2. KIÊU BINH
Thế tử Trịnh Sâm con trưởng của Trịnh Doanh ngay từ trẻ được hai danh sĩ Dương Công Chú, Nguyễn Hoàn kèm cặp nên nổi tiếng văn võ song toàn. Năm 1767, Trịnh Doanh mất, Trịnh Sâm lên ngôi kế vị. Lúc này, tình hình Đàng Ngoài vẫn chưa yên nên ngay khi mới lên ngôi, Trịnh Sâm quyết định trực tiếp cầm quân đánh dẹp Hoàng Công Chất.
Trịnh Sâm biết Hoàng Công Chất đã đưa quân lên Tây Bắc, tập hợp các lực lượng, chiếm thành Tam Vạn và đáng lo hơn là liên minh chặt chẽ với Lê Duy Mật. Chúa còn nhận được tin đưa về, Công Chất lập thành mới là Bản Phủ, mở mang thế lực ra toàn vùng sông Mã, sông Đà, chiếm miền Thập Châu và trở thành vị chúa Mường Thanh. Dân vùng đó tôn sùng gọi là Then Chất, Keo Chất. Quân của Hoàng Công Chất liên kết với quân của Lê Duy Mật hoạt động ở Quan Gia, Cẩm Thủy, Lang Chánh, Thụy Nguyên khiến tướng triều đình lo sợ, phải mật báo về triều xin thêm quân.
Để thu phục lòng dân, trước khi đánh Hoàng Công Chất và Lê Duy Mật, Trịnh Sâm ban lệnh: “Ai chém được 1 tướng giặc (đầu sỏ) được thưởng quan tứ phẩm, tước hầu, cho ăn lộc 4 xã và 100 mẫu ruộng. Chém được những tỳ tướng trở xuống đều có từng bậc. Dụ giặc quy hàng thì thưởng cho một nửa giải thưởng kể trên. Giao cho quan thống lãnh bài vàng, bài bạc, mỗi thứ 100 chiếc, thẻ bạc 100 cái, sắc để trống, lệnh để trống 200 đạo, lưu sẵn trong quân để dự bị thưởng cấp. Đánh thắng to sẽ được thưởng ngay tại trận 1 bài vàng, thăng chức hai “thứ”, đánh thắng nhỏ thì thưởng bài bạc, thăng chức một “thứ”. Ai xông vào trước phá vỡ trận giặc thưởng sắc hoặc lệnh một đạo còn những người lập công khác nhau đều có thưởng theo từng bậc. Sau khi giặc bại trận mà đuổi bắt được thì thưởng một nửa giải thưởng bắt giặc tại trận.”
Ngoài việc hiểu dụ dân giàu trong hạt, ai chịu nộp thóc thì trao cho quan chức rồi đem thóc ấy phát chẩn cho dân đói, chúa còn sai Hiến ty các lộ thăm hỏi, điều tra sự cực khổ của dân gian và tâu lên. Ngoài ra, chúa ban lệnh cấm các sở tuần, các bến đò ven sông thu thuế bừa bãi và cho phép dân tố cáo quan chấp chính nếu viên quan đó ức hiếp dân. Vì thế, địa bàn hoạt động của quân nổi loạn bị thu hẹp.
Năm 1769, chúa dẹp yên được Hoàng Công Chất. Sau đó, Lê Duy Mật cũng bị dẹp yên. Xác Lê Duy Mật bị thiêu trên sân chầu và chúa sai người đi truyền bảo cho các xứ biết.
Sau khi Lê Duy Mật bị giết, thế sự tạm yên, chúa nghĩ đã có thể kê cao gối để ngủ. Từ khi nắm quyền chấp chính, chúa đã làm được nhiều việc trọng đại, thân chinh dẹp yên loạn Hoàng Công Chất và Lê Duy Mật, lại còn Nam tiến, vượt lũy Nhật Lệ, chiếm Phú Xuân rồi tiến đánh Quảng Nam, thống nhất được thiên hạ. Công nghiệp của chúa thật hiển hách, quả là chưa từng có ở thời các vị chúa tiền nhiệm.
