được cũng xứng đáng không kém.”

☆☆☆

Cảm giác thuộc về đích thực

Tôi không biết chính xác vì đâu mà hai từ8 này được kết hợp với nhau, nhưng tôi biết chắc rằng có một sự hợp lý đến lạ kỳ khi đặt chúng cạnh nhau. Nó mang lại cảm giác đó là thứ tất cả chúng ta đều khao khát và mong muốn trong cuộc sống này. Chúng ta muốn thuộc về nơi nào đó nhưng cũng muốn sự thuộc về đó phải chân thật, không giả dối, hay mơ hồ, không chắc chắn. Chúng ta cần cảm giác thuộc về đích thực. Nhưng chính xác thì nó là gì?

8 True belonging.

Trong cuốn The Gifts of Imperfection (Món quà của sự không hoàn hảo), tôi đã định nghĩa khái niệm thuộc về như sau:

Cảm giác thuộc về là mong muốn bẩm sinh của con người khi muốn trở thành một phần của cái gì đó lớn lao hơn chúng ta. Do khao khát này hết sức nguyên thủy nên chúng ta thường cố đạt được nó bằng cách hòa nhập và tìm kiếm sự đồng thuận từ mọi người. Đây không chỉ là sự thay thế vô nghĩa của cảm giác thuộc về mà còn là rào cản ngăn chúng ta không thể có được cảm giác thuộc về đích thực. Bởi cảm giác thuộc về đích thực chỉ đến khi chúng ta bộc lộ cái tôi chân thực, không hoàn hảo với thế giới. Do đó, chúng ta càng sẵn sàng chấp nhận bản thân bao nhiêu thì cảm giác thuộc về của chúng ta càng lớn bấy nhiêu.

Khái niệm này đã vượt qua thử thách của thời gian cũng như sự xuất hiện của các dữ liệu mới, nhưng nó vẫn chưa hoàn chỉnh. Cảm giác thuộc về đích thực còn nhiều hơn thế. Để chúng ta có thể là chính mình đồng nghĩa với việc đôi khi ta phải lấy hết can đảm để đứng một mình, hoàn toàn chỉ có một mình. Kể cả trong khoảng thời gian viết cuốn sách này, tôi vẫn hoang mang rằng cảm giác thuộc về là một thứ gì đó ở bên ngoài chúng ta – một thứ chúng ta có được bằng cách thể hiện đúng con người mình, đúng vậy, nhưng vẫn cần sự tham gia của người khác trong trải nghiệm đó. Vậy nên, khi tìm hiểu sâu hơn về cảm giác thuộc về đích thực, tôi đã thấy rõ rằng nó không phải là thứ chúng ta đạt được hay có được cùng với người khác mà đó là thứ chúng ta mang trong tim mình. Chỉ khi chúng ta hoàn toàn thuộc về chính mình và tin tưởng tuyệt đối vào bản thân thì cảm giác thuộc về đích thực mới là của chúng ta.

Thuộc về chính mình cũng đồng nghĩa với việc phải đứng một mình – phải dấn thân vào thế giới hoang dã9 của sự bất định, của sự tổn thương và của những chỉ trích. Và điều này trở nên khó khăn gấp bội khi chúng ta đang sống trong một thế giới luôn xung đột về mặt chính trị và tư tưởng. Có vẻ như chúng ta đã quên rằng kể cả khi chỉ có độc mình ta, chúng ta vẫn kết nối với nhau bằng một thứ lớn lao hơn tính cộng đồng, quan điểm chính trị hay tư tưởng. Chúng ta kết nối với nhau bằng tình yêu và tâm hồn con người. Dù những gì chúng ta suy nghĩ và tin tưởng chia cách chúng ta đến thế nào thì chúng ta vẫn là những nhân vật trong cùng một câu chuyện – câu chuyện về tâm hồn con người.

9 Nguyên văn “wilderness”: Là hình ảnh ẩn dụ cho việc dám tự đứng lên bảo vệ ý kiến của mình, dám không nghe theo người khác để vẫn là chính mình.

