← Quay lại trang sách

1. ĐẤT BẰNG NỔI SÓNG

Sau chiến tranh Nam Bắc triều, nhà Mạc diệt vong, sông Gianh được lấy làm ranh giới phân đôi Bắc và Nam, phía Bắc là đất nhà Lê - Trịnh, phía Nam là đất của chúa Nguyễn.

Một thời gian dài, chiến tranh và nạn đói liên miên xảy ra khiến đời sống của dân chúng ngày càng thêm cùng quẫn. Thời buổi loạn lạc này, lòng người ngả nghiêng, xáo động, nhiều tin đồn cứ lan ra như vết dầu loang, thậm chí, những chuyện cung vua phủ chúa, vốn là điều cấm kỵ, mấy khi lọt ra ngoài thì nay được những kẻ hiếu sự rỉ tai nhau khiến các cáu chuyện thâm cung bí sử cứ không cánh mà bay.

Trong dân gian, có lời đồn chúa Trịnh Giang chẳng màng chính sự, chỉ thích làm cung quán, đi chơi rong ruổi khắp nơi, không đâu là không có dấu xe ngựa của chúa. Chúa sa đà vào việc vui chơi, ham mê tửu sắc, đi đến đâu cũng có phường nhạc tấu inh ỏi. Đã thế, chúa lại tin yêu hoạn quan Hoàng Công Phụ, Phụ được thể, đổi lính Thanh Nghệ thay bằng lính của làng mình khiến các quan trong triều không biết chúa ở đâu. Người ta còn xì xào, hình như chúa bị mắc căn bệnh hiểm, nghe đâu là bệnh kinh quỷ, lúc

nào tâm thần cũng hoảng loạn nên toàn ở lì trong mật thất, tại cung Thưởng Trì khiến mọi việc trong triều trở nên rối ren, không ai bảo được ai.

Chúa không những không quan tâm đến chính sự mà còn ngang ngược phế bỏ vua Lê Dụ Tông khiến hoàng tử Lê Duy Mật phẫn uất tập hợp những người cùng vây cánh nổi lên. Các chính sách của chúa về tài chính thuế khóa không còn được như các vị chúa tiền liệt, triều đình đã rối lại thêm rối hơn khiến lòng người nghiêng ngả, hai lòng.

Trước tình hình ấy, Vũ Thái phi - mẹ của Trịnh Giang và Trịnh Doanh đã họp các đại thần và thân tộc phủ chúa bàn việc đưa Trịnh Doanh lên thay ngôi chúa. Tuy nhiên, các biến cố ở nhiều nơi không dễ ngày một ngày hai mà kết thúc được.

Bấy giờ ở xứ Hải Dương và miền hạ lưu đông nam đều mất mùa, nạn phu dịch nặng nề, dân chúng kham không nổi, nhiều người đã chết đói. Cực chẳng đã, nhiều người phải đi bóc vỏ cây, bắt chuột đồng để ăn. Tình cảnh thật thảm thương, dân tình thật khốn quẫn. Nhiều nơi náo loạn. Nạn trộm cướp nổi lên. Dân đói dắt nhau đi ăn xin đầy đường. Giá gạo tăng vọt, một trăm đồng tiền không được một bữa no. Người chết nhiều vô kể, xác chồng lên nhau, xương trắng đầy đồng, số dân sống sót không còn được một phần mười, khói bếp tiêu điều lạnh lẽo, những nơi sầm uất thành ra gò đống.

Người ta truyền tai nhau, nào là dân chúng ở xứ Hải Dương đã nhất tề nổi dậy theo Nguyễn Tuyển, Nguyền Cừ, rủ nhau đi phá từ đường của vợ chúa. Nguyễn Tuyển, Nguyễn Cừ đã giương cao ngọn cờ “Ninh dân” (yên dân) nên dân theo về ngày một đông, nào là tại huyện lỵ Châu Ninh, đốc lĩnh Hoàng Kim Trảo đã bị quân của Vũ Đình Dung hợp với quân của Danh Chấn, Tú Cao giết chết.