Trịnh Sâm - một vị chúa công nghiệp lừng lẫy - trong thời trị vì đã làm được nhiều việc nhưng cuối đời, quyết định phế trưởng lập thứ của ông được xem là một trong những căn nguyên khiến nhà Trịnh suy thoái.
Mọi việc bắt đầu từ khi ông say mê Đặng Thị Huệ. Có thể nói, ngày Đặng Thị Huệ bưng khay hoa đến chỗ Trịnh Sâm là ngày tiếng chuông cáo chung của nhà Trịnh bắt đầu điểm.
Theo sử sách, Đặng Thị uyển chuyển tiến vào, quỳ xuống dâng khay hoa. Đặng Thị mắt phượng mày ngài, mười phần xinh đẹp khiến Trịnh Sâm rất hài lòng. Từ đấy chúa hay cho gọi Đặng Thị vào chầu, vốn là người khéo léo, biết cách làm đẹp lòng chúa nên chẳng bao lâu, chúa cho Đặng Thị ở liền trong cung với chúa, không phải ở nơi khác như các cung tần mỹ nữ.
Chúa phong Đặng Thị làm tuyên phi, ban cho biết bao nhiêu thứ quý giá và sẵn sàng chiều theo mọi ý thích dù nhỏ nhặt nhất của nàng, vốn thông minh, Đặng Thị Huệ nhận thấy Trịnh Sâm là một người quyết đoán trong công việc nhưng trong tình cảm lại dễ lung lạc nên tìm mọi cách để chúa không thể xa rời mình. Sau này, nắm được tình cảm của chúa, Đặng Thị thường vật vã, giận hờn kêu khóc thảm thiết khi gặp chuyện trái ý và lần nào, Trịnh Sâm cũng phải nhường nhịn nàng.
Một thời gian sau, Đặng Thị sinh con trai. Yêu mẹ nên quý con, Trịnh Sâm đã lấy tên mình thuở nhỏ để đặt tên cho con để tỏ lòng yêu mến.
Bấy giờ, con trai trưởng của Trịnh Sâm là Trịnh Tông đến tuổi lập phủ, các quan nhắc nhưng Trịnh Sâm làm ngơ. Thâm tâm Trịnh Sâm rất yêu Đặng Thị và Trịnh Cán nên đã có ý khác. Vì thế chúa bảo: Chuyện lập phủ cho thái tử Tông chưa phải vội, hãy để đó để chúa cân nhắc.
Quyết định của Trịnh Sâm khiến Trịnh Tông lo lắng không yên. Phe cánh của Trịnh Tông cũng bất mãn và ý định phản loạn đã hình thành. Tin đến tai Trịnh Sâm, Trịnh Sâm giận lắm, chúa cho rằng lập Trịnh Cán lên ngôi là đúng. Tiếp đó chúa quyết định Trịnh Cán sẽ là người kế vị. Quyết định đưa Trịnh Cán lên kế vị khi Trịnh Cán còn là một đứa trẻ và bản thân chúa lại ốm đau, sắp tới ngày gần đất xa trời không chỉ gây xôn xao trong dư luận mà còn là giọt nước làm tràn bát nước đầy khiến thời cuộc ngày một rối ren.
Thời gian này, tin tức không hay về Quận Huy liên tiếp truyền về phủ chúa. Ý nghĩ Quận Huy có ý làm phản khiến chúa không yên. Chúa quyết định triệu Quận Huy về kinh. Việc chúa triệu Quận Huy về Đặng Thị Huệ đã biết vì ở ngay bên cạnh chúa. Bấy giờ vợ Quận Huy muốn nương bóng Đặng Thị nên thường lui tới thăm hỏi. Muốn lôi kéo Quận Huy vào vây cánh với con mình, Đặng Thị liên mật báo cho vợ Quận Huy biết để liệu cách đối phó. Và thế là phe của Đặng Thị đã hình thành.