Định nghĩa cảm giác thuộc về đích thực

Tôi nghiên cứu lý thuyết cơ sở định tính. Mục đích của lý thuyết cơ sở là phát triển các lý thuyết dựa trên trải nghiệm trong cuộc sống của con người, thay vì chứng minh hay bác bỏ những lý thuyết sẵn có. Trong lý thuyết cơ sở, các nhà nghiên cứu cố gắng tìm hiểu về một khái niệm mà chúng tôi gọi là “nỗi lo lớn nhất” của đối tượng tham gia nghiên cứu. Đối với cảm giác thuộc về, tôi đưa ra câu hỏi: Người ta đang cố đạt được điều gì? Họ đang lo lắng về điều gì?

Câu trả lời hóa ra lại phức tạp đến mức đáng ngạc nhiên. Người ta muốn trở thành một phần của cái gì đó – được trải nghiệm cảm giác kết nối chân thật với người khác – nhưng lại không muốn đánh đổi bản chất con người mình, tự do của mình hay quyền lợi của mình. Những đối tượng tham gia nghiên cứu giải thích thêm rằng họ cảm thấy họ đang sống giữa nền văn hóa “ta và người”, từ đó tạo ra cảm giác xa cách về mặt tâm linh. Khi tôi hỏi kỹ hơn về ý nghĩa của “xa cách về mặt tâm linh”, họ mô tả đó là cảm giác ngày càng thiếu sự sẻ chia tình người. Rất nhiều lần, các đối tượng tham gia nghiên cứu khi nói về nỗi lo của họ đều cho rằng điều duy nhất gắn kết chúng ta bây giờ là nỗi sợ hãi và sự khinh thường, thay vì sự sẻ chia tình người, lòng tin, sự tôn trọng hay tình yêu. Họ nói về cảm giác ngày càng sợ hãi khi bất đồng quan điểm hay khi phải tranh luận với bạn bè, đồng nghiệp, gia đình bởi phép tắc xã hội và lòng khoan thứ dường như không còn nữa.

Trong giây phút phân vân khi phải chọn giữa việc trung thành với một nhóm người hay trung thành với chính mình, cộng thêm cảm giác thiếu thốn sự kết nối tâm hồn giữa người với người, họ càng nhận thức rõ áp lực phải “hòa nhập” và thích nghi. Khi kết nối với cộng đồng có sự gắn kết về mặt tâm hồn sâu sắc hơn, người ta sẽ có nhiều sự tự do để thể hiện bản sắc của mình mà không sợ mất đi cảm giác thuộc về. Đây chính là tinh thần mà hiện chúng ta còn thiếu: “Đúng vậy, chúng ta khác biệt ở nhiều khía cạnh, nhưng sau tất cả, chúng ta vẫn kết nối sâu sắc với nhau.”

Trong khi tìm hiểu về mối lo lớn nhất của con người khi nói đến cảm giác thuộc về, tôi đã xem lại cuốn Món quà của sự không hoàn hảo để tìm lại khái niệm tâm linh đã xuất hiện trong dữ liệu năm 2010:

Tâm linh thừa nhận và tôn vinh một sự thật – tất cả chúng ta đều kết nối với nhau thành một khối không thể tách rời bằng một sức mạnh nào đó lớn hơn sức mạnh của chúng ta, sự kết nối của chúng ta với sức mạnh đó và sự kết nối của chúng ta với nhau đều dựa trên cơ sở của tình yêu và lòng trắc ẩn.

Tôi đọc đi đọc lại cụm từ “kết nối với nhau thành một khối không thể tách rời”. Chúng ta đã phá vỡ kết nối đó. Trong chương tiếp theo, tôi sẽ chứng minh cho bạn thấy vì sao và bằng cách nào chúng ta đã phá vỡ nó. Phần còn lại của cuốn sách sẽ tập trung vào cách cải thiện điều đó – cách tìm lại sự kết nối với nhau.