Để yên định phép nước, chúa Trịnh Doanh xin vua ban chiếu truyền ngôi và Duy Diêu - vua Lê Hiển Tông lên nối nghiệp. Tuy nhiên, tình hình lúc đó vẫn không yên. Rất nhiều bản đệ trình của các quan lại địa phương cáo cấp về triều đình. Hoàng tử Lê Duy Mật tụ tập quân ở thượng du Thanh Hóa, Nguyễn Tuyển, Nguyễn Cừ họp quân ở Chí Linh, Ninh Xá, sau đó có thêm vây cánh là Nguyễn Hữu Cầu, Đồ Tế giữ châu Sơn Dương, Nho Bồng giữ huyện Phượng Nhãn, Tú Cao giữ huyện Thư Trì, Giáo Ly giữ huyện Đông Quan, Vũ Đình Dung giữ huyện Ngân Già. Thật là hỗn loạn!

Sau khi nạn hoạn quan nhũng nhiễu triều chính được dẹp yên, các quan trong triều đặt hy vọng vào vị chúa mới nhưng mọi việc không một sớm một chiều thay đổi ngay như họ mong muốn. Trịnh Doanh - vị chúa lên thay Trịnh Giang đau đầu với rất nhiều cuộc nổi dậy. Không chỉ những người dân chân lấm tay bùn mà ngay cả Nguyễn Tuyển, Nguyễn Cừ - dòng dõi quận công Nguyễn Mại - cũng nổi lên. Thậm chí, trong tôn thất nhà Lê, hoàng tử Lê Duy Mật cũng dấy binh chống lại triều đình.

Trong ngoài triều, người ta bàn tán xôn xao. Những kẻ hiếu sự được dịp nhỏ to. Kẻ cho rằng lỗi do Trịnh Giang không màng đến chính sự nên đất nước mới ra nông nỗi này. Kẻ khác lại bàn luận, lỗi đâu phải ở nơi chúa Trịnh. Chúa ốm yếu, không thể đảm đương chính sự, phải thông qua các hoạn quan, hơn thế, chúa ở lâu dưới mật thất, bị Hoàng Công Phụ xúi bẩy, đâu còn đủ sáng suốt để quyết định mọi việc. Nay chúa Trịnh Doanh đã lên thay ngôi chúa, ắt hẳn mọi việc rồi sẽ đổi thay.

Tuy nhiên, các bản sớ vẫn liên tục gửi về triều đình, tâu trình về việc xứ Sơn Nam địa thế dài rộng, trộm cướp ẩn hiện bất thường, một mình quan thống lĩnh không thể chế ngự nổi và xin chúa ban lệnh cho đem quân tiến đánh và được tiện nghi hành sự.

Tuy nhiên dù quân triều đình ra sức chống giữ, “giặc” Hải Dương vẫn sang sông đánh phá các huyện Thượng Phúc, Phú Xuyên. Tiếp đó, lại có tin báo về triều, các phủ Từ Sơn, Thuận Thành, Hạ Hồng, Nam Sách đã nổi dậy theo lời kêu gọi của Nguyễn Tuyển, Nguyễn Cừ. Quân nổi dậy đan tre làm nón làm dấu hiệu riêng. Nguyễn Cừ chiếm lĩnh Chí Linh, Nguyễn Tuyển giữ Phao Sơn, nhóm họp liên lạc với nhau, số người theo có đến vài vạn.

Trong khi đó ở huyện Nam Chân, Vũ Đình Dung, Đoàn Bá Chấn đã nổi lên, dân chúng đi theo ngày một nhiều. Quân của Vũ Đình Dung giữ chỗ bùn lầy làm thế hiểm, chẳng có trận pháp gì nhưng hễ gặp quan quân là cứ cầm dao xông vào chém vung chân người, chân ngựa khiến quân triều đình thua liểng xiểng.