Quận Huy quyết định chủ động dâng thư xin về kinh để giải tỏa sự nghi ngờ của chúa. Được chúa cho phép, quận Huy lập tức lên đường, về kinh, quận Huy quyết định một lòng với Đặng Thị và nuôi chí phế lập. Trước hết, quận Huy dâng ngôi nhà của quận Việp Hoàng Ngũ Phúc - chú của quận Huy cho Đặng Thị để làm dinh thự cho vương tử Cán, sau đó vợ của quận Huy liên tục có mặt ở chỗ Đặng Thị và kể cho Đặng Thị nghe mọi diễn biến bên ngoài. Từ đấy, quận Huy trở thành chỗ dựa của Đặng Thị. Đặng Thị luôn thủ thỉ bên tai chúa để cất nhắc quận Huy. Kết quả, quận Huy từ chỗ bị chúa nghi ngờ có ý định làm phản lại trở thành một trong những viên quan được chúa tin cậy. Quận Huy được vời vào làm trong phủ chúa, coi việc trong phủ đồng thời kiêm chức trấn thủ Sơn Nam.
Biết rõ mọi chuyện, Trịnh Tông vô cùng bực tức, vời Khê Trung hầu tới và bảo:
- Ta nghe nói Huy quận công Hoàng Tố Lý và Thị Huệ đang câu kết chặt chẽ với nhau. Huy dựa vào sự giúp đỡ của Thị Huệ để nương dựa bên trong, còn Thị Huệ lấy quận Huy làm chỗ dựa cậy bên ngoài. Thằng giặc ấy sai người đem của báu đút lót để nương tựa vào ta. Ta không cho nó nương tựa, lại đe sẽ tịch thu hết cả gia sản nhà nó. Nó biết ta không dung nó, bèn quyết ý hùa theo Thị Huệ để âm thầm phế lập ta. Chúng nó dựa vào nhau, thế lực nghiêng cả thiên hạ. Mọi chức cai cơ trấn thủ đều nhờ cửa của chúng mà ra. Vậy là cái thế bè đảng đã thành rồi. Bây giờ chứng bệnh cũ của chúa lại phát, bệnh tình rất nguy kịch. Đêm qua, ta mơ thấy mình mặc áo chầu chàm, đội mũ chữ đinh đứng ở phủ đường. Ta cho đó là điềm có tang. Trong cung nay mai chắc chấn sẽ có biến, ta phải sớm lo liệu trước mới xong. Ý ngươi thế nào?
- Thế tử lo như vậy là phải. Trong triều hiện nay chỉ có Hồng Lĩnh hầu Nguyễn Khản và Tuân Sinh hầu Nguyễn Khắc Tuân là còn dám có ý này khác với quận Huy mà thôi. Theo ý thần, nên ngấm ngầm sắm sửa binh khí, chiêu mộ dũng sĩ. Nếu mai kia trong cung có biến thì cứ việc đóng chặt cổng thành, giết quận Huy, bắt giữ hai mẹ con Thị Huệ thì vương tử Cán không thể lên ngôi chúa được. Mặt khác, sẽ báo cho Hồng Lĩnh hầu Nguyễn Khản và Tuân Sinh hầu Nguyễn Khắc Tuân đem quân về kinh bắt ép các đại thần dựng thế tử lên ngôi chúa là xong.
- Lời ngươi bàn rất hợp ý ta. Ngươi hãy cầm lấy một ngàn lạng bạc này, đưa cho nho sinh Đàm Xuân Thụ, bảo hắn phân phát cho bọn tay chân bí mật đi mua sắm vũ khí. Ngoài ra, ngươi nên tìm cách mật báo cho các viên trấn thủ ở hai phía Tây, Bắc chiêu tập dũng sĩ, sẵn sàng chờ thời cơ khởi sự. Ngươi nên nhớ phải hết sức giữ bí mật. Nếu việc này bị phát giác, ta và ngươi sẽ không tránh khỏi cái chết đâu.
- Xin thế tử yên tâm. Thần đã hiểu rõ phải làm thế nào rồi.
Nguyễn Huy Bá, người ở Gia Lâm, tính tình nham hiểm, xảo quyệt. Bá thường có thói quen tố giác kẻ khác để kiếm quan chức. Bá lắng nghe mọi chuyện và dò biết thế tử Tông có ý định triệt vương tử Cán. Bá liền sai người tới làm bộ hạ ở nhà hai viên trấn quan Tây, Bắc. Biết rõ mười mươi sự việc, y liền nhờ con dâu đang làm đầy tớ cho Thị Huệ xin cho Bá gặp.