Tôi đặt tên cho mối lo lớn nhất của các đối tượng tham gia nghiên cứu hiện tại là cảm giác thuộc về đích thực. Dựa theo định nghĩa ở trên kết hợp với các dữ liệu, chúng ta có thể chắc chắn rằng đối với những người tìm kiếm cảm giác thuộc về đích thực, phần lớn trăn trở của họ nằm ở khía cạnh tâm linh. Đây tuyệt đối không phải là những trăn trở mang tính tôn giáo, về những giáo điều hay giáo phái. Đây là những nỗ lực chật vật để người với người xích lại gần nhau, khi mỗi người vẫn phải dò dẫm trong một thế giới đầy hoài nghi và chia rẽ.

Vẫn áp dụng lý thuyết cơ sở, tôi tập trung nghiên cứu những câu hỏi sau:

1. Những người đã sở hữu cảm giác thuộc về đích thực trải qua những quy trình, thông lệ hay cách thức chung nào?

2. Cần những gì để đến được thời điểm chúng ta không thuộc về nơi nào nhưng cũng thuộc về mọi nơi – khi mà cảm giác thuộc về nằm trong tim ta chứ không phải là phần thưởng cho những nỗ lực “hoàn hảo hóa bản thân, làm hài lòng người khác, chứng tỏ bản thân, giả vờ là người khác” hoặc là thứ gì đó người khác có thể điều khiển hay tước đi dễ dàng?

3. Nếu sẵn sàng dấn thân vào thế giới hoang dã – tức là đứng một mình với sự chính trực – thì chúng ta vẫn cần cảm giác thuộc về đến từ cộng đồng chứ?

4. Nền văn hóa đang có xu hướng chia rẽ như hiện nay có ảnh hưởng gì đến công cuộc tìm kiếm cảm giác thuộc về đích thực của chúng ta không? Nếu có thì như thế nào?

Những câu trả lời cho các câu hỏi trên giúp hé lộ bốn yếu tố của cảm giác thuộc về đích thực. Những yếu tố đó nằm trong hiện thực thế giới mà chúng ta đang sống ngày nay. Lý thuyết rút ra từ phương pháp luận này được dựa trên cách chúng ta tương tác với thế giới trong cuộc sống hằng ngày chứ không phải là giả định. Điều đó có nghĩa là bạn không thể phát triển lý thuyết về cảm giác thuộc về đích thực nếu không đề cập đến thực trạng thế giới và cách chúng ta tương tác với nó. Đó là một thế giới ngày càng bị chia rẽ, từ đó, nó định hình cuộc sống và trải nghiệm kết nối của chúng ta như thế nào cũng như chúng ta trải nghiệm cảm giác thuộc về đích thực ra sao. Tôi không định viết cuốn sách này trên một phông nền hỗn loạn về quan điểm chính trị và tư tưởng. Nhưng điều đó không do tôi quyết định. Công việc của tôi là phải trung thành với dữ liệu từ cuộc sống.

Nếu nhìn vào từng yếu tố, bạn có thể thấy mỗi yếu tố là một bài tập và cảm thấy nó giống như một nghịch lý. Cả bốn yếu tố này đều sẽ gây khó khăn cho chúng ta:

1. Người đời vốn khó gần. Hãy tiến thêm một bước.

2. Lên tiếng trước lời nhảm nhí. Vẫn giữ thái độ văn minh.

3. Cùng nắm tay. Với người lạ.

4. Tấm lưng cứng rắn. Thái độ mềm mỏng. Trái tim hoang dại.

Thế giới hoang dã

Khi cái nhìn về cảm giác thuộc về đích thực rõ ràng hơn thông qua các dữ liệu, và khi tôi đã nhận ra vì sao có những lúc chúng ta phải chịu cô đơn với các quyết định và niềm tin – bất chấp nỗi sợ bị chỉ trích và bị từ chối; hình ảnh đầu tiên xuất hiện trong đầu tôi là thế giới hoang dã. Các nhà thần học, nhà văn, nhà thơ và nhạc sĩ luôn dùng hình ảnh hoang dã như một phép ẩn dụ để chỉ những miền đất bao la và đầy hiểm nguy, buộc chúng ta phải vượt qua bao gian nan để đến với nơi mà chúng ta hằng khao khát tìm về – nơi trú ẩn của thiên nhiên và cái đẹp. Tất cả những phép ẩn dụ về hoang dã đều có điểm chung là nói về sự cô độc, sự tổn thương và hành trình của cảm xúc, tâm hồn hay thể xác.