Tin tức đưa về dồn dập khiến chúa lòng như lửa đốt. Chúa ban dụ và cho đưa công văn hỏa tốc đi khắp nơi. Lời dụ viết:

“Nhà nước lấy lễ đãi kẻ sĩ, lấy nhân nuôi dân, nuôi dạy nhân tài như thơ Thanh Nga, vỗ yên nhân dân như thơ Hồng Nhạn. Vừa rồi lũ giặc Nguyễn Tuyển, Nguyễn Cừ can phạm danh phận, sĩ dân xứ Đông Bắc bị dụ dỗ bức bách, kẻ sĩ được giáo dục tác thành mà lại vì nó dâng tờ sức phơi gan. Người dân đang được yên vui nhàn nhã mà lại vì nó nhảy vào nước sôi, xông vào mũi nhọn. Có kẻ vì muốn khỏi lụy đến gia đình, có kẻ vì muốn khỏi bị chúng xâm phạm trước mắt. Dẫu cúi đầu gượng theo, lẽ nào quên mất đường quay về với chính nghĩa? Nếu biết bỏ nghịch theo thuận, bỏ giáp về hàng thì nhất thiết đều cho phép cùng đổi mới. Nếu ai đới tội lập công cũng được tha tội và khen thưởng..”

Cùng với các lời dụ, chúa quyết định chỉnh đốn kỷ cương triều chính. Chúa tập hợp các triều thần trung thành như Nguyễn Quý Cảnh, Nguyễn Công Thái, Trịnh Đạc, lắng nghe lời nói thẳng của người dưới quyền, tuyển lựa một lớp quan lại có học, có tài ở triều đình như Ngô Thì Sĩ, Lê Quý Đôn để làm việc ở Phủ Liêu. Chúa còn cho đặt ống đồng ở cửa phủ để nhận thư từ của dân chúng tố giác việc làm sai trái.

Ngoài việc chấn chỉnh triều đình, chúa quyết định thân cầm quân đánh trận. Chúa đóng quân ở bến Mộc Hoàn, sửa khí giới, tập thủy trận rồi trực tiếp đích thân chỉ huy quân tiến công khu căn cứ của quân Ngân Già. Các cánh quân của Cần quận công Đinh Văn Giai, Hoán quận công Nguyễn Đình Hoàn cùng Vũ Tất Thận, Trương Khuông đốc quân tiến đánh. Chúa hạ lệnh đóng trại, cho quân bao vây bốn phía và ra lệnh đánh hỏa công. Theo lệnh chúa, mọi thứ có thể đốt được đều bị trưng thu. Lửa bốc ngút trời, cháy rần rật khiến quân Ngân Già không thể chịu đựng được cái nóng khủng khiếp của than bùn ở đầm lầy, phải tìm cách thoát ra liền bị quân mai phục của triều đình nhằm bắn. Quân nổi dậy chết vô số, xác chồng lên nhau. Kết cục, Vũ Đình Dung và các tướng thân cận đều bị bắt và bị giết.

Thời gian này, Nguyễn Tuyển nhân lúc chúa bận đánh Ngân Già đã sai đồ đảng là Trần Thiểm đem quân đến sát sông Nhị Hà. Tin cấp báo ở kinh sư khiến chúa vội hối thúc quân đi gấp về cứu kinh đô.

Quân triều đình đánh thắng nghĩa binh của Nguyễn Tuyển, Nguyễn Tuyển sợ phải chạy sang An Quảng. Chúa nghe tin sai các đạo binh thuyền đến sông Bạch Đằng hội đánh. Kết cục, quân của Nguyễn Cừ phải rút lên Lạng Sơn, sau Nguyễn Cừ bị quân triều đình bắt, đóng cũi giải về kinh, Nguyễn Tuyển thì bỏ mạng trong trận giao tranh ác liệt ở Đỗ Xá.