Biết chuyện, Thị Huệ vô cùng lo lắng, liền vời quận Huy vào bàn. Huy bảo:
- Thế tử Tông quả thực có lỗi nhưng a tòng và xúi giục thế tử làm bậy phải là kẻ khác kia. Hai viên trấn quan Tây, Bắc ở xa, chắc không phải là kẻ chủ mưu. Thần e rằng trong việc này, quan thị Khê Trung hầu Chu Xuân Hán phải dúng tay vào. Trước đây thần nghe nói chính nhờ Khê Trung hầu mà Thái phi Ngọc Hoan mới được tiến ngự và sau đó sinh được thế tử Tông. Bời vậy, Tông rất coi trọng hoạn quan Khê Trung hầu. Nay nếu Tuyên phi vội vã loan chuyện này ra, chắc khó mà tiêu diệt được bọn phản loạn ấy. Xin Tuyên phi cứ để thần lo liệu việc này.
Sau đó Huy bảo Bá:
- Ngươi hãy tự tay viết một phong thư, dán kín nó vào để ta đưa tới trình chúa thượng.
Bá y lời liền ngồi viết một mạch. Trong đó kể rõ thế tử Tông, quan Khê Trung hầu và nho sinh Đàm Xuân Thụ đả làm những gì. Sau đó Bá dán kín bức thư lại rồi đưa cho Huy. Huy giấu bức thư vào ống tay áo rồi đến phủ chúa. Huy sụp lạy và tâu:
- Thần có một việc quan trọng và khẩn thiết cần trình ngay chúa thượng.
Sau đó, Huy đưa mắt nhìn những kẻ đứng hầu xung quanh. Trịnh Sâm hiểu ý ra lệnh:
- Các ngươi lui cả ra đi. Nếu ta không gọi thì không được vào.
Khi bọn người kia ra hết, Huy rút bức thư giấu trong ống tay áo ra trình chúa, chúa xem xong thư, cả giận:
- Ta phải trừng trị ngay kẻ khốn kiếp này mới được. Ngay cả Khê Trung hầu, xưa nay vẫn sớm tối hầu hạ và trung thành với ta, nay lại có ý làm phản ư? Không hiểu chúng nó nghĩ thế nào mà dám làm thế. May mà ông trời đã cho ta khỏi bệnh. Bay đâu?
- Xin chúa thượng minh xét. Thế tử Tông dám làm điều này cũng vì có các kẻ chủ mưu xúi giục. Nay hai viên trấn thủ Tây, Bắc chưa bị trừng trị, nếu ta ra tay ngay e sẽ có biến khác. Xin chúa hây cho gọi hai viên trấn thủ ấy về triều, giam lại rồi tuyên bố tội trạng cũng chưa muộn. Nhưng trước đó, cần phải giam Khê Trung hầu lại, nếu không hắn sẽ sai người đi báo cho bọn kia biết.
- Ta hiểu rồi. Khanh hãy lo liệu việc này đi.
Hôm sau, chúa gọi Thế tử vào cung, vờ quở mắng về việc xao nhãng học hành rồi bắt Thế tử phải đến ở trong ngôi nhà ba gian ở Trạch Các. Đồng thời sai Khê Trung hầu tới đó để hầu hạ Thế tử.
Biết có chuyện chẳng lành, Khê Trung hầu nói:
- Thần thấy chúa có ý khác. Chắc là việc lớn của Thế tử bị bại lộ rồi.
Thế tử Tông hoảng sợ hỏi:
- Vậy ngươi khuyên ta phải làm thế nào?
- Lúc này không thể làm gì hơn được nữa. Đành phải chờ xem sao thôi.
Đúng như Khê trung hầu dự đoán, phe nhóm của thế tử Tông và những kẻ liên đới đều bị bắt hết.
Sau khi tra xét và nắm được mọi chuyện, chúa cho gọi các chính thần vào cung, vừa khóc vừa nói:
- Quả nhân không may gặp phải người con bất hiếu, lũ bầy tôi bất trung. Chúng ngầm mưu việc phản nghịch, chống lại quyết định của ta. Các ngươi thấy đấy, việc ta lập con thứ bỏ con trường là hoàn toàn đúng. Các ngươi nên hiểu rõ bụng ta. Cứ theo phép nước mà định tội chúng đi.