Khi cảm giác hoàn toàn thuộc về chính mình lớn đến nỗi bạn sẵn sàng đứng một mình thì đó chính là nơi hoang dã, khó nắm bắt của nỗi cô độc và sự kiếm tìm. Đó là nơi vừa hiểm trở nhưng cũng đẹp nao lòng, nơi vừa khiến người ta muốn chinh phục, vừa khiến người ta sợ hãi. Thế giới hoang dã thường mang lại cảm giác xấu xa vì chúng ta không thể khống chế nó, và khi chúng ta lựa chọn dấn thân hay không dấn thân vào vùng bao la đó, chúng ta cũng không thể điều khiển cách mọi người đánh giá về hành động của mình. Nhưng đó lại chính là nơi của cảm giác thuộc về đích thực, là nơi thiêng liêng nhất, dũng cảm nhất mà bạn từng đặt chân đến.

Lòng can đảm phi thường để có được cảm giác thuộc về đích thực không chỉ nằm ở việc dám dấn thân vào hoang dã mà còn là việc bạn phải trở thành một phần của hoang dã. Nó nằm ở việc phá bỏ rào cản, từ bỏ những vùng trũng tư tưởng và sống với trái tim cuồng nhiệt thay vì với nỗi đau đầy mỏi mệt.

Đừng mong chờ một con đường mòn để băng qua những hiểm trở đó. Dù tôi có thể chia sẻ những gì đã rút ra từ trải nghiệm cảm giác thuộc về đích thực của những người tham gia nghiên cứu, thì tất cả chúng ta vẫn phải tự tìm lối đi riêng cho mình để tiến sâu vào thế giới hoang dã. Và nếu giống tôi, bạn cũng sẽ không thích một số đoạn đường trên hành trình đó đâu.

Chúng ta sẽ cần những người đồng hành khác biệt với mình một cách có chủ đích. Chúng ta sẽ phải đăng ký, phải tham gia, phải ngồi cùng bàn với họ. Chúng ta sẽ phải học cách lắng nghe, cách thảo luận những điều khó nói, cách tìm kiếm niềm vui, cách chia sẻ nỗi đau và cách để trở nên hiếu kỳ thay vì luôn trong tâm thế phòng thủ. Và hơn hết là cách để làm tất cả những điều đó trong khi tìm kiếm giây phút kết nối với nhau.

Cảm giác thuộc về đích thực không đồng nghĩa với trạng thái bị động. Đó không phải là cảm giác thuộc về sinh ra từ việc tham gia một nhóm nào đó. Nó không nằm ở những lựa chọn an toàn như hòa nhập, giả vờ là người khác hay từ bỏ lập trường của mình. Cảm giác thuộc về đích thực đòi hỏi chúng ta phải chịu tổn thương, cảm thấy trăn trở và học cách tận hưởng phút giây bên người khác mà không phải đánh đổi bằng bản sắc của mình. Chúng ta khao khát cảm giác thuộc về đích thực, nhưng trên hành trình tìm về cảm giác đó, sẽ có những lúc khó khăn mà để vững bước đi tiếp, chúng ta sẽ cần rất nhiều can đảm.

Kỹ năng đương đầu

Đừng bước vào thế giới hoang dã mà không có sự chuẩn bị. Dù đơn độc trong một môi trường khắt khe chỉ chực chờ phê bình chúng ta hay đồng hành cùng một nhóm nhiều cá thể khác biệt thì bạn đều cần một công cụ quan trọng nhất: niềm tin. Để dấn thân vào hoang dã và trở thành một phần của nó, chúng ta phải học cách tin tưởng bản thân và tin tưởng người khác.