Tuy nhiên, chúa vẫn không yên vì Nguyễn Hữu Cầu, cầm đầu quân nổi loạn Ninh Xá đã đưa toán quân còn lại về cố thủ Đồ Sơn. Chúa nghe tin, vội cử Trịnh Bính đem 7 cơ binh, 7 thớt voi đi tiêu diệt nghĩa binh nhưng Trịnh Bính chần chừ, không dám tiến. Chúa sốt ruột, liền phái Trịnh Bảng thống suất thủy quân đánh dẹp. Trịnh Bảng cậy có chiến thuyền lớn, không đánh giá được lực lượng của quân nổi dậy, bị mắc mưu Nguyễn Hữu Cầu, quan quân tan vỡ. Bảng bị hơn 10 vết thương, bị bắt và chết. Chúa tức giận, lại cử Hoàng Công Kỳ thống lĩnh quân bộ, Trần Cảnh thống lĩnh quân thủy, kết hợp với 29 cơ đội của Vũ Tá Liễn hội quân cùng đánh. Chỉ sau nửa tháng, tin dữ lại đưa về kinh, Nguyễn Hữu Cầu đã chiếm châu Vạn Ninh, quân triều đình bị đánh úp, thua to. Nghe tin, chúa thất kinh, phái Hoàng Ngũ Phúc đem quân đi dẹp loạn. Nguyễn Hữu Cầu không ra mặt đối địch, đưa quân về Thọ Xương, trấn Kinh Bắc, đắp lũy dọc hai bờ sông, các đồn lũy lại liên lạc với nhau khiến quân triều đình không dám đánh. Quân của Nguyễn Hữu Cầu còn đánh phá huyện Võ Giàng, phá thành, phóng hỏa đốt trại lính khiến Trần Đình Miên và Vũ Phương Đề bỏ cả ấn tín mà chạy.

Triều đình hội quân đánh Nguyễn Hữu Cầu nhưng kết cục quân triều đình thất bại thảm hại. Chúa lại ban dụ để Hoàng Ngũ Phúc kết hợp với Phạm Đình Trọng đánh quân nổi loạn. Quân triều đình tìm cách triệt nguồn tiếp tế lương thực, bao vây triệt dân khiến Nguyễn Hữu Cầu lâm vào tình cảnh vô cùng khó khăn. Chúa theo lời bàn của các quan, bắt dân phu chín huyện gần kinh đô đắp thành, mỗi cửa đặt hai ô tả hữu, chia lính tuần phòng túc trực và quyết định ra tay bắt cho được nghịch đảng.

Tuy vậy, Nguyễn Hữu Cầu vẫn thoát khỏi vòng vây ở Hương Lãng, dẫn một toán quân chạy ra bể. Kết cục, bị đội chiến thuyền của Phạm Đình Trọng truy kích, Hữu Cầu sa lưới, bị đóng cũi giải về kinh.

Quân Ninh Xá và Ngân Già bị tiêu diệt nhưng nguy cơ mới đe dọa sự an nguy của triều đình vẫn treo lơ lửng. Nguyễn Danh Phương nổi lên lập căn cứ ở Thanh Lanh, Ngọc Bội, hoạt động mạnh ở các trấn Sơn Tây, Thái Nguyên, Tuyên Quang. Chúa liên tiếp nhận được văn thư cáo cấp, có khi một đêm vài lần. Trong thư nói: “Nhân lúc nhiều nơi có biến động, quan quân đang bận việc, giặc Ngũ đã hợp quân trộm chiếm núi Độc Tôn ở huyện Tam Dương, hoành hành cướp bóc. Những nguồn lợi mỏ, gỗ, tre, sơn ở thượng lưu, Phương đều cướp lấy cả. Dân một phương ai cũng sợ hãi, dắt nhau đi nơi khác. Các lộ Tuyên, Hưng, Thái đem nhau đi theo, nộp tô thuế cho nó, của báu chất như núi, vây cánh ngày càng nhiều. Phương nghiễm nhiên tự xưng là “Thuận Thiên khải vận đại nhân”, tiếm xây cung phủ, đặt quan thuộc, quân hiệu, chế xe kiệu, làm màn trướng, may cờ nhật nguyệt, khí dụng, y phục, đồ chơi các thứ đều trang sức bằng vàng bạc, châu báu. Đám thủ hạ xưng là quận công gồm vài mươi người, cướp của, quan quân bị chúng vây đánh. Phương lại thường đem của đút lót quan quân. Các tướng cũng cứ dung túng giặc để tự bảo toàn, động một tí thì khoa trương thế giặc. Từ đấy càng ngày y càng càn rỡ, quan quân không đủ sức chế ngự”.