Các quan đều tâu:
- Những tên phản nghịch ấy giết là đáng kiếp. Riêng về thế tử, chúng thần không dám lạm bàn.
Chúa tức giận cầm bút phê:
- “Theo nghĩa của kinh Xuân Thu, tên Tông phải trị tội thật nặng. Nhưng nghĩ tình ruột thịt, quả nhân không nỡ xử tội. Vậy truất nó xuống làm con út để trọn đời giữ đạo làm tôi. Còn Khê Trung hầu, vì theo hầu ta từ lúc chưa lên ngôi, cũng có công lao, đặc ân cho được tự liệu lấy..
Mệnh lệnh ban xuống, Khê Trung hầu uống thuốc độc tự tử, đó là tháng 9 năm Cảnh Hưng thứ 41. Thế tử Tông không những bị chúa truất ngôi Thế tử, còn bị bắt phải ở trong nhà, bị người giám sát nhất cử nhất động, không ai được phép ra vào thăm hỏi.
Thời gian này, Trịnh Sâm mệt nặng. Biết Trịnh Sâm khó lòng qua khỏi, Đặng Thị cố ý không cho chúa gặp bất cứ người nào. Chiếu chỉ đã sắc phong cho hoàng tử Trịnh Cán và Tuyên phi rất sợ vào lúc này, chúa sẽ thay đổi quyết định. Cả khi thái hậu vào gặp chúa, Đặng Thị cũng không lui, cứ quanh quẩn ngay gần đấy. Thái hậu ngập ngừng, rất muốn hỏi ý chúa về việc lập thái tử nhưng Tuyên phi đang ở đó nên thái hậu đành phải lui ra.
Bệnh tình của Trịnh Sâm ngày càng trầm trọng. Trước phút chúa lâm chung, Đặng Thị quỳ xuống bên chúa, khóc mà rằng:
- Thiếp nhờ chúa thượng quá thương nên nhiều kẻ thù ghét. Rồi mai đây không biết mẹ con thiếp sẽ gửi thân vào đâu?
Chúa nói:
- Thế tử chính thức lên ngôi Đông cung. Khanh là mẹ của cả thiên hạ rồi, chớ có lo lắng quá làm gì.
Rồi chúa cho gọi quận Huy vào, dặn dò hãy giúp đỡ Tuyên phi và lặng lẽ trút hơi thở cuối cùng. Tuy nhiên, mọi sự xếp đặt của chúa cũng như các toan tính đều không như Đặng Thị và Quận Huy dự liệu.
Trong khi đó, ở bên ngoài phủ, đám thân binh tụ tập lại bàn tán. Dự Vũ, đầu bếp của Thế tử Tông là người châm ngòi nổ cho việc phế lập. Dự Vũ làm cơm rượu, mời đám thân binh tới đánh chén và nói:
- Thế tử chẳng có tội gì, chẳng qua là do Đặng Thị mê hoặc khiến chúa bỏ trưởng lập thứ. Nay chúa bệnh nặng, không biết khi nguy biến thì cơ nghiệp của chúa do ai làm chủ. Các anh em đều là thân binh, là nanh vuốt của chúa. Nếu còn nghĩ đến cái ơn của chúa thì hãy một lòng giúp cho sự nghiệp của nhà chúa. Nếu xong việc, tất nhiên sẽ được hưởng phú quý lâu dài.
Đám lính xôn xao, có kẻ lớn tiếng:
- Thì chúng tôi cũng có bụng đó, nhưng không biết ý Thế tử Tông ra sao. Nay Thế tử đã có ý đó, nhất định chúng tôi sẽ tuân theo ý của thế tử.
Tiếp đó, lại có người bàn nên đến nhà quận Viêm, lôi kéo cả thánh mẫu vào cho chắc ăn. Cả đám nhao nhao hưởng ứng rồi cử người xin vào yết kiến thánh mẫu. Thánh mẫu vội sai người sang truyền ý chỉ cho quận Huy:
- Xã tắc là trọng. Lúc này nên để vương tử Tông lên ngôi chúa vì vương tử Cán còn quá bé. Khi nào vương tử Cán trường thành, vương tử Tông sẽ trao lại quyền. Muốn vậy, để vương tử Tông nhận Đặng Thị làm mẹ nuôi là được.