Định nghĩa về niềm tin mà tôi thấy phù hợp nhất với con đường của mình là định nghĩa của Charles Feltman. Feltman cho rằng niềm tin là “chọn cách mạo hiểm biến một thứ gì đó bạn trân trọng trở nên dễ bị tổn thương bởi hành động của người khác”. Ông cũng cho rằng mất niềm tin nghĩa là bạn quyết định rằng “điều quan trọng với tôi không còn an toàn khi chia sẻ cho người này trong hoàn cảnh này (hay bất kỳ hoàn cảnh nào).”

Thấu hiểu tường tận một khái niệm trừu tượng như niềm tin là điều không dễ. Các cuộc đối thoại về chủ đề “Tôi không tin anh” nhìn chung cũng không đạt hiệu quả. Bởi vậy, tôi đã đào sâu về khái niệm này để hiểu rõ hơn ý nghĩa thực sự khi chúng ta nói ra từ niềm tin.

Bảy yếu tố của niềm tin mà tôi đúc rút từ dữ liệu của mình có thể áp dụng cho cả việc tin tưởng người khác lẫn tin tưởng bản thân. Tôi sử dụng các chữ cái của từ BRAVING (đương đầu) để làm từ bắt đầu cho những yếu tố đó.

Tôi thích dùng BRAVING như một đầu mục bởi nó nhắc tôi nhớ rằng tin tưởng bản thân hay người khác là một quá trình đau đớn nhưng cũng đầy dũng cảm. Dù đã chia sẻ kết luận này lần đầu tiên trong cuốn Rising Strong (Vươn lên từ thất bại10) thì tôi vẫn không khỏi ngạc nhiên khi thấy khái niệm niềm tin được đề cập trong các bài phỏng vấn về cảm giác thuộc về.

10 Cuốn sách đã được Alpha Books mua bản quyền và xuất bản năm 2016.

Tin tưởng người khác

Giới hạn (Boundaries) – Bạn tôn trọng giới hạn của tôi, và khi bạn không rõ điều gì là chấp nhận được hay không chấp nhận được, hãy cất tiếng hỏi. Bạn có thể nói “không”, nếu cảm thấy không chấp nhận được.

Tin cậy (Reliability) – Bạn thực hiện những gì đã hứa. Điều đó đồng nghĩa với việc hãy ý thức về khả năng và giới hạn của bạn để tránh rơi vào tình trạng hứa hẹn quá nhiều. Từ đó có thể thực hiện cam kết và cân bằng ưu tiên của mình.

Trách nhiệm (Accountability) – Bạn chịu trách nhiệm cho lỗi lầm của mình, biết xin lỗi và sửa lỗi.

Kín kẽ (Vault) – Bạn không chia sẻ thông tin hay trải nghiệm mang tính bí mật của người khác. Tôi cần bạn đảm bảo rằng những bí mật của tôi được giữ kín và những bí mật người khác chia sẻ với bạn cũng sẽ được giữ kín trước tôi.

Chính trực (Integrity) – Bạn chọn can đảm thay vì an toàn. Bạn chọn điều đúng đắn thay vì điều vui vẻ, nhanh gọn hay dễ dàng. Và bạn chọn hành động cho giá trị của mình thay vì chỉ đơn giản là nói ra.

Không phán xét (Nonjudgment) – Tôi có thể bày tỏ về những gì tôi cần và bạn có thể bày tỏ về những gì bạn cần. Chúng ta có thể nói về cảm nhận của mình mà không phán xét nhau.

Phóng khoáng (Generosity) – Bạn miêu tả một cách phóng khoáng nhất có thể về mục đích, ngôn từ và hành động của người khác.

Tin tưởng bản thân

Tôi không thể tưởng tượng được có điều gì quan trọng hơn niềm tin vào bản thân trong thế giới hoang dã. Nỗi sợ hãi sẽ khiến chúng ta lạc lối còn sự kiêu ngạo có thể đẩy chúng ta vào tình thế nguy hiểm. Nếu đang đọc lại các đầu mục trên và thay đổi đại từ nhân xưng, bạn sẽ thấy BRAVING cũng là công cụ đầy sức mạnh để đánh giá niềm tin vào bản thân của chúng ta.