Nhận được thư cáo cấp liên tục, chúa vô cùng bực tức nghĩ: “Nghịch Phương là giặc lâu năm, binh tình lương đủ, lại dựa vào chỗ hiểm yếu, không như các giặc khác. Ta phải thân hành cầm cờ tiết đi cứu dân phương này, nếu không thì suốt đêm nằm không yên gối”. Ngay sau đó, chúa mật lệnh cho một viên quan thân tin đi tới đại đồn của giặc Phương ngầm dò địa thế cẩn thận và đưa thư của chúa tới các tướng hiệu ở các đồn thuộc đạo Sơn Tây, Thái Nguyên, sức cho quân tìm tre gỗ làm khí cụ vây đánh thành.

Trong khi ráo riết chuẩn bị đánh Nguyễn Danh Phương, chúa thấy cần chấn chỉnh luật pháp, răn đe và thưởng phạt để lấy đó làm gương. Chúa nghĩ, việc dân chúng nổi loạn khiến chúa phải động binh phần lớn bắt nguồn từ luật pháp lơi lỏng, hoạn quan lộng quyền, quan lại tham nhũng khiến đám dân chúng ngu dốt kia chi cần một sự xúi giục, hứa hẹn là có thể nổi lên làm càn. Ngay cả trong việc thi cử, các quan cũng cố tình cầu lợi. Muốn đi thi thì cứ việc nộp tiền là được, thí sinh chỉ cần nộp 3 quan tiền là xong khiến nhiều kẻ ngu dốt, dân cày và dân buôn cũng xun xoe nộp đơn xin đi thi. Chuyện đi thi này đến tai chúa khiến chúa rất buồn phiền. Nghe đâu hôm thi, nhiều kẻ giẫm đạp lên nhau chết ở cổng trường, các thí sinh đem sách vào lớp, mượn người làm văn hộ một cách công khai. Kẻ đỗ thực học không được một phần mười...

Chúa thấy cần phải ban dụ để chấn chỉnh quan lại và dân chúng. Lời dụ viết: “Ta nối tiếp truyền thống trước, mong đón lấy phúc to, hậu tước thưởng để khuyến khích người có công, kỷ luật để răn kẻ phạm pháp. Vào lúc ngoài biên nhiều tin cáo cấp, đánh dẹp liền năm. Lấy quan tước để thưởng người có công, sử dụng tài năng, bỏ qua lầm lỗi nên quan tước cho hơi lạm, pháp luật có hơi khoan. Lũ trá mạo gian xảo ngày càng coi thường. Nay nên sửa đổi chấn chỉnh, cùng nhau đổi mới”.

Tuy lời dụ của chúa rất hay nhưng thế sự không đơn giản, dân chúng khắp nơi vẫn rên xiết khốn khổ, do đó người theo về với Nguyễn Danh Phương ngày một đông. Vì thế, chúa quyết định đem binh đi chinh phục phía Tây. Tả quân chúa giao cho Hoàng Ngũ Phúc, hữu quân giao cho Đàm Xuân Vực, tiền quân giao cho Nguyễn Đình Quyền, hậu quân giao cho Nguyễn Hữu Chí... Tiếp đó, chúa vào triều, đem việc chinh phạt tâu với nhà vua và trước lầu Ngũ Long, chúa ủy cho Hoàng Ngũ Phúc làm tri quân vụ coi việc quân binh.

Chúa đem quân vượt sông, truyền mật lệnh cho các cánh quân tiến đến Giang Dã. Đến trấn sở Giang Dã, chúa sai lấy thổ binh của phiên thần Thái Nguyên để sử dụng vì số này thông thạo địa hình. Chúa sai lính đi lấy cây và dây rừng, làm thang cao và chiến cụ, sử dụng viên tướng quy hàng Nguyễn Bá Trạc để công thành.

Đồn Ức Kỳ bị hạ, tướng Trị, tướng Sầm cùng hơn 400 quân nổi loạn phải giơ tay chịu trói, sau hai viên tướng này bị chúa hạ lệnh chém cùng 200 tỳ tốt, số còn lại chúa cho tha bổng.

Tiếp đó đồn Tiên Sơn, Hương Canh, Ngọc Bội đều bị tấn công, tất cả các con đường rút lui đều bị khóa chặt khiến Nguyễn Danh Phương cùng một số thuộc hạ thân tín phải bỏ trốn. Trên đường đi, tất cả đều bị bắt. Các viên tướng trung thành cùng 62 quân của Phương bị chém để thị uy. Phương và Cầu bị chúa bắt ra làm trò, Hữu Cầu phải thổi sáo, còn Phương phải rót rượu, sau đó cả hai bị đưa tới Thái miếu để dâng tù và bị chém, đầu bị bêu ở các trấn.

Một năm sau khi Nguyễn Danh Phương và Nguyễn Hữu Cầu bị đem tế ở Thái miếu, tình hình vẫn chưa yên. Chúa nhận thấy cần phải nghe lời nói thẳng nói thật nhưng câu trả lời của viên quan hầu cận đã khiến chúa không vui:...mấy năm liền đói khổ, dân chúng rên xiết vì bị trưng cầu bóc lột, dần đến điêu hao cộng thêm nạn nha dịch sách nhiễu, cường hào ức hiếp cướp đoạt nên lòng dân vẫn ly tán. Hơn nữa quan lại sở tại thì tham lam, cường hào thì ức hiếp dân... Dù chúa đã cho mọi người rộng đường tâu bày, ai biết gì về các địa phương cứ thực tình tâu lên nhưng vì pháp chế nới lỏng, nhân tình coi thường kể đã lâu năm. Lời nói suông không thể thi hành được, do đó giặc Chất kia dù thấy cái gương tày liếp của giặc He (Nguyễn Hữu Cầu) và giặc què (Nguyễn Danh Phương) nhưng đâu có lấy đó làm răn, vẫn liên kết với giặc Mật và giặc Thành khiến quan quân vẫn phải dốc sức đối phó...

Nghe xong lời tâu, chúa im lặng, trầm ngâm khi nghĩ đến việc Lê Duy Mật, tôn thất nhà Lê chạy ra Thạch Thành, tập hợp dân chúng làm loạn, nói dối là theo mệnh vua Lê Ý Tông, đúc ấn bảo ty riêng, sắm cờ gươm, dụ dỗ bức bách các tù trưởng hào mục ở vùng thượng du Thanh Hoa, kêu gọi đem thổ binh đến giúp khiến triều đình không giây phút nào yên.

Sau một thời gian toan tính và nỗ lực cầm quân ra trận, các đám quân nổi loạn phần lớn đã bị chúa đánh dẹp. Tuy nhiên, một việc chúa không ngờ đến, đó là lực lượng ưu binh Thanh - Nghệ mà chúa chủ ý đề cao và dựa vào đó để dẹp loạn, sau này lại trở thành kiêu binh, khiến cái trật tự mà chúa phải hao tổn tâm trí để thiết lập đã trở nên hỗn loạn, rối ren và đây là mầm mống họa hại đầu tiên khiến nhà Trịnh sau này phải suy vong.