Quận Huy lựa lời nhất mực kiên quyết từ chối, còn nói:
- Việc này không phải ý của chúa. Được chúa phó thác con côi, không thể tự tiện sắp đặt lại được. Hoặc giả sau này vương tử Cán ở ngôi không gánh nổi việc nước thì vương tử Tông sẽ thay thế, điều đó đâu có muộn. Cơn cớ gì phải hấp tấp, làm trái lẽ thường như thế?
Quận Hoàn, một trong bảy viên quan được chúa phó thác con côi, thấy thân binh náo loạn, có ý sợ. Hơn nữa, quận Hoàn cũng chả ưa gì quận Huy nên đã buông một câu gọn lỏn:
- Cơ sự đã vậy, thôi thì cứ mặc cho thân binh làm gì thì làm.
Hôm sau, đám thân binh - lính Thanh Nghệ - bắt đầu ra tay hành động. Sau khi dâng cơm cúng chúa, 3 hồi 9 tiếng trống lệnh vang lên. Quận Huy biết có biến, sai người đóng chặt cửa phủ. Kẻ đánh trống là Bằng Vũ bị bắt giam lại. Đám thân binh ở bên ngoài hò hét quát tháo vang trời. Quận Huy tức giận, cầm bảo kiếm rồi lên voi xung trận.
Trước sự phẫn nộ của đám thân binh, quận Châu sợ phải mở cổng phủ. Quận Huy cưỡi voi tiến ra quát tháo. Đám lính lúc đầu còn e sợ, hơi chùn lại nhưng ngay sau đó, họ nhao nhao tiến tới, kẻ lấy khí giới đâm chém chân voi, kẻ lấy gạch đá ném khiến con voi khiếp đảm, co vòi lại. Được dịp, đám lính dùng câu liêm móc cổ áo quận Huy kéo xuống. Kết cục, quận Huy bị giết phanh thây. Thái tử Tông được phò lên ngôi chúa.
Mấy ngày sau đó, kinh thành vẫn ở trong tình trạng náo động. Dinh của quận Huy bị phá tan tành, ai theo phe cánh Đặng Thị đều bị phá nhà cửa, vội vã bỏ trốn. Thân binh sau khi phò lập vương tử Tông lên ngôi chúa, cậy quyền có công nên hàng ngày thường tụ họp để bàn việc triều chính. Thế chưa đủ, họ còn cho người đưa thư vào triều, yêu cầu phải làm việc này việc nọ, đòi triều đình trả ơn. Có viên quan nào nói đến thái độ của họ, họ liền kéo đến phá nhà, đánh giết. Thậm chí họ còn dúng tay vào việc xử kiện của các quan, có việc còn tự quyết lấy, thật là nhiễu nhương ầm ĩ khiến chúa Trịnh Tông cũng cảm thấy không thể chịu nổi.
Sau đó, các quan bàn nên xét công ban thưởng để họ mãn nguyện rồi ra tay trị dần cho yên phép nước. Thế là Dự Vũ, đầu bếp của Trịnh Tông, có công phát hỏa, kích động nhóm thân binh được phong Tuyên lực công thần, những thân binh đầu tiên nhóm họp ở chùa Khán Sơn được thăng thưởng thêm, thậm chí nhiều người còn được cấp các đạo sắc để trống để có thể đem bán cho kẻ khác lấy tiền.
Mãi sau đó, chúa Trịnh Tông phải tìm cớ giết một người để ra oai, đám thân binh đó mới yên. Theo ghi chép của một người đương thời là Hoàng giáp Bùi Dương Lịch thì: “Sau khi tôn Trịnh Khải, quân lính cậy có công... đòi hỏi những mối lợi nơi điếm tuần, bến đò, đầm hồ, gò bãi, cửa ải, chợ búa... Dân chúng khổ sở vì sự quấy nhiễu hà khắc của chúng, mối hận thấm cốt tủy. Từ đấy, lính với dân coi nhau như kẻ thù. Triều đình phải đặt ra đội Phong vân để tuần phòng trong kinh kỳ, dò xét quân lính, hễ ai còn có thói cũ, rủ nhau tập hợp phá nhà lấy của thì lập tức bắt giải về triều xét xử.