B – Tôi có tôn trọng giới hạn của mình không? Tôi đã phân tách rõ ràng ranh giới giữa chấp nhận được và không chấp nhận được với chính mình hay chưa?

R – Tôi có là người đáng tin? Tôi có thực hiện những gì tôi đã tự hứa với bản thân?

A – Tôi đã biết cách tự chịu trách nhiệm chưa?

V – Tôi đã tôn trọng bí mật và chia sẻ trong phạm vi cho phép chưa?

I – Tôi đã hành động một cách chính trực chưa?

N – Tôi đã bày tỏ những gì mình cần chưa? Tôi có hay phán xét về nhu cầu cần giúp đỡ không?

G – Tôi đã phóng khoáng với bản thân mình chưa?

Như tôi thường nói, tôi là kẻ tìm đường dạn dày kinh nghiệm, nhưng cũng có lúc lạc lối và sẩy chân như bất kỳ ai khác. Chúng ta đều phải tự tìm con đường riêng cho mình, kể cả khi dùng chung một tấm bản đồ. Joseph Campbell từng viết: “Nếu có thể thấy con đường của mình trải rộng từng bước trước mắt, bạn sẽ biết ngay đó không phải là con đường của bạn. Con đường của bạn là con đường mà bạn tự tạo ra với từng bước chân của bạn. Chính vì thế, nó mới là con đường của bạn.”

Hành trình đi tìm cảm giác thuộc về đích thực bắt đầu từ một định nghĩa mà tôi đúc kết qua nhiều năm nghiên cứu. Nó sẽ là điểm tựa để chúng ta có thể cùng nhau đi qua thử thách:

Cảm giác thuộc về đích thực là sự thực hành về mặt tâm hồn của việc tin vào bản thân và thuộc về bản thân một cách sâu sắc, đến mức bạn có thể thể hiện phần thật nhất của mình với thế giới và tìm thấy sự thiêng liêng trong cả hai việc: trở thành một phần của cái gì đó và đứng một mình giữa nơi hoang dã. Cảm giác thuộc về đích thực không đòi hỏi bạn phải thay đổi mà đòi hỏi bạn phải là chính bạn.

Điều duy nhất chúng ta biết chắc, đó là trong hành trình này, chúng ta sẽ cần học cách lèo lái vượt qua áp lực của nhiều nghịch lý, bao gồm tầm quan trọng của việc đồng hành cùng người khác cũng như ở một mình. Bằng nhiều cách khác nhau, từ “nghịch lý” đã bao hàm ý nghĩa trọng tâm của các khái niệm như vượt qua trở ngại về tư tưởng, tự đứng trên đôi chân của mình và dấn thân vào hoang dã. Theo nguồn gốc Hy Lạp, “nghịch lý” (paradox) là sự kết hợp của hai từ, para (trái với) và dokein (ý kiến). Trong tiếng La-tinh, paradoxum có nghĩa là “có vẻ kỳ quặc nhưng bản chất là đúng”. Cảm giác thuộc về đích thực không phải là thứ bạn thương thảo với người khác mà là thứ bạn mang theo trong tim. Đó là việc tìm thấy sự thiêng liêng trong cả khi hòa nhập với người khác và khi một mình dấn thân vào hoang dã. Khi chạm đến ngưỡng đó, thậm chí chỉ trong vài phút giây thôi, chúng ta cũng đã thuộc về mọi nơi và không nơi nào. Nghe có vẻ kỳ quặc, nhưng chính xác là như vậy.

Carl Jung đã lập luận rằng nghịch lý là một trong những tài sản tinh thần quý giá nhất của chúng ta và là chứng nhân tuyệt vời của lẽ phải. Và tôi thấy thật hợp lý khi dùng nghịch lý để đương đầu với sự khủng hoảng tinh thần về vấn đề chia rẽ giữa người với người. Trở thành chứng nhân cho lẽ phải hiếm khi là một việc dễ dàng, đặc biệt khi chúng ta cô đơn trong thế giới hoang dã.

Nhưng cũng như Maya Angelou đã nói: “Cái giá phải trả rất đắt. Phần thưởng nhận được cũng xứng đáng không kém